Bài giảng Mô phôi: Hệ nội tiết
lượt xem 38
download
Bài giảng "Mô phôi: Hệ nội tiết" cung cấp các kiến thức giúp sinh viên có thể trình bày được cấu trúc và chức năng của tuyến yên; giải thích được quan hệ giữa vùng dưới đồi và tuyến yên; trình bày được cấu trúc và chức năng của tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến thượng thận, tuỵ nội tiết, tuyến tùng. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Mô phôi: Hệ nội tiết
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 123 HỆ NỘI TIẾT Mục tiêu học tập 1. Trình bày được cấu trúc và chức năng của tuyến yên 2. Giải thích được quan hệ giữa vùng dưới đồi và tuyến yên. 3. Trình bày được cấu trúc và chức năng của tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến thượng thận, tuỵ nội tiết, tuyến tùng Tuyến nội tiết là tập hợp những tế bào đã biệt hoá để tiết ra hormon. Hormon có cấu tạo hoá học xác định, được đổ vào máu không qua ống dẫn, đến gây đáp ứng tại các tế bào hoặc cơ quan gọi là cơ quan "hiệu ứng", hay "đích". Các tế bào đích, cơ quan đích sẽ đáp ứng bằng các hoạt động liên quan đến chuyển hoá, phát triển hoặc sinh sản. - Phân loại: Có nhiều cách phân loại, phân loại theo nguồn gốc, phân loại theo vị trí của tế bào đích với tuyến nội tiết và phân loại theo hình thái là hợp lý hơn cả. Dựa vào hình thái tuyến nội tiết được phân làm 3 nhóm: - Tuyến kiểu lưới. - Tuyến kiểu túi. - Tuyến tản mác. Các tuyến nội tiết: Trong quá trình phát triển từ mầm phôi, một số tuyến nội tiết tách rời và tạo thành những tuyến biệt lập, một số khác nằm chung với các cơ quan khác. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến các tuyến nội tiết biệt lập, các tuyến này gồm: trục đồi thị tuyến yên; tuyến giáp; tuyến thượng thận; tuyến cận giáp; tuyến tùng; tiểu đảo langerhans của tuỵ tạng. I. TUYẾN YÊN Trục dưới đồi tuyến yên: Nếu ở tim nút xoang được xem là "nhạc trưởng" điều khiển sự co bóp của tim một cách tuần hoàn, thì ở hệ thống nội tiết trục dưới đồi tuyến yên có vai trò điều khiển hầu như toàn bộ các tuyến nội tiết khác. 1. Nguồn gốc Trong thời kỳ phôi, từ mô thần kinh của sàn gian não hình thành một tấm, tấm này lõm xuống dưới hình thành một phễu, phễu đi sâu xuống dưới và tận cùng phình ra. Phần phình ra sau này sẽ biệt hoá thành phần sau thần kinh tuyến yên, phần này nối với não bằng cuống tuyến yên qua trung gian của vùng lồi giữa. Như vậy phần sau của tuyến yên gồm: thuỳ sau thần kinh, cuống tuyến yên, lồi giữa. Cũng vào thời kỳ này ngoại bì hầu xuất phát từ miệng nguyên thuỷ gấp lại, lõm về phía đáy sọ tạo thành túi gọi là Rathke. Túi Rathke tách từ thành xoang miệng, tiến về phần thần kinh của tuyến yên. Tại đây túi Rathke biệt hoá thành 3 phần: -Phần trước - Ở dưới - Lớn nhất gọi là thuỳ trước tuyến yên; 123
