
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP & XÂY DỰNG
BÀI GIẢNG MÔN HỌC
AN TOÀN MỎ HẦM LÒ
Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp
(Lưu hành nội bộ)
Người biên soạn: Phạm Ngọc Lợi
Uông Bí, năm 2010

1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bảo vệ môi
trường và an toàn lao động trở thành vấn đề bức xúc, cấp bách và là một nhiệm
vụ hết sức quan trọng ở Việt Nam cũng như ở các nước khác trên thế giới. Đặc
biệt vấn đề An toàn lao động là vấn đề nổi cộm trong mỗi quốc gia và mỗi
ngành công nghiệp. Chính vì lý do đó kỹ thuật An toàn lao động là môn học
không thể thiếu trong các ngành học về kỹ thuật nhất là ngành khai thác mỏ.
Bài giảng “ Kỹ thuật An toàn mỏ” nhằm giúp Sinh viên nhận thức đầy đủ
về mối lien hệ giữa môi trường và con người, sinh vật và phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội đất nước. Đồng thời giúp cho Sinh viên nhận thức đúng hơn về An
toàn lao động và liệt kê được các thành phần cơ bản của không khí và không khí
mỏ. Đưa ra được các đặc trưng cơ bản của tính chất cháy nổ của khí Mê tan, mục
đích, vai trò, ý nghĩa của công tác an toàn và bảo hộ lao động và các quy định an
toàn khi đi lại, làm việc trong mỏ Hầm lò: Quy định an toàn khi vận chuyển
người, thiết bị ra vào lò, quy định vận hành một số thiết bị mỏ chuyên dùng, quy
định an toàn khi nổ mìn, khi đào chống lò...
Từ nhận thức đó hướng cho Sinh viên thấy được sự cần thiết nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về môi trường và các biện pháp phòng chống các tai nạn xảy ra
trong quá trình sản xuất công nghiệp.
Trong quá trình viết bài giảng, tác giả đã cố gắng rất nhiều nhưng bài giảng
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của
đồng nghiệp để bài giảng ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Tác giả

2
Phần 1: MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ MỎ
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG
1.1 Quan hệ giữa phát triển và môi trường
Môi trường là tổng hợp của các điều kiện sống của con người. Phát triển
là quá trình cải tạo và cải thiện các điều kiện đó. Giữa môi trừng và phát triển dĩ
nhiên có mối quan hệ rất chặt chẽ. Môi trường là địa bàn và đối tượng của phát
triển .
Trong phạm vi của một quốc gia, cung như xét trên toàn thế giới luôn
luôn song song tồn tại hai hệ thống: Hệ thống kinh tế xã hội và hệ thống kinh tế
của môi trường. Hệ thống kinh tế xã hội cầu thành bới của các thành phần sản
xuất, lưu thông và phân phối , tiêu dùng và tích lũy, tạo lên một dòng của
nguyên liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải lưu thông của các phân tử cấu thành
hệ thống môi trường và các thành phần môI trường thiên nhiên và môi trường
của xã hội. Khu vực giao lưu giữa 2 hệ thống tạo thành “ môi trường nhân tạo “
có thể xem như kết quả tích lũi của một hoạt động tích cực hoặc tiêu cực của con
người trong quá trình phát triển trên địa bàn của môI trường. Môi trường của
thiên nhiên cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho kinh tế , đồng thời tiếp nhân
chất thải từ hệ kinh tế. Chất thải này cí thể trỏ lại hẳn trong môi trường của thiên
nhiên hoặc qua trế biến hoặc trở về hệ kinh tế. Một hoạt động sản xuất mà phế
thảI khổng thể sử dụng trở lại được vào hệ kinh tế được xem như là hoạt động
gây tổn hại đến môi trường. Lãng phí tài nguyên không tải tạo được sử dụng tài
nguyên tái tạo được một cách quá mức khiến cho nó không thể phục hồi được,
hoặc phục khồi được sau một thời gian quá dài, đưa ra những chất động hại với
con người và môi trường sống của nó như hoạt động tồn hại đến môi trường.
Những hành động gây nên những tác động như vậy là hành động tiêu cực về
môi trường mà ĐTM có nhiệm vụ đánh giá mức độ nghiêm trọng và để xuất
hiện biện pháp khắc phục hoặc đỉnh chỉ. Các hoạt động phát triển luôn luôn có
hại mặt lợi và hại. Bản thân thiên nhiên cũng có hai mặt. Thiên nhiên là nguồn
tài nguyên và phúc lợi đối với con người , nhưng đồng thời cũng là nguồn thiên
tai thảm họa đối với đời sống sản xuất của con người.
Khoa học kinh tế cổ điển không giải quyết thành công mối quan hệ phức
tạp giữa phát triển và môi trường . Từ đó nảy sinh các lý thuyết không tưởng về
“ đình trí phát triển “ ( Zero or Negative Growth ) , cụ thể là đo tốc độ phát triển
bằng bằng không hoặc âm để bảo vệ được nguồn tài nguyên vật lý vốn hữu hạn
của trái đất . Đối với tài nguyên sinh sinh học cũng có “chủ nghĩa bảo vệ” chủ
chương không can thiệp và động trạm vào thiên nhiên, nhất là tại các địa bàn
chua được điều tra và nghiên cứu đầy đủ. Chủ nghĩa bảo tồn “ Conservationism”
cũng là một điều không tưởng nhất là trong điều kiện các nước đang phát triển
mà tài nguyên thiên nhiên là nguồn vốn cơ bản cho mọi hoạt động của con
người.
Một phần đáng kể của nguồn nguyên liệu và năng lượng được tiêu thụ
một cách quá mức tại các nước đang phát triển vốn được khai thác tại các nước
đang phát triển. Bên canh hiện tượng “ ô nhiễm do giàu có “ ( Pollution of
Affuence) xẩy ra tại các nước công nghiệp hóa phát triển, trong những thập kỷ

3
ngần đây tại hầu hết các nước đang phát triển, thu nhập thấp đã xuất hiện tượng
“ ô nhiễm do nghèo đói “( Pollution of Affuence), mà một phần nguồn góc là do
loại ô nhiễm đã nói trước. thiếu lương thực , nước uống, nhà ở, thuốc men, vệ
sinh, nghèo đói, mù chữ, bất lực trước thiên tai là nguồn gốc cơ bản của những
vấn đề của môi trường nghiêm trong đang đặt ra cho nhân dân các nước đang
phát triển .
Hội nghị của LHQ về môi trường sống của con người họp năm 1972 ở
thụy sỹ đã đi đến kết luận rằng nguyên nhân của nhiều vấn đề quan trọng về môi
trường không phải là do phát triển mà chính là hậu quả của sự kém phát triển.
Tư tưởng đó đã được liên hơpự quốc thể hiện trong chiến lược phát triển 10 năm
lần thứ 3. Chiến lược đã được đề cập tới mối quan hệ giữa phát triển với môi
trường, dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đất, bảo vệ rừng, vệ sinh của các
khu” ổ chuột “ trong thành phố. Những tư tưởng về “ tiếp cận tổng hợp về môi
trường và phát triển “ phát triển một cách có thể và phù hợp với môi trường “ Đã
được nêu ra một cách rõ ràng “. Điều đó đã trở nên hiển nhiên đối với tất cả các
nước, nhất là những nước đang phát triển, về mục tiêu của mục phát triển kinh tế
và xã hội và bảo vệ môi trường phải được gắn bó với nhau trong xây dựng được
mục tiêu kế hoạch hóa cũng như điều hành và quản lý những mục tiêu đó. Hội
nghị thượng đinnhs toàn cầu về môi trường và phát triển bền vững với LHQ tổ
chức năm 1992 tại Riode janeiro, với những quyết định về chương trình hành
động của toàn cầu tới thế kỷ 21, với các công ước bảo vệ đa dạng sinh học, biến
đổi của khí hậu tráI đất là mốc lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh và bảo vệ
môi trường của nhân dân của toàn thế giới .
1.2 Quan hệ giữa phát triển và môi trường
Theo Zacques Vallin vào năm 10.000 trước công nguyên, dân số trên trái
đất chỉ mới 5 triệu người, đến giữa thiên nhiên kỷ thứ 4 trước công nguyên con
số đó là 150 triệu. Đến đầu nguyên đại chúng ta , dân số trái đất chưa đầy 250
triệu. Để tăng gấp đôi con số đó đã phảI trảI qua 16 thế kỷ. Vượt qua con số 700
triệu vào năm 1750 và đạt 1tỷ vào năm 1829 . Chỉ 100 năm sau , con số đó đãn
vượt trên 2 tỷ. Để đạt tới con số 3tỷ chỉ mất có 32 năm. Tháng 3.1976 là 4 tỷ
người, tháng 7.1987 là 5 tỷ và tới nay (1999) là xấp xỉ 6 tỷ người. Một sự gia
tăng dân số đến chóng mặt mà các nhà dân số gọi là “ cuộc bùng nổ của dân số”.
Sự gia tăng của dân số đòi hỏi, một mặt phải có thêm diện tích để xây
dựng các công trình nhà cửa dân dụng và công nghiệp, mặt khác phải có thêm
diện tích để làm vườn hoa, công việc cho mọi người nghỉ ngơi, đặc biệt là phải
tăng thêm diện tích cho trồng trọt. Những đòi hỏi đó sẽ làm cho trái đất ngày
càng quá tải và dẫn đến sự phá vỡ cân bằng không khí đối với môi trường mà
đối với ngay cả ban thân nó – sự phát triển của xã hội. Giữa dân số, môi trường
và sự phát triển có mối quan hệ tương tác hai chiều có thể biểu đạt đơn giản
theo sơ đồ sau:
Điều kiện để sự gia tăng dân số một cách hợp lý là điều khiển để cải thiện
môi trường, không gây ra sự cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên, tạo điều kiện để
kinh tế – xã hội phát triển, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Ngược
lại tốc độ tăng dân số không hợp lý sẽ trở thành một nhân tố rất quan trọng
trong việc đẩy nhanh tốc độ làm ô nhiễm môi trường, can kiệt tài nguyên thiên

4
nhiên, kìm hãm sự phát triển, gây ra đói nghèo. Đói nghèo là hậu quả của sự
gia tăng dân số không hợp lý và sự gia tăng dân số cũng góp phần làm suy
giảm, cạn kiệt tài nguyên để rồi dẫn đến đói nghèo bênh tât.
Tình trạng đói nghèo hiện nay trên thé giới đang phát triển, nhất là ở khu
vực các nước đang phát triển mà ở đó vẫn tồn tại tình trạng gia tăng dân số quá
nhanh. Bởi vậy, biện pháp kiểm soát dân số là cách tốt nhất để bảo vệ môi
trường tài nguyên thiên nhiên, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng của
cuộc sống.
Phân loại các nước giàu – nghèo trên thế giới ( 1994 ).
Thu nhập bình quân đầu người , USD/
năm
Quốc gia
Cực giàu : ≥25.000
Thụy sĩ , nhật .
Giàu : 20.000
25.000
Mỹ, Đức, Thụy Điển, Đan Mạch,
Canađa, Nauy .
Khá giả : 10.000
20.000
Pháp, Aó, Hà Lan, Anh, Tây Ban Nha,
Singapo, Ixaren .
Trung lưu : 2.500
10.000
Irland, Hy Lạp, Han Quốc, Arập xêut ,
Nam Phi, Séc, Slovaki, Nga .
Nghèo : 500
2500
Mêhicô, Iran , Irac, Bungari, Aicập ,
Achentina, Ruumani, Albani, Thổ Nhĩ
Kỳ, Philipin .
Cực nghèo : < 500
Ân Độ, Trung Quốc, Banglađet, Zaia,
Kênia, Nêgiêria, Uganđa , Môdămbích,
Êtopia , việt nam …
Nếu không kiểm soát được dân số, trên trái đất sẽ có khoảng 23 tỷ người
vào năm 2160 , gấp đôi so với mực phát triển dân số thế giới bình quân 1% hàng
năm. Theo tổ chức Lao Động Quốc Tế, để nằm 2000 thế giới sẽ có 1tỷ người
nghèo và đến năm 2025 sẽ là 1,2 tỷ người. Nước ta được xếp vào một trong 20
nước có mức sống thấp nhất thế giới ( bảng 1.1).
Hậu quả của sự tăng nhanh dân số có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế – Xã
hội mà loại người phải gánh chịu là :
a) Đói nghèo :
Ở những thế kỷ trước sự sản xuất nông nghiệp còn thấy, trên 50% nhân loại
phải sống trong tình trạng đói ăn . Những năm 70, trên trái đất có 2 triệu người
chết đói. Trong thập kỷ 80 dân số thế giới tăng nhanh, con số người chết đói lên
tới 18 triệu người. Tổ chức nông Nghiệp thế giới ( FAO) cho biết vào năm 1996
trên thế giới có tới 800 triệu người chết đói và suy dinh dưỡng trầm trọng.
Người ta ước tính, từ năm 1970- 1988 sản lượng lương thực thế giới đã
tăng lên là 1,25 lần, nhưng dân số thế giới lại tăng 1,41 lần, bởi vậy bình quân
lương thực đầu người giảm suống là 296 kg.
b) Thất nghiệp:

