Tài liệu nội bộ của CLB Quản lý Chất lượng An toàn Người bệnh
109
Chương 6
BẢO VỆ CÁC HỆ THỐNG
BÁO CÁO TỰ NGUYỆN KHỎI
CÁC CUỘC ĐIỀU TRA PHÁP LÝ
ặc tất cả các ngành phải đối mặt với các mối quan ngại về trách nhiệm
pháp lý, hoàn cảnh của các tổ chức y tế nhiều khác biệt so với các ngành
khác. Trong ngành dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các bác sĩ chủ yếu là đối tượng
chính quyền quyết định tần suất nội dung của việc chăm sóc. Một bệnh viện hoặc
phòng khám thường cung cấp các dịch vụ chăm sóc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Người tiêu
dùng, người mua dịch vụ y tế, và các chương trình bảo hiểm sức khỏe có chung các quyết
định liệu họ chấp nhận thanh toán cho các dịch vụ điều trị của bác hay không,
thanh toán theo phương thức nào, đây là vấn đề về khả năng tiếp cận dịch vụ. Mặc dù một
số quyết định thể được đưa ra bởi chỉ một phía, nhưng nhìn chung chúng thường phân
tán trong các thực thể khác nhau không liên kết với nhau. So với các ngành khác,
ngành y không có một tổ chức duy nhất nào chịu trách nhiệm giải trình cho một quá trình
điều trị bệnh nhân. Riêng các bác một trách nhiệm quan trọng trong việc đảm bảo
sức khỏe của bệnh nhân cũng như các quyết định liên quan đến thực hiện chăm c bệnh
nhân. Sự sắp xếp đặc biệt y trong quá trình tổ chức ra quyết định trong ngành y tế
tạo ra một tập hợp các vấn đề mang đặc trưng riêng của ngành liên quan đến trách nhiệm
pháp những khó khăn trong việc tạo ra một môi trường thuận lợi để công nhận
học hỏi từ những sai lầm.
Khả năng bị khiếu kiện đôi khi thể ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của các bác
các tổ chức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác. Thường tcác quyền lợi của
những người tham gia khác nhau trong một đợt điều trị bệnh nhân không liên quan
thể đối lập với nhau. Trong trường hợp này, các bác các tổ chức cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe khác thể thận trọng trong việc cung cấp thông tin thể được
sử dụng chống lại họ sau này. Như vậy, việc một vụ khiếu kiện được đưa ra xét xử có thể
M
Tài liệu nội bộ của CLB Quản lý Chất lượng An toàn Người bệnh
110
làm ảnh hưởng đáng kể đến quá trình xây dựng và duy trì các hệ thống báo cáo được thảo
luận trong báo cáo này.
Chương 5 đưa ra một chiến lược để khuyến khích việc công nhận phân tích một cách
mạnh mẽ hơn các sai sót kết quả cải thiện về an toàn bệnh nhân thông qua một hệ
thống báo o bắt buộc đối với các sai sót gây tổn hại nghiêm trọng, sự tham gia tự
nguyện trong hệ thống báo cáo sai sót theo hướng tập trung vào "sự cố suýt xảy ra" hoặc
các sai sót ít gây tổn hại hơn. Vấn đề liệu các dữ liệu gửi đến các hệ thống báo cáo có bảo
mật hay không, đặc biệt trong các vụ khiếu kiện, vốn đã phát sinh ngày từ đầu cuộc
thảo luận của ủy ban. Các thành viên của y ban có các quan điểm khác nhau. Một số cho
rằng tất cả các thông tin cần được bảo mật bởi việc thông tin được tiết lộ cho người
ngoài sẽ khả năng y ra khiếu kiện như vậy sẽ không khuyến khích được nhân
viên báo cáo sai sót hành động để cải thiện an toàn. Những người khác tin rằng thông
tin phải được công bố công khai bởi vì công chúng có quyền được biết. Trách nhiệm pháp
một biện pháp ỡng chế pháp luật quy định biện pháp cưỡng chế y buộc
con người phải có nghĩa vụ gánh chịu hậu quả do chính hành động của mình y ra.
Các đề xuất nêu trong Chương 5 trong chương y phản ánh nhận định của uy ban về
tính hợp của các quan điểm khác. y ban cho rằng các sai sót được xác định thông qua
hệ thống báo cáo bắt buộc một phần của một hệ thống trách nhiệm giải trình trước
quan nhà nước thẩm quyền thì không nên được giữ bảo mật. Các sự cố khác được
báo cáo trong các tổ chức y tế hoặc các hệ thống tự nguyện cần được bảo mật bởi
những sự kiện y thường tập trung vào các thương tích nhẹ hơn hoặc không y tơng
tích, mặc khả năng y tổn hại nghiêm trọng cho bệnh nhân, nhưng không dẫn đến
tai biến nghiêm trọng buộc phải báo cáo đến hệ thống bắt buộc. Bảo vệ các thông tin
như vậy khuyến khích tiết lộ các vấn đề, chđộng khắc phục chúng trước khi thiệt hại
nghiêm trọng xảy ra.
Mặc dù thông tin về các trường hợp thương tích nghiêm trọng và tử vong do sai sót gây ra
không nên được giữ bảo mật, điều quan trọng thông tin được công bố cho công chúng
phải chính xác. Như đã tả Chương 5, các hệ thống o cáo bắt buộc tiếp nhận các
báo cáo về các trường hợp tai biến, sau đó những trường hợp này được điều tra để xác
định liệu kết quả có phải là do sai sót hay không. Việc nộp một báo cáo không đồng nghĩa
với việc công bố thông tin. Thay vào đó, thông tin sẽ được công bố sau khi một cuộc điều
tra đã được hoàn thành để đảm bảo thông tin được công bchính xác. Chương y tập
trung chủ yếu vào việc bảo vệ thông tin được báo cáo cho các hệ thống tự nguyện, mặc
một skhía cạnh của chương cũng thể được áp dụng để bảo vệ các dữ liệu từ lúc
chúng được gửi đến các hệ thống bắt buộc cho đến lúc công bố cho công chúng.
Tài liệu nội bộ của CLB Quản lý Chất lượng An toàn Người bệnh
111
Ủy ban tin rằng một phương pháp khác để thúc đẩy việc thu thập, chia sẻ phân tích
những dữ liệu đó (không xem xét trong chương này) sẽ m thay đổi môi trường pháp
trong các tổ chức y tế các tổ chức cung cấp dịch vụ. Trách nhiệm pháp lý đơn phương
của tổ chức, chuyển giao trách nhiệm từ nhân bác điều trị sang các tổ chức y tế đối
với những trường hợp bị tổn thương y tế đã được đxuất do nhiều lợi thế hơn so với
hệ thống trách nhiệm pháp hiện nh.1-3 Một trong những lợi thế này loại bỏ nỗi sợ
trách nhiệm nhân cho các nhân viên chăm sóc sức khỏe, loại bỏ động che giấu sai
sót. Một cải cách khác được đề xuất là bồi thường nhưng không buộc tội bất cứ ai đối với
các trường hợp thương tích y tế, thể thúc đẩy việc báo cáo bằng cách loại bỏ những
câu hỏi tra vấn gây khó chịu liên quan đến lỗi trách nhiệm vốn là đặc trưng của hệ
thống trách nhiệm pháp hiện hành.4 Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động tại
nơi m việc thì người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm một dụ về một hệ
thống không quy lỗi cho bất cứ ai.5
Cùng với đó, trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp và không quy lỗi cho bất cứ ai có
thể tạo ra một môi trường pháp thuận lợi hơn cho việc báo cáo và phân tích, mà không
cần các biện pháp pháp lý mang tính chiến lược và thực hành phức tạp cần thiết để bảo vệ
dữ liệu theo hệ thống trách nhiệm pháp hiện hành. Một phân tích về các hệ thống bồi
thường theo trách nhiệm doanh nghiệp nhưng không quy lỗi cho bất cứ ai nằm ngoài
phạm vi của dự án Chất lượng Chăm sóc Sức khỏe tại Mỹ, nhưng y ban tin rằng vấn đề
này cần được xem xét thêm.
Chương y xem xét những vụ việc đã tiền lệ kinh nghiệm thực tế liên quan đến
cách thức và mức độ thông tin thể được bảo mật trong các hệ thống báo cáo sai sót khi
được báo cáo từ c tổ chức y tế. Biện pháp bảo vệ pháp được thể hiện thông qua quy
chế đánh giá các quy định pháp luật của các tiểu bang để bảo vệ một hệ thống báo cáo
cụ thể sẽ nhiều hứa hẹn. Tuy nhiên, nhiều quy chế đánh giá cấp bang hiện nay không
thể bảo vệ dữ liệu về sai sót được chia sẻ trong mạng lưới hợp tác, đặc biệt được chia sẻ
thông qua các đường dây liên lạc giữa các bang, hoặc báo cáo với các hệ thống báo cáo tự
nguyện (ví dụ, các ngân hàng dữ liệu độc lập). Một sự kết hợp của các biện pháp bảo vệ
thực tiễn pháp thể phương pháp tốt nhất để bảo vệ dữ liệu trong các hệ thống
báo cáo tự nguyện. c biện pháp bảo vệ thực tiễn đối với báo cáo ẩn danh chống
nhận dạng (loại bỏ thông tin nhận dạng sau khi nhận được báo cáo) thể giúp bảo vệ
chừng mực nào đó nhưng không toàn diện. Bảo vệ theo quy định pháp luật thể mang
lại thêm ba lợi ích cho một số cấp độ chống nhận dạng: (1) thể cung cấp một biện
pháp đảm bảo an toàn cho các dữ liệu; (2) thể bảo vệ người báo cáo, những
người nhận các báo o khỏi các vtriệu tập của tòa án; (3) thể cho phép hệ
thống báo cáo nhận giữ lại những thông tin thể xác định các báo cáo người
báo cáo.
Tài liệu nội bộ của CLB Quản lý Chất lượng An toàn Người bệnh
112
CÁC ĐỀ XUẤT
ĐỀ XUẤT 6.1 Quốc hội cần thông qua luật để mở rộng sự bảo vệ thẩm định
ngang cấp với các dữ liệu liên quan đến an toàn bệnh nhân cải thiện chất
lượng được thu thập và phân tích bởi c tổ chức y tế để sử dụng nội bhoặc
chia sẻ với những tổ chức khác cho mục đích duy nhất cải thiện an toàn
chất lượng.
Pháp luật hiện hành thường bảo vdữ liệu liên quan đến các sai sót trong một tổ chức,
nhưng sự bảo vệ này thể bị mất đi khi các dữ liệu được truyền tới nơi khác, dụ, cho
các tổ chức khác hợp tác trong một sáng kiến giảm thiểu lỗi hoặc một hệ thống báo cáo tự
nguyện. Trừ khi các dliệu đó chắc chắn được bảo vệ, người ta sẽ không sẵn sàng thảo
luận về chúng các hội để cải thiện sẽ bị mất đi. Một môi trường pháp thuận lợi
hơn là cần thiết để khuyến khích các chuyên gia và các tổ chức y tế xác định, phân tích
ngăn chặn sai sót không m gia tăng các mối đe dọa của các vụ việc khiếu kiện
không ảnh ởng đến quyền lợi hợp pháp của bệnh nhân. Thông tin về những sai sót y
tổn hại nghiêm trọng hoặc tử vong cho bệnh nhân thuộc loại phải báo cáo bắt buộc sẽ
không được bảo vệ.
GIỚI THIỆU
Việc báo cáo theo dõi các vấn đề an toàn một cách hệ thống là một biện pháp quan
trọng để cải thiện chất lượng. rất nhiều cách thu thập, duy trì sử dụng dữ liệu các
dữ liệu liên quan đến an toàn. Các hệ thống thể nhiều điểm khác biệt trong đặc
điểm của (ví dụ như loại sự kiện được báo cáo, người báo cáo, nộp báo cáo tự nguyện
hay bắt buộc, vị trí việc bảo trì ngân hàng dữ liệu), các khác biệt y ảnh hưởng đến
khả năng phải công bố thông tin trong quá trình cơ quan tư pháp giải quyết vụ việc.
Tất cả các hệ thống nvậy phải đối mặt với hai vấn đề căn bản: (1) làm thế nào để
khuyến khích bác những người khác gửi thông tin, (2) làm thế nào để duy trì dữ
liệu đã báo cáo theo một cách hệ thống hữu ích cho các bác sĩ. Mối quan tâm chính
cho cả hai mức đbảo mật của thông tin nên được duy trì trong một hội quyền
khiếu kiện đối với sai sót được bảo vệ.. Tiếp cận với các thông tin chi tiết được biên soạn
bởi những người thẩm định ngang cấp, người quản rủi ro, hoặc những người khác
thể giúp đỡ luật của nguyên đơn trong quá trình xây dựng hồ sơ, khiếu kiện một
vụ việc cụ thể. Tuy nhiên điều y sẽ không khuyến khích được việc thu thập báo cáo
thông tin..
Quyền lợi của nguyên đơn và việc sử dụng các thông tin về sai sót phụ thuộc vào mức đ
nhận diện dữ liệu. Một báo cáo được nhận diện đầy đủ sẽ luôn luôn mang lại lợi ích cho
nguyên đơn trong trường hợp được báo cáo. Nhưng ngay cả khi dữ liệu được nhận diện
Tài liệu nội bộ của CLB Quản lý Chất lượng An toàn Người bệnh
113
hoặc được tổng hợp theo tổ chức hoặc bác sĩ, nhưng không phải bởi bệnh nhân, dữ liệu
như vậy vẫn có thể có giá trị trong vụ kiện chống lại tổ chức hành vi giám sát cẩu thả -
là một lý do phổ biến mà nguyên đơn thường khiếu kiện. Dữ liệu mà tất cả thông tin nhận
diện của các cá nhân và tổ chức đã bị loại bỏ vẫn có thể được sử dụng để chứng minh một
số yếu tố trong một số loại tình huống nhất định, chẳng hạn như nguyên nhân (ví dụ như,
thương tổn tương tự như thương tổn của nguyên đơn được y ra bởi cùng một chế
hoặc vấn đề; có lý do cho bị đơn biết được rằng một quy trình hoặc thiết bị nhất định từng
gặp vấn đtrong quá khứ). Việc loại bỏ y ngày nay lẽ không phổ biến, thể một
phần do sự khan hiếm của các dữ liệu đó. Trách nhiệm pháp càng tập trung vào tổ
chức hơn là tập trung vào cá nhân thì thông tin chung càng trở nên hữu dụng.
Nguyên đơn thể tìm kiếm thông tin từ ba thành phần của một hệ thống báo o: (1)
người báo cáo ban đầu; (2) người nhận, điều tra, hoặc phân tích các báo cáo; (3) các
dữ liệu trong ngân hàng dữ liệu. Cách thức nguyên đơn thể tiếp cận những mục
tiêu này sẽ được ttrong phần tiếp theo. Hiện hai cách để bảo vệ mỗi mục tiêu
trong số những mục tiêu này: luật (ngăn chặn dữ liệu bị phát tán, tiết lộ) phương pháp
thực tiễn (làm cho thông tin về người báo cáo không thể được m thấy hoặc các dữ liệu
trở nên dụng đối với nguyên đơn). Những biện pháp bảo vệ y thể áp dụng theo
các cách khác nhau đối với ba mục tiêu thể liên quan đến việc phát hiện dữ liệu.
Những biện pháp y được tả chi tiết hơn, cùng với những kinh nghiệm các hệ
thống báo o đã khi thực hiện những biện pháp này. Mục đích của việc phân tích
để làm rõ các chính sách pháp luật và đưa ra những lựa chọn dành cho những người muốn
bảo vệ việc thu thập, chia sẻ dữ liệu phân tích thông tin về các trường hợp tai biến
sai sót.
Ủy ban ghi nhận rằng việc bảo vệ dữ liệu trong một hệ thống báo cáo như được đề xuất
trong chương này không có nghĩa là nguyên đơn trong một vụ kiện không thể có được các
thông tin đó các thông qua con đường khác, nếu điều đó là quan trọng trong việc đảm bảo
bồi thường cho tổn hại; chỉ nghĩa rằng nguyên đơn sẽ không được hỗ trợ thông qua
một hệ thống báo cáo được thiết kế đặc biệt cho các mục đích khác có lợi cho xã hội.
QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ CHỨNG C TIẾT LỘ THÔNG TIN LIÊN
QUAN ĐẾN SAI SÓT
Nhu cầu thông tin về sai sót thể đến từ bất nguyên đơn nào trong các vụ kiện liên
quan đến sai sót trong ngành y tế, trong đó hầu hết đều dựa trên luật pháp của các bang.
D liu v sai sót th đưc tìm kiếm theo các v án khác, d v khiếu ni v ti ph báng, chống độc quyn
bởi các bác chống li các t chc y tế. Thêm na, các quan hành pháp th m kiếm d liu v các trường
hợp thương tích, hoc theo thm quyn chung ca h (ch yếu các quan cp phép ca bang th k lut các