U xơ vòm mũi họng và nguy cơ t
vong
U xơ vòm mũi họng là một khối u lành tính (bn cht là nhng si
mạch tp trung li) nhưng có khả năng lan rất rộng, phá hủy xương
mạnh, có thlan rng vào ni sọ làm nguy hiểm tới tính mạng
người bệnh nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời.
Khối u vòm mũi họng.
Nhiều giả thuyết về căn nguyên gây bệnh
U xơ vòm mũi họng là một bệnh phổ biến ở tuổi dậy thì, thường
gặp ở nam giới, tuổi từ 15-25. Nguyên nhân chính xác của bệnh
này cho đến nay cũng chưa được biết một cách chính xác nhưng
người ta cho rằng sự phát triển của u xơ vòm mũi họng liên quan
tới nội tiết ở giai đoạn dậy thì. Khi u xuất phát từ mt loại mô có
mang hormon kích thích corticoid gii tính tại đu trong của sụn
cuốn mũi, điều này giải thích vì sao mà u xơ vòm i họng rt
hiếm có sau tuổi trưởng thành. Một số giả thuyết khác cho rằng u
hình thành từ sụn lúc phôi thai của mảnh xương chũm; hoặc cho
rằng u xuất phát từ những tế bào nhánh tận cạnh hạch không ưa
chrôm của động mạch hàm trong; do rối loạn về cốt hoá của xương
nền sọ và cuối cùng là do skích thích ct mạc nền sọ bởi viêm
V.A mạn tính...
Bộ mặt khủng khiếp
Trước kia người bị u xơ vòm mũi họng được mô tả với bộ mặt
khủng khiếp như nhãn cầu lồi ra khỏi hốc mắt, mũi nở rộng,
phng lổn nhổn như đá cuội. Ngày nay chúng ta không còn thấy
mức độ nặng nề như thế nữa vì bệnh đã được phát hiện sớm hơn.
Bnh nhân bị u xơ vòm i họng thường đến vin vì du hiu
chảy máu i đỏ tươi, từng đợt, tcm.
Khi khai thác bnh nhân thường thy bệnh diễn biến âm thầm với
biểu hiện ngạt tắc mũi một bên ngày càng tăng, giai đoạn muộn
ngạt tắc mũi cả hai bên. Chy nước mũi liên tục, nhiều lên dần với
hai lỗ mũi ướt và đầy chất nhầy. Thỉnh thoảng chảy máu cam, lúc
đầu có khả năng tự cầm, sau phải có can thiệp của các cơ sở y tế
mới cầm được máu mũi. Đi cùng các triu chứng này là dấu hiệu ù
tai và nghe kém do khối u chèn ép vùng loa vòi tai. Bệnh nhân gầy
xanh, mệt mỏi do mất máu kéo dài.
Hình ảnh khối u vòm xâm ln sọ trên phim chụp
MRI.
Quan sát trc tiếp thy khối u xơ bám sát vào nền sọ vùng họng
mũi và len li vào các cấu trúc lân cận tạo ra các chân bám vào
vùng bướm sàng, chu vi cửa mũi sau, cánh trong chân bướm. Khối
u chắc, nhiều thùy, có cuống. Kích thước to nhỏ tùy thuộc vào
thời gian xuất hiện bệnh đến lúc được phát hin bnh và phu thut
lấy bỏ khối u. Lấy khối u đem quan sát dưới kính hiển vi sẽ thấy
trong khối u có rất nhiều mạch máu hoặc những hồ máu nằm rải
rác cùng tổ chức xơ và hình thành một mạng lưới dưới niêm mạc
bao bọc toàn bộ khối u. Khám hốc mũi thấy một khối u màu hồng
nhạt, nằm bịt cửa mũi sau, khi phát triển lớn lấp đầy hốc mũi, khối
u đẩy dồn làm hẹp hốc mũi bên đối diện, nhưng không làm tn
thương niêm mạc i. Khám họng và soi mũi sau thấy màn hầu
phng lên, bị đẩy dồn về phía trước và phía dưới hoặc quá to thòi
xuống tận họng miệng. Nhức đầu kèm theo gp trong khoảng 25%
trường hợp do những lỗ thông xoang bị tắc do khi u hoc do
nhiễm khuẩn. Ngoài ra bnh nhân còn có những triệu chứng khác:
giảm khứu hay mất hẳn khứu giác, đau tai một bên, khẩu cái mềm
bị đẩy lệch, mắt lồi, cứng hàm...
Nếu để phát triển tự nhiên khối u sẽ lấp đầy hốc mũi, xoang hàm,
xoang bướm, hốc mắt, phá vỡ hàm ếch, tiêu xương hàm trên và nổi
phng dưới da. Khối u chui vào nội sọ, tổn thương thần kinh nội sọ
làm mù mắt, khó nuốt, không ngửi được. Bệnh nhân có khối u
vòm mũi họng không được điều trị sẽ tử vong vì chảy máu và biến
chứng nội sọ gây tăng áp lực sọ não.
Chẩn đoán xác định được thực hiện qua thăm km lâm sàng: Khối
u màu hồng, xuất hiện ở cửa mũi sau của bệnh nhân nam giới tuổi
t15-25, có chảy máu mũi từng đợt, chụp CT. Scanner và chụp
mạch để có chẩn đn xác định.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu.
- Nếu phát hiện sớm khối u có thể mổ qua đường nội soi lấy bỏ,
đường này không để lại vết sẹo cạnh mũi như phẫu thuật với khối
u to.
- Khi khối u quá to phải mrng cạnh i để ly bkhi u.
Xạ trị kết hp với nội tiết tố giúp teo nhỏ khối u thực hin khi
không còn chỉ định phẫu thuật.