
AN TOÀN NGƯỜI BỆNH
GÓC NHÌN MỚI
TỪ AN TOÀN-I SANG AN TOÀN-II
2016

Phòng QLCL 2
Tóm tắt
Việc công bố các báo cáo của IOM trong tài liệu “To Err is Human” vào năm 2000 như là
một chất xúc tác cho sự quan tâm ngày càng tăng trong việc cải thiện sự an toàn của dịch vụ
chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, bất chấp nhiều thập kỷ trôi qua, thái độ lãnh đạm đối với các
hoạt động, đầu tư và cải tiến làm cản trở sự thành công trong lĩnh vực này. Mặc dù tỷ lệ sự
cố trên thế giới có vẻ ổn định, tuy nhiên việc tăng nhu cầu đối với dịch vụ y tế, cường độ
ngày càng tăng và phức tạp của các dịch vụ (người được sống lâu hơn, với các bệnh đi kèm
phức tạp hơn, và mong muốn việc chăm sóc nâng cao hơn) hàm ý rằng số lượng bệnh nhân
bị tổn hại khi được chăm sóc sẽ tăng lên, trừ khi những cách thức mới và tốt hơn được tìm
thấy để cải thiện an toàn.
Hầu hết mọi người nghĩ rằng an toàn là sự vắng mặt của tai nạn và sự cố (hoặc như là một
mức độ chấp nhận rủi ro). Trong quan điểm này, được gọi là An toàn-I, an toàn được định
nghĩa là một trạng thái mà vài vấn đề có thể sai. Cách tiếp cận An toàn-I là giả định rằng
mọi sự cố do thất bại hoặc trục trặc của các thành phần cụ thể: công nghệ, quy trình, người
lao động và các hệ thống. Con người được xem như chịu trách nhiệm hoặc là mối nguy hiểm
vì họ là biến số duy nhất của sự cố. Mục đích của việc điều tra sự cố trong An toàn-I là để
xác định nguyên nhân và các yếu tố góp phần kết quả bất lợi. Các nguyên tắc quản lý an
toàn là để trả lời khi một cái gì đó sẽ xảy ra hoặc được phân loại như là một nguy cơ không
thể chấp nhận, thường bằng cách cố gắng để loại bỏ nguyên nhân hoặc nâng rào cản, hoặc cả
hai.
Quan điểm về an toàn này đã trở thành phổ biến rộng rãi trong các ngành công nghiệp an
toàn quan trọng (hạt nhân, hàng không, vv) giữa những năm 1960 và 1980. Tại thời điểm đó
nhu cầu hiệu suất thấp hơn đáng kể so với ngày nay và các hệ thống đơn giản và ít phụ thuộc
lẫn nhau.
Nó được mặc nhiên thừa nhận rằng sau đó hệ thống có thể bị loại bỏ hoàn toàn hoặc một
phần theo cách nhận định - hoạt động chính xác hoặc không chính xác. Những giả định này
cho phép giới thiệu chi tiết hệ thống và kích hoạt tìm kiếm nguyên nhân ổn định và cách
khắc phục trục trặc. Nhưng các giả định này không phù hợp với thế giới ngày nay, không
phải trong các ngành công nghiệp cũng như trong việc chăm sóc sức khỏe. Trong chăm sóc

Phòng QLCL 3
sức khỏe, các hệ thống như đơn vị chăm sóc đặc biệt hoặc cấp cứu khẩn cấp không thể loại
bỏ. Bên cạnh đó, công tác khám chữa bệnh hàng ngày rất biến thiên và linh hoạt.
Điều quan trọng, quan điểm An toàn -I không dừng lại để xem xét tại sao hiệu suất của con
người thực tế luôn luôn xảy ra đúng hướng. Mọi thứ không xảy ra đúng do hành xử mọi
người xuất phát từ suy nghĩ đó là nghĩa vụ phải làm, có thể và điều chỉnh những gì họ làm để
phù hợp với điều kiện làm việc. Khi các hệ thống tiếp tục phát triển và phức tạp hơn, những
điều chỉnh này ngày càng trở nên quan trọng để duy trì hiệu suất chấp nhận được. Do đó,
thách thức để cải thiện an toàn là phải hiểu những điều chỉnh này, nói cách khác, để hiểu rõ
hiệu suất thường kèm theo mâu thuẫn bất trắc, mơ hồ trong tình huống công việc phức tạp.
Mặc dù tầm quan trọng của quan lý an toàn rất rõ ràng, quan điểm truyền thống ít chú ý đến
điều này.
Do đó tư duy quản lý an toàn phải chuyển từ việc đảm bảo rằng 'vài vấn đề có thể sai' sang
'nhiều vấn đề chắc chắn đúng ". Quan điểm này là An toàn-II; nó liên quan đến khả năng
thành công của hệ thống trong điều kiện khác nhau. Một cách tiếp cận An toàn-II cho rằng
hằng ngày hiệu năng cung cấp sự thích nghi cần thiết để đáp ứng các điều kiện khác nhau, và
đó là lý do tại sao mọi thứ xảy ra đúng. Con người được coi là nguồn tài nguyên cần thiết
cho hệ thống có khản năng linh hoạt và phục hồi. Mục đích An toàn-II là điều tra sự hiểu
biết các thay đổi để mọi thứ xảy ra đúng, vì đó là cơ sở để giải thích các vấn đề thỉnh thoảng
xảy ra sai. Đánh giá rủi ro cố gắng tìm hiểu các điều kiện, biến đổi hiệu suất có thể trở nên
khó khăn hoặc không thể theo dõi và kiểm soát. Các nguyên tắc quản lý an toàn là tạo điều
kiện thuận lợi cho công việc hàng ngày, để dự đoán sự phát triển và sự cố, và để duy trì năng
lực ứng phó hiệu quả với những bất ngờ không thể tránh khỏi (Finkel 2011).
Với nhu cầu ngày càng tăng và phát triển hệ thống phức tạp dẫn đến phải điều chỉnh cách
tiếp cận về an toàn. Trong khi nhiều sự cố rủi ro vẫn có thể được điều chỉnh để không gây
hậu quả nghiêm trọng với An toàn-I, có một số lượng ngày càng tăng các trường hợp không
thể tiếp cận được các nguy cơ trong môi trường làm việc hàng ngày. Điều này có thể do
những hậu quả ngoài ý muốn vô tình làm thoái hóa các nguồn lực và các thủ tục cần thiết để
làm cho mọi thứ xảy ra đúng.

Phòng QLCL 4
Do đó cần kết hợp hai cách suy nghĩ. Trong
khi rất nhiều các phương pháp và kỹ thuật hiện
tại có thể tiếp tục được sử dụng, ứng dụng An
toàn-II coi như thực hành mới để tìm kiếm
những gì diễn ra đúng, tập trung vào các sự cố
thường xảy ra, duy trì sự nhạy cảm với khả
năng thất bại, tiếp cận khôn ngoan triệt để và
hiệu quả. An toàn-II xem sự đầu tư an toàn như là đầu tư về năng suất. Nội dung tài liệu giải
thích sự khác biệt giữa hai quan điểm về suy nghĩ cũng như cách tác động về sự an toàn.
Bối cảnh: Thế giới đã thay đổi
Đó là một sự thật hiển nhiên rằng thế giới chúng ta đang sống ngày càng phức tạp và phụ
thuộc lẫn nhau và rằng sự phát triển này tiếp tục tăng tốc. Nó ảnh hưởng đến cách thức làm
việc và cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Cách dễ dàng thấy nhất là cách chúng ta giao
tiếp, sự phát triển của điện thoại cồng kềnh đến điện thoại thông minh thanh lịch và sự thay
đổi từ sự tương tác giữa người với người đến các mạng xã hội và phương tiện truyền thông.
Thay đổi tương tự đã diễn ra về chăm sóc y tế trong 40 năm qua. Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) cho thấy rằng các bệnh không lây nhiễm (non-
communicable diseases(NCDs)) trên toàn thế giới hiện tại
đã trở thành nguyên nhân hàng đầu của tử vong so với
thời kỳ trước.
Bệnh không lây nhiễm bao gồm bệnh tim, đột quỵ, ung
thư, các bệnh về đường hô hấp mãn tính, và bệnh đái tháo
đường. Bản đồ dưới đây cho thấy các trường hợp tử vong
do bệnh không lây nhiễm, trên toàn thế giới trên 100.000 dân, tuổi tác chuẩn hóa giữa 2000
và 2012. Đây là một gánh nặng rất lớn cho bệnh nhân, gia đình và cộng đồng. Số lần cấp
cứu, khám bác sĩ gia đình, nói chung và nhập ICU đã tăng đến con số tuyệt đối và trên cơ sở
bình quân đầu người để điều trị các bệnh này. Bối cảnh này có vẻ như không có hồi kết mà
có xu hướng ngày càng tăng. Đồng thời, các mối đe dọa mới lại xuất hiện (ví dụ, Ebola,
Marburg, vv), và khả năng đâm nhánh trên khắp thế giới một cách bất ngờ và khó lường.

Phòng QLCL 5
Nguồn: WHO 2014
http://gamapserver.who.int/gho/interactive_charts/ncd/mortality/total/atlas.html
Việc sử dụng công nghệ cao can thiệp chẩn đoán và điều trị (như CT hoặc MRI, siêu âm,
phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, thay khớp, phẫu thuật tim hở) đã không còn là thử nghiệm và
chỉ sử dụng trong các trung tâm đại học, mà trở thành thường quy tại các bệnh viện lớn trên
toàn thế giới. Bệnh nhân tăng vọt, môi trường kỹ thuật-xã hội ngày càng phức tạp, trong đó
có môi trường chăm sóc, là thách thức lớn đối với bệnh nhân, bác sĩ, nhà quản lý, hoạch định
chính sách, xã hội.
Các chi phí chăm sóc sức khỏe liên quan với khả năng công nghệ này đã phát triển nhanh
hơn, đến mức mà nó thường là thành phần lớn nhất trong GDP ở hầu hết các nước phương
Tây, và tăng trưởng nhanh nhất trong hầu như tất cả các nước. Tỷ lệ này tăng trưởng được
coi là không bền vững.
Trong những ngày đầu của cuộc cách mạng trong việc chăm sóc sức khỏe này, Sự cố được
coi là chi phí đáng tiếc nhưng không thể tránh khỏi phải trả cho những tiến bộ y tế. Khi an
toàn được đặt ra trong năm 2000, đã có các phương pháp thành lập để đối phó với vấn đề an
toàn cho bệnh nhân. Các có giải pháp rõ ràng thành công với giải quyết sự cố được học từ
các ngành công nghiệp khác. Những tập trung chủ yếu vào những yếu tố thất bại, và các
thành phần của con người coi như là một yếu tố có thể sai lầm. Vì vậy, mô hình phổ biến