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 124 Phần trên nhỏ hơn gọi là phần củ, tạo thành rãnh bọc quanh phần cuống và phần lồi giữa các phần thần kinh. Vì phần trước của tuyến yên phát triển mạnh, túi Rathke bị ép lại tạo thành khe: khe Rathke. Phần trung gian của thuỳ trước tuyến yên là phần hẹp nằm giữa khe Rathke và thuỳ sau của thần kinh (Hình 1). Cuäúng Läöi giæîa Pháön thuìy træåïc Saìn gian naîo Tuïi Rathke Pháön tháön kinh Tráön xoang miãûng Nhán cáûn tháút Nhán trãn thuìy Âäö thë Cheïo thë giaïc Läöi giæîa Pháön cuí Phãùu Mä liãn kãút Pháön tháön kinh Thuìy træåïc Pháön trung gian Tuïi Rathke Hình 1: Sơ đồ nhuồn gốc của tuyến yên 2. Cấu tạo thuỳ trước tuyến yên Thuỳ trước tuyến yên được chia làm 3 phần: Thuỳ tuyến, phần trung gian (phần giữa), và phần củ. + Thuỳ tuyến: Thuỳ tuyến lớn nhất chiếm 75% thể tích tuyến yên, chứa nhiều dạng tế bào xếp thành dây hoặc đám. Giữa các đám tế bào tuyến là một hệ thống mao mạch rất phát triển. Với phương pháp nhuộm màu thông thường, người ta chia thành hai loại tế bào: - Tế bào kỵ màu: Chiếm 50% tế bào. Ít bắt màu với phẩm nhuộm, thường đứng thành từng đám bào tương sáng màu. Người ta chia tế bào kỵ màu làm ba loại: + Tế bào kém biệt hoá: Ðây có thể là những tế bào đầu dòng, có thể biệt hoá trở thành những tế bào ưa màu. 124
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 125 + Tế bào ưa màu thoái hoá: Bào tương chứa một ít hạt tiết, phân tán. + Tế bào nang: Chiếm số lượng lớn nhất của tế bào kỵ màu. Tế bào hình sao. Những nhánh bào tương nối với nhau thành lưới, tạo thành một hệ thống nâng dỡ tế bào ưa màu, tế bào này có khả năng thực bào. - Tế bào ưa màu: Có hai loại đó là tế bào ưa acid và tế bào ưa base. + Tế bào ưa acide chiếm 40% số lượng tế bào. + Tế bào ưa base chiếm 10%. Những tế bào ưa màu có kích thước từ 12-15(, thay đổi theo độ tuổi, tình trạng hoạt động của cơ quan đích, thai nghén. Tế bào ưa acide thường ở ngoại vi. Trong lúc đó tế bào ưa base phần lớn ở trung tâm của thuỳ trước. Có nhiều phương pháp nhuộm dùng để phân biệt các nhóm tế bào ưa màu. Hiện tại phương pháp nhuộm miễn dịch dành cho hiển vi quang học, miễn dịch cho hiển vi điện tử là đáng tin cậy nhất. - Tế bào ưa acide: + Tế bào tiết Growth hormone: Dưới kính hiển vi điện tử những tế bào chứa những hạt có đường kính 350-400nm. Growth hormone là một polypeptide, trọng lượng phân tử 21.5000, ảnh hưởng nhiều đến quá trình chuyển hoá; tăng huy động acid béo tự do ở mô mỡ; tăng tân sinh protein. Growth hormone chịu trách nhiệm trong quá trình phát triển xương. Tuy nhiên quá trình xảy ra gián tiếp vì Growth hormone sau khi vào máu phải được đưa đến gan và thận. Ở đây Growth hormone được biến đổi thành somatomedin. Somatomedin tác dụng trực tiếp để làm xương phát triển. + Tế bào tiết Prolactin: Rất có ái tính với Erythrosin và carmine. Những tế bào này thường nhỏ, hình dáng không đồng đều. Trong thời kỳ thai nghén tế bào tăng thể tích: tế bào thường nằm ở vùng rìa của tuyến, lượng tế bào ở nữ nhiều hơn. Kích thước hạt tiết ở nam chừng 200nm, ở nữ cho con bú và thai nghén kích thước của hạt có thể đến 600nm. Ở những tế bào giảm tiết