
THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
Khoa Tài nguyên Đất và MTNN
BÀI GIẢNG
SUY THOÁI VÀ PHỤC HỒI ĐẤT
Giảng viên: Lê Đình Huy
Đơn vị: Bộ môn Quản lý Đất đai, Khoa Tài nguyên
Đất và MTNN
Thừa Thiên Huế, ngày 09 tháng 09 năm 2019
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark

CHƯƠNG 1
MÔI TRƯỜNG ĐẤT VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CƠ BẢN
1.1. Khái quát về đất trồng
Theo Ðôcutraiep: Ðất trên bề mặt lục địa là một vật thể thiên nhiên đựợc hình
thành do sự tác ðộng tổng hợp cực kỳ phức tạp của 5 yếu tố: sinh vật, ðá mẹ, ðịa hình,
khí hậu và tuổi địa phương.
V.R.Viliam cho rằng ðất là lớp tơi xốp của vỏ lục ðịa, có ðộ dày khác nhau, có
thể sản xuất ra những sản phẩm của cây trồng.
1.2. Các yếu tố hình thành đất
Theo Đôcutraep có 5 yếu tố hình thành đất: sinh vật, khí hậu, đá mẹ, địa hình và thời
gian (tuổi). Đối với đất trồng còn chịu tác động của yếu tố con người.
1.2.1. Sinh vật.
Sinh vật là yếu tố chủ đạo, vì nhờ nó mà mẫu chất trở thành đất. Sinh vật tham gia vào
quá trình hình thành đất gồm có vi sinh vật, thực vật và động vật.
Vi sinh vật:
Tập đoàn vi sinh vật trong đất rất nhiều và rất phong phú, có thể có hàng trăm triệu
con trong 1 gam đất. Khả năng sinh sản của chúng lại rất lớn. Trong đất vi sinh vật giữ vai
trò rất quan trọng với hai chức năng chính:
- Tổng hợp và phân giải chất hữu cơ: Thực vật lấy thức ăn từ đất chủ yếu ở dạng
vô cơ hòa tan trong dung dịch đất. Một tỷ lệ rất lớn các chất vô cơ này nhờ vi sinh vật phân
giải từ các hợp chất hữu cơ, gọi là quá trình khoáng hóa chất hữu cơ. Đồng thời cũng tổng
hợp nên chất hữu cơ mới rất đặc biệt đó là mùn, được gọi là quá trình mùn hóa. Chính mùn
là nguồn dự trữ chất dinh dưỡng rất tốt cho thực vật và vi sinh vật phát triển. Đặc biệt vi
sinh vật có một chức năng rất quan trọng là phân giải các hợp chất hữu cơ chứa cacbon và
chứa đạm, để đảm bảo ổn định vòng tuần hoàn cacbon và vòng tuần hoàn đạm trong tự
nhiên. Nếu không có vi sinh vật phân giải, thì cacbon và đạm sẽ bị tích lũy vào xác hữu cơ,
làm cho lượng cacbon và đạm trong tự nhiên sẽ bị cạn dần, hai nguyên tố này không còn
thì cây xanh cũng sẽ chết và sự sống trên hành tinh bấy giờ sẽ bị tuyệt diệt.
- Tạo nên đạm cho đất: Trong đá và khoáng không có đạm, nên trong mẫu chất
hình thành đất cũng không có nguyên tố đạm, mà đạm trong đất đầu tiên là nhờ các vi sinh
vật cố định đạm từ nitơ khí trời. Đây là một khả năng đặc biệt chỉ có ở một số vi sinh vật,
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark

chúng được gọi là vi sinh vật cố định đạm. Các vi sinh vật này có thể cố định đạm tự do
(như Azotobacter), hoặc cố định đạm nhờ sống cộng sinh với một số loài thực vật như: vi
khuẩn Rhizobium cộng sinh với các cây họ đậu, vi khuẩn Azotobacter cộng sinh với bèo
hoa dâu,... Nhờ vậy mà đất được bổ sung đạm và ngày càng màu mỡ hơn.
Vai trò của thực vật
Phải nói thực vật là nguồn cung cấp chất hữu cơ chủ yếu cho đất (chiếm tới 4/5 tổng
số chất hữu cơ của đất). Nhờ khả năng quang hợp, hàng năm thực vật đã để lại cho đất hàng
tấn, thậm chí hàng chục tấn chất xanh có chất lượng khác nhau tùy thuộc vào loài thực vật.
Thảm thực vật khác nhau đã hình thành nên các loại đất có tính chất khác nhau. Nếu
thảm thực vật là đồng cỏ hay xen kẽ đồng cỏ với rừng cây lá rộng thì hình thành nên loại
đất đen có hàm lượng mùn rất cao; Ngược lại dưới rừng cây lá kim đã hình thành nên phần
lớn các loại đất vừa nghèo dinh dưỡng vừa chua.
Vai trò của thực vật còn xúc tiến quá trình phong hóa đá tạo ra mẫu chất. Rễ cây
làm tăng độ tơi xốp và tăng độ phì nhiêu cho lớp đất mặt. Thực vật còn có tác dụng giữ ẩm
cho đất, hạn chế sự xói mòn rửa trôi các chất trong đất.
Vai trò của động vật:
Động vật sống trong đất và trên đất gồm nhiều loại: từ động vật nguyên sinh đến
các loại côn trùng như giun, dế, mối kiến, động vật có xương sống như chuột,...
Động vật cung cấp chất hữu cơ cho đất bằng các chất thải của chúng và bằng cả cơ
thể khi chúng chết đi. Mặt khác động vật cũng góp phần cải thiện một số tính chất vật lý
của đất như tăng độ thoáng khí hay tạo kết cấu tốt cho đất.
Trong đó phải kể đến vai trò của giun đất. Trong đất có thể có nhiều giống giun và
số lượng của chúng cũng rất nhiều. Theo Russell trong 1 ha đất tốt có thể có tới 2.500.000
con giun. Mỗi năm đã có một khối lượng đất rất lớn (có thể tới 34 tấn) đi qua cơ thể giun
để rồi sau đó trở nên có kết cấu viên bền vững và giàu chất hữu cơ. Vì thế Đacwin đã ví
giun đất là “anh thợ cày” của nhà nông.
1.2.2. Khí hậu
Các yếu tố khí hậu một mặt có ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình hình thành và phát
triển của đất, mặt khác khí hậu đã có tác động gián tiếp qua sinh vật, nên nhiều khi khó
phân biệt được ảnh hưởng của hai yếu tố khí hậu và sinh vật tới đất.
Ảnh hưởng trực tiếp cụ thể là: Các yếu tố mưa (tạo ra nước), nhiệt độ, gió,... đã đẩy
mạnh quá trình phong hóa đá tạo ra mẫu chất.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark

Nước và nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phá hủy đá. Nước còn là
điều kiện tiêu quyết cho sự xói mòn rửa trôi và điều kiện cho các phản ứng hóa học và biến
đổi chất hữu cơ xảy ra trong đất.
Mưa nhiều đã gây ra sự rửa trôi mạnh, nhất là các ion kiềm và kiềm thổ làm cho đất
trở nên chua; Mưa ít, nắng kéo dài, nước bị bốc hơi nhiều, làm cho đất trở nên khô hạn, ở
những vùng đất mặn muối bốc lên làm cho cây trồng bị chết.
Nước còn làm ảnh hưởng tới màu sắc của đất.
Ảnh hưởng gián tiếp là các điều kiện của khí hậu có tác dụng đẩy mạnh hay kìm
hãm sự phát triển của sinh vật. Ví dụ: Khí hậu ôn hòa thì sinh vật phát triển mạnh và ngược
lại.
Vì vậy ở mỗi đới khí hậu sẽ có những loại đất đặc thù rất riêng biệt.
1.2.3. Địa hình
Yếu tố địa hình cũng vừa có ảnh hưởng trực tiếp vừa có ảnh hưởng gián tiếp tới quá
trình hình thành đất.
Ảnh hưởng trực tiếp là: nếu trong một khu vực cụ thể thì địa hình bằng phẳng, dốc
hay thấp trũng,... sẽ có tác dụng xói mòn hay tích lũy mẫu chất và chất hữu cơ, làm cho sự
hình thành và các quá trình biến đổi của đất sẽ theo các chiều hướng khác nhau.
Cũng chính vì có xói mòn nên đã tạo ra các loại mẫu chất: tàn tích, sườn tích và phù
sa, từ đó hình thành nên các loại đất khác nhau ở vùng đồi núi và đồng bằng.
