Văn hóa quản lý trong quản lý văn hóa

“Những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong

quá trình lịch sử”, “những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn

nhu cầu đời sống tinh thần”*, nói như vậy có lẽ vẫn chưa đủ cho

khái niệm về những “đối tượng” trong nhiệm vụ quản lý nhà nước

về văn hóa ở đất nước này. Sẽ còn có tất cả những sản vật của tạo

hóa góp phần nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con người. Thêm

nữa, còn bao gồm hết thảy những ai tham gia vào các hoạt động văn

hóa nữa. Từ đây ta có thể hình dung ra công việc “quản lý văn hóa”

của cơ quan chức năng khó khăn, trừu tượng tới mức nào, và làm

sao cho người cán bộ quản lý trong mọi hành xử, quyết định của

mình đều có được một “trình độ cao, biểu hiện văn minh”* – tạm

gọi đó như là cái “văn hóa quản lý”.

Khi anh cảnh sát giao thông với súng bắn tốc độ trong tay, thật dễ

dàng xác định chiếc xe chạy quá nhanh để thổi còi phạt. Còn người

quản lý văn hóa khi nhìn nhận một bức tranh khỏa thân, một bức

ảnh nuy liệu có dễ dàng phân định được cái ranh giới giữa nghệ

thuật đích thực với mức độ “vi phạm thuần phong mỹ tục”, “khiêu

dâm” không? Hay trong quyết định xử lý của mình sẽ có đầy những

dấu hiệu chủ quan, cảm tình, cảm tính?

Đến như một tang vật để kết tội một bị cáo trước tòa, vị quan tòa

cũng đâu có thể một mình khẳng định nó là chứng cứ chắc chắn, mà

cần phải có hàng loạt hoạt động tố tụng, từ khâu thu thập, bảo

quản, cho đến giám định hết sức nghiêm cẩn. Thế nên với một cuốn

tiểu thuyết, làm sao có thể dễ đánh giá nó là “độc hại”, kích động

bạo lực, hay xuyên tạc gì gì đó…, một khi chưa có sự thẩm định

công khai của ít ra là một hội đồng nghệ thuật khách quan, có uy

tín, chứ không phải bởi một vài cán bộ quản lý, dù có chức quyền

tới đâu. Những khó khăn cho người quản lý ở đây thậm chí còn có

thể đẩy họ tới việc sử dụng những lý do có tính biến báo nhỏ nhặt,

mơ hồ, thiếu tính thuyết phục khác. Và thế là lại đụng tới cái “văn

hóa quản lý” – không những không góp phần nâng đỡ, phát triển

mà thậm chí còn vùi dập những con người tài năng đầy nhạy cảm và

hoạt động sáng tạo rất cần sự khích lệ cảm hứng.

Một học viên cảnh sát không thể ra đường tự thực tập bắn súng, bắt

bớ, khám xét. Thế nhưng vấn đề lại khác hẳn với những học viên

trường nghệ thuật một khi muốn cọ sát với thực tế. Người quản lý

văn hóa có nghĩ tới đời sống vật chất eo hẹp của họ, có thấy nhu cầu

văn hóa đại chúng, có chịu nhìn nhận về điều kiện dạy và học thiếu

thốn khó khăn tới mức nào… hay chỉ thấy chút mặt trái của cuộc

sống có thể liên hệ nào đó tới họ khi va chạm với xã hội

Một tòa nhà xây trái quy định, bị “cắt ngọn” đi, thậm chí đập bỏ,

thật là đơn giản. Thế nhưng một bức tường thành xưa, một bức

tranh cổ quý giá được phục chế sai lạc hẳn với vẻ ban đầu của nó thì

quả là một tai họa không thể nào cứu vãn nổi. Tệ hơn nữa như với

Hòn Vọng phu, sản phẩm vô giá của tạo hóa bị đập đi, tiếp đến cái

gọi là “phục chế” thật sự là một hành vi lú lẫn phản văn hóa. Những

người cán bộ quản lý văn hóa luôn phải trực diện với những thách

thức như vậy của lịch sử. Họ có đủ thẩm quyền, nhưng còn kiến

thức pháp luật, và ý thức tới đâu rằng mình có đủ không vốn văn

hóa, cái tầm viễn kiến, hay chí ít là chịu lắng nghe để đưa ra quyết

định mà không gây phản tác dụng, tàn phá chính những gì mình

đang có nhiệm vụ bảo vệ?

… Tất cả những kinh nghiệm va vấp ấu trĩ, hành xử thô bạo trong

mọi hoạt động quản lý văn hóa là nhiều không thể kể hết. Hiện

trạng xuống cấp, nghèo nàn, méo mó của môi trường văn hóa không

thể thiếu nguyên nhân từ đó. Nó còn cho ta thấy ngoài những đòi hỏi

phù hợp pháp lý trong một môi trường với hàng đống văn bản pháp

luật còn sơ sài, chung chung, chồng chéo thì còn cả sự có hay không

tính hợp lý, hợp đạo lý đầy tinh tế nữa. Chưa kể tính hai mặt –

tốt/xấu, hay/dở – của mỗi hành vi cũng rất cần những người “cầm

cân nảy mực” trong môi trường văn hóa biết cân nhắc trong sự công

tâm, cầu thị, am hiểu.

Từ đây có thêm một dấu hỏi, là phải chăng cái khái niệm “quản lý

văn hóa” đã mang một hàm ý vừa hẹp vừa cứng nhắc cũ kỹ cho một

công việc hệ trọng là gìn giữ, phát huy vốn văn hóa của dân tộc và

nhân loại? Nó cần được thay thế, ví như bằng cụm từ “phát triển

văn hóa” chẳng hạn.