prolactin có sự hiện diện của một lượng lớn tiêu thể trong bào tương. Prolactin có trọng lượng phân tử chừng 20000 có 198 acide amine. Cấu trúc phân tử của prolactin gần giống với Growth hormone và HPL lactogen của rau thai (Humanplacental lactogen). Phối hợp với Eostrogens và progesterone , prolactin tham gia quá trình phát triển tuyến vú trong quá trình thai nghén. Sau khi sinh, lượng Eostrogens và progesterone giảm, prolactin kích thích tạo sữa. - Tế bào ưa base: + Tế bào kích thích tố hướng sinh dục: là những tế bào khá lớn, bào tương chứa những hạt có đường kính 275-375nm. Bằng phương pháp nhuộm miễn dịch, người ta biết chỉ có một tế bào tiết kích thích tố. Có hai loại hormone, đó là FSH và LH, đôi khi chúng nằm trong một hạt tiết. FSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử 29000 gồm 204 acide amine, gồm hai chuỗi ( và (. 125
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 126 LH có trọng lượng phân tử 29000, cũng gồm 204 acide amine, chuỗi ( có 89 acide amine và chuỗi ( có 115 acide amine, kích thích trứng chín, duy trì hoàng thể ở nam giới, LH kích thích tế bào leydig, kích thích tiết testosterone. + Tế bào tiết TSH: Là những tế bào lớn, hình đa diện, dễ phân biệt dưới kính hiển vi điện tử do có những hạt tiết TSH có đường kính 120-200nm xếp sát màng tế bào. Tế bào cho phản ứng PAS dương tính vì TSH là một glycoprotein, trọng lượng phân tử 28000 có 201 acide amine, gồm hai chuỗi ( và (. Chuỗi ( có cấu tạo giống chuỗi ( của FSH và LH. + Tế bào hướng vỏ thượng thận: Những tế bào này hình đa diện, nhân nằm lệch về một phía, bộ Golgi phát triển, lưới nội bào có hạt nằm sát màng bào tương, những hạt tiết rất lớn 375500nm. Những hạt này chứa proopimelanocortin. Ở trong lòng của hạt proopimelanocortin bị phân cắt để tạo thành ACTH, ( lipopropin (( LPH), ( LPH có thể bị phân cắt biến thành ( MSH(( melanocyte stimulating hormone) và (Endomorphine (Hình 2). II. VÙNG DƯỚI ÐỒI Vùng dưới đồi là một mô thần kinh. Ở đây các thân neurone chế tiết các chất kích thích hoặc ức chế. Những chất này được chứa trong các túi tiết(hạt tiết), các hạt này sẽ theo trụ trục để chạy xuống phần sau tuyến yên hoặc phần lồi giữa cuống não thuỳ. Các thân neurone này thường tập trung thành từng đám gọi là nhân não. Các hạt tiết đã được phát hiện là: - Somatostatin: có 14 acide amine, được phát hiện từ 1978 nhưng là loại hormone sớm nhất được tổng hợp bằng con đường tái tụ hợp, somatostatin tham gia các phản ứng tiết growth hormone. Những hạt somatostatin được tổng hợp từ thân neurone nằm ở nhân trên thị. Dopamin: được tổng hợp từ thân neurone của nhân cung, ức chế tiết prolactin. Ở đây người ta cũng tìm thấy PRF ( prolactin releasing factor) công thức hoá học chưa rõ, có tác dụng kích thích tiết prolactin. - GRH: Gonadotropin releasing hormone có 41 acide amine được tiết từ thân neurone cạnh thất, làm gia tăng ATCH. Phần củ: có hình ống, bao quanh cuống tuyến yên và lồi giữa. Là một vùng giàu mao mạch (mao mạch sơ cấp), những dây tế bào tiết FSH và LH thường nằm dọc mạch máu. Ở vùng này thường có những nang nhỏ chứa một chất vô định hình. Phần trung gian: là một vùng hẹp chứa những tế bào ít ưa base. Những tế bào này có những hạt có đường kính 200-300nm. Chức năng của tế bào này chưa rõ, túi Rathke thấy ở người lớn, thỉnh thoảng người ta quan sát được những túi nhỏ lợp bằng biểu mô vuông đơn, chứa chất keo. 1. Phần thần kinh: Phần thần kinh gồm: thuỳ sau thần kinh, phễu cuống và lồi giữa. Phần này chứa chừng 100000 trụ trục, là những sợi thần kinh không myelin, giữa chức năng chế tiết. Nhân của tế bào này nằm ở nhân trên thị và cận não thất. Khi vào tuyến yên chúng ở tận cùng màng đáy của mao mạch. Những hạt chế tiết này từ thân của neurone sẽ theo trụ trục đến tích luỹ ở những phần tận cùng màng đáy. Chúng sẵn sàng tiết vào máu tuỳ theo nhu cầu của cơ thể. 126
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 127 Naîo tháút III Cheïo thë giaïc Âäüng maûch caính trong Âäüng maûch tuyãún yãn trãn Phæïc håüp mao maûch så cáúp Âäüng maûch beì Ténh maûch cæía Ténh maûch tuyãún yãn Âäüng maûch tuyãún yãn dæåïi Hãû thäúng mao maûch thæï cáúp Hình 2: Sơ đồ cung cấp máu cho tuyến yên Tế bào thần kinh chế tiết: - Những tế bào thần kinh chế tiết có tính chất như những tế bào thần kinh chính thức. Tuy nhiên trong bào tương chứa nhiều thể NISSL hơn. Trụ trục chứa nhiều hạt chế tiết. Những hạt này có đường kính từ 100-200nm, bao quanh bởi màng sinh học cơ bản. Ở phần tận cùng của trụ trục, chúng tụ tập dày đặc, ở phần đối diện với mao mạch, có lổ thủng, có thể 127
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 128 quan sát dưới kính hiển vi quang học, thường được gọi là thể Herring. Ngoài những hạt tiết thì phần tận cùng của trục còn có những hạt có đường kính tương đương với túi chứa acetyl cholin (10-60nm), chức năng này chưa rõ. - Các hạt tiết chứa oxytocin hoặc vasopressin, neurophysine: một loại protein đặc hiệu chứa những nhóm hormone và ATP. Hai nhóm này đều có 9 acide amine, có cấu trúc vòng nhờ cầu nối disulfure. Tuy nhiên thành phần acide amine hơi khác nhau và chúng gây những hiệu ứng rất khác nhau. Peptide của hormone được tổng hợp từ ribosom vào lưới nội bào và gồm neurophysine, sau đó đưa vào bộ golgy và cuối cùng được chứa ở các hạt. Hạt theo tuyến trụ trục đến phần sau của tuyến yên, vasopressin (ADH) và oxytocin được tích luỹ ở phần tận cùng của trụ trục và được tiết vào máu khi có xung động thần kinh từ vùng dưới đồi kích thích. Nhân trên thị tiết phần lớn vasopressin, trong lúc nhân cạnh thất tiết oxytocin. Tế bào tuyến yên: là một tế bào thần kinh đệm, những tế bào này có hình sao. Nhánh bào tương bám vào mạch máu và các trụ trục của dưới đồi tuyến yên và các mao mạch. Bào tương của tế bào có nhiều hạt mỡ, hạt sắc tố của tế bào được xem như tương đương với thần kinh đệm sao của hệ thần kinh trung ương. III. TUYẾN THƯỢNG THẬN Tuyến thượng thận là hai tuyến có hình liềm nằm trên thận. Mỗi tuyến có trọng lượng chừng 4 gram, tuy nhiên trọng lượng thay đổi tuỳ theo tình trạng sinh lý của cơ thể. Bao bọc bên ngoài là một lớp vỏ xơ giàu collagene. Nhu mô tuyến chia làm hai vùng rõ rệt: - Vùng vỏ có màu vàng. - Vùng trung tâm có màu nâu đỏ gọi là vùng tuỷ. Tuỷ và vỏ thượng thận có nguồn gốc khác nhau. + Vùng tuỷ: có nguốn gốc từ mào hạch thần kinh. Trong thời kỳ phôi các mào hạch sẽ di cư đến cực trên của thận. Tại đây các tế bào ( neurone) bị mất các nhánh và biệt hoá biến thành tế bào chế tiết. + Vùng vỏ: có nguồn gốc trung bì. Các tế bào trung mô bao quanh mào hạch biệt hoá để biến thành vùng vỏ. Cấu tạo: - Vùng vỏ: chiếm hầu hết thể tích của tuyến, từ ngoài vào trong có thể chia thành 3 lớp:lớp cung, lớp bó, lớp lưới. + Lớp cung:chiếm chừng 15% thể tích của tuyến. Hình thành do những tế bào hình trụ hoặc hình tháp xếp sát vào nhau, chen giữa là các mao mạch. Ở gần lớp vỏ xơ, những đám tế bào này chạy thành từng cột, lượn quanh thành hình vòng cung. Nhân tế bào hình trứng, bào tương acide chứa những hạt mỡ rải rác. Lưới nội bào không hạt rất phát triển, ít ribosome tự động, nhiều ty thể hình trứng. Bộ Golgi pháttriển. Lưới nội bào và ty thể là nơi chứa nhiều enzim cho quá trình tổng hợp aldosteron. 128
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 129 Voí thæåüng Låïp tháûn cung Voí thæåüng Låïp tháûn boï Låïp læåïi Tuíy thæåüng tháûn Hình 3: Cấu trúc của tuyến thượng thận 129
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 130 + Lớp bó: dày nhất, lớp bó hình thành do sự sắp xếp lại của những tế bào hình đa diện tạo thành từng bó chạy thẳng góc với vỏ xơ, tế bào hơi bắt màu base. Bào tương chứa nhiều hạt mỡ. Hệ thống lưới nội bào không phát triển . Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của đám lưới nội bào có hạt, làm cho bào tương ưa base. Màng bào tương về phía các mao mạch thường có nhiều vi nhung bao. Lớp bó là nơi tổng hợp các glucocorticoide. + Lớp lưới: tạo thành bởi những dây tế bào chạy theo nhiều hướng. Tế bào hình đa diện, bào tương thường có những hạt sắc tố lipofuchsin, ty thể khá phát triển và thường ở dạng dây. Lưới nội bào tiết dehydroepiadrosterone có hoạt tính bằng 1/5 androgen của tinh hoàn. - Vùng tuỷ (thượng thận tuỷ) Thượng thận tuỷ nằm ở trung tâm của tuyến thượng thận. Những tế bào tuyến hình đa diện nối với nhau thành từng mạng lưới nằm giữa hệ thống mao mạch rất phát triển. Các tế bào tuyến có nhân lớn. Hệ thống lưới nội bào phát triển, nhiều ty thể hình trứng. Bộ Golgi phong phú, đặc biệt trong bào tương tồn tại nhiều vi sợi được xem như vi sợi thần kinh. Dưới kính hiển vi điện tử bào tương chứa nhiều hạt đậm đặc với dòng điện tử có đường kính 150-350nm, đây là những Catechomalin khi tác dụng với những sản phẩm oxid hoá chúng cho màu nâu, Dichromade kali và muối bạc thường được sử dụng để nhuộm các hạt này. Do đó, tế bào tuyến còn được gọi là tế bào ưa chrome, ưa bạc. Thực sự những hạt ưa chrome, ưa bạc trong tế bào chứa nhiều thành phần: chromogranin (protein gồm: Catecholamin, dopamine, (hydroxylase, peptide giống opinium). Có hai loại tế bào chế tiết ở tuỷ thượng thận: - Loại chế tiết epinephrine, tế bào nhỏ hơn, ít hạt tiết hơn. - Loại tiết norepinephrine, tế bào lớn hơn, nhiều hạt tiết hơn. 80% catecholamine tiết ở thượng thận là epinephrine. Trong hoạt động sinh lý bình thường, một lượng nhỏ epinephrine và norepinephrine được tiết đều đặn từ tuỷ thượng thận vào máu, tuy nhiên một lượng lớn được tiết ra khi co thể bị stress nguy kịch, hậu quả là co mạch, tăng nhịp tim,tăng huyết áp, tăng đường huyết.Tóm lại thượng thận tuỷ và vỏ được xem là 2 tuyến nội tiết đóng vai trò của hệ chiến đấu. IV.TUYẾN GIÁP Trong thời kỳ phôi, tuyến giáp có nguồn gốc từ nội bì ruột đầu, sau sinh tuyến giáp gồm hai thuỳ nối nhau bằng một eo nhỏ nằm trước thanh quản. Tuyến giáp được bọc ngoài bởi một lớp vỏ xơ, từ các vỏ xơ này các vách xơ tiến vào nhu mô tuyến, phân cách tuyến thành nhiều thuỳ nhỏ. Nhu mô tuyến gồm các nang tuyến, đám tế bào Wolfler và các mao mạch. Nang tuyến giáp được xem là đơn vị cấu tạo và chức năng của tuyến. Nang tuyến giáp là những nang kín đường kính trung bình là 300(m. Tế bào nang có dạng biểu mô, tuỳ theo hoạt động của tuyến, lớp tế bào này có thể biến thiên từ lát đơn ( vuông đơn( trụ đơn. Tế bào tuyến giáp đứng trên một màng đáy. Cực tự do của tế bào quay vào lòng nang. Màng tế bào ở cực này có nhiều vi nhung mao. Trong bào tương chứa nhiều hạt tiết, các hạt này chứa thyroglobuline (thyroxine+globuline). Thyroxine và globuline được tổng hợp ở lưới nội bào có hạt, sau đó được cô đặc ở bộ Golgi và chuyển qua các hạt chế tiết, các hạt này sẽ xuyên cực tự do để vào nang tuyến, ở đây chúng được gọi là keo giáp. Bản chất của keo giáp là Thyroxine kết hợp với Globuline giàu glycoprotein. Do đó chất keo giáp giúp cho phản ứng PAS dương tính. 130
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 131 Trong bào tương tuyến giáp còn chứa rất nhiều tiêu thể lớn, đường kính có thể tới 0,5(. Trong lòng nang tuyến giáp có chứa keo giáp, đó là một chất bắt màu đỏ với thuốc nhuộm thông thường. Sát cực tự do của màng tế bào, chất keo thường có những khoảng trống, được gọi là không bào hấp thụ. Ngoài những tế bào nang tuyến giáp , ở nang tuyến giáp còn có những tế bào sáng màu, nhân nhỏ. Khi nhuộm màu thông thường, những tế bào này nằm trong màng đáy của nang tuyến, những cực tự do không bao giờ tiếp xúc với keo giáp ở lòng nang, được gọi là tế bào sáng hay tế bào cận nang, chúng chiếm chừng 1%. Khi nhuộm bằng muối kim loại nặng, đặc biệt với acetate chì, bào tương của những tế bào có Hình 4: Cấu tạo hiển vi quang học nang tuyến giáp x 100 Keo giaïp Thyrolobulin taïi háúp thuû Thyrolobulin Sæû phán hoïa Oxit hoïa iod bàòng tiãu thãø Tiãu thãø Kãút håüp Galactose Kãút håüp Mannose Mao maûch Tãú baìo näüi mä Ido Acid amin Hình 5: Sơ đồ tổng hợp và chế tiết hormone của tế bào tuyến giáp 131