Ảnh hưởng gián tiếp là ở độ cao khác nhau thì sự phân phối chế độ mưa, ẩm, nhiệt,...
sẽ khác nhau, từ đó sẽ ảnh hưởng đến quá trình phong hóa đá tạo ra mẫu chất, đồng thời
làm cho quá trình tích lũy các chất trong đất cũng theo các chiều hướng khác nhau. Độ cao
khác nhau thì sự phát triển cũng như phân bố chủng loại sinh vật nói chung và thực vật nói
riêng ở đó cũng khác nhau. Cụ thể là: Càng lên cao thì nhiệt độ càng thấp (bình quân cứ
lên cao 100m thì nhiệt độ hạ thấp 0,5 - 0,60C) và ẩm độ càng cao. Do đó hệ sinh vật cũng
thay đổi để thích ứng với điều kiện nhiệt độ thấp. Vì vậy sự phân bố đất cũng có quy luật
theo chiều thẳng đứng của độ cao địa hình. Ở Việt Nam, quy luật các vành đai đất đồi núi
như sau:
từ 25 đến 900 m (miền Bắc) hoặc 50 đến 1000 m (miền Nam) có đất feralit.
từ 900 m hoặc 1000 m đến 1700 hoặc 1800m có đất mùn vàng đỏ trên núi.
từ 1700 hoặc 1800 m đến 2800m có đất mùn alit trên núi.
từ trên 2800m có đất mùn thô trên núi cao.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark

1.2.4. Đá mẹ.
Các loại đất được hình thành từ đá mẹ khác nhau sẽ có thành phần cấp hạt và các
tính chất lý hóa học khác nhau. Sự ảnh hưởng này thể hiện rõ nhất là ở các loại đất vùng
đồi núi.
Nếu không có xói mòn rửa trôi thì có thể nói đá giàu nguyên tố nào cho ta đất giàu
chất đó. Ví dụ: Đá bazan là một loại đá kiềm giàu ôgit và fenpat, dễ phong hóa, nên hình
thành loại đất đỏ có tầng đất rất dày, có tổng hàm lượng dinh dưỡng cao, phù hợp cho nhiều
loại cây công nghiệp. Ngược lại đất được hình thành từ đá granit lại có tầng đất mỏng,
nghèo dinh dưỡng, dễ bị khô hạn. Tuy vậy, trong điều kiện nhiệt đới ẩm như ở nước ta do
mưa nhiều, sự xói mòn rửa trôi mạnh nên đôi khi cũng khó chứng minh được điều đó,
chẳng hạn đất feralit phát triển trên đá vôi ở Ninh Bình vẫn nghèo canxi nên bị chua vì
canxi đã bị rửa trôi mạnh.
Vì vậy trong hệ thống phân loại đất Việt Nam từ trước đến nay người ta vẫn chia
nhóm đất đồi núi ra các loại đất khác nhau dựa vào các nhóm đá mẹ, như đất feralit hình
thành trên đá macma bazơ, đất feralit hình thành trên đá macma axit hoặc đất feralit hình
thành trên đá cát,...
1.2.5. Thời gian ( tuổi của đất)
Sự hình thành đất phải trải qua một thời gian dài, với những sự biến đổi cực kỳ phức
tạp dưới tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Thời gian được tính từ khi đất bắt đầu được
hình thành, nghĩa là từ khi sản phẩm phong hóa bắt đầu có tích lũy chất hữu cơ cho đến
hiện tại, gọi đó là tuổi tuyệt đối. Tuổi tuyệt đối được tính bằng năm. Người ta quy định đối
với đất đồi núi thì tính tuổi tuyệt đối từ khi mẫu chất có chất hữu cơ, còn đối với đất đồng
bằng tuổi tuyệt đối được tính từ khi đất thoát khỏi ảnh hưởng của thủy triều sông, biển.
Thông thường người ta dùng phương pháp cacbon phóng xạ để định tuổi của mùn rồi
suy ra tuổi tuyệt đối của đất. Ví dụ đất Hoàng thổ của Úc theo Devrics (1958) có tuổi tuyệt
đối là 32 - 42 ngàn năm.
Trong thổ nhưỡng học người ta còn dùng khái niệm tuổi tương đối. Tuổi tương đối
của đất là sự chênh lệch về giai đoạn phát triển của các loại đất trên cùng một lãnh thổ có
tuổi tuyệt đối như nhau. Nó phản ánh mức độ phát triển của đất trong những điều kiện ngoại
cảnh nào đó. Ví dụ đất đỏ bazan ở Phủ Quỳ được hình thành từ đá bazan là loại đá trẻ nhất
so với các loại đá macma khác, nhưng nhiều nơi đã xuất hiện kết von hay đá ong, điều này
chứng tỏ đất đỏ bazan đã phát triển tới giai đoạn cao.
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark