
HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG QUỐC TẾ LẦN THỨ IV - BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
398
ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LÀM VIỆC VÀ KHẢ NĂNG PHỤC HỒI
ĐẾN TRẠNG THÁI SỨC KHỎE CỦA ĐIỀU DƯỠNG
TẠI CÁC CƠ SỞ LÃO KHOA Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI, VIỆT NAM
Ngô Thị Thủy1, Lydia T. Manahan2,
Nguyễn Văn Tài3, Ngô Kim Phụng4
TÓM TẮT46
Mục tiêu: Đánh giá môi trường làm việc,
khả năng phục hồi và trạng thái sức khỏe của các
điều dưỡng lão khoa; đồng thời xác định ảnh
hưởng của môi trường làm việc và khả năng phục
hồi đối với trạng thái sức khỏe của điều dưỡng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với 222 điều dưỡng
đã được chọn ngẫu nhiên tại các cơ sở lão khoa ở
thành phố Hà Nội. Kết quả: Môi trường làm việc
được đánh giá tốt: điểm trung bình về việc được
tham gia vào công tác quản lý lãnh đạo của đơn
vị là 3,28; ở khía cạnh tập trung vào chăm sóc
điều dưỡng và các mối quan hệ liên ngành là
3,22; ở khía cạnh nguồn lực, có đủ số lượng cần
thiết, nhưng số điều dưỡng có trình độ chuyên
môn tốt còn hạn chế. Về khả năng phục hồi: ở
góc độ sống đích thực và lành mạnh trung bình
3,38; về mặt nhận ra khuynh hướng trung bình
3,10; về mặt duy trì quan điểm trung bình 2,77;
về mặt quản lý căng thẳng trung bình 3,38; và về
mặt xây dựng liên kết xã hội trung bình 3,28. Về
1Trưng Đi hc Phenikaa
2Trinity University of Asia
3Bệnh viện Thng Nhất TP HCM
4Trưng Đi hc Hutech
Chịu trách nhiệm chính: Ngô Thị Thủy
SĐT: 0902700850
Email: thuy.ngothi@phenikaa-uni.edu.vn
Ngày nhận bài: 10/6/2024
Ngày phản biện khoa học: 20/6/2024
Ngày duyệt bài: 02/8/2024
trạng thái sức khỏe ở khía cạnh tích cực, trung
bình 3,36. Về khía cạnh năng lượng, điểm trung
bình 3,27. Về khía cạnh tiêu cực, điểm trung bình
2,34. Có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa
môi trường làm việc và khả năng phục hồi
(r=0,534, p=0,001); giữa môi trường làm việc và
trạng thái sức khỏe (r=0,867, p= 0,000); và giữa
khả năng phục hồi và trạng thái sức khỏe
(r=0,961, p=0,000). Kết luận: Các điều dưỡng tự
đánh giá về môi trường làm việc và khả năng
phục hồi tốt và về trạng thái sức khỏe của họ
nhìn chung ở mức rất tốt ở khía cạnh tích cực và
năng lượng và trái ngược với mức không tốt ở
khía cạnh tiêu cực. Khả năng phục hồi có mối
tương quan thuận cao nhất với trạng thái sức
khỏe, tiếp theo là môi trường làm việc và môi
trường làm việc có mối tương quan thuận vừa
phải với khả năng phục hồi. Do đó, sức khỏe có
thể được đảm bảo nếu cơ sở có thể duy trì khả
năng phục hồi của các điều dưỡng và đảm bảo
môi trường làm việc tích cực.
Từ khóa: môi trường làm việc, khả năng
phục hồi, trạng thái sức khỏe, điều dưỡng lão
khoa, cơ sở chăm sóc lão khoa.
SUMMARY
INFLUENCE OF WORK
ENVIRONMENT AND RESILIENCE
ON THE WELL-BEING OF NURSES IN
SELECTED GERIATRIC FACILITIES
IN HANOI, VIETNAM
Objectives: To assess the work environment,
resilience and well-being of geriatric nurses; to

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 543 - THÁNG 10 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
399
determine the influence of work environment on
resilience and well-being of nurses with the end
view of proposing ways to improve work
resilience in geriatric nursing. Method: A cross-
sectional descriptive study with 222 nurse
respondents who were randomly selected in
selected geriatric facilities in Hanoi Vietnam.
Results: The result of Self-assessment on work
environment of nurses showed that, in terms of
participation in management and leadership
dimension (mean=3,28); in terms of focus on
nursing care and interdisciplinary relationships,
that there is a common (mean=3,22); and in
terms of adequate resources, that in general, there
are sufficient employees to do the job. Self -
assessment on their resilience showed that, in
terms of living authentically and healthy
dimension (mean=3,38); in terms of finding
one’s calling (mean=3,10); in terms of
maintaining perspective (mean=2,77); in terms of
managing stress (mean=3,38); and in terms of
building social network (mean=3,28). Self -
assessment on their well-being illustrated that, in
terms of positive componen (mean=3,36); in
terms of energy component (mean=3,27); and in
terms of negative component (mean=2,34). There
is statistically significant relationship between
work environment and resilience (r=0,534, p-
value 0,001); between work environment and
well-being (r=0,867, p-value 0,000); and
between resilience and well-being (r=0,961, p-
value 0,000). Conclusions: Nurses rate
themselves as having a good work environment,
strongly agree that they are good resilience, and
their well-being is generally very good in terms
of positive and energy, and not being good on the
negative side. Resilience has the highest positive
correlation with well-being followed by work
environment, and work environmen has moderate
correlation with resilience. Well-being can
therefore be ensured if the administration can
maintain resilience among nurses and positive
work environment are ensured.
Keywords: Work environment; resilience;
well-being; geriatric nurse; geriatric healthcare
facilities.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thúc đẩy môi trường làm việc lành mạnh
để nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần
của nhân viên là một xu hướng ngày càng
tăng. Môi trường điều dưỡng chuyên nghiệp
quyết định chất lượng chăm sóc và điều trị
người bệnh [1]. Đánh giá chất lượng môi
trường làm việc là điều cần thiết để cải thiện
và đạt được kết quả sức khỏe tốt hơn cho
điều dưỡng [5].
Khả năng phục hồi là một khái niệm tích
cực cho php các điều dưỡng vượt qua các
tình huống căng thẳng và thích nghi tích cực,
giúp họ duy trì được trạng thái sức khỏe tốt
[7]. Trong lĩnh vực điều dưỡng lão khoa, khả
năng phục hồi của điều dưỡng đang nổi lên
như một khái niệm quan trọng nhằm giảm
bớt gánh nặng tâm lý của điều dưỡng và tăng
cường sức khỏe thể chất và tinh thần của họ.
Mức độ kiên cường cao có liên quan đến việc
giảm tác hại về mặt tâm lý và tăng cường sức
khỏe [2].
Trạng thái sức khỏe là một khái niệm đa
chiều bao gồm sức khỏe tinh thần, xã hội, thể
chất và cảm xúc. Khái niệm này có tính đến
năng lượng, thái độ tích cực và tiêu cực đối
với cơ thể [6]. Thực hành điều dưỡng căng
thẳng có thể có tác động tiêu cực đến sức
khỏe tổng thể, tinh thần và các mối quan hệ
xã hội của điều dưỡng. Catton (2020) cho
rằng cảm giác khỏe mạnh chung là một vấn
đề quan trọng trong điều dưỡng lão khoa [1].
Trong bối cảnh hiện nay, những thách
thức mà các hệ thống chăm sóc sức khỏe
phải đối mặt, liên quan đến sự thiếu hụt điều

HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG QUỐC TẾ LẦN THỨ IV - BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
400
dưỡng, do có nhiều cơ hội hơn và thậm chí là
môi trường làm việc tốt hơn ở nước ngoài.
Trong khi đó, tuổi thọ trung bình ngày càng
tăng, dân số già phải đối mặt với những lo
ngại về sức khỏe như sự gia tăng các bệnh
mãn tính và thoái hóa, điều này góp phần
làm tăng nhu cầu về người chăm sóc, đặc
biệt là những điều dưỡng chuyên ngành lão
khoa. Thực tế cho thấy rằng, điều dưỡng là
thành phần chuyên môn chính của các cơ sở
lão khoa ở hầu hết các hệ thống y tế. Họ phải
đối mặt với nhiều gánh nặng khác nhau tại
nơi làm việc dẫn đến mức độ căng thẳng cao.
Sự căng thẳng có thể dẫn đến việc thiếu sự
chăm sóc chuyên nghiệp và kiệt sức. Việc
duy trì đội ngũ điều dưỡng đủ cả số lượng và
chất lượng đang là khó khăn của các cơ sở y
tế, nhưng là yếu tố cốt lõi để đảm bảo việc
cung cấp dịch vụ chăm sóc chất lượng. Hơn
nữa, điều quan trọng là phải hỗ trợ tình trạng
sức khỏe, khả năng phục hồi của những nhân
viên này [1]. Bởi vì, khi sức khỏe điều dưỡng
bị ảnh hưởng thì việc chăm sóc và sự an toàn
của bệnh nhân cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra,
các vấn đề về môi trường làm việc bao gồm
tổ chức, sự tham gia vào quản lý và lãnh đạo,
tập trung vào chăm sóc điều dưỡng, các mối
quan hệ liên ngành và nguồn lực đầy đủ cũng
nên được xem xét. Nghiên cứu này hy vọng
sẽ tạo ra những hiểu biết sâu sắc và ý nghĩa
có giá trị giúp các lãnh đạo điều dưỡng xem
xét kỹ lưỡng và cải thiện nếu cần thiết môi
trường làm việc của điều dưỡng để họ có thể
hoạt động ở phạm vi hành nghề chuyên môn
cao nhất nhằm tạo tiền đề cho sự gia tăng
khả năng phục hồi và trạng thái sức khỏe của
người điều dưỡng, từ đó thúc đẩy sự cam kết
của họ đối với sự nghiệp lâu dài. Vì vậy, mục
đích của nghiên cứu này là đánh giá môi
trường làm việc, khả năng phục hồi và trạng
thái sức khỏe của điều dưỡng tại các cơ sở
lão khoa; nhằm xác định mối quan hệ giữa
môi trường làm việc, khả năng phục hồi và
trạng thái sức khỏe của điều dưỡng tại các cơ
sở lão khoa được lựa chọn ở Thành phố Hà
Nội hướng tới phát triển khuôn khổ khả năng
phục hồi và cải thiện tình trạng sức khỏe của
điều dưỡng để làm nền tảng nâng cao chất
lượng chăm sóc chuyên nghiệp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu
được thực hiện trên 222 điều dưỡng viên
đang làm việc tại các cơ sở lão khoa tại Hà
Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Điều dưỡng đang
làm việc tại cơ sở chăm sóc sức khỏe lão
khoa có tuổi từ 22-56 tuổi; trực tiếp chăm
sóc người cao tuổi.
Tiêu chuẩn loại trừ: Các điều dưỡng có
ít hơn một năm kinh nghiệm chăm sóc cho
người cao tuổi tại cơ sở lão khoa.
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Thi gian và địa điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện tại các cơ sở lão
khoa trên địa bàn Hà Nội từ tháng 9/2022
đến tháng 03/2023.
Mẫu và phương pháp chọn mẫu: Cỡ
mẫu được xác định bằng phần mềm Gpower
(80% power, 50% effect size, and mức ý
nghĩa 5%) [8], cần tối thiểu 138 điều dưỡng
cho nghiên cứu này. Tuy nhiên, nhà nghiên
cứu hướng đến cỡ mẫu 276 để tăng độ tin
cậy. Bằng cách sử dụng bảng số ngẫu nhiên
từ ứng dụng máy tính, 276 điều dưỡng đã
được chọn từ 6 cơ sở lão khoa ở Hà Nội,
nhưng chỉ có 222 điều dưỡng tham gia
nghiên cứu, đạt tỷ lệ 80,43%.
Thang đo và tiêu chuẩn đánh giá
Bộ câu hỏi nghiên cứu được xây dựng từ
ba bộ công cụ: đánh giá môi trường thực
hành điều dưỡng của Gea-Caballero và cộng

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 543 - THÁNG 10 - SỐ CHUYÊN ĐỀ - 2024
401
có 10 mục [3]; đánh giá khả năng phục hồi
do Winwood và cộng sự phát triển có 20 mục
[7]; và trạng thái sức khỏe có 12 mục do
Pouwer và cộng sự phát triển [6]. Bộ công cụ
được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt theo
phương pháp dịch ngược, đánh giá sự phù
hợp bởi 6 chuyên gia trong lĩnh vực quản lý,
giáo dục và chăm sóc điều dưỡng. Trong
nghiên cứu này, hệ số Cronbach’s alpha của
các thang đo ấn tượng >0,8 (Môi trường làm
việc là 0,852, Khả năng phục hồi là 0,879,
trạng thái sức khỏe là 0,827). Các câu hỏi
được đo bằng thang Likert bốn điểm từ "rất
không đồng ý" đến "rất đồng ý". Mức điểm
được diễn giải 1,00-1,75 rất không đồng ý;
1,76-2,50 không đồng ý; 2,51-3,25 đồng ý;
3,26-4,00 rất đồng ý [8].
Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng
phần mềm thống kê SPSS phiên bản 26.
Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu tuân
thủ hoàn toàn mọi tiêu chuẩn đạo đức trong
suốt quá trình tiến hành. Đề cương được xét
duyệt bởi hội đồng đạo đức trường đại học
Trinity of Asia và nhận được sự cho phép
tiến hành nghiên cứu của lãnh đạo 6 đơn vị
trước khi bảng câu hỏi được gửi đến cho các
điều dưỡng. Nghiên cứu được thực hiện trên
tinh thần tôn trọng bí mật riêng tư của đối
tượng nghiên cứu, sự tham gia là hoàn toàn
tự nguyện. Các thông tin thu thập chỉ sử
dụng cho mục đích nghiên cứu này.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (n=222)
Nội dung
Tần số (n)
Tỉ lệ (%)
Giới tính
Nam
51
23,0
Nữ
171
77,0
Tuổi
(Trung bình 30,33 ± 7,98)
Dưới 25
74
33,3
26-30 tuổi
60
27,0
31-35 tuổi
43
19,4
36-40 tuổi
19
8,6
Trên 40 tuổi
26
11,7
Trình độ học vấn
Trung cấp
65
29,3
Cao đẳng
86
38,7
Đại học
68
30,6
Sau đại học
3
1,4
Kinh nghiệm công tác
1-5 năm
135
61,8
Trên 5 năm
87
39,2
Tình trạng hôn nhân
Chưa lập gia đình
100
45,0
Có gia đình
110
49,5
Ly hôn/ly thân/góa
12
5,4
Vị trí công việc
Điều dưỡng viên
180
81,1
Quản lý
42
18,9

HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG QUỐC TẾ LẦN THỨ IV - BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
402
Nhn xét: Có 222 điều dưỡng tham gia
nghiên cứu. Nữ (77%) chiếm tỉ lệ gấp 3 nam
giới. Độ tuổi dưới 25 chiếm tỉ lệ cao nhất
(33%). Vẫn cn 29,3% điều dưỡng có trình
độ trung cấp. Phần lớn có kinh nghiệm công
tác từ 1 đến 5 năm (61,8%). Điều dưỡng có
gia đình (49,5%), chưa lập gia đình chiếm
(45%). Hầu hết là điều dưỡng viên (81,1%),
gấp 4 lần số điều dưỡng quản lý (18,9%).
3.2. Môi trưng làm việc, khả năng
phục hồi và trạng thái sức khỏe của điều
dưỡng lão khoa
Bảng 2. Đnh gi của điều dưỡng về môi trường làm việc của họ (n=222)
Nội dung
Điểm
trung bình
Số ngưi
đồng ý (%)
Tham gia vào quản lý và lãnh đạo
3,28
Điều dưỡng có cơ hội tham gia vào các quyết định liên quan đến các
chính sách của đơn vị.
3,18
211 (95,0)
Đơn vị có quy trình làm việc rõ ràng để đảm bảo và nâng cao chất
lượng.
3,31
219 (98,6)
Điều dưỡng được tham gia học các khóa đào tạo liên tục.
3,39
207 (93,2)
Người giám sát/cấp trên trực tiếp là một người quản lý, lãnh đạo tốt.
3,22
216 (97,3)
Tập trung vào chăm sóc điều dưỡng và các mối quan hệ liên
ngành
3,22
Việc phân chia/sắp xếp người bệnh/ người cao tuổi cho từng điều
dưỡng thúc đẩy việc chăm sóc liên tục.
2,89
188 (84,7)
Triết lý chăm sóc của đơn vị được xác định rõ ràng và được phổ biến
cho điều dưỡng viên.
3,41
217 (97,7)
Các điều dưỡng tại đơn vị có năng lực chuyên môn đạt yêu cầu.
3,34
216 (97,3)
Có sự hợp tác hiệu quả giữa các điều dưỡng và các bác sĩ trong công
việc.
3,26
219 (98,6)
Nguồn nhân lưc
3,02
Có đủ nhân viên để thực hiện công việc.
3,09
180 (81,1)
Có đủ số lượng điều dưỡng có trình độ chuyên môn để cung cấp dịch
vụ chăm sóc có chất lượng.
2,96
174 (78,4)
Nhn xét: Kết quả bảng 2 cho thấy tự
đánh giá của điều dưỡng về môi trường làm
việc của họ đạt mức đồng ý dao đồng từ
78,4-98,6%, ở khía cạnh “tham gia vào công
tác quản lý lãnh đạo của đơn vị” trung bình
3,28 điểm, tương ứng với mức rất đồng ý/rất
tốt. Các điều dưỡng “được tham gia học các
khóa đào tạo liên tục” có điểm cao nhất (X =
3,39), trong khi “tham gia vào các quyết định
liên quan đến chính sách của đơn vị” ở mức
điểm thấp nhất (X = 3,18). Về khía cạnh “tập
trung vào chăm sóc điều dưỡng và các mối
quan hệ liên ngành” là 3,22, tương ứng với
mức đồng ý/tốt. Mục được đánh giá mạnh
mẽ nhất là “Triết lý chăm sóc của đơn vị
được xác định rõ ràng và được phổ biến cho
điều dưỡng viên” với điểm trung bình 3,41;
Mục điểm thấp nhất là “Việc phân chia/sắp
xếp người bệnh/ người cao tuổi cho từng
điều dưỡng thúc đẩy việc chăm sóc liên tục”