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 132 những hạt bắt màu đen, những hạt này chứa Calcitonin.Ðám tế bào wolfler: đó là những tế bào cận nang nằm bên ngoài các nang tuyến giáp. Các tế bào không đứng trên màng đáy. Nhiệm vụ của nó là tiết ra calcitonin. Mao mạch: tuyến giáp có một hệ mao mạch phong phú. Tuy nhiên với phương pháp nhuộm thông thường, chúng thường bị xẹp lại nên ít được quan sát. Ngoài ra các sợi thần kinh giao cảm thường đến tận cùng ở màng đáy sát tế bào tuyến giáp. Ðiều này chứng tỏ tế bào giáp chịu sự kích thích của thần kinh giao cảm (Hình 4,5). V.TUYẾN CẬN GIÁP Tuyến cận giáp gồm 4 tuyến nhỏ, tổng trọng lượng chừng 0,4 gram, nằm sau tuyến giáp, hai ở trên và hai ở dưới, thường nằm trong vỏ bao xơ của tuyến giáp. Tuyến cận giáp chứa hai loại tế bào: tế bào chính và tế bào ưa acide. Ngoài ra trong trường hợp quá sản thì có thêm một loại tế bào sáng màu, chức năng không rõ. - Tế bào chính: đó là những tế bào nhỏ, đường kính 4-5(, hình đa diện, nhân tròn chiếm hầu hết tế bào. Hiển vi điện tử cho thấy bào tương chứa nhiều hạt đường kính 200- 400nm. Những hạt này chứa parathormone có trọng lượng phân tử chừng 95000, số lượng khác nhau ở những tế bào chính khác nhau, nhưng thường tụ tập ở những cực tế bào sát mao mạch. Bào tương ở tế bào chính còn chứa nhiều hạt glycogene, lưới nội bào, ty thể hình trứng (Hình 6) Tãú baìo æa acid Tãú baìo chênh . Hình 6: Cấu tạo hiển vi quang học của tuyến cận giáp x 220 132
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 133 - Tế bào ưa acide: bắt đầu xuất hiện ở tuổi già, là những tế bào đa diện nhưng lớn hơn tế bào chính (6-10(), nhân rõ nhưng sẫm màu hơn. Bào tương chứa nhiều hạt ưa acide. Hiển vi điện tử cho thấy những hạt này chính là ty thể có nhiều nhú. Chức năng của tế bào này hiện nay vẫn chưa rõ. VI. TUYẾN TÙNG Tuyến tùng là một tuyến nhỏ, có hình nón(3x5nm) nằm sau não thất IV, màng nuôi đem máu đến nuôi dưỡng tuyến tùng, hình thành một lớp vỏ không đều. Tuyến tùng chứa những tế bào ưa base, nằm giữa chất căn bản bị calci hoá, gọi là cát não (brain sand), kích thước và số lượng của những brain sand tăng theo tuổi. Tuyến tùng có hai loại tế bào: - Tế bào tuyến tùng. - Tế bào đệm sao. + Tế bào tuyến tùng: là những tế bào có nhân lớn, bờ không đều. Bào tương hơi ưa base với phương pháp ngấm bạc. Tế bào tuyến tùng là những tế bào dài với những bào tương chạy ngoằn nghèo đến màng nuôi. Tại đây những nhánh bào tương tận cùng bằng những nhánh dẹp lớn. Trong bào tương có chứa nhiều Ribosome tự do. Lưới nội bào có hạt, ty thể, bộ Golgi kém phát triển, những hạt mỡ, tiêu thể và những vi ống có đường kính 5-8nm. Những vi ống này thường tụ tập ở các nhánh bào tương. + Tế bào đệm sao: tế bào đệm sao có nhân dài bắt màu sẫm hơn tế bào tuyến tùng . Những tế bào này nằm giữa mao mạch và những dây tế bào tuyến tùng, tế bào có nhiều nhánh bào tương bên trong chứa nhiều vi ống. Những bào tương đệm sao có nhiệm vụ làm khung cho tuyến tùng. VII. TIỂU ÐẢO LANGERHANS Tiểu đảo langerhans có kích thước từ 100-200nm, chứa nhiều loại tế bào có chức năng nội tiết. Những tiểu đảo nằm rải rác trong tuỵ tạng, tập trung nhiều nhất ở vùng đuôi tuỵ. Có chừng một triệu tiểu đảo langerhans ở tuỵ người. Tiểu đảo này gồm nhiều dây tế bào hình đa diện hoặc hình tròn, ít ưa màu, xếp thành từng đám hoặc dây nằm giữa một lưới mao mạch phát triển. Tiểu đảo phân cách với các nang ngoại tiết bằng một lớp sợi võng mỏng. Với phương pháp nhuộm đặc biệt, người ta chia tế bào tuyến của tiểu đảo langerhans ra làm 4 loại:B, A, D, F. - Tế bào B: chiếm một lượng lớn tế bào của tiểu đạo langerhans(60-80%), thường nằm ở trung tâm tiểu đảo. Những tế bào này nhỏ, bào tương ưa base. Bào tương chứa những hạt đường kính chừng 30nm. Trung tâm của hạt là tinh thể Insulin gắn với kẽm. Insulin được tổng hợp từ lưới nội bào có hạt dưới dạng tiền insulin, có chừng 81 acide amine. Tiền insulin sẽ được chuyển vào bộ Golgi, các peptidase của bộ Golgi sẽ phân cắt tiền insulin thành 3 chuỗi polypeptide A, B, C. Chuỗi A nối với chuỗi B bằng cầu nối disulfure chính là Insulin. - Tế bào A: thường tập trung ở ngoại vi tiểu đảo, chiếm 25% tổng số tế bào. Bào tương chứa các hạt tiết lớn bắt màu với phẩm nhuộm Gomori. Dưới kính hiển vi điện tử những hạt này rất sẫm ở trung tâm, có đường kính chừng 300nm. Hạt chứa glucagon, một polypeptide trọng lượng phân tử có 29 acide amine. - Tế bào D: bào tương cũng chứa những hạt tiết. Những hạt này khác với những hạt 133
- Tuyãún näüi tiãút - Mä phäi 134 tiết của tế bào A và B ở chỗ hạt thuần nhất và ít đậm đặc hơn, hạt chứa somatostatin(1640, 14acide amine). Chức năng ở đây là giảm tiết men tuỵ ngoại. - Tế bào F: những tế bào này chứa những hạt tiết một nhóm polypeptide tuỵ, có trọng lượng phân tử 4200, gồm 36 acide amine. Dưới kính hiển vi điện tử hạt đậm đặc ở phần trung tâm, bao quanh bởi một vòng sáng, chức năng của nhóm hormone này là cản tiết men tuỵ ngoại, giãn túi mật, giảm tiết mật. 134
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Mô phôi: Hệ bạch huyết - Hệ miễn dịch
8 p | 617 | 43
-
Bài giảng Mô phôi: Hệ sinh dục nữ
8 p | 718 | 42
-
Bệnh học nội tiết part 9
40 p | 169 | 42
-
Bài giảng Mô phôi: Hệ hô hấp
7 p | 714 | 34
-
Bài giảng Sinh lý hệ hô hấp - ThS. Phan Thị Minh Ngọc
34 p | 242 | 33
-
Bài giảng Mô phôi: Hệ sinh dục nam
6 p | 434 | 33
-
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ THẬN HƯ THỨ PHÁT (Kỳ 2)
5 p | 260 | 32
-
Bài giảng Mô phôi: Hệ thần kinh
7 p | 419 | 26
-
HỘI CHỨNG THẬN HƯ (Kỳ 2)
5 p | 99 | 14
-
Bài giảng Mô phôi: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2016)
203 p | 13 | 4
-
Bài giảng Mô phôi: Phần 1 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
186 p | 7 | 2
-
Bài giảng Mô phôi: Phần 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản (Năm 2022)
180 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn