intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Phòng ngừa hiểm họa khai thác hầm lò khi khai thác xuống sâu: Phần 2 (Trình độ cao học)

Chia sẻ: Dương Hàn Thiên Băng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

16
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 của bài giảng "Phòng ngừa hiểm họa khai thác hầm lò khi khai thác xuống sâu (Trình độ cao học)" tiếp tục cung cấp cho học viên những nội dung về: phòng ngừa các hiểm họa về nhiễm độc trong khai thác mỏ hầm lò; phòng ngừa các hiểm họa khác thường gặp trong khai thác mỏ hầm lò;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Phòng ngừa hiểm họa khai thác hầm lò khi khai thác xuống sâu: Phần 2 (Trình độ cao học)

  1. BÀI 4 PHÒNG NGỪA CÁC HIỂM HỌA VỀ NHIỄM ĐỘC TRONG KHAI THÁC MỎ HẦM LÒ 4.1. Thành phần của không khí mỏ Không khí trên mặt đất là hỗn hợp các chất khí mà thành phần của nó tương đối ổn định. Bao gồm: Ni tơ chiếm 78,08 (%); ô xy chiếm 20,95 (%); Các bon rúc chiếm 0,03 (%); Argon chiếm 0,93 (%); Hêli, neon, hyđrô chiếm 0,01 (%). Không khí mỏ là hỗn hợp các chất khí và hơi nước chứa đầy trong các đường lò và bao giờ cũng chứa một hàm lượng bụi nhât định. Không khí mỏ chính là không khí trên mặt đất, khi đi vào trong các đuờng lò nó sẽ có thêm một số loại khí phát sinh trong quá trình đào lò, khai thác, từ các kẽ nứt của than và đất đá xung quanh, bao gồm: Hyđrô sunfua (H2 S); Cácbon ôxít (CO); Nitơ ôxít (NO, NO2 ); Cácbonníc (C02); Sunfuarơ (S02); Mêtan (CH4 ); ...v.vế Do có thêm những loại khí trên làm thay đổi tính chất lý hoá của không khí, làm giảm hàm lượng ô xy, hàm lượng bụi cũng tăng lên gây khó khăn cho sự hô hấp của người làm việc ở trong mỏ hầm lò. 4.2. Tính chất các loại khí và hàm lượng cho phép các chất khí trong mỏ hàm lò a) Khí ô xi (02) Ô xi là loại khí không màu, không mùi, không vị, trọng lượng riêng so với không khí là 1,11 (g/cm ), trọng lượng phân tử 32, rất cần thiết cho sự sống và cháy. 0 xi hoà tan trong nước kém, 3 khoảng 5 (%) theo thể tích khi nhiệt độ 0 (°C). Hàm lượng cần thiết để làm việc trong lò > 20 (%) theo thể tích, nhiệt độ < 30 (°C). - Ô xi là một nguyên tố rất hoạt động, cụ thể là có khả năng kết hợp trực tiêp hoặc gián tiếp với tất cả các nguyên tố khác. Trừ các chất khí hiếm tạo nên hiện tượng ôxi hoá như: + 0 xi hoá từ từ (sự thở, ôxi hoá than ở nhiệt độ thấp)ẵ + Cháy (sự cháy của than, lưu huỳnh trong ôxi). + Nô (những phản ứng ôxi hoá mạnh đến mức có thể tạo ra sự nổ). - ô xi là một nguyên tố quan trọng để duy trì sự sống cơ thể con người. Ví dụ: nếu con người không ăn có thể sống 30-40 ngày. Thiếu nước, sống 10-12 ngày. Thiếu ôxi chỉ sống 10-15 phút. Tổng bề mặt đường hô hấp tiếp xúc đạt 100 m2. Cơ thể con người hấp thụ ôxi trong điều kiện thuận lợi, khi áp suất thành phần ôxi trong hỗn hợp khí là 211 milibar (1 bar = 103 milibar = 750,06 mmHg). Với áp suất của khí quyển làl ,01 bar (hay lat) thì hàm lượng ôxi tương ứng sẽ là 20,96%. Thế nhưng cơ thể con người có khả năng thích nghi với những điều kiện khó khăn. Vì vậy, cơ thể có thể thở ngay cả khi áp suất riêng phần của ôxi là 86-120 milibar. 63
  2. - Sự ảnh hưởng sinh lý của con người khi hàm lượng ôxi trong không khí thay đổi như bảng 4.1: Bảng 4.1. Anh hưởng hàm lượng ô xi trong không khỉ đến sinh lý người Ô xi Anh hưởng sinh lý người Ap suất riêng, Hàm lượng, (%) (milibar) Nhịp thở bình thường 21 - 18 211 - 182 Tăng cường độ thở, nhịp độ hổn hển 18-12 173 - 121 Cường độ thở và nhịp độ tăng dần trông thấy, 14-9 141 -91 thở hổn hển, thở dốc Thở rất mạnh và nhanh 10-6 101 -60 Chết ngay 5-3 50-30 - Những nguyên nhân ỉàm giảm hàm lượng ôxi trong không khí mỏ: + Quá trình ôxi hoá từ từ của than, gỗ, các chất hữu cơ và vô cơ do cháy mỏ, nổ khí, bụi. + Sự xuất khí tự nhiên của mê tan, cácbonic, đôi khi của nitơ,... + Sự cháy của đèn. + Sự thở của con người + Sự hoà tan ôxi trong nước mỏ Hàm lượng ôxi nhỏ nhất cho phép ở một số nước thể hiện trong bảng 4Ẽ2. Bảng 4.2: Hàm lượng ôxỉ nhỏ nhất cho phép ở một số nước Hàm lượng ô xi, (%) Tên nước 19 Ba Lan, Séc, Anh, Pháp, Mêhicô, Rumani 19,5 Mỹ 20 Việt Nam, Nga, Bungari b) Khí Nitơ (N2) Nitơ là một chất khí không màu, không mùi, không vị là thành phần chủ yếu tạo nên không khí, trọng lượng riêng là 0,97 (g/cm3), trọng lượng phân tử 28. Nitơ là chất khí trơ về mặt hoá học và sinh lý học, không duy trì sự thở và sự cháy, nhưng ở nhiệt độ cao nó kết hợp với ô xy thành Nitơ ôxít (N02) và trở thành khí độc. Hàm lượng Nitơ trong không khí mỏ không được quy định. Khi ở 0°c và áp suất 760 mmHg, 1 lít Nitơ nặng 1,25 gam, 100 thể tích nước có thể hoà tan 1,54 thể tích Nitơ. Trong các đường lò hoạt động, hàm lượng của nitơ thay đổi không đáng kể. Trong đường lò không được thông gió, nó có thể đạt đến vài chục phần trăm. 64
  3. - Nitơ là một chất khí rất trơ về mặt hoá học và sinh lý học, không duy trì sự thở và sự cháy, đồng thời có tác dụng làm giảm tính nổ của khí mêtan. Ví dụ: hỗn hợp khí có 10% CH4 và 90% N2 thì không nổ. - Nguyên nhân chính tăng hàm lượng nitơ ở trong mỏ: + Sự phân huỷ các chất hữu cơ và vô cơ. + Khi nổ mìn. Ví dụ: Khi nổ hoàn toàn 1 kg thuốc nổ Đinamit sẽ sản sinh ra 640 lít khí, trong đó có 130 lít N2. c) Khí Cacbonic C02 Là một chất khí không màu, không mùi và vị hơi chua, có tính axít yếu, dễ hoà tan trong nước, không cháy và không duy trì sự cháy, độc ở mức độ thấp, có tác dụng kích thích niêm mạc mắt, mũi, mồm. Trọng lượng riêng so với không khí là 1,52 (g/cm3). Nguyên nhân làm tăng hàm lượng khí C02 ở trong không khí mỏ như sau: Quá trình phân huỷ các chất hữu cơ (ôxy hoá từ từ của than). Những quá trình cháy và nổ (cháy mỏ, nổ mìn, nổ khí, nô bụi). Sự thở của con người (một người sản sinh ra 50 lít CCVgiờ). Sự xuất khí CƠ2 từ trong khoáng sản. Theo quy phạm an toàn, hàm lượng cho phép của khí C02 trong không khí mỏ hầm lò như sau: Ở những nơi là việc, ở luồng gió thải của khu khai thác, ở các lò độc đạo hàm lượng khí C02
  4. 0,97. Trọng lượng phân tử 28. ở điều kiện tiêu chuẩn, 1 lít co nặng 1,25 gam. Hoà tan trong nước khi nhiệt độ 20oC là 3%. CO là chất khí cháy và nổ trong hỗn hợp không khí khi hàm lượng đạt 16,2% đến 73,4 %. Nhiệt độ đốt cháy 630- 810oC. CO là một chất khí rất độc, tác dụng lên cơ thể biểu hiện ở việc hoá họp với hêgolôbin trong máu (Hb), ngăn cản việc hoạt động sinh lý của máu trong việc vận chuyển ôxi từ phổi đến nuôi cơ ihể. Mặt khác thực tế thấy rằng Hb của máu hoá hợp vô cùng dễ dàng với co so với ôxi gấp 300 lần. Vì vậy, khi hít thở không khí có CO thì máu đáng lẽ đồng hoá Ơ 2 nhưng lại thay bằng co, khi đó chính ra máu lưu thông ôxit hêmôlôbin (Hb +O2 = HbCh) thì lại thay bằng các ôxit hêmôlôbin (HbCO): Hb + CO = HbCO. Tình trạng thiếu ôxi bất đầu, khi cơ thế hít thở phải co và khi máu hoàn toàn bão hoà co thì con người có thế chết: HbƠ2 + CO = HbCO + O2 Nghĩa là ôxit cacbon đẩy ôxi ra khỏi ôxit hêmôglôbin và ngược lại ôxi thì có thể đẩy ôxit cacbon ra khỏi cacbôxit hêmoglôbin. Nguyên nhân sinh ra ôxit cacbon: - Cháy mỏ, nổ khí, nố bụi, nổ mìn. - Thỉnh thoảng xuât ra từ khoáng sản và đất đá bao quanh cùng với CHU, C02, N2. Ảnh hưởng của khí co đến cơ thể người thể hiện trong bảng 4.4: Bảng 4.4: Anh hưởng của co đến cơ thể người co, (%) Khi nghỉ ngơi Khi lao động nặng 0,5 X 10' 4 Không thấy Không cảm thấy ngay cả khi làm việc liên tục 1 X 10'3 Không thấy Hơi đau đầu sau 2^3 giờ 2 X 10' 3 Đau đầu sau 3^-4 giờ Đau đầu khó thở, đe dọa sau 2 giờ Theo quy định an toàn, giới hạn cho phép hàm lượng ôxitcacbon là co = 0,0017%. 4.3.2. Các ôxit Nỉtơ Bao gồm các chất khí: NO (ôxitnitơ), N02 (điôxitNitơ), N2 04 (Tetraôxit Nitơ), N2 05 (peaxitnitơ). Chủ yếu trong không khí mỏ là N02, N2 04. NƠ2 - Trọng lượng riêng 1,59 so với không khí. Nó hoà tan tốt trong nước tạo nên axit; N02 có màu nâu tối. 2N02 + H20 = HN02 + HNO3 N2 O4 - Trọng lượng 3,18. Hoà tan tốt trong nước. Các ôxitnitơ rất độc, chúng kích thích màng niêm mạc của mắt và các cơ quan hô hấp. Đặc biệt khi hàm lượng đạt 0,025% (0,5 mg/1) con người dễ dàng bị chết. Khi hít thở sâu không khí có chứa ôxitnitơ thì có thể gây phù phổi, 66
  5. trường hợp này xảy ra nhất là ở mỏ quặng. Tác dụng đặc biệt của ôxitnitơ ở trong phoi là tác dụng bệnh lý của nó, chỉ biểu lộ trong một khoảng thời gian nhất định (4-6 giờ hoặc đôi khi 20 giờ) kể từ khi tiếp xúc. Anh hưởng của ôxitnitơ đến con người thể hiện trong bảng 4.5. ? r Bảng 4.5: Anh hưởng của ôxitnitơ đên con người Hàm lượng, (%) Mức độ nhiễm độc 6 X 10'5 Gây khó chịu ở cồ 1 X 10‘4 Gây ho nhanh chóng (1 H-1,5) X 10'4 Nguy hiểm đến tính mạng sau thời gian ngắn (2 - 7) X 10‘4 Nguy hiểm đến tính mạng sau thời gian rất ngắn Hàm lượng cho phép trong các đường lò đang hoạt động chuyển sang NO2 là 0,00026%. ' 4.3.3. Suynphuarơ SO2: - Là một khí không màu, có mùi lưu huỳnh cháy, vị chua. Trọng lượng riêng 2,3. Trọng lượng phân tử 64ệ Hoà tan trong nước khi nhiệt độ 20°c là 40%. - Là một chất khí rất độc, ăn mòn mạnh màng niêm mạc của mắt và của hệ thống hô hấp. Khi hàm lượng của nó là 0,05% cũng nguy hiểm đến con người, thậm chí nêu khi hít thở trong thời gian ngăn. Khi hàm lượng SƠ2 là 0, 005% gây tác hại mạnh với việc tạo thành H2 SO3 hoặc H2 SO4 . Nhờ có mùi đặc biệt nên ta có thể phát hiện được S02 ngay cả khi hàm lượng 0,0005%. - Hàm lượng cho phép S02 là nhỏ hơn hoặc bằng 0,00038. Những nguồn gốc tạo thành S02 trong khỏng khí mỏ là do cháy mỏ, sau khi nổ mìn, nhất là khi nổ trong đá và khi khoáng sản có chứa lưu huỳnh xuất ra từ đất đá cùng với CH4,... 4.3.4. Suynfua Hyđrô H2S - Là một chất khí không màu, mùi đặc biệt (trứng thối) và vị hơi ngọt. Nhờ có mùi đặc biệt ta dễ dàng phát hiện ngay ở hàm lượng thấp 0,0001%. Trọng lượng riêng l,19, trọng lượng phân tử 34. Hoà tan trong nước khi 20°c là 2,5%. Là một chất khí cháy nổ khi hàm lượng trong không khí đạt đến 6 %. - Là một chất khí rất độc tác dụng lên niêm mạc của mắt và hệ thống hô hấp. - Các nguồn thành tạo H2S: + Sự mục nát của các chất hữu cơ (gỗ ở lò cũ) + Sự phân huỷ pêrit và Suyníua canxi: FeS 2 + 2H 2 0 = Fe(OH) 2 + H 2 S + s CaS + C02 +H20 = CaC03 + H2S + Sự xuất khí tổng hợp từ các kẽ nứt và khoảng trống của đất đá và khoáng sản có ích, đặc biệt ở mỏ muối, dầu, đá dầu ở các suối nước khoáng. + Do cháy mỏ, nổ mìn (dây cháy chậm) ảnh hưởng của H2S đến cơ thề con người thể hiện 67
  6. trong bảng 4.6. Bảng 4.6: Ảnh hưởng của H2S đến cơ thể con người Hàm lượng Tác hại đến cơ thể người % mg/1 0,01 0,14 Ngộ độc nhẹ trong một vài giờ 0,02 0,28 Ngộ độc chưa nghiêm trọng 0,05 0,70 Ngộ độc nguy hiểm 0,5 1 giờ 0,1 1,4 Chết ngay trong vài phút - Hàm lượng cho phép H2 S < 0,00017%. 4.5 . Amôniăc N H 3 : Là loại khí không màu, có mùi khai. Trọng lượng riêng 0,59. Trọng lượng phân tử 17. Dễ hoà tan trong nước. Trong không khí khi hàm lượng của nó đạt 16 - 26% gây nổ. Là một chất khí độc kích thích màng niêm mạc và da - Nguồn gốc tạo thành NH3: + Do nổ mìn + Do dập cháy (phản ứng giữa nước và than nóng) - Hàm lượng cho phép NHi
  7. Quá trình cháy của mêtan khi đủ ôxy được biểu diễn bởi phương trình sau: CH4 +2O 2 =C02 + 2 H2 O. Hoặc: CH4 + 2(02 +4 N2 ) = CO2 +2 H2 O +8 N2 Từ hai phương trình trên ta nhận thấy mêtan cháy và nổ mạnh nhất khi kết hợp với 2 thể tích ôxy hoặc 10 thể tích khí. Khi không đủ ôxy, mêtan cháy và phương trình cháy: CH4+0 2 =C0 + H2+ H2O Mêtan có thê tham gia các phản ứng thế halôgen như sau: CH4 + Cl2 = CH3 CI +HCl CH3CL + CL2= CH2 Cl2+ HC1 CH 2.Cl 2 + Cl 2 = CHCl3 + HCl 4.3.7. Hyđrô H2 - Là khí không màu, không vị, vê mặt sinh lý là một khí trơ, rât nhẹ. Trọng lượng riêng so với không khí 0,07Ế ớ điều kiện tiêu chuẩn nặng 0,09 Kg/m3. H2 là một khí cháy, nổ khi hàm lượng của nó trong không khí 4-74%. Nhiệt độ gây cháy 100-200°c. H2 thường xuất hiện ở các mỏ than nâu, than gầy, mỏ muối Kali, xuất ra từ khoáng sản cùng với CH4 . Ngoài ra, H2 xuất hiện trong không khí mỏ do việc nạp ắcquy và nổ mìn. - Căn cứ vào khả năng thoát khí của H2 và CH4, người ta phân các mỏ nguy hiểm về khí cháy như sau: Cách tính về phân chia: Khối lượng khí cháy (H2+CH4) thoát ra trong một ngày đêm cho 1 m quặng tính bàng m3 khí (m3 /m3): Mỏ loại I: < 7 m3 /m3; Mỏ loại II: 7 - 1 4 m3 /m3; Mỏ loại III: 3 1 4 - 2 1 m3 /m3; Mỏ siêu loại: > 21 m3 /m3. Khi tính đổi tương đương cứ 1 m3 H2= 2 m3 CH4 . Hàm lượng cho phép của H2< 0,5%. Bảng 4.7: Hàm lượng giới hạn cho phép về khí độc trong lò đang hoạt động Khí độc Hàm lượng giới hạn cho phép vê khí độc trong lò đang hoạt động % theo thê tích mg/m3 Oxit Cácbon (CO) 0,00170 20 Các Oxit Nitơ (qui đôi theo N02) 0,00025 5 Đioxit Nitơ (N02) 0,00010 2 Anhidrit Suníìirơ (S02) 0,00038 10 Sunfua hydrô (H2 S) 0,00070 10 4.4. Phòng ngừa hiểm họa nhiễm độc trong khai thác mỏ hầm lò Gần đây, tai nạn chết người trong khai thác mỏ liên quan đến khí vẫn xảy ra ở một số mỏ hầm lò. Thủ phạm giết người chính là các khí cacbon không màu, không mùi, không duy trì hô hấp, có nhiều ở những nơi có sự phân hủy các chất hữu cơ. Các nạn nhân chết vì thiếu oxy và hít phải các khí độc (CO, CO2 , CH4 , H2 S...) tích tụ lại trong lò do những hoạt động chuyển hóa âm 69
  8. thầm, chuyển hóa các sản phâm hữu cơ (gỗ lò, rác thải, phân và thức ăn thừa) làm bốc lên những luồng hơi chứa khí cacbonic và các hợp chất lưu huỳnh. Những khí này đều nặng hơn không khí nên tích tụ lại ở chỗ thấp và hòa tan trong lớp nước bề mặt đặc biệt ở những vị trí không được thông gió. Đối với các mỏ than hầm lò phải thường xuyên thông gió tốt và có biện pháp kiếm soát nồng độ các chất khí trên đường và trước khi đi vào vị trí làm việc. Hiện nay ở Việt Nam, một số đơn vị đã chế tạo được các thiết bị đo cảnh báo cầm tay KC.03.DA04 phục vụ cho khai thác mỏ hầm lò. Máy có thể đo được nhiều thông số như CH4, CO hoặc C02 (gọi chung là COx), nhiệt độ. Giúp người lao động kiểm soát tốt hàm lượng các loại khí trong mỏ, đảm bảo an toàn cho người lao động. BÀI 5 PHÒNG NGỪA CÁC HIỂM HỌA KHÁC THƯỜNG GẶP TRONG KHAI THÁC MỎ HẦM LÒ 5.1. Khái quát chung Khi khai thác mỏ hầm lò, ngoài các hiếm họa về cháy mỏ, nổ khí mê tan, nhiễm các loại khí độc, ngưừi lao động còn gặp nhiều hiểm họa khác như liên quan đến bục nước, bục bùn, bục khí, các nguy cơ về điện cũng như hiểm họa liên quan đến quá trình vận hành thiết bị, công nghệ,...v.v. 5.2. Phòng ngừa hiểm họa về bục nước, bục bùn khi khai thác hầm lò 5.2.1. Khái niệm Bục nước, bục bùn là hiện tượng nước, bùn với lưu lượng chảy đột ngột vào các công trình mỏ, đặc biệt là trong quá trình đào lò và khai thác, gây nguy hiểm đến người và thiết bị cũng như phá hủy các công trình mỏ. 5.2.2. Dấu hiệu nhận diện nguy cơ có thế xảy ra sự cố Mỏ hầm lò nào cũng có thế có nguy cơ bị bục nước. Nếu để nước ngầm đọng lại sẽ gây trở ngại cho công việc, đặc biệt nếu lượng nước ngầm phun quá lớn thì có thể làm cho một phần hay toàn bộ lò bị ngập nước. Các dải phay phá do có địa tầng bị phá vỡ nên hình thành nên các khe cho nước ngầm chảy qua và có tỉ lệ ngậm nước rất lớn. Vì vậy, khi đã hình thành nên phay phá thì dù là chất đá gì thì lượng nước ngầm bên trong là rất lớn. Phần lớn trong dải phay phá có các viên đá nhỏ làm lấp kín các khe này ế Vì vậy, có trường hợp ở cả hai phía hay một phía của dải phay phá hình thành nên tường cản không cho nước xuyên qua hoặc phay phá cũng đóng vai trò là bức tường cản không cho nước thấm qua ẻ Khi đào đường lò mà gặp phải phay phá như vậy thì sẽ bị nước đột ngột ào ra với khối lượng cực lớn. Nói cách khác, dưới mặt đất có thể có các con suối ngầm như trong trường hợp các khe nứt của phay phá nêu trên. Trong đường lò nếu đột nhiên gặp phải hiện tượng này thì mức độ nguy hại là rất lớn thậm chí phải lấp đường lò lại nếu lượng nước ngầm phun ra quá lớnế Trường hợp đường lò đi trong than trên nóc lò, hông lò bị vò nhàu, hạt thô ngậm nhiều nước hoặc có nước chảy nhỏ giọt tăng dần, cho phép xác định gương lò sắp gặp phay phá hoặc hiện tượng nước ngầm. Bề mặt gương than, gương lò đào có hiện tượng đổ mồ hôi, có hiện tượng nước thấm 70
  9. dần chảy ra gương, ra đirờng lò, khi khoan thăm dò thấy nước chảy ra rất mạnh. Nước đọng giọt ở gương và nóc lò, nhỏ giọt tăng dần. Áp lực nóc và hông lò gia tăng 5.2.3. Nguyên nhân Bục nước, bục bùn mỏ là hiện tượng nước, bùn ở trong các đối tượng chứa nước có áp suất cao phá vỡ vỏ bọc các đường lò, thâm nhập vào hệ thống các đường lò gây lên ngập lụt, đông thời với ngập lụt là gây đô các đường lò và gây ra những tai nạn khủng khiếp trong một thời gian cực ngắn. Trong những năm gần đây đã xảy ra rất nhiều vụ sự cố bục nước mỏ ở mức độ nghiêm trọng. Trong đó, điển hình là vụ sự cố bục nước mỏ ở mức -150 Công ty than Mạo Khê năm 1997 làm tử vong 3 công nhân. Vụ bục nước từ đường lò khai thác cũ ở Công ty than Mông Dương ngày 27/7/2000, vụ bục nước ở Cồng ty than Thống Nhất do đường lò đi dưới moong khai thác lộ thiên cũ, ...v.v. Các sự cố bục nước nghiêm trọng từ năm 2006 2015: Bục nước tại lò bán xuyên thông gió mức +10/+16 Vỉa II. 11 khu Vũ Môn - Công ty than Mông Dương vào hồi 18h00 ngày 3 1/3/2006: Dạng bục nước từ lò cũ làm 04 người thiệt mạng. Bục nước tại lò thượng mức +200/+250 Vỉa 12 Nam - Xí nghiệp khai thác than 86 , Tổng Công ty Đông Bắc vào hồi 0h30 ngày 23/01/2007: Dạng bục nước từ lò cũ làm 02 người thiệt mạng. Bục nước tại lò dọc vỉa than mức +40 Vỉa 11 - Xí nghiệp than Hoành Bồ - Công ty than Hạ Long vào hồi 10h30 ngày 13/03/2007: Dạng bục nước từ lò cũ làm 02 người thiệt mạng. Bục nước tại lò chợ mức -Ố5/-35 Vỉa 8 cánh Nam - Xí nghiệp than Thành Công - Công ty than Hòn Gai vào hồi 06h20 ngày 01/10/2009: Dạng bục nước từ đới khe nứt tách lớp phía trên nóc lò chợ làm 04 người thiệt mạng. Sự cố bục nước do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân sau: Nước tàng trữ trong các túi nước hoặc các sông suối ngầm. Nước tàng trữ trong các phay phá có đới huỷ hoại lớn. Nước trong các đường lò khai thác cũ. Nước ở các moong khai thác lộ thiên mà đirờng lò đi qua gần moong. 5.2.4. Biện pháp phòng chống bục nước a) Phòng ngừa bục nước từ mặt đất Khi ta tiến hành đào các đường lò mà có cửa lò thấp hơn mực nước thông thuỷ (mực nước chảy tự nhiên), hoặc khi đào các lò giếng nghiêng, giếng đứng nước từ mặt đất có thể chảy vào trong các đường lò qua cửa lò, hay miệng giếng, để đề phòng những trường hợp trên cần phải có các biện pháp sau: Trên miệng giếng đứng, giếng nghiêng, cửa lò phải xây các tường chắn xung quanh để nước không chảy vào. Ớ phía trên các cừa lò, phía sườn đôi phải xây các tường chắn hoặc đào các rãnh thoát nước để nước mưa thoát ra ngoài, không để nước mưa chảy trực tiếp xuống cửa lò. Đồng thời, phải lấp đẩy các tụ điếm sụt lở, các hố sâu ở phía trên mặt để không cho nước chảy xuống. Các đường lò đào ở phía dưới các các moong khai thác lộ thiên hoặc các hào thăm 71
  10. dò địa chất, các lỗ khoan địa chất, những công trình này là những nơi chứa nước và dẫn nước vào trong các đường lò. Trong những trường hợp này cần phải xử lý như sau: Đối với các giếng khoan thăm dò hoặc khai thác phải san lấp trở lại mặt bằng không được để tích tụ nước. Neu không thể san lấp thì phải làm các đường thoát nước không cho tích tụ lại. Những sụt lở trên bề mặt đất ở dạng rãnh khe tạo ra do quá trình khai thác cần được lấp kín bằng đất sét đầm chặt và đặt máng dọc theo lòng khe để dẫn nước. Các suối cạn có nước chảy vào mùa mưa cũng được coi như sông suối để khắc phục xử lý nấn dòng suối và gia cố. b) Biện pháp phòng ngừa bục nước trong lòng đất Đe đảm bảo an toàn khi đào lò và khai thác trong khu vực có nguy cơ xảy ra bục nước phải tiến hành các biện pháp sau: Khoan thăm dò nước trong các túi nước, các phay phá, các đường lò cũ mà nghi ngờ chứa nước. Thiết lập mạng lưới các lỗ khoan tháo nước, để đảm bảo an toàn tại miệng các lỗ khoan này phải tiến hành đặt ống cống và lắp van an toàn để. điều tiết nước. Khoan các lỗ khoan thăm dò nước vượt trước về phía xác định có nguồn nước có khả năng tạo ra nguy cơ bục nước. Chiều dài của lỗ khoan vượt trước theo thiết kế quy định, nhưng phái lớn hơn chiều rộng trụ ngăn nước đã xác định. Tuân thủ giới hạn an toàn đào lò và khai thác theo quy định của thiết kế. Khi đường lò đi vào khu vực nguy cơ bục nước phải có biện pháp chống đỡ tăng cường, đặc biệt là các biện pháp chống sói trôi chân cột. Khi các phay có đới huỷ hoại lớn, nước bề mặt không ngừng thâm nhập thì phải tiến hành khoan các lỗ khoan có đường kính lớn từ mặt đất xuống, sau đó bơm phụt vữa xi măng với áp suất lớn, để vữa xi măng liên kết các vật liệu tơi vụn chống lại sự thẩm thấu của nước (ví dụ khi xử lý phay Fa của Công ty than Mạo Khê). Trường hợp đường lò cũ mà đã xác định được chứa nước, thì phải để lại trụ than bảo vệ giữa lò cũ và lò đang tiến hành đào. Nếu vỉa dày 3,5 m, độ dốc >30°, thì không được để lại trụ than chắn nước mà phải khoan tháo nước nếu để lại phải lớn hơn tính toán theo quy định trong Quy chuẩn nhưng không được nhỏ hơn trụ than bảo vệ tôi thiểu là 20 m. Nếu không xác định rõ thì phải để lại dải than làm biên giới ngăn cách. Trong tất cả các trường hợp trên, biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là phương pháp khoan thoát nước. 5.2.5. Biện pháp thủ tiêu sự cố Khi bị bục nước, bùn, công nhân phải tìm hướng thoát ra vị trí cao hơn để tránh. Những đường lò có hầm tránh nạn. Trên sơ đồ đã được nghiên cứu, tìm mọi vị trí đảm bảo an toàn để tránh. Khi bị măc kẹt trong đó thì phải bình tĩnh, giữ chắc chấn được các dụng cụ cá nhân của mình như đèn, bình tự cứu để phòng khi những đường lò không đi được ra thì còn cái để dùng trong thời gian chờ đợi đội cún hộ. Khi các đường lò bị bục nước, ban đầu rất hoảng loạn, sau đó phải chấn tĩnh lại tinh thần. Định hướng lại sơ đồ đã được nghiên cứu, hướng dẫn để tìm lối thoát ra ngoài. 72
  11. Khi di chuyển người từ trong đường lò khu vực cố ra ngoài cần chú ý: Dòng nước đó xuất phát từ đâu? Đe chúng ta lường, còn nếu chúng ta đi đúng vào luồng nước thì chúng ta không thê tránh nổi thiệt mạng. Tìm lối đi vào các khu vực và đường lò không đi vào chính diện các dòng nước. Sơ cứu người bị thương: Nhanh chóng di chuyền người bị nạn ra vị trí đảm bảo an toàn, sau đó sơ cứu thạm thời. Những tai nạn chảy máu, gẫy tay gẫy chân, xương thì những người công nhân lao động làm việc xung quanh có thể sử dụng ngay những dụng cụ cần thiết như: quần áo của mình, dây mềm taro để cầm máu ngay. Gầy tay, gẫy chân thì phải bình tĩnh không được cầm người, cầm tay, cầm chân lôi ra, phải bới để tránh việc đứt gân, sau đó sử dụng tất cả các thứ như thanh gỗ, tấm gỗ, vải, quần áo, sau đó lẹp, buộc và di chuyển nạn nhân ra vị trí an toàn sơ cứu ban đầu. Đến khi lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp và y bác sĩ đến thì công việc tiếp theo được bàn giao cho đội cứu hộ. Như vậy, các vết thương được sơ cứu như thế sẽ rất dễ xử ỉý sau này và tránh được hậu qủa ngay từ ban đầu về sự thiếu hiểu biết, không kịp thời cứu chữa. Khi đồng nghiệp hoảng loạn: Khi bị mắc kẹt do đổ lò hoặc bục nước, các khu vực mắc kẹt thường hình thành các nhóm làm việc cùng nhau (vài 3 người) thường là có người tâm lý không ốn định thì cảm thấy rất hoảng loạn, trong trường hợp này cần thực hiện như sau: Người đứng đầu hoặc chỉ huy, người có chức vụ hay nhiều kinh nghiệm nhất hoặc người có tư tưởng rất ổn định sẽ đứng lên chí huy nhóm bị nạn, sẽ phân công từng người một, người nào còn bình tĩnh hơn sẽ động viên những người chưa bình bĩnh, những người chỉ huy nhóm sẽ chịu trách nhiệm chung động viên những người còn hoảng sợ. Thông thường chúng ta động viên nhau bằng cách bố trí xem chúng ta sẽ ồn định và tìm mọi phương hướng và cách thức mà có thể thoát hiểm được. Khi không thể thoát ra được, phải dùng những biện pháp đánh tín hiệu, củng cố lại hiện trường khu vực để đảm bảo an toàn cho người trú ẩn. Khi trú ẩn mà bầu không khí nhiễm bẩn, phải dùng các phương tiện cá nhân để tự cứu mình như bình tự cứu, tìm những đường ống nước, ống hơi nếu có ở trong khu vực đó, sau đó tìm cách tháo hoặc phá ra để tạo ra bầu không khí trong lành và hít thở được. Luôn giữ vững niềm tin là đồng đội và những người có trách nhiệm đang tìm mọi cách để vào cứu mình. Công tác dự trữ thức ăn, nước uống: Khi bị mắc kẹt với thời gian kéo dài, thức ăn và nước uống sẽ cạn dần, nhất là trong điều kiện tổ chức khai thác của Việt Nam hiện nay thì thực phẩm và nước uống không được dự trữ nhiều tại nơi làm việc, một sô đơn vị thuộc TKV chỉ có hệ thống cung cấp nước uống xuống các hệ thống đường lò chính, nên công tác dự trữ thức ăn, nước uống là không nhiều và rất khó khăn. Do đó khi bị mắc kẹt thời gian dài thì người công nhân phải giữ gìn, duy trì sức khỏe cho bản thân. Neu trong vùng bị ngăn cách không thê tìm lối thoát ra được thì việc đầu tiên ngưòi công nhân nên tìm vị trí an toàn, thứ hai là giữ được các thiết bị cá nhân như bình tự cứu, đèn chiếu sáng đế sử dụng khi cần thiết. Nước uống và thực phẩm sẽ cạn dần, cũng như đèn chiếu sáng sẽ dần hết điện, thời gian 73
  12. bị nạn kéo dài, trong khi chờ đội cứu hộ đến thì bản thân người công nhân phải giữ gìn, duy trì, phân phối sức khỏe không vận động mạnh, hạn chế làm việc nặng, giữ sức khỏe để tồn tại, sử dụng các thiết bị cá nhân như đèn chiếu sáng một cách khoa học, tiết kiệm nhất để chờ đội cứu hộ đến. về nước uống công nhân phải tìm mọi cách dự trữ từng giọt nước một để uống, thậm trí khi không có nước, chúng ta có thể dùng nước giải của chính mình để uống. Tìm cách phát tín hiệu báo cho đội cấp cứu mỏ là mình còn sống: phát tín hiệu cho đội cấp cứu mỏ thông qua gõ nhẹ vào vách đá, đường ống nước, ống cấp khí nén hoặc cột chống là bên ngoài có thể nghe được hoặc bên ngoài gõ, đánh động thì bên trong người công nhân bị nạn cũng có thể nhận biết, phát hiện được. Đó là những tín hiệu truyền tin ra ngoài báo hiệu người bị nạn còn sống và tín hiệu đội cấp cứu mỏ đang tiến đến vị trí gặp nạnẽ 5.3 . Phòng ngừa các hiếm họa trong quá trình đào lò, khai thác. 5.3.1. Phòng tránh tai nạn khi chống giữ lò chuẩn bị. Công tác chống tạm. Vì chống tạm có tác dụng đỡ đất đá, than trên nóc, hông lò trong khoảng trống vừa phá ra không bị rơi xuống phạm vị sử dụng của đường lò. Trước khi thi công plìải củng cố chắc chắn, tổ chức khao om đất đá triệt đế. Sau khi gương lò đảm bảo an toàn thì tiến hành chống tạmẵ Trong một chu kỳ đào chong phái tố chức chống tạm. Chỉ khi nào gương lò được chống tạm thì mới được làm các công việc ở phía trong gương phần mới nổ mìn. Công tác chống cố định: Phòng tránh tai nạn khi dụng vì chông gỗ: Khi đào xong một lỗ chân cột tiến hành dựng cột ngay. Quá trình khao cạy đất đá om, đào lỗ chân cột, công nhân phải đứng ở vị trí an toàn bên dưới vì chống cố định đã được củng cố chắc chắn. Đưa xà lên 2 đầu cột và tiến hành căn chỉnh cho vì chống vuông ke với trục đường lò. Neu thấy có hiện tượng mồm xà và mom cột không khít thì phải hạ xà xuống và sửa lại cho đảm bảo tránh để hiện tượng hở mồm cột và xà. Nêm vì lò phải nêm hai gáy cột trước, sau đó mới nêm hai gáy xà, khi nêm phải nêm từng phía một, văng đầu cột đánh trước và văng đầu xà đánh sau. Chèn vì chống phải đặt vuông góc với cột, xà, chèn nóc lò trước và chèn hông lò sau, chèn hông phải chèn từ dưới lên trên. Trường hợp nóc lò hay hông lò bị rỗng phải chèn kích hoặc xếp cũi lợn cho sát nóc, hông lò để tránh hiện tượng đột biến về áp lực. Nghiêm cấm để hiện tượng rỗng nóc và hông lò mà không tiến hành chèn kích. Phòng tránh tai nạn khi dựng vì chống sắt: Muốn dựng vì chống sắt hình vòm hoặc hình thang đảm bảo kỹ thuật phải sửa biên lò đúng với hình dáng của vì chống. Sau khi xúc bốc than, đất đá ở gương lò, tiến hành đào lỗ chân cột của vì chống. Trước khi đào lỗ chân cột phải củng cố khao cạy om, dùng chèn nhói sắt ghim giữ hông lò thật chắc chắn đảm bảo an toàn mới được làm việc. Quá trình khao cạy đất đá om, đào lỗ chân cột, công nhân phải đứng ở vị trí an toàn bên dưới vì chống cố định đã được củng cố chắc chắn. 74
  13. Các vì chống sau khi chống phải vuông ke với trục đường lò, đủ văng, chèn, gông lò, nếu nóc, hông lò rỗng phải được chèn kích kín bằng gỗ đoản đảm bảo an toàn. Công nhân trong quá trình lầm việc phải đứng ở vị trí an toàn phía dưới các vì chông cố định, được củng cố chắc chắn. Trước khi tiến hành công việc phải củng cố, tổ chức khao om. Trong quá trình thi công tất cả các công việc phải có cán bộ trực tiếp chỉ đạo. Nghiêm cấm công nhân đứng ở phạm vi chưa được chống giữ, chèn kích nóc lò, hông lò chắc chắn trước khi tiến hành công việcề * Phòng tránh tai nạn khi củng cố - sửa chữa - thu hồi vì chống Đoạn lò bị nén, vì chống cũ bị xiêu vẹo không đảm bảo tiết diện cũng như hình dáng theo thiết kế, vì chống cũ bị gẫy chưa kịp chống xén lại nay tạm thời vẫn phải sử dụng đường lò cũ để vận chuyển, thông gió, phải thay xà, thay cột đánh bích hay chống thêm vì mới xen vào giữa hai vì cũ. Chống xén: Khi kiếm tra nếu thấy có hiện tượng nguy hiểm về đường lò, xảy ra sự cố, phải đề ra biện pháp sửa chữa kịp thời, dù khối lượng công việc này không có trong kế hoạch hay nhật lệnh, để đảm bảo sản xuất bình thường và an toàn tuyệt đối, trường hợp không giải quyết được phải đình chỉ sản xuất toàn bộ khu vực đó, đưa công nhân đến khu khác sản xuất, nếu hết ca chưa giải quyết được, phải bàn giao lại cho ca sau và báo cáo với phòng ban liên quan của mỏ. Những đoạn lò bị nén mạnh không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật cần phải tiến hành chống xén. Điểm khởi đầu chống xén, phải mở từ phía ngoài đoạn lò đảm bảo kỹ thuật an toàn, điều kiện đất đá nóc và hông cứng để đặt điểm mở chống xén. Trong một đoạn lò bị nén thấp không được chống xén đuổi nhau trong phạm vi 10 m (kể cả khi có lối thoát cho gương xén tiến trước) hay đối hướng trong phạm vi 4 m, không được chống xén đối hướng thuộc khu vực có ngã 3, ngã 4. Khi chống xén đường lò phía ngoài mà phía trong có gương lò độc đạo đang sản xuất, thì phải đình sản xuất gương lò độc đạo, rào lưới và treo biển cấm vào, khi nào chống xén hoàn chinh đảm bảo an toàn mới được tiến hành thi công tiếp gương lò phía trong. Khi chống xén, phải chống thứ tự tìmg vì một, vì mới phải chống hoàn chỉnh, chắc chắn mới được tháo vì cũ ra. Than, đất đá nóc, hông lò bở rời phải dùng chèn đóng ghim nóc, hông lò chắc chắn tránh hiện tượng than, đất đá tụt xuống gương lò thi công. Khi củng cố, chống xén gương lò độc đạo đều phải chống xén theo thứ tự từ ngoài trong. Nghiêm cấm chống và củng cố theo thứ tự từ trong ra ngoài. Trước khi chống xén phải kiếm tra, củng cố trước và sau điểm chống xén 10 m, đảm bảo an toàn tuyệt đối mới được làm việc. Trước khi chống xén phải làm sàn hoặc dùng các vật tư, vật liệu che chắn các thiết bị trong phạm vi làm việc, việc che chắn thiết bị phải đảm bảo cho than và đá rơi không làm ảnh hưởng đến cáp và thiết bịệ Thay cột, thay xà, thav vì chống: Thay cột: Muốn thay cột cũ bằng cột mới phải đánh bích, ghim xà chắc chắn và dùng chèn ghim cho cột phía bên hông đang thay được ổn định để bảo vệ lò. Khi vì chống đã ổn định mới tháo cột cũ ra thay cột mới. 75
  14. Thay xà: Phải dùng chèn đóng ghim 2 cột, chèn nhói nóc cho chắc chắn rồi mới được tháo xà cũ ra thay xà mới vào. Thay lần lượt từng xà một, xà cũ thay hoàn chỉnh mới thay xà tiếp theo. Thay đồng thời cột xà bị gẫy: Coi như vì chống cũ không còn sử dụng được phải thay vì mới vào, phải chống vì dặm bên cạnh sau đó mới thay vì mới vào. Chống dặm: Những doạn lò bị nén mạnh vì chống bị xiêu vẹo hay bị gẫy do yêu câu sản xuât chưa kịp chông xén, phải chống vì mói xen kẽ với những vì cũ tăng thêm sức chống đỡ bảo vệ lò. Vì chống dặm phải đảm bảo sát nóc, sát hông lò và vuông ke với tim lò. Trường hợp chống nhiều vì dặm liền nhau cũng phải chống từ ngoài vào trong. Ngoài ra đế tăng tuổi thọ của đường lò còn phải luồn thiu đỡ xà, chống dặm ngã ba cũng tương tự như trên. Yêu cầu vì chống dặm phải được chèn kích chặt sát hông và nóc. Công tác thu hôi vì chông cũ: Khi thu hồi vì chống công nhân phải đứng tại vị trí được chống cố định đảm bảo an toàn đế thao tác. Công nhân làm nhiệm vụ đánh PaLăng phải thường xuyên theo dõi hiện trạng của dây cáp để kéo vì chống đảm bảo an toàn. Cán bộ chỉ đạo phải quan sát bao quát khu vực thu hồi dể chỉ đạo mọi tình huống xảy ra. Cột và xà của vì chống thu hồi được kéo bằng Palăng ra khỏi khu vực thu hồi tôi thiêu 3 m sau đó công nhân thu hồi mới vào để vận chuyển cột ra vị trí tập kết. Việc di chuyển sàn thao tác được thực hiện bằng thủ công sau khi đã làm xong các công việc chuẩn bị cho việc thu hồi vì chống. Trong trường hợp sử dụng tời để kéo thu hồi vì chống thì phải có thiết kế cụ thể vê vị trí đặt tời, biện pháp đánh bích chống lật tòi, rào ngăn lối đi lại và tời, ....v.v nhung nhất thiết khoảng cách từ tời đến vị trí thu hồi tối thiểu bằng 10 m. 5.3.2. Phòng tránh tai nạn khi khai thác. 5.3.2. 1. Phòng tránh tai nạn khi dựng vì chống ỉò chợ. Biện pháp phòng tránh tai nạn khi dựng vì chống: Phải sử dụng các loại vì chống có đặc tính phù họp với các điều kiện địa chất mỏ để chống giữ các gương khấu. Đối với lò chợ khai thác bằng cơ giới hoá dồng bộ, chỉ cho phép sử dụng vì chông kim loại đơn chiếc trong khoảng không gian đoạn đầu và cuối của lò chợ và cột chống gỗ ở vị trí có dải đá chèn. Khi khai thác theo phương các vỉa than có góc dốc lớn hơn 30° bằng các chân khay có chiều dài lớn hơn 10 m và gương thẳng, bất buộc phải sử dụng tấm chắn bảo vệ gương chân khay. Khi khai thác lò chợ vỉa dốc đứng, phải đảm bảo các yêu cầu sau: Chèn kín nóc lò chợ; Đặt dầm nền dưới chân các cột chống; Trường hợp tuyến gương lò chợ khấu theo phương pháp chân khay, bắt buộc phải chống và chèn ở góc chân khay. Trong một chân khay, cấm khấu than từ dưới lên, làm việc ở chân khay khi không có bộ phận che chắn bảo vệ. Khi dựng vì chống, di chuyên giá thủy lực và giàn chống tự hành phải thực hiện theo đúng quy phạm quy trình kỹ thuật quy định cho từng loại vì chống. 5.3.2.2. Phòng tránh tai nạn khi thu hồi vì chống lò chợ Biện pháp phòng tránh tai nạn khi thu hồi vì chống: Trước khi tiến hành thu hồi vì chông phải hoàn tất công tác dựng vì chống tăng cường, 76
  15. kiểm tra áp lực toàn bộ cột thuỷ lực đơn của vì chống tăng cường, khám đầu và chân chợ. Cột chống không đảm bảo áp lực yêu cầu (>7,0 MPa) phải bơm bồ sung dung dịch. Các vì chống phải đủ văng chèn, kích sát nóc. Trong quá trình thu hồi phải có cán bộ trực ca trực tiếp chỉ đạo. Công nhân thao tác phải luôn theo dõi tình trạng đá vách, nêu có hiện tượng chuyển biến bất thường phải dừng công tác thu hồi và to chức cung cố đến khi an toàn mới được tiêp tục công việc. Nêu đá vách tiêp tục chuyên biến phải rút ra ngoài và báo cáo các phòng ban liên quan của Công ty đê có biện pháp xử lý kịp thời. Công nhân làm công tác thu hồi vì chống thường xuyên quay mặt về khu vực đã phá hoả quan sát tình hình diễn biến của đá vách và hông, vì chống. Mỗi vị trí thu hồi gồm 3 công nhân, trong đó hai công nhân làm công tác thu hồi, còn một người đứng quan sát tình trạng đá vách, nếu có hiện tượng bất thường phải thông báo kịp thời cho hai công nhân kia rút ra vị trí an toàn. Trước khi tiến hành công tác thu hồi phải tồ chức đo hàm lượng khí, gió, nếu đảm bảo điều kiện an toàn mới tổ chức thu hồi vì chống. Vật tư, vật liệu và thiết bị phục vụ công tác thu hồi phải chuẩn bị đầy đủ theo yêu cầu (cưa sắt, cờ lê, cột thuỷ lực đơn, xà HDJB-1200, tời JH-14, búa lò, choòng...), ngoài ra cần có một khối lượng gỗ dự phòng. Vật tư thu hồi được đến đâu phải vận chuyển ra ngoài cách vị trí thu hồi tối thiếu 10 m, xếp gọn bên hông lò để không ảnh hưởng đến quá trình đi lại và vận chuyển thiết bị, vật liệu. Sau khi thu hồi xong toàn bộ vì chống tổ chức vận chuyển vì chống thu hồi và các phụ kiện khác ra ngoài nhập kho. Sau khi thu hồi vì chống tổ chức xếp cũi lợn hoặc chống hàng cột thuỷ lực đơn ngăn cách đất đá phá hoả tràn vào đường lò và cấm không cho người vào trong khu vực đã thu hồi. Nếu vì chống nào bị nén bẹp không có khả năng thu hồi thì cho phép để lại vì chống đó nhưng phải lập biên bản có xác nhận của tổ nghiệm thu và quản đốc công trường. 5.4. Phòng ngừa các hiếm họa do thiết bị điện, vận tải và trong công tác nổ mìn. 5.4.1. Nguy cơ tai nạn điện giật. Nhận diện nguy cơ có thể xảy ra sự cố: Khi người lao động tiếp xúc với bộ phận mang điện thì dòng điện sẽ chạy qua cơ thế người. Căn cứ vảo tác dụng của dòng điện đối với cơ thể người có thể chia làm hai loại: Tác dụng kích thích và tác dụng chấn thương. Tác dụng kích thích: Khi người tiếp xúc với vật mang điện ở lưới điện hạ áp thì dòng điện chạy qua cơ thể người tương đối nhỏ (khoảng 25 100 mA) và thời gian tiếp xúc tương đôi ngăn thì tác dụng của dòng điện đối với cơ thể người diễn biến như sau: Khi mới tiếp xúc với vật mang điện, điện trở cơ thể người lớn, nên dòng điện chạy qua người nhỏ, với dòng điện đó chỉ có tác dụng làm các cơ bấp, ngón tay co quắp nhẹ. Nếu nạn nhân không rời khỏi vật mang điện thì cơ thể người nóng dần, điện trở cơ thê người giảm xuông, dòng điện chạy qua người tàng lên làm tăng hiện tượng co quắp các bắp thịt và bẳp tay. Nếu thời gian tiếp xúc với vật mang điện càng lâu thì da người càng nóng, ra mồ hôi 77
  16. làm cho điện trở của cơ the người càng giảm xuống, dòng điện chạy qua người càng tăng nhanh, hậu quả là làm tê liệt cơ quan hô hấp và tim dẫn đến chết người. Nạn nhân bị tác dụng kích thích của dòng điện có đặc điểm chung là cơ thể không bị thương tích, khó phát hiện vị trí dòng điện qua cơ thể. Trong sản xuất và sinh hoạt con người chủ yếu tiếp xúc với lưới điện hạ áp, vì vậy các tai nạn điện giật chủ yếu là do tác dụng kích thích của dòng điện. Tác dụng chấn thương: Khi tiêp xúc hoặc đên gần vật mang điện cũng sinh ra tia hồ quang và tạo ra dòng điện chạy qua người khá lớn. Do phản xạ tự nhiên, người bị nạn tránh xa vật mang điện thì tia hồ quang sẽ chuyển qua vật có tiếp đất gần nhất. Vì vậy, thời gian dòng điện chạy qua người rất ngắn. Chưa kịp kích thích lên các cơ quan hô hấp, tuần hoàn nên người không bị tê liệt. Song người bị nạn có thể bị tia hồ quang đốt cháy hoặc bỏng nặng hay chấn thưcmg khi ngã từ trên cao xuống. Những yếu tô ảnh hưởng đến mức độ điện giật: Tai nạn về điện giật đối với con người phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: Trị số dòng điện qua người, kết quả phân tích các tai nạn về điện đã xảy ra, cho phép rút ra được tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người như bảng 5.1. Bảng 5.1: Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người Dòng điện, Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người (mA) Dòng điện xoay chiều tần số 50 -r Dòng điện một chiều 60 Hz 0,6 -T- 1,5 Bắt đầu thấy tê ngón tay Không có cảm giác 2+3 Ngón tay tê rất mạnh Không có cảm giác 5-7 Bắp thịt tay co lại và rung Đau như kim đâm và thấy nóng 8+10 Tay khó rời vật mang điện, nhưng Nóng tăng lên rất mạnh có thê rời được, ngón tay, khớp tay, bàn tay cảm thấy đau. 20 + 25 Tay không thể rời vật mang điện, Nóng tăng lên và bắt đầu có hiện đau tăng lên khó thở tượng co quăt 50 + 80 Hô hấp bị tê liệt, tim, đập mạnh Rất nóng, các bắp thịt co quắp khó thở Hô hấp bị tê liệt, kéo dài 3 giây thì Hô hấp bị tê liệt vo o •1 * o o tim bị tê liệt và ngừng đập Từ bảng 5.1 cho thấy: Với tần số 50 Hz, dòng điện xoay chiều an toàn đối với người phải có cường độ dòng điện nhỏ hơn 50 mA. Thời gian điện giật: Khi thời gian dòng điện qua người tăng lên, do ảnh hưởng của nóng, lớp sừng trên da có thể tự trọc thủng làm cho điện trở của người giảm xuống, do đó dòng điện sẽ tăng lên, càng nguy hiểm cho người hơn. Đường đi của dòng điện qua người: Người ta thường đo phân lượng dòng điện qua tim để đánh giá mức độ nguy hiếm của các con đường dòng điện qua người. 78
  17. Phân lượng dòng điện qua tim theo các con đường dòng điện qua người cho trong bảng 5.2. Bảng 5.2: Dòng điện qua người Đường dòng điện qua người Phân lượng dòng điện qua tim, (%) Từ chân qua chân 0,4 Từ tay qua tay 3,3 Từ tay trái qua chân 3,7 Từ tay phải qua chân 6,7 Tần số dòng điện: Tần số nguy hiểm nhất là dòng điện xoay chiều có tần số từ 50 -r 60 Hz. Tần số càng cao thì ít nguy hiểm, tần số lớn hơn 500.000 Hz không giật nhưng có thế gây bỏng. Môi trường xung quanh: Nhiệt độ và đặc biệt là độ ấm càng có ảnh hưởng đến điện trở của người và các vật cách điện, do đó càng làm thay đổi dòng điện qua người. Biện pháp đề phòng điện giật: Để người không chạm phải các bộ phận mang điện, cân có các biện pháp sau: Các bộ phận điện hở như cầu dao, dây dẫn trần phải đặt ở vị trí cao mà người vô ý cũng không chạm phải. Chế tạo các thiết bị điện kiểu kín kết hợp sử dụng cơ cấu liên động để đảm bảo không cho người lao động tiếp xúc vào bộ phận lấp điện chưa cắt khỏi bộ phận ấyệ Các thiết bị điện cầm tay như máy khoan, các thiết bị chiếu sáng dùng điện áp không quá 127 V. Thiết bị phải đảm bảo cách điện tốt. Thiết bị phải có giá và thảm cách điện, thợ vận hành phải có găng tay cách điện. Thực hiện tiếp địa cho thiết bị điện bằng cách: Nối bộ phận kim loại của thiết bị điện bình thường không mang điện như vỏ động cơ, vỏ khởi động từ, vỏ máy ... với cọc tiếp địa chôn ngay ở dưới đất để khi có rò điện ở vỏ thiết bị thì dòng điện này theo đường dây có điện trở rất nhỏ xuống đất, do đó ở vỏ thiết bị không có dòng điện nguy hiểm như hình 5.1. Nối dây trung tính tiếp đất (nối các bộ phận không mang điện còn dây trung tính sẽ được tiếp địa ở nhiều nơi). Kiếm tra thường xuyên điện trở của dây tiếp địa, vị trí tiếp xúc của dây tiếp địa. Thường xuyên kiểm tra điện trở cách điện của các thiết bị bằng các dụng cụ đo lường, bố trí các dụng cụ điện rò hoặc thiết bị tự động ngất điện khi có dòng điện rò. Trong mỏ hầm lò tất cả các thiết bị điện bắt buộc phải tiếp địa, điện trở của tiếp địa càng nhỏ càng tốt. Theo quy định an toàn điện: Tổng điện trở của mạng tiếp địa ở mỏ hầm lò từ điểm xa đáy giếng nhất (hoặc cửa lò bàng) không được lớn hơn 2 ôm. Điện trở tiếp địa từ một vỏ máy lưu động nào đó tới điểm gần nhất của mạng tiếp địa không quá 1 ôm. 79
  18. Hình 5.1. Tiếp địa cho vỏ thiết bị điện Quy tắc an toàn khi sử dụng thiết bị điện mỏ: Khi vận hành các thiết bị điện mỏ hầm lò phải thực hiện các quy định sau: Tất cả các bu lông, đai ốc phải siết chặt. Các cơ cấu khoá liên động phải làm việc tốt. Các múp nôi, các hộp đấu cáp phải có nắp đậy và phải kín khít. Các đầu dây tiếp địa phải tiếp xúc tốt. Các khởi động từ phải có bảng đặc tính kỹ thuật. Cấm mở nắp thiết bị điện khi vận hành. Khi có sự cố cháy nổ, cấm vận hành thiết bị điện. Những người có chuyên môn mới được sửa chữa và vận hành thiết bị. Các máy móc thiết bị phải được kiểm tra sửa chữa thường xuyên. Trước ca, thợ cơ điện phải kiểm tra mỗi ca một lần, còn cơ điện trưởng mỗi ngày kiểm tra một lầnệ Khi kiểm tra phải ghi nhận xét vào sổ giao ca. 5.4.2. Phòng tránh nguy cơ mất điện đột ngột. Thông báo ngay cho giám đốc mỏ, cơ điện trưởng, phòng chỉ đạo sản xuất của mỏ để có phương án phòng ngừa các sự cố do mất điện; Ngừng ngay các hoạt động trong lò, cắt điện vào các máy, đưa người tới nơi có luồng gió sạch; Tìm nguyên nhân và ước tính thời gian mất điện, trên cơ sở đó đưa người ra mặt đất theo chỉ dẫn của kế hoạch thủ tiêu sự cố của mỏ. 5.4.3. Nguy cơ tai nạn trong công tác vận tải Phòng tránh tai nạn khi bốc xúc, vận tải khi đào lò chuân bị: Sau khi đã thi công chống tạm đảm bảo an toàn, khao cạy hết than, đất đá om trên gương, công nhân mới được tiến hành tải than, đất đá. Tùy thuộc vào công nghệ xúc bốc của gương lò để xúc than, đất đá phục vụ công tác dựng vì chống cố định. 'Trong quá trình xúc tải than, đât đá phải luôn tuân thủ quy trình vận hành thiết bị và các quy định vê an toàn. Phòng tránh tai nạn khi bốc xúc, vận tải khi khai thác lò chợ: Sau khi sửa gương, chong tạm giữ nóc lò chợ luồng mới xong ả mỗi đoạn khấu, tiến hành tải than và hạ nền đoạn đó. Việc tải than, hạ nền lò chợ được tiến hành từ phía trên xuống ở tìmg đoạn. Công nhân dùng cuôc, xẻng xúc tải than từ luồng gương vào máng trượt hoặc máng cào. Trong quá trình tải than lưu ý không được làm hẫng chân cột, nền lò phang không 80
  19. mấp mô, lồi lõm. 5.4.4. Nguy cơ tai nạn khi khoan nổ mìn Biện pháp phòng tránh tai nạn khi khoan nổ mìn ỉò chuẩn ò/ếỆ - Khi khoan: Trước khi khoan phải kiểm tra củng cố các vì chống tính từ gương lò ra thối thiếu 10 m, khao cậy than, đất đá om bằng choòng chuyên dùng L = 1,8 m, tạo lỗ khoan ban đầu đảm bảo an toàn mới được tiến hành khoan lỗ mìn . Căn cứ vào hướng, cốt hiện tại của gương đê khoan cho hợp lý theo trình tự từ trên nóc ỉò xuống dưới nền lò, các lỗ hảng nóc của nhóm phá và nhóm biên trước. Khi khoan phải lưu ý đặt choòng khoan để miệng lỗ khoan không hướng vào các vì chống gần gương nhất. Đối với những đoạn lò khi đào qua có điều kiện địa chất nóc lò là than, đất đá mềm yếu thì không khoan các lỗ hàng nóc. Tố chức phá than, đất đá bằng thủ công. Trong quá trình khoan nếu bị kẹt choòng phải kịp thời ngừng khoan, tháo búa ra khỏi choòng khoan, làm lỏng choòng và tìm cách rút choòng ra để khoan lại. Nghiêm cấm việc cố tình cho búa chạy khi choòng bị kẹt. Trường hợp choòng bị kẹt chặt không xử lý được phải khoan lại lỗ khoan mới cách lỗ khoan cũ không quá 0 , 2 m và phải khoan song song với lỗ khoan cũ. Sau khi khoan xong phải kiểm tra lại chiều dài lỗ khoan, nếu lỗ khoan nào không bảo đảm chiều dài phải khoan tiêp và lây sạch phoi ở các lỗ khoan. - Nổ mìn Công tác nạp, nổ mìn phải theo đúng “Quy trình công nghệ khoan nổ mìn trong hầm lò”. Khoan xong tổ chức thối phoi theo trình tự từ trên cao xuống thấp, thu dọn các thiết bị nằm trong vùng bán kính nguy hiểm nổ mìn, đuổi người và bố trí người canh gác. Chỉ được làm mìn mồi ngay tại gương lò và chỉ được làm mìn mồi cho đủ 1 chu kỳ nổ. Khi đấu các đầu dây của kíp vào dây chính các đầu mối nối phải cách ly khỏi đất đá, các vật kim loại để tránh hiện tượng rò điện. Sau khi nồ mìn, thông gió tích cực 30 phút, người chỉ huy nổ mìn, thợ nổ mìn, lò trưởng vào đo kiếm tra nồng độ khí độc, khí hại, khí cháy nổ các loại theo đúng quy định. Kiêm tra gương lò, nêu đủ các điều kiện an toàn mới cho công nhân vào gương lò làm việc. Trường hợp có mìn câm hoặc gương lò không đảm bảo an toàn thì phải tiến hành xử lý mìn câm và củng cố lò ngay đến khi đảm bảo an toàn mới cho công nhân vào vị trí làm việc. Chỉ được dùng nguồn điện của máy bắn mìn đã được các bộ môn có trách nhiệm kiểm định đảm bảo an toàn về phòng nồ và các thông số kỹ thuật của máy. Nạp mìn, nô mìn phải là thợ bắn mìn được các cấp có thẩm quyền cấp chửng nhận là thợ băn mìn. Lập hộ chiếu khoan nổ mìn đầy đủ, bố trí người canh gác cụ thể, đuổi người, che chăn, di chuyển thiết bị phục vụ cho việc đào lò ra khỏi bán kính nguy hiểm. Khoảng cách an toàn cho thợ mìn và người chỉ huy nổ mìn tính từ gương nổ mìn ra với bán kính R > 100 m đối với các đường lò cong và bán kính R > 200 m đối với các đường lò thẳng. Biện pháp phòng tránh tai nạn khi khoan nô mìn lò chợ. Trong quá trình khoan nổ mìn ở lò chợ cần phải tuân thủ các biện pháp sau: 81
  20. Phải đảm bảo khoan đúng vị trí, số lượng, hướng khoan và chiều sâu lỗ khoan theo biện pháp kỹ thuật thi công đã quy địnlì. Khi đứng khoan, người thợ khoan phải đứng ở tư thế thoải mái. Quá trình khoan phải luôn quan sát nóc, hông và gương lò. Neu có hiện tượng nguy hiểm phải tạm thời đình chỉ công việc và củng cố xong mới được tiếp tục làm việc. Công tác khoan, nạp nổ mìn theo hộ chiếu khoan nổ mìn đã lập, khi nạp nổ phải bố trí người canh gác, đuổi hết người ở trong phạm vi bán kính nguy hiểm, chỉ được nạp mìn khi công nhân đã tránh vào vị trí an toàn, nổ mìn xong chờ thông gió và kiểm tra hàm lượng khí độc, khí hại ở trong gương đảm bảo an toàn. Cán bộ trực ca cùng thợ mìn phải đi kiềm tra gương lò chợ, tình trạng đá vách, nếu có than, đất đá om phải khao cậy và có dấu hiệu sự cố hoặc nén chuyển biến thì phải tiến hành xử lý ngay. Chỉ được đưa công nhân vào vị trí làm việc khi gương lò chợ đảm bảo an toàn . Trong quá trình khai thác nếu gặp than ẩm và nghi có nước phải khoan thăm dò ngay. Khoan xong mà thấy lượng nước ít, nhỏ giọt thì mới tiếp tục khai thác, nếu thấy nước chảy ra phải nút lỗ khoan lại, dừng mọi công việc, đuôi hêt người lên vị trí an toàn, báo công ty biết để xử lý kịp thời. BÀI 6 CỒNG TÁC ỨNG CỨU KHI CÓ HIẾM HỌA XẢY RA 6 . l. Các trang thiết bị dùng cho đội cấp cứu 6.1.1. Máy đo khí quang học GWJ-1B Máy đo khí quang học GWJ-1B dùng để đo hàm lượng khí mêtan và hàm lượng khí cacbonic, là thiết bị sử dụng rộng rãi trong các mỏ hâm lò hiện nay. 6.1.1.1. Công dụng, đặc tính kỹ thuật của máy đo khí quang học GWJ-1B a) Công dụng: Dùng đề xác định hàm lượng khí CH4 và CO2 . b) Đặc tính kỹ thuật: Phạm vi đo: Từ 0 ^ - 1 0 %; Giá trị 1 vạch trên thang đo chính là 0,5 %; Giá trị 1 vạch trên thang đo vi chỉnh là 0 ,0 2 %. Sai số cho phép: + Giới hạn đo được từ 0 1 % thì sai sai số cho phép là ± 0,05 %; + Giới hạn đo được từ 1 + 4 % thì sai sai số cho phép là ± 0,1 %; + Giới hạn đo được từ 4 7 % thì sai sai số cho phép là ± 0,2 %; + Giới hạn đo được từ 7 10 % thì sai sai số cho phép là ± 0,3 %; Dùng nguồn điện 1 chiều điện áp 1,5 V (2 quả pin đại). Đèn chiếu sáng 2 bóng điện áp 1 V (01 bóng cho màn giao thoa, 01 bóng chiếu sáng cho thang đo vi chỉnh). 82
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0