Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

0

BÀI 6: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT

Nội dung

thức

thực hiện

pháp luật.

 Khái niệm, hình

pháp luật.

 Áp dụng pháp luật.  Khái niệm, đặc điểm của ý thức

 Yếu tố cấu thành ý thức pháp luật.  Các mối quan hệ của ý thức pháp luật.  Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật.

Mục tiêu

Hướng dẫn học

các nội dung chính.

 Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt

theo yêu cầu của từng bài.

Sau khi học bài này, các bạn cần:  Trình bày được các hình thức thực hiện pháp luật, trong đó có hình thức áp dụng pháp luật.

 Làm bài tập và luyện thi trắc nghiệm

 Liên hệ và lấy các ví dụ trong thực tế để minh họa cho nội dung bài học.

 Trình bày được khái niệm pháp chế và những yêu cầu cơ bản của pháp chế.  Trinh bày được các đặc điểm, cấu thành của ý thức pháp luật và đề ra được giải pháp nâng cao ý thức pháp luật.

hiện pháp luật và ý thức pháp luật.

 Phân tích được mối liên hệ giữa thực

Thời lượng học

9 tiết

TGL101_Bai6_v1.0014103225

142

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống khi được thực hiện bởi các chủ thể pháp luật. Pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và chính xác. Chỉ khi đó, pháp luật mới thực hiện được các chức năng của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào ý thức pháp luật của các chủ thể. Trong phần đầu của bài, chúng ta sẽ nghiên cứu về vấn đề thực hiện pháp luật (mục 1.1), trước khi đi vào tìm hiểu về ý thức pháp luật (mục 2.1)

Thực hiện pháp luật

6.1.

6.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật

 Là hoạt động nhằm hiện thức hóa các quy định của pháp luật, biến pháp luật trở

thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. o Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của chủ thể pháp luật.

 Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể điều chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ. Do pháp luật mang tính bắt buộc chung nên thực hiện pháp luật vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân. Hành vi của chủ thể có thể là hành động, thông qua lời nói, cử chỉ, ... hoặc không hành động.

 Chủ thể thực hiện pháp luật bao gồm các cá nhân, tổ chức và các cơ quan nhà nước. Đối với nhà nước, thực hiện pháp luật là một trong những hình thức nhằm thực thi các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đối với cá nhân, tổ chức, thực hiện pháp luật là hoạt động sử dụng các quyền và tự do pháp lý và thi hành các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định. Vì đối tượng hướng tới của các quy phạm pháp luật là các chủ thể cụ thể trong xã hội, do vậy, thực hiện pháp luật là việc các chủ thể thực hiện theo khuôn mẫu hành vi, xử sự mà pháp luật quy định cho các chủ thể trong các tình huống và điều kiện đã được dự liệu trước.

 Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của các chủ thể vì thực hiện pháp luật là hành vi biến các quy định của pháp luật từ trong văn bản thành cách xử sự thực tế của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.

Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng của ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật tốt giúp chủ thể thực hiện đúng và nghiêm pháp luật. Các chủ thể thực hiện đúng, nghiêm pháp luật sẽ giúp tạo nên ý thức pháp luật tốt cho các chủ thể khác.

o Thực hiện pháp luật là cơ chế nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật,

làm cho pháp luật đi vào cuộc sống.  Mục tiêu của pháp luật là tạo ra các khuôn mẫu về xử sự để các chủ thể thực hiện theo. Nếu hệ thống các quy phạm pháp luật là trạng thái tĩnh của pháp luật thì thực hiện pháp luật thể hiện trạng thái động.

Chú ý hoặc nhận xét

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Việc thực hiện pháp luật của các chủ thể làm cho các quy định của pháp luật được đi vào cuộc sống. Nếu không có việc thực hiện pháp luật thì pháp luật chỉ tồn tại trên các văn bản quy phạm pháp luật.

143

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Thực hiện pháp luật là phương thức để pháp luật thực hiện các chức năng của mình. Pháp luật chỉ có thể thực hiện được chức năng của mình khi được tôn trọng và thực hiện.

 Thực hiện pháp luật tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo những định hướng mong muốn của nhà nước.Việc thực hiện pháp luật có khả năng chỉ ra những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định nói chung và của các quy phạm pháp luật nói riêng

 Pháp luật thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của nhà nước và xã hội khi các quy định của pháp luật được các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Pháp luật chỉ thực hiện được chức năng giáo dục, bảo vệ của mình khi các chủ thể hành động theo các khuôn mẫu xử sự mà pháp luật quy định.

luật và hiệu quả quản lý của nhà nước.

o Thực hiện pháp luật được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những cơ

chế khác nhau.

 Việc thực hiện pháp luật nghiêm minh cũng phản ánh được hiệu quả của pháp

 Do pháp luật bao gồm nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau nhằm thực hiện các chức năng khác nhau nên có nhiều hình thức để thực hiện pháp luật.

 Việc thực hiện pháp luật có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của mỗi chủ thể, cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.

 Thực hiện pháp luật được tiến hành theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào quy định của mỗi quy phạm pháp luật, cũng như phụ thuộc vào các chủ thể thực hiện.

6.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật

 Tuân thủ pháp luật

o Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật mà các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hành vi, những hoạt động mà pháp luật cấm.

 Đây là hình thức thực hiện của các quy phạm pháp luật ngăn cấm. Chủ thể thực hiện bao gồm các cá nhân, tổ chức trong đó có cả các cơ quan nhà nước. Hành vi thực hiện thường là sự không hành động. Các chủ thể kiềm chế, không tiến hành những hành vi mà pháp luật ngăn cấm.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Ví dụ: Quy phạm pháp luật: "Cấm doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện các hành vi sau đây: 1. Các hành vi quy định tại Điều 13 của Luật này; 2. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng; 3. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng." (Điều 14 Luật Cạnh tranh). Doanh nghiệp không thực hiện các hành vi trên là tuân thủ pháp luật.

144

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

 Thi hành (chấp hành) pháp luật

Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.

o Đây là hình thức thực hiện của các quy phạm pháp luật bắt buộc. Chủ thể thực hiện bao gồm các cá nhân, tổ chức trong đó có cả các cơ quan nhà nước. Hành vi thực hiện là hành động tích cực của các chủ thể. Đối với hình thức này, pháp luật yêu cầu chủ thể pháp luật không những tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình mà còn thực hiện nghĩa vụ đó một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh.

o Ví dụ: Quy phạm pháp luật quy định: "Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải lập quỹ dự trữ bắt buộc để bổ sung vốn điều lệ và bảo đảm khả năng thanh toán. Quỹ dự trữ bắt buộc được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi nhuận sau thuế. Mức tối đa của quỹ này do Chính phủ quy định." (Điều 97 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Khi các doanh nghiệp trên thiết lập quy dự trữ bắt buộc theo quy định nêu trên là đã thi hành pháp luật.

 Sử dụng pháp luật

Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền pháp lý mà pháp luật quy định cho mình.

o Đây là hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật trao quyền. Chủ thể thực hiện bao gồm các cá nhân, tổ chức trong đó có cả các cơ quan nhà nước. Hành vi thực hiện là hành vi chủ động của các chủ thể. Theo đó, chủ thể pháp luật được chủ động thực hiện hoặc không thực hiện các quyền của mình, theo ý chí của mình. Tuy nhiên, các chủ thể chỉ được thực hiện quyền trong phạm vi pháp luật quy định, không được lợi dụng quyền để xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

o Ví dụ: Quy phạm pháp luật "Cá nhân có quyền lao động. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo." (Điều 49 BLDS). Khi mọi người lao động, làm việc, lựa chọn việc làm, lựa chọn nghề nghiệp là hình thức sử dụng pháp luật.

o Ví dụ, hành vi học sinh đến trường ng để học tập là biểu hiện của việc công dân thực hiện quyền học tập đã được Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận như: Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Như vậy hành vi này tương ứng với hình thức sử dụng pháp luật.

 Áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền, tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy phạm pháp luật.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Ví dụ: Pháp luật bảo vệ môi trường nghiêm cấm cơ quan, tổ chức thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước... Hành vi nhà máy không xả chất thải chưa được xử lý ra môi trường tương ứng với hình thức tuân thủ pháp luật.

145

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Đây là hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật cần có sự tham gia của nhà nước, của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chủ thể thực hiện hình thức này là cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền. Đây là điểm khác biệt so với các hình thức thực hiện pháp luật trên. Áp dụng pháp luật vừa là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước, vừa là hình thức mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện các quy định của pháp luật.

o Ví dụ: Hành vi Thanh tra xây dựng xử phạt đối với hành vi xây dựng trái phép. Thanh tra xây dựng – trong phạm vi thẩm quyền của mình được pháp luật quy định đã căn cứ vào các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng để ra Quyết định xử phạt đối với người có hành vi xây dựng trái phép.

6.1.3. Áp dụng pháp luật

 Các trường hợp áp dụng pháp luật

o Khi cần áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Các biện pháp cưỡng chế này có thể được thực hiện đối với chủ thể vi phạm pháp luật hoặc ngay cả khi các chủ thể không vi phạm pháp luật, nhưng vì lợi ích chung của xã hội. Việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể với một chủ thể cụ thể là bắt họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do… Do vậy, để đảm bảo công bằng xã hội, chỉ có các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế này. Hoạt động áp dụng những biện pháp cưỡng chế phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ khi có vi phạm pháp luật xảy ra, cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật để xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự . Cụ thể, khi cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước như bắt buộc phải khôi phục lại hiện trạng ban đầu, buộc phải trả tiền phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại, .... Ví dụ trường hợp không có vi phạm pháp luật nh quyết định thu hồi đất nhằm xây dựng các công trình công cộng.

o Khi nhà nước thực hiện các biện pháp khen thưởng, khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất, tinh thần và các lợi ích khác đối với những tổ chức, cá nhân cụ thể theo quy định của pháp luật. Pháp luật không chỉ quy định các biện pháp trừng phạt đối với các chủ thể vi phạm pháp luật mà còn quy định nhiều hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích trong những hoạt động nhất định hoặc trong việc thực hiện pháp luật nhằm động viên, lôi cuốn, khuyến khích cá nhân, tập thể góp sức xây dựng xã hội, đất nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và khuyến khích các chủ thể thực hiện tốt pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn. Ví dụ, khi nhà nước khen thưởng công dân có thành tích trong công tác phòng chống tội phạm, khen thưởng người có công với cách mạng, ... Ở Việt Nam có Luật thi đua, khen thưởng và trong đa số các văn bản quy phạm pháp luật đều có quy định việc khen thưởng những người thực hiện tốt những quy định trong văn bản.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

146

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Mặc dù trong nhiều quy phạm pháp luật có quy định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể, song các chủ thể không thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó mà cần phải có sự can thiệp của nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ có thể được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc nếu không có quyết định cho nghỉ hưu của cơ quan thì quan hệ pháp luật lao động giữa một người nào đó với cơ quan vẫn chưa chấm dứt, hoặc quyền và nghĩa vụ pháp lý của một công chức với cơ quan sẽ vẫn không thay đổi nếu không có quyết định bổ nhiệm ở chức vụ cao hơn,... o Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không tự giải quyết được và nhà nước phải can thiệp. Nhà nước có thể thông qua các cơ quan nhà nước: tòa án giải quyết tranh chấp về quan hệ lao động giữa các bên chủ thể. Nhà nước có thể ủy quyền cho các tổ chức xã hội: trọng tài giải quyết tranh chấp về quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể. o Đối với một số quan hệ pháp luật mà nhà nước cần tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các chủ thể pháp luật hoặc xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự kiện thực tế.  Trong một số quan hệ pháp luật, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia lại liên quan đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của nó. Hoạt động kiểm tra, giám sát đó chỉ do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ…là nhằm áp dụng Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, ....

 Đặc điểm của áp dụng pháp luật

o Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước.

 Trong thực tế có những thứ giấy tờ, bằng cấp, chứng chỉ có giá trị pháp lý cần phải được sao chụp để chứng minh cho sự hiện diện và tồn tại của nó tại. Do vậy các hoạt động chứng thực của uỷ ban nhân dân, của cơ quan công chứng là sự áp dụng các quy định của pháp luật công chứng.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Đây là hoạt động thực hiện pháp luật thể hiện ý chí đơn phương của nhà nước buộc các cá nhân, tổ chức có liên quan phải thực hiện theo ý chí của nhà nước. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể nhân danh quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan. Các chủ thể này phải tôn trọng hoặc thực hiện chúng.Tuy nhiên các mệnh lệnh, quyết định này không thể là ý chí cá nhân, tuỳ tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật.  Thông qua hình thức áp dụng pháp luật, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý của mình. Để thực hiện được chức năng này, nhà nước có hệ thống

147

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

các quy phạm pháp luật điều chỉnh và hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội được ủy quyền tiến hành thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật đó.

 Đây là hình thức áp dụng pháp luật được thực hiện bởi các chủ thể được nhà nước trao quyền trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của họ. Mỗi chủ thể được quy định nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm tất cả các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan này đều có thẩm quyền áp dụng pháp luật bằng việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật. Ngoài các cơ quan nhà nước, còn có các chủ thể khác được nhà nước trao quyền hoặc cho phép thực hiện. Dựa trên các quy phạm pháp luật, chủ thể tiến hành những hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Ví dụ: toà án có quyền xét xử để giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, để định tội và định hình phạt cho người phạm tội, cơ quan đăng ký kinh doanh được quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, trường đại học có quyền tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học,... Các chủ thể chỉ có thể áp dụng pháp luật trên cơ sở pháp luật, theo nguyên tắc: chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định và cho phép.

o Áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt

chẽ do pháp luật quy định:  Đây cũng là điểm phân biệt áp dụng pháp luật với các hoạt động thực hiện pháp luật khác. Đối với trường hợp tuân thủ, thi hành hoặc sử dụng pháp luật, chủ thể có thể không bị bắt buộc phải theo những trình tự, thủ tục nhất định.  Vì trong hoạt động áp dụng pháp luật, các chủ thể là đối tượng hướng tới của hoạt động này có thể được hưởng lợi hoặc chịu những hậu quả bất lợi. Do vậy, nội dung văn bản áp dụng pháp luật quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, hoặc xác định các biện pháp cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm pháp luật như bị phạt cảnh cáo, phạt tiền (trong xử phạt hành chính), bị xử lý kỷ luật với các biện pháp như khiển trách, cảnh cáo, hạ mức lương, sa thải,... Ngoài ra, văn bản áp dụng pháp luật còn có thể quy định chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý, khắc phục các biện hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Đây là hoạt động có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể có thẩm quyền nhằm tự mình thực hiện các quy phạm pháp luật và tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện quy phạm pháp luật. Ví dụ nhằm thực hiện quyền kinh doanh của công dân, nhà nước phải tổ chức hệ thống các cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan trong các ngành, lĩnh vực khác nhau để tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền của mình, phù hợp với mục tiêu quản lý của nhà nước trong các ngành, lĩnh vực tương ứng. Ngoài ra, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục này thường khác nhau trong các trường hợp áp dụng pháp luật khác nhau tuỳ theo quy định cụ thể của pháp luật. Chẳng hạn, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khác với trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực, ...

148

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

 Pháp luật quy định rõ cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật để các chủ thể tiến hành theo đúng ý chí của nhà nước. Có những quy phạm pháp luật được áp dụng với quy trình đơn giản nhưng cũng có những quy phạm pháp luật mà việc áp dụng chúng là cả một quá trình phức tạp với sự tham gia, phối hợp của nhiều tổ chức, cá nhân.

o Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính chất cá biệt:

 Áp dụng pháp luật không chỉ có tính chất bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng mà còn đối với các chủ thể có thẩm quyền áp dụng và các chủ thể khác có liên quan. Các chủ thể này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục của pháp luật, tránh sự tùy tiện dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng, không chính xác. Ví dụ, tòa án hình sự phải xét xử vụ án hình sự theo những quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đối với vụ án dân sự, thì tòa án phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật tố tụng dân sự,... Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Thông thường, sau khi ban hành ra các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền sẽ công bố công khai cho đối tượng áp dụng để họ biết mà thực hiện.

 Áp dụng pháp luật là hoạt động cụ thể hóa, cá biệt hóa các quy phạm pháp luật trong những điều kiện cụ thể. Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, quy tắc xử sự chung trong pháp luật, sẽ được chuyển hóa thành các quy tắc xử sự cụ thể áp dụng trong một trường hợp cụ thể và đối với những chủ thể xác định. Nói một cách khác, quy phạm đó đã được cá biệt hoá vào trường hợp của chủ thể đó. Ví dụ, quyết định tuyển dụng một người nào đó làm công chức trong một Bộ là sự cá biệt hoá quy phạm pháp luật về tuyển công chức.

 Kết quả của quá trình áp dụng pháp luật là các văn bản áp dụng pháp luật. Nếu như văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung áp dụng cho mọi chủ thể thì văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự cụ thể nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội cụ thể, áp dụng cho một vụ việc cụ thể, đối với những chủ thể xác định. Nếu văn bản quy phạm pháp luật áp dụng nhiều lần trong cuộc sống thì văn bản áp dụng pháp luật chỉ áp dụng một lần và được ban hành trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật.

o Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo:

 Yêu cầu đặt ra đối với áp dụng pháp luật là quy tắc xử sự cụ thể được nêu trong văn bản áp dụng pháp luật không được trái với các quy tắc xử sự chung của pháp luật.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật phụ thuộc nhiều vào nhận thức chủ quan của chủ thể có thẩm quyền, vì các vụ việc xảy ra trong thực tế lại rất đa dạng, phong phú nên muốn đưa ra được một quyết định đúng đắn, chính xác, để giải quyết vụ việc thì đòi hỏi phải có tính sáng tạo của người áp dụng.

149

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

 Sự sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật không phải là sự tuỳ tiện của chủ thể áp dụng mà hoàn toàn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và nằm trong khuôn khổ của các quy định ấy.

 Đời sống xã hội luôn biến động và phát triển, các quan hệ xã hội phát sinh ngày càng đa dạng và phức tạp đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật phải ứng phó nhanh, kịp thời và vận dụng sáng tạo pháp luật để giải quyết hiệu quả các quan hệ xã hội cụ thể. Bởi trong không ít trường hợp, pháp luật chưa quy định hoặc chưa quy định rõ quy tắc xử sự, do vậy, chủ thể có thẩm quyền phải vận dụng một cách sáng tạo pháp luật bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Những trường hợp áp dụng pháp luật khi thực hiện các quy phạm có tính tùy nghi rất dễ dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, thậm chí dẫn đến tình trạng tùy tiện, lạm quyền.

 Các nguyên tắc cơ bản của áp dụng pháp luật

o Phải có căn cứ, lý do xác đáng khi áp dụng pháp luật.

 Áp dụng pháp luật đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phải có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức trong sáng và trình độ chuyên môn cao. Khi ban hành văn bản áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, xác định rõ các cấu thành pháp lý của vụ việc để dựa vào đó lựa chọn quy phạm giải quyết.

 Chỉ áp dụng pháp luật đối với những tình huống, điều kiện, hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật đã dự liệu trước để áp dụng cho trường hợp đó. Không được tạo ra các tình huống giả để hợp thức hóa việc áp dụng quy phạm pháp luật. Việc áp dụng pháp luật phải căn cứ vào những sự kiện, nhu cầu, đòi hỏi của thực tế. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật nhầm, hoặc sai hoặc không có tính thuyết phục.

 Đối với những trường hợp chưa được quy phạm pháp luật dự liệu thì cũng phải áp dụng pháp luật trên cơ sở thực tế một cách đầy đủ, chính xác, có thật. Ngoài ra, cần phải lựa chọn quy phạm pháp luật đúng để áp dụng. o Phải bảo đảm sự đúng đắn, chính xác và công bằng trong áp dụng pháp luật.

cụ thể phải đảm bảo sự đúng đắn, chính xác.

 Việc lựa chọn, vận dụng quy tắc xử sự chung để giải quyết các quan hệ xã hội

việc và là duy nhất để áp dụng vào vụ việc.

 Việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng phải phù hợp với thực tế của vụ

o Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật.

 Áp dụng pháp luật trong vụ việc cụ thể cần đảm bảo sự công bằng khi đưa ra những quyết định áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khó nhất là khi có những trường hợp quyết định lại phụ thuộc nhiều vào nhận thức của chủ thể có thẩm quyền.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Chỉ áp dụng pháp luật trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Phải thực hiện theo đúng cách xử sự mà quy phạm pháp luật dự liệu hoặc cho phép thực hiện. Trong một số trường hợp, người có thẩm quyền có quyền tùy nghi lựa chọn cách xử sự. Cách xử sự được lựa chọn chỉ có thể được thực hiện trong khuôn

150

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

khổ tình huống đã được pháp luật dự liệu, tồn tại trong một giới hạn không gian, thời gian nhất định. Hoặc có những trường hợp pháp luật cho phép chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật một cách chủ động hơn trong những hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt xảy ra hoặc được lựa chọn cách xử sự mà không bị giới hạn bởi bất kỳ một rào cản nào. Đối với những trường hợp được lựa chọn cách xử sự thì cũng cần phải có quy phạm pháp luật cho phép áp dụng pháp luật.

o Việc áp dụng pháp luật phải phù hợp với mục tiêu mà quy phạm pháp luật đề ra

 Yêu cầu đặt ra là hạn chế các quy phạm mang tính tùy nghi cho phép các chủ thể được phép áp dụng pháp luật không bị giới hạn. Cần giới hạn lại những trường hợp mà chủ thể được lựa chọn cách xử sự trong một khoản thời gian, không gian và với những điều kiện nhất định.

o Phải bảo đảm tính hiệu quả trong áp dụng pháp luật.

 Đây là một trong những nguyên tắc giúp định hướng cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác và công bằng. Đối với những trường hợp mà pháp luật để cho chủ thể có quyền lựa chọn cách xử sự thì việc áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành nhằm đạt được mục tiêu chung của quy phạm pháp luật đó. Mục tiêu của quy phạm pháp luật nói riêng, của tổng thể các quy phạm pháp luật nói chung về việc giải quyết một vấn đề cụ thể chính là kim chỉ nam cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác và công bằng.

 Các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật

o Xác định tính pháp lý của vụ việc và chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc.

 Nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra của các quy phạm pháp luật đối với việc giải quyết trường hợp cụ thể, việc áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành một cách nhanh chóng với những chi phí thấp nhất cho nhà nước và xã hội. Đây chính là yêu cầu cũng như mục tiêu đặt ra cho việc áp dụng pháp luật trong các lĩnh vực quản lý của nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính.

 Phân tích, đánh giá các tình tiết hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thực tế để xác định tính pháp lý, bản chất pháp lý của sự việc. Nếu sự việc có tính pháp lý thì mới giải quyết bằng pháp luật, những sự việc không có tính pháp lý thì sẽ không giải quyết bằng pháp luật. Nếu xác định bản chất pháp lý không chính xác thì toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật sẽ sai và gây ra hậu quả pháp lý và xã hội. Trong một số trường hợp phức tạp, cần phải sử dụng các biện pháp chuyên môn đặc biệt như giám định, làm thực nghiệm,... để xác định đúng tính chất của vụ việc.

được chủ thể có thẩm quyền tiếp tục giải quyết vụ việc.

o Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc.

 Sau khi xác định được tính chất pháp lý của sự việc thì cần phải xác định

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Xem xét vụ việc thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nào để lựa chọn quy phạm pháp luật của ngành đó. Trường hợp có nhiều qui phạm pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ đó nhưng đưa ra cách giải quyết khác nhau thì cần phải vận dụng các quy phạm pháp luật giải quyết xung đột giữa các quy phạm

151

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

này. Trong trường hợp không có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì cần phải xác định nguyên tắc pháp luật phù hợp để giải quyết. Chú ý, chỉ khi không lựa chọn được quy phạm pháp luật phù hợp mới xác định nguyên tắc pháp luật.  Việc xác định quy phạm pháp luật hoặc nguyên tắc pháp luật phù hợp cần phải được căn cứ trên cơ sở tình tiết của vụ việc. Trên cơ sở tình tiết của vụ việc, tìm ra quy phạm pháp luật hoặc nguyên tắc pháp luật phù hợp để điều chỉnh.

o Ra quyết định áp dụng pháp luật.

 Đối với việc tìm quy phạm pháp luật phù hợp, cần phải phân tích kỹ nội dung của quy phạm pháp luật cũng như mục tiêu mà quy phạm pháp luật đó hướng tới. Trong nhiều trường hợp, cần phải nghiên cứu kỹ ý tưởng của nhà làm luật kết hợp với chính sách, chủ trương của nhà nước tại thời điểm đang xem xét. Sau đó đối chiếu nội dung của quy phạm pháp luật với tình tiết, nội dung của vụ việc để xác định sự phù hợp, tương thích. Chú ý, quy phạm pháp luật pháp luật được lựa chọn phải là quy phạm đang có hiệu lực áp dụng.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình áp dụng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật. Sau khi tìm ra quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng pháp luật. Quyết định áp dụng pháp luật phải được chủ thể có thẩm quyền ban hành, được thể hiện dưới hình thức pháp lý nhất định và tuân theo những trình tự, thủ tục được pháp luật quy định. Ví dụ, không có cơ quan nào ngoài toà án có quyền ban hành quyết định áp dụng pháp luật để tuyên một người nào đó là có tội hay không, hoặc tòa án cấp huyện thì không có quyền ban hành bản án để kết án một người về một tội danh có mức phạt cao nhất trên 15 năm tù giam… Hình thức pháp lý chủ yếu của quyết định áp dụng pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật như Quyết định, bản án, lệnh, ... Việc ra quyết định áp dụng pháp luật bằng lời nói ít khi được áp dụng, thường chỉ được dùng trong một số trường hợp do điều kiện thực tế không cho phép hoặc không cần ban hành quyết định bằng văn bản. Ví dụ, người chỉ huy các tàu chiến hoặc máy bay chiến đấu đưa ra quyết định trong trường hợp khẩn cấp.  Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền ban hành trên cơ sở pháp luật, theo trình tự, thủ tục luật định nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể. Mỗi chủ thể được quy định rõ thẩm quyền được ban hành từng loại văn bản áp dụng pháp luật cụ thể. Nếu chủ thể ban hành văn bản áp dụng pháp luật không đúng thẩm quyền, văn bản đó sẽ bị đình chỉ hoặc bị hủy bỏ. Nội dung văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc. Các căn cứ pháp lý của văn bản áp dụng pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật thực định. Dựa vào các căn cứ pháp lý này để xác định tính hợp pháp của văn bản áp dụng pháp luật. Nếu việc ban hành không phù hợp với các quy định pháp luật thì văn bản đó sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ. Văn bản áp dụng pháp luật nêu các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể áp dụng đối với các chủ thể cụ thể hoặc nêu các

152

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

mệnh lệnh cụ thể áp dụng trong trường hợp cụ thể, hoặc chứa đựng các hình thức khen thưởng cụ thể hoặc các biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với các chủ thể cụ thể . Do vậy, văn bản pháp luật có tính chất cá biệt. Văn bản áp dụng pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước, trong trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan không tự giác thực hiện hoặc không thực hiện đúng văn bản áp dụng pháp luật.

o Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật.

 Đây là giai đoạn cuối của quá trình áp dụng pháp luật. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có nghĩa vụ thực hiện quyết định áp dụng pháp luật. Chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng pháp luật phải tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh quyết định áp dụng pháp luật.

 Áp dụng pháp luật tương tự: Là việc giải quyết vụ việc pháp lý cụ thể khi trong hệ thống pháp luật không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó, trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung giống (tương tự) như vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật chung. o Đặc điểm của áp dụng pháp luật tương tự: Áp dụng trong các trường hợp vụ việc

thực tế chưa có quy phạm pháp luật cụ thể, trực tiếp điều chỉnh.  Do sự phát triển nhanh, phức tạp của các quan hệ xã hội hoặc do khả năng của nhà làm luật còn hạn chế, dẫn đến tình trạng có những quan hệ xã hội chưa được điều chỉnh bởi pháp luật. Các nhà làm luật đều cố gắng dự kiến đến mức tối đa các trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống nhằm tạo ra đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc. Tuy nhiên, trong thực tiễn, vẫn xảy ra tình trạng có những vụ việc có tính chất pháp lý, liên quan đến lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cộng đồng xã hội hoặc của cá nhân buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải quyết, nhưng trong hệ thống pháp luật lại không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó. Đây chính là tình trạng thiếu pháp luật, tình trạng pháp luật có những lỗ hổng, những khoảng trống.

 Quyết định áp dụng pháp luật được thực hiện một lần trong thực tế đời sống. Việc thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cần được kiểm tra, giám sát và khi cần thiết có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức không tự giác, không nghiêm chỉnh thực hiện quyết định áp dụng pháp luật.

o Có hai hình thức áp dụng pháp luật tương tự: Áp dụng tương tự quy phạm pháp

luật và áp dụng tương tự pháp luật.  Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là giải quyết một vụ việc cụ thể chưa có pháp luật điều chỉnh trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác mà vụ việc này có nội dung tương tự với vụ việc đang cần giải quyết.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Bên cạnh đó, do có những quan hệ xã hội chỉ xuất hiện nhất thời nên chưa hẳn cần đến quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh hoặc việc ban hành quy phạm pháp luật cần phải có thời gian để ban hành.Trong khi đó, nhu cầu của đời sống xã hội đòi hỏi nhà nước phải giải quyết kịp thời các vấn đề đảm bảo lợi ích của tổ chức, cá nhân.

153

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Điều kiện để áp dụng pháp luật tương tự.

 Áp dụng tương tự pháp luật là việc giải quyết một vụ việc cụ thể theo các nguyên tắc chung, cơ bản của pháp luật và bằng ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật.

 Điều kiện chung cho cả hai hình thức áp dụng pháp luật tương tự: 1) Vụ việc đó phải có tính chất pháp lý, tức là thực sự cần tới pháp luật để giải quyết. Cụ thể, chỉ giải quyết những vụ việc có liên quan, có ảnh hưởng quan trọng đến quyền, lợi ích của nhà nước, của xã hội hoặc của cá nhân đòi hỏi nhà nước phải xem xét giải quyết; 2) Vụ việc đó hiện không có quy phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh. Đây là vấn đề quan trọng yêu cầu chủ thể áp dụng pháp luật phải xác định một cách chắc chắn rằng vụ việc cần xem xét, giải quyết hiện không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh.

o Những lưu ý đối với áp dụng pháp luật tương tự

 Điều kiện riêng cho từng hình thức áp dụng pháp luật tương tự có sự khác nhau. Đối với áp dụng tương tự quy phạm pháp luật, yêu cầu đặt ra là phải tìm được quy phạm pháp luật để điều chỉnh vụ việc. Việc lựa chọn quy phạm pháp luật này phải được thực hiện trên cơ sở nội dung vụ việc cần được giải quyết. Quy phạm pháp luật đó phải là quy phạm pháp luật được sử dụng để điều chỉnh các vụ việc có nội dung tương tự với nội dung vụ việc cần giải quyết. Đối với áp dụng tương tự pháp luật, trước tiên, phải xác định được trường hợp này vừa không có quy phạm pháp luật điều chỉnh vừa không thể giải quyết theo hình thức áp dụng tương tự quy phạm pháp luật. Tiếp đến, phải chỉ ra được nguyên tắc pháp luật hay quan điểm pháp lý nào có thể được sử dụng để giải quyết vụ việc cụ thể đó và giải thích được lý do lựa chọn chúng.

 Hạn chế áp dụng pháp luật tương tự: Chỉ khi thật cần thiết mới áp dụng pháp luật tương tự. Áp dung pháp luật tương tự chỉ là biện pháp mang tính tạm thời nhằm khắc phục những lỗ hổng của pháp luật. Việc áp dụng pháp luật tương tự phải xuất phát từ lợi ích của xã hội, nhà nước và công dân. Không được áp dụng pháp luật tương tự một cách tùy tiện. Cần có sự kiểm tra, giám sát cần thiết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

 Phân biệt áp dụng pháp luật tương tự với áp dụng tiền lệ pháp. Hai hình thức này khác nhau ở mục tiêu áp dụng. Mục tiêu của áp dụng pháp luật tương tự là đi tìm các quy phạm pháp luật có phần giả định nêu các tình huống tương tự như nội dung vụ việc cần giải quyết để căn cứ vào quy phạm đó mà chủ thể có thẩm quyền đưa ra quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Mục tiêu của áp dụng tiền lệ pháp là tìm cách giải quyết vụ việc cụ thể của chủ thể có thẩm quyền trước đó để giải quyết vụ việc tương tự.

6.1.4. Giải thích pháp luật

 Khái niệm: Giải thích pháp luật là việc làm sáng tỏ nội dung và tư tưởng của các quy phạm pháp luật để đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh, thống nhất.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

154

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Chủ thể giải thích pháp luật là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức,

cá nhân khác.  Cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm rõ tinh thần, nội dung của các quy phạm pháp luật và buộc các tổ chức, cá nhân xử sự theo cách giải thích đó. Xuất phát từ thẩm quyền của mình, cơ quan nhà nước có quyền và nghĩa vụ giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mang giá trị pháp lý, có tính bắt buộc phải thực hiện đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan. Ở một số nước, chỉ có cơ quan làm luật (lập pháp) mới được quyền giải thích pháp luật. Ở những nước khác, thẩm quyền cũng có quyền giải thích pháp luật.

o Nội dung giải thích pháp luật.

 Các tổ chức, cá nhân cũng có quyền giải thích pháp luật. Các giải thích của tổ chức, cá nhân không mang tính bắt buộc phải xử sự theo cách giải thích đó. Giải thích pháp luật của các cá nhân có thể được thể hiện dưới các hình thức khác nhau như trên đài, báo, sách chuyên khảo,... Tuy nhiên, những giải thích của các nhà khoa học pháp lý, các nhà áp dụng pháp luật trong thực tiễn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về pháp luật và việc thực hiện pháp luật cho các nhà làm luật, các nhà quản lý và cộng đồng xã hội.

 Giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong quy phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp các thuật ngữ được sử dụng trong quy phạm pháp luật gây nên sự khó hiểu, hoặc gây nhầm lẫn cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Do vậy, cần phải có sự giải thích các thuật ngữ này để giúp cho việc thực hiện đúng, nghiêm pháp luật.

 Giải thích các quy phạm pháp luật cụ thể để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng, ý nghĩa của quy phạm pháp luật. Có những quy phạm pháp luật khiến cho chủ thể lúng túng trong việc thực hiện, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến những cách thực hiện khác nhau. Việc làm rõ nội dung tư tưởng, ý nghĩa của quy phạm pháp luật giúp cho việc thực hiện quy phạm pháp luật đạt được mục tiêu đặt ra.

 Giải thích mối liên hệ, quan hệ giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Trong nhiều trường hợp, việc làm rõ mối liên hệ, quan hệ giữa các quy phạm pháp luật khác nhau giúp thực hiện đúng pháp luật. Bởi có những quy phạm pháp luật chỉ có thể thực hiện đúng mục tiêu của nhà làm luật nếu đặt trong mối quan hệ với các quy phạm pháp luật khác. Do vậy, cần có sự giải thích về mối liên hệ, quan hệ giữa chúng.

 Giải thích các điều, khoản, quy định của một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giải thích cả văn bản quy phạm pháp luật đó để nhằm làm sáng rõ nội dung, ý nghĩa, mục tiêu của chúng.

chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, đặc điểm, nội dung.

o Nguyên tắc giải thích pháp luật.

 Giải thích một chế định pháp luật gồm những quy phạm pháp luật cùng điều

hiểu theo đúng từng câu, từng chữ của nó.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Giải thích đúng nguyên văn: Nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được

155

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

 Giải thích theo đúng nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, việc giải thích pháp luật không chỉ hoặc không thể căn cứ vào mặt hình thức của quy phạm pháp luật (về mặt ngữ pháp: câu, từ) của quy phạm pháp luật, mà phải căn cứ vào nội dung, ý nghĩa được truyền tải trong quy phạm pháp luật đó.

o Phân loại giải thích pháp luật: Dựa vào chủ thể giải thích pháp luật và đặc trưng

của sự giải thích, giải thích pháp luật được phân thành hai loại  Giải thích chính thức: Là giải thích được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải thích này có giá trị pháp lý, bắt buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo.

 Giải thích theo đúng mục tiêu của quy phạm pháp luật, của chế định pháp luật, của ngành luật, của văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi quy phạm pháp luật được soạn thảo đều nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định mà nhà làm luật gửi gắm vào nó. Do vậy, việc giải thích pháp luật phải được thực hiện trên cơ sở những mục tiêu đặt ra cho các quy phạm pháp luật nói riêng và cho chế đinh pháp luật hoặc ngành luật, hoặc văn bản quy phạm pháp luật nói chung.

 Phương pháp giải thích pháp luật

o Phương pháp logic

Sử dụng những suy đoán logic để làm sáng tỏ nội dung của quy phạm pháp luật. Thường được sử dụng trong những trường hợp lời văn của quy phạm pháp luật không trực tiếp nói rõ yêu cầu của nhà nước. o Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm

Giải thích rõ nghĩa từng chữ, từng vế, từng ý, từng câu trong quy phạm pháp luật và xác định mỗi liên hệ ngữ pháp giữa chúng.

o Phương pháp giải thích chính trị–lịch sử

Làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng một văn bản, một chế định, một quy phạm pháp luật theo nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành và phát triển, quan điểm chính trị. o Phương pháp hệ thống

Giải thích một văn bản, một chế định, một quy phạm pháp luật trong mối liên hệ chặt chẽ về nội dung và vị trí với các văn bản, chế định, quy phạm pháp luật khác.

o Phương pháp giải thích mở rộng, phát triển

Trong một số trường hợp, cần phải được giải thích theo cách mở rộng, phát triển. Theo đó, nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu rộng hơn so với nghĩa của từ, ngữ trong văn bản. Lưu ý, định hướng của việc mở rộng là nhằm hiểu đúng nội dung và nghĩa đích thực mà nhà làm luật muốn thể hiện. Đây là phương pháp được áp dụng một cách hạn chế. Chỉ áp dụng trong trường hợp có những thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Giải thích không chính thức: Là giải thích được thực hiện bởi các các tổ chức, cá nhân, không phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải thích này không có giá trị pháp lý, chỉ có giá trị tham khảo.

156

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Phương pháp giải thích hạn chế

Là cách giải thích nội dung lời văn của quy phạm pháp luật hẹp hơn so với nghĩa của từ ngữ được sử dụng trong quy phạm đó. Việc giải thích hạn chế chỉ có thể được sử dụng nhằm làm rõ, hiểu đúng ý chí của nhà nước được thể hiện trong đó. Cần thận trọng khi áp dụng phương pháp này để tránh tình trạng vi phạm pháp chế.

6.1.5. Pháp chế

 Pháp chế là một khái niệm đa nghĩa. Pháp chế có hai nghĩa chính, căn bản sau:

o Pháp chế được hiểu là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước, các cán bộ, viên chức nhà nước phải tuân thủ pháp luật, thực hiện pháp luật trong tổ chức và hoạt động.

 Theo nghĩa này, chỉ là nguyên tắc trong hoạt động quản lý nhà nước, chỉ áp dụng đối với các chủ thể được nhà nước trao quyền là các cơ quan nhà nước, các cán bộ, viên chức nhà nước.

o Pháp chế còn được hiểu là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội trong đó thể chế pháp luật được xác lập trong toàn bộ đời sống xã hội từ trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đến các thiết chế, quan hệ xã hội, hoạt động, sinh hoạt của mọi chủ thể pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

 Nguyên tắc pháp chế yêu cầu tất cả các chủ thể này phải luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất và phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm pháp luật. Các chủ thể được nhà nước trao quyền phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trên cơ sở của pháp luật. Tránh mọi hiện tượng tùy tiện, tùy hứng.

 Theo nghĩa này, pháp chế được hiểu một cách đơn giản như khẩu hiệu: "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật". Mọi người sẽ sống và làm việc trên cơ sở của pháp luật. Khi đó pháp luật sẽ điều chỉnh các quan hệ của các chủ thể và các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội trên cơ sở của pháp luật.

o Tóm lại, pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp chế đòi hỏi sự hiện diện của một hệ thống pháp luật hoàn thiện với sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách chính xác, thống nhất của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhằm xây dựng xã hội có trật tự, kỷ cương.

 Pháp chế không chỉ là nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn là yêu cầu đối với tất cả các cá nhân tuân thủ triệt để pháp luật, đối lập với tình trạng vô pháp luật. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Phân biệt pháp chế với pháp luật: Pháp luật và pháp chế không phải là một, mà có sự khác biệt nhau. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội

157

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định. Pháp chế là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội trong đó pháp luật được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh.  Mối quan hệ giữa pháp chế và pháp luật: Pháp luật và pháp chế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi có pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh và được thực hiện nghiêm chỉnh thì mới có pháp chế. Pháp luật là cơ sở để hình thành pháp chế. Để có pháp chế, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện. Chỉ có thể có hệ thống pháp luật đầy đủ, chất lượng hoàn chỉnh mới có thể có được sự tự giác thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Các chủ thể mới tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật. Ngược lại, pháp chế là môi trường làm cho pháp luật phát huy được vai trò, hiệu lực, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội. Pháp chế là mục tiêu phấn đấu để hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện đúng pháp luật.

 Kiểu pháp chế: Dựa vào các kiểu pháp luật mà có các kiểu pháp chế khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có hai kiểu pháp chế tồn tại là pháp chế tư sản và pháp chế xã hội chủ nghĩa. o Pháp chế tư sản gắn liền với sự ra đời của pháp luật tư sản và là một bước tiến quan trọng của giai cấp tư sản trong giai đoạn chống chế độ phong kiến. Pháp chế tư sản ra đời nhằm chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền của các thế lực phong kiến, đấu tranh chống lại những đặc quyền, đặc lợi, tình trạng cát cứ, địa phương chủ nghĩa.  Nguyên tắc pháp chế phục vụ cho lợi ích của xã hội nói chung, cho những người vô sản nói riêng. Pháp chế giúp cho các quyền tự do dân chủ, tiến bộ được pháp luật tư sản ghi nhận được thực hiện trên thực tế. Pháp chế tư sản tạo nên một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội tư sản.

 Nguyên tắc pháp chế tư sản có những yêu cầu sau: Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp. Theo đó, các văn bản được xây dựng trái với hiến pháp sẽ bị vô hiệu. Để đảm bảo nguyên tắc này, các nhà nước tư sản thường lập tòa án hiến pháp (hoặc hội đồng bảo hiến) để xem xét tính hợp hiến của các luật và các văn bản khác; Bảo đảm sự tuân thủ đầy đủ, chính xác pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước, quan chức, công chức nhà nước đều phải chịu sự giám sát của pháp luật. Mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật. Để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, nhà nước tư sản tổ chức hệ thống tòa án độc lập với các cơ quan lập pháp và hành pháp trên cơ sở học thuyết tam quyền phân lập.

 Pháp chế tư sản thường không triệt để, luôn có nguy cơ bị vi phạm. Tình trạng này xuất phát một phần từ kiểu pháp luật tư sản. Nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị tư sản và với hình thức pháp luật cho phép áp dụng án lệ, tiền lệ pháp, thì việc thực hiện pháp luật trong nhà nước tư sản sẽ phụ thuộc nhiều vào chủ thể áp dụng pháp luật.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Tuy nhiên, pháp chế tư sản ra đời là một bước tiến lớn trong tổ chức, quản lý đời sống xã hội. Nhờ có pháp chế tư sản, xã hội tư sản vận hành và phát triển trật tự, an toàn, trực tiếp phục vụ lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản cầm quyền,

158

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

đồng thời có tác dụng tích cực nhất định trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.

o Pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Người phát triển học thuyết này là V.I. Lênin.  Pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước, các công chức, viên chức nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.

 Pháp chế xã hội chủ nghĩa có những yêu cầu sau: Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ. Yêu cầu hàng đầu của pháp chế là tính tối cao lần lượt của Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và luật phải được tôn vinh, giữ vị trí thượng tôn trong hệ thống pháp luật và cả trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, trong các xử sự của công dân. Pháp luật phải bảo đảm tính thống nhất trong toàn quốc. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chỉ có một và thống nhất, thể hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Tuy nhiên, xét về chức năng, hiệu lực tác động lên các chủ thể, pháp chế xã hội chủ nghĩa có các yêu cầu khác nhau đối với các chủ thể là cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước với các tổ chức xã hội và công dân. Đối với các cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước, pháp chế đòi hỏi sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Với tư cách là những tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước có quyền lực, có khả năng tác động, chi phối những người khác. Do vậy, các quyền năng này là luôn luôn có hạn, gọi là quyền hạn. Quyền hạn cho phép các chủ thể thực hiện quyền trong những giới hạn nhất định, trong khuôn khổ mà pháp luật quy định. Đối với các tổ chức xã hội, pháp chế xã hội chủ nghĩa cho phép các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động phù hợp với tôn chỉ, mục đích, điều lệ, nội quy của tổ chức đó một khi được nhà nước công nhân hợp pháp. Nhà nước, xã hội không can thiệp, mà tôn trọng tổ chức, hoạt động của các tổ chức này. Yêu cầu đặt ra là các tổ chức này phải hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Mọi hành động vượt khuôn khổ đều là vi phạm pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đối với công dân, yêu cầu được đặt ra khác hơn so với các chủ thể trên. Mỗi công dân phải lấy pháp chế là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ ứng xử của mình. Mỗi cá nhân công dân đều bình đẳng, được sử dụng các quyền công dân rộng rãi, các quyền con người, quyền tự do, dân chủ. Tuy nhiên, pháp chế yêu cầu mỗi cá nhân công dân chỉ được quyền làm những gì mà pháp luật không cấm. Bên cạnh các quyền, công dân phải thực hiện các nghĩa vụ.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Dù có những khác nhau trong yêu cầu đối với các chủ thể, nhưng thực chất chỉ là một. Theo đó, pháp chế yêu cầu tất cả các chủ thể phải lấy pháp chế làm nguyên tắc cho hành vi của mình và từ vị trí của mình trong xã hội, phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực góp phần xây dựng trật tự kỷ cương nhà nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của nhà nước và toàn xã hội.

159

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

 Trật tự pháp luật

o Trật tự pháp luật là trạng thái thực tế của các quan hệ xã hội đã được điều chỉnh

bằng pháp luật, phù hợp với những đòi hỏi, yêu cầu của pháp chế.  Trật tự pháp luật là kết quả trực tiếp của quá trình điều chỉnh pháp luật, là kết quả của pháp chế. Trật tự pháp luật thể hiện sự điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng bằng pháp luật. Đối với những quan hệ cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật phải luôn có pháp luật điều chỉnh. Trật tự pháp luật thể hiện sự tuân thủ và thi hành chính xác, kịp thời những nghĩa vụ pháp lý của tất cả các chủ thể pháp luật. Trật tự pháp luật thể hiện mức độ thực hiện những đòi hỏi, những yêu cầu của pháp chế trên thực tế.

 Trật tự pháp luật bao hàm hai ý nghĩa: Trật tự pháp luật không chỉ được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật mà còn được hiểu là một yếu tố cơ bản của trật tự xã hội. Trật tự xã hội bao gồm các quy phạm khác nhau điều chỉnh hành vi, xử sự của các chủ thể trong xã hội. Các quy phạm này được sắp xếp, phối hợp thành một hệ thống. Sự sắp xếp, phối hợp các quy tắc này có sự khác nhau theo từng xã hội, trong mỗi kiểu nhà nước, và trong mỗi nhà nước cụ thể. Trật tự pháp luật thể hiện trạng thái đặc biệt vừa có tính hệ thống vừa có tính quy phạm của pháp luật. Tính hệ thống của pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Các quy phạm này có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tạo nên một tổng thể. Theo đó, không được phân tích một quy phạm pháp luật một cách riêng lẻ, tách rời với các quy phạm khác. Tính quy phạm thể hiện ở điểm các quy phạm tạo nên khuôn mẫu hành vi, xử sự cho các chủ thể khiến các chủ thể phải thực hiện theo. Hai tính chất này vừa liên hệ mật thiết với nhau vừa bổ trợ cho nhau. Hiệu lực pháp lý của pháp luật được tăng cường nhờ sự chặt chẽ trong tổ chức các quy phạm pháp luật. Tính quy phạm quay trở lại làm cho cấu trúc hệ thống của pháp luật thành một trật tự nhất định.

o Trật tự pháp luật có quan hệ mật thiết với pháp chế và trật tự xã hội.

 Trật tự pháp luật là một trong những yếu tố cấu thành nên trật tự xã hội. Pháp luật không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngoài các quy phạm pháp luật còn các quy phạm xã hội cũng như các phong tục, tập quán, thói quen, cách sống,... Tuy nhiên, pháp luật là công cụ cơ bản, có yếu tố quan trọng trong việc tạo nên trật tự xã hội. Khái niệm về trật tự pháp luật thể hiện trạng thái xã hội khi pháp luật đã thực hiện được các chức năng của mình trong xã hội. Pháp luật là công cụ để các chủ thể thực hiện những ước muốn của mình, thể hiện sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Pháp luật còn thể hiện những giá trị cơ bản tạo nên sự gắn bó giữa các nhóm chủ thể trong xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ thường xuyên, tương tác với các quan hệ trong xã hội: Các quy phạm này điều chỉnh các quan hệ xã hội và cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ xã hội trong thực tế.

pháp luật.

 Xã hội có pháp chế mới có trật tự pháp luật. Pháp chế là tiền đề của trật tự

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Trật tự pháp luật là tiền đề của trật tự xã hội. Trật tự xã hội được xây dựng trên cơ sở của trật tự pháp luật vì trong xã hội có nhà nước, pháp luật là công cụ chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội.

160

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật

6.2.

6.2.1. Khái niệm, đặc điểm ý thức pháp luật

 Khái niệm ý thức pháp luật

o Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội.

 Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Xã hội loài người, nhà nước và pháp luật luôn vận động và phát triển theo những quy luật khách quan. Những quy luật đó được thực hện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Sự tồn tại và phát triển đó được phản ánh trong ý thức của con người và con người tác động trở lại quá trình đó một cách có ý thức.

o Ý thức pháp luật có thể được định nghĩa là tổng thể những tri thức, quan niệm, quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự nhận thức, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật.  Ý thức pháp luật xuất hiện từ nhu cầu khách quan của xã hội, cần tạo lập một xã hội trật tự, ổn định. Từ nhu cầu đó, con người nhận thức và hình thành tình cảm đối với pháp luật.

 Là sản phẩm của vật chất nên nội dung của ý thức pháp luật do tồn tại xã hội và tồn tại pháp luật (bao gồm hệ thống pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật) quyết định. Ý thức pháp luật chỉ nảy sinh trên tiền đề tồn tại xã hội và pháp luật. Ý thức pháp luật phản ánh hiện thực xã hội, hiện thực pháp luật. Sự phản ánh của ý thức pháp luật là sự phản ánh sáng tạo trên cơ sở tiền đề vật chất là tồn tại xã hội và tồn tại pháp luật, tuân thủ theo những quy luật khách quan của xã hội và pháp luật. Sự tồn tại và phát triển của ý thức pháp luật gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện xã hội và pháp luật.

 Ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa con người và pháp luật. Con người bằng nhận thức của mình đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của cá nhân, tổ chức và cả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Con người cũng có thể dự báo được sự phát triển của pháp luật, đánh giá được trước những quan hệ xã hội sẽ phải được pháp luật điều chỉnh trên cơ sở sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội, tồn tại pháp luật.

 Ý thức pháp luật có tác động đến xã hội và pháp luật. Ý thức pháp luật có thể có cả tác động tiêu cực và tác động tích cực. Ý thức pháp luật có thể cản trở sự phát triển của pháp luật nói riêng và của xã hội nói chung. Ý thức pháp luật cũng có thể góp phần vào sự phát triển vượt bậc của pháp luật và xã hội.  Đối tượng phản ánh của ý thức pháp luật pháp luật rộng hơn so với đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Bởi không phải tất cả các quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bởi pháp luật.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Ý thức pháp luật được hình thành từ các quan điểm, tư tưởng của cá nhân. Các ý thức pháp luật của cá nhân tạo thành ý thức pháp luật của giai cấp, của xã hội. Chỉ có thể tạo thành ý thức pháp luật của giai cấp, của xã hội khi tư tưởng, quan điểm về pháp luật của cá nhân được nâng thành những tư tưởng, quan điểm pháp luật mang tính phổ biến, thịnh hành trong xã hội dưới dạng các học thuyết, các quan điểm chung, ...

161

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Vai trò của ý thức pháp luật.

 Ý thức pháp luật có tính giai cấp. Thông thường, giai cấp nào sở hữu tư liệu sản xuất sẽ chi phối luôn cả về tư liệu sản xuất tinh thần. Do vậy, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phổ biến và có điều kiện thể hiện đầy đủ pháp luật.

minh, giúp nhà nước thực hiện được các chức năng của mình.  Ý thức pháp luật giúp hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật.

 Đặc điểm của ý thức pháp luật

o Ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so

với tồn tại xã hội.  Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi nhưng ý thức pháp luật cũ vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó. Nhất là trong lĩnh vực tâm lý (tình cảm) pháp luật. Ví dụ như cứ có tranh chấp trong thể tự giải quyết được là người dân lại chỉ tin tưởng tòa án và đưa vụ việc ra tòa án giải quyết, dù hiện nay đã có cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

 Ý thức pháp luật giúp thực hiện pháp luật được đúng và nghiêm minh.  Ý thức pháp luật giúp tạo nên trật tự xã hội và giúp xã hội phát triển văn

 Ý thức pháp luật đôi khi lạc hậu so với tồn tại pháp luật khi có những quy phạm pháp luật mới được hình thành và có hiệu lực hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều người vẫn chưa nắm bắt được. Ví dụ về quan niệm hợp đồng kinh tế và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án đối với các tranh chấp trong kinh doanh thương mại.

 Trong một số trường hợp ý thức pháp luật tiến bộ hơn so với tồn tại xã hội và tồn tại pháp luật. Sự tiến bộ của ý thức pháp luật là do tính sáng tạo của ý thức pháp luật quyết định. Tuy nhiên sự sáng tạo này cũng phải xuất phát từ tiền đề vật chất và phải tuân thủ các quy luật khách quan. Ví dụ, ý thức pháp luật về kết hôn giữa người đồng tính, ý thức pháp luật về vấn đề mang thai hộ, về vấn đề chuyển giới, ...

o Ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính chính trị – giai cấp.

 Ý thức pháp luật tác động trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Nếu ý thức pháp luật là tiến bộ, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của pháp luật. Nếu ý thức pháp luật là lạc hâu, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, của pháp luật.

 Trong một xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật cũng có tính giai cấp. Bởi ý thức pháp luật được hình thành trên cơ sở tồn tại xã hội và hệ thống pháp luật hiện hành.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ ý thức pháp luật luôn phản ánh ý chí, tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp của mình.Trên cơ sở quan điểm của giai cấp mình, các chủ thể hình thành nên ý thức pháp luật của mình. Mỗi

162

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng có thể tồn tại nhiều ý thức pháp luật khác nhau dựa trên những quan điểm của mỗi giai cấp tồn tại trong xã hội: ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị thống trị, ý thức pháp luật của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, ...

6.2.2. Yếu cấu thành của ý thức pháp luật

 Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Theo chủ nghĩa triết học Mac- Lênin, ý thức xã hội được hình thành bởi hai yếu tố: tư tưởng xã hội (tri thức) và tâm lý (tình cảm) xã hội. o Tư tưởng xã hội là những hiểu biết của con người về xã hội, là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới khách quan. Tri thức được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau. Theo C. Mac, tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào mà ý thức biết cái đó. Muốn cải tạo thế giới, con người phải có sự hiểu biết về xã hội, tức là phải có tri thức. Mọi hiện tượng của ý thức đều có nội dung tri thức ở những mức độ khác nhau. Quá trình hình thành và phát triển ý thức xã hội chính là quá trình con người tìm kiếm, tích lũy tri thức về xã hội.

o Tâm lý (tình cảm) xã hội là những thái độ, tình cảm của con người đối với xã hội. Sự tác động của xã hội đến con người không chỉ đem lại cho con người sự hiểu biết về xã hội, mà còn đem lại những xúc cảm, tình cảm của họ về xã hội, về đối tượng phản ánh. Đây là một hình thái đặc biệt của phản ánh ý thức, nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội và giữa con người với xã hội nói chung.Tình cảm là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Con người phải có tình cảm mãnh liệt thì mới có thể phát huy được sức mạnh và được chuyển hóa hiện thực.

o Mối quan hệ giữa tri thức xã hội và tâm lý xã hội là mối quan hệ có đi có lại.

Con người càng có tri thức ở mức độ cao về một đối tượng phản ánh thì càng có tình cảm sâu đậm, mạnh mẽ đối với nó. Ngược lại, khi có tình cảm mạnh mẽ, sâu đậm về một đối tượng phản ánh, tình cảm này sẽ thúc đẩy con người tìm tòi nhiều hơn nữa, sâu hơn nữa về xã hội nhằm tích lũy tri thức xã hội.

 Ý thức pháp luật được cấu thành từ hai yếu tố: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý

(tình cảm) pháp luật. o Tư tưởng pháp luật là toàn bộ các quan điểm, quan niệm, học thuyết, sự hiểu biết của chủ thể về pháp luật. Tư tương pháp luật thể hiện sự nhận thức của chủ thể về pháp luật. Pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Tư tưởng pháp luật được cấu thành từ những hiểu biết, những tri thức của mỗi cá nhân về pháp luật rồi dần tích tụ lại thành hiểu biết, tri thức của một nhóm người, một cộng đồng người: tạo nên các quan điểm, học thuyết về pháp luật. Tư tương pháp luật của một đất nước thường được thể hiện trong cương lĩnh, nghị quyết của đảng cầm quyền, trong các chính sách của nhà nước, trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành,...

TGL101_Bai6_v1.0014103225

163

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Tâm lý pháp luật là những cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm về pháp luật và

những hiện tượng pháp lý khác.

 Sự phản ánh của hệ thống quy phạm pháp luật, của quá trình thực hiện pháp luật nói chung và quá trình áp dụng pháp luật nói riêng vào bộ óc con người khiến con người nảy sinh những tình cảm, cảm xúc, thái độ, tâm trạng cụ thể.  Tâm lý pháp luật được hình thành ở mỗi cá nhân, ở mỗi nhóm người, cộng đồng người, ở mỗi giai cấp hoặc cả xã hội. Những tình cảm, thái độ, cảm xúc, tâm trạng đối với pháp luật có thể giống nhau ở một số người, ở một nhóm người hay rộng hơn là ở một cộng đồng hay trong toàn xã hội. Tâm lý pháp luật biểu hiện thái độ tích cực (tốt) hoặc tiêu cực (xấu) của các chủ thể. Thái độ tích cực của chủ thể thể hiện sự đồng tình, niềm tin, sự trân trọng, niềm tự hào của chủ thể đối với pháp luật và sự xấu hổ khi vi phạm pháp luật,... Thái độ tiêu cực thể hiện sự thù ghét, ác cảm, định kiến, lo lắng của chủ thể đối với pháp luật.

o Tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác

động lẫn nhau.

 Do vậy, tâm lý pháp luật ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể. Nếu chủ thể có thái độ tốt đối với pháp luật, chủ thể đó sẽ tôn trọng pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật, coi thường pháp luật. Nếu chủ thể có thái độ tiêu cực đối với pháp luật, chủ thể đó có thể phản đối, không tôn trọng pháp luật, không tôn trọng người thực hiện pháp luật, ..

 Tri thức về pháp luật là cơ sở để hình thành tâm lý pháp luật. Càng hiểu về pháp luật, có nhận thức đúng đắn về pháp luật thì các chủ thể sẽ hình thành nên những tình cảm, thái độ với pháp luật ở cấp độ cao hơn, sâu hơn.

tạo trong tư tưởng về pháp luật.

 Tâm lý pháp luật đến lượt mình là động lực thúc đẩy chủ thể tìm hiểu, sáng

Nghiên cứu tính huống:

Về vai trò của yếu tố tâm lý pháp luật

TGL101_Bai6_v1.0014103225

“Tâm lý pháp luật là một hiện tượng tương đối bền vững, nó hình thành và biến đổi chậm chạp cùng với những truyền thống, thói quen của con người. Tính chất của nền kinh tế đất nước ta hiện nay cho thấy, phần đông dân cư ở nước ta đã và đang gắn bó với nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, manh mún, phân tán, với những tập tục phức tạp, rườm rà, do vậy ý thức pháp luật của nhiều người dân còn thấp, một bộ phận dân cư chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí có một số người còn xem pháp luật như là một sự trói buộc, thường tìm cách trốn tránh, bất tuân pháp luật. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta thấy thái độ bất tuân pháp luật đã hình thành và phát triển từ rất lâu trong xã hội thực dân phong kiến. Khi đó pháp luật chủ yếu thể hiện ý chí và mang lại lợi ích cho thực dân, phong kiến, khi mà giữa nhà nước và nhân dân lao động luôn có sự đối lập nhau, thì người dân lao động luôn tìm mọi cách để trốn tránh pháp luật, không tuân theo pháp luật. Khi đó những tập tục của cộng đồng làng, bản..., nơi những người dân phải co cụm lại vì lợi ích cục bộ của cộng đồng và bản thân đôi khi còn quan trọng, được tôn trọng và thực hiện nghiêm hơn cả pháp luật của nhà nước thực dân phong kiến (phép vua, thua lệ làng).

164

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

Trong xã hội ta nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân còn “pháp luật là thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân...”1 nên cả nhà nước và nhân dân cùng quan tâm tới việc thực hiện pháp luật nghiêm minh. Tuy nhiên, do tính chất bền vững của tâm lý pháp luật mà thái độ bất tuân pháp luật đã trở thành thói quen, đã ăn sâu, bám rễ trong ý thức của nhiều người; do vậy, trong họ luôn tiềm ẩn khuynh hướng tìm mọi cách để lẩn tránh luật pháp, tìm cách “lách luật”, tìm ra những kẽ hở, những khiếm khuyết, hạn chế của pháp luật để hễ có cơ hội thì vụ lợi. Chẳng hạn, khi nhà nước đưa ra quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng, thì chỉ sau một thời gian ngắn đã có rất nhiều cá nhân, tổ chức gian dối lợi dụng để chiếm đoạt bất hợp pháp tiền bạc của nhà nước; thời kỳ nhà nước nghiêm cấm mua bán đất thì người ta nghĩ ngay đến việc che giấu mua bán đất dưới hình thức như mua bán nhà ở, cây lâu năm...; khi các trạm kiểm soát của cảnh sát giao thông hoạt động mạnh thì các lái xe đã liên kết với nhau, tìm cách thông báo cho về các trạm kiểm soát của cảnh sát đặt ở đoạn đường nào để đến đó thì họ nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ giao thông còn trước đó và sau đó thì họ tìm mọi cách vi phạm như chạy quá tốc độ, chở quá quy định... Cũng cần phải thừa nhận một thực tế là có những trường hợp chủ thể bất tuân pháp luật không nhằm mục đích vụ lợi mà chỉ nhằm để thoả mãn trạng thái tâm lý là “không ai làm gì được mình”, thậm chí chỉ là để “thể hiện mình” trước những người xung quanh.

Cũng do việc định hướng tình cảm pháp luật chưa tốt nên trong xã hội ta tâm lý ác cảm với cảnh sát, với người đại diện chính quyền vẫn còn tồn tại. Thậm chí có trường hợp khi cảnh sát xử lý hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân nào đó thì một số cá nhân khác lại ủng hộ, bênh vực, giúp đỡ kẻ vi phạm, tạo điều kiện cho kẻ vi phạm trốn tránh khỏi sự trừng phạt của pháp luật. Những kẻ ủng hộ này thường là đồng bọn của kẻ vi phạm hoặc là những kẻ xưa nay vẫn vi phạm pháp luật nhưng không bị phát hiện hoặc không bị xử lý. Một số người dân tuy không ủng hộ việc làm sai trái đó nhưng lại thờ ơ, không ủng hộ việc làm đúng của cảnh sát, không ủng hộ cái đúng và như vậy, vô hình trung họ đã tạo điều kiện để cái sai, cái xấu vẫn tồn tại và hoành hành trong xã hội. Nhưng khi cái xấu có liên quan đến họ thì họ lại ra sức trách móc, trông chờ sự giúp đỡ người khác đặc biệt là của cảnh sát hoặc chính quyền. Việc tác động để hình thành những tình cảm, xúc động đúng đắn đối với pháp luật, đối với hành vi của những người thừa hành pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong phòng ngừa những hành vi không phù hợp, trái với chuẩn mực xã hội, chuẩn mực pháp luật trong xã hội.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

Trong nhiều hoạt động nhà nước ở nước ta vẫn còn biểu hiện của tâm lý cửa quyền, muốn được cầu cạnh, ban phát theo kiểu “con không khóc thì mẹ không cho bú” và đứa con nào khóc to, biết cách khóc, khóc hay thì sẽ được bú nhiều. Chính thói quen tâm lý này đã góp phần tạo ra trong xã hội ta cơ chế “xin – cho”, mọi thứ đều phải “xin” thì mới được những người đại diện nhà nước “cho”. Cơ chế “xin – cho” đã làm mất đi tính chủ động phục vụ nhân dân của những người có chức vụ, quyền hạn. Rất nhiều kẻ gian tham đã lợi dụng cơ chế “xin – cho” để vụ lợi, chúng coi tài sản nhà nước như “một thứ tự nhiên mà có” xin được càng nhiều càng tốt, tìm mọi mánh khóe để cậy cục xin, ỷ lại, trông chờ vào việc xin. Kẻ được cho thì coi tài sản nhà nước như là của mình, mình ban ơn, mình cho ai thì người đó được hưởng. Và không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tài sản, cơ chế “xin – cho” còn lan sang cả các lĩnh vực khác như công tác thi đua khen thưởng, công tác tổ chức cán bộ... gây ra dư luận không tốt trong nhân dân. Chính cơ chế “xin – cho” đã làm cho người có thẩm quyền áp dụng pháp luật tùy tiện mà người bị áp dụng pháp luật cũng tự do, tuỳ tiện, theo kiểu bất tuân các quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền áp dụng pháp luật thì cho rằng đó là “quyền của mình”, mình muốn làm gì thì làm, mình cho, mình làm ơn thì người dân được hưởng, được nhờ còn mình không cho, không làm thì người dân phải cậy cục nhờ vả, van xin... hoặc là nếu là người thân quen thì xử lý khác, còn người không thân

165

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

quen thì xử lý khác... Nhiều chủ thể bị áp dụng pháp luật đã coi thường, không chấp hành quyết định áp dụng pháp luật, với tâm lý “làm gì nhau” và nếu gặp trường hợp thiếu kiên quyết, “đánh trống bỏ dùi”, thiếu triệt để của các cơ quan nhà nước thì chẳng sao cả, càng làm cho tâm lý thách thức, coi thường người đại diện chính quyền tăng lên trong xã hội.

Nguyễn Minh Đoan, "Yếu tố tâm lý trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay" , Tạp chí KHPL số 4/2004

Trích nguồn từ

... Trong đời sống sinh hoạt và lao động nhiều khi người dân do không hiểu biết đầy đủ pháp luật dẫn đến tâm lý thiếu tự tin trong các hoạt động, làm cho hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp. Điều này, một mặt làm giảm khả năng của người dân trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại, mặt khác có thể góp phần làm tăng khả năng khiếu kiện bừa bãi, không đủ căn cứ, không đúng thủ tục... dẫn tới bất ổn định xã hội. Tình trạng kém hiểu biết về pháp luật cũng dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi thường pháp luật, dẫn đến người dân có những hành vi xử sự không đúng với quy định của pháp luật.

6.2.3. Phân loại ý thức pháp luật

 Ý thức pháp luật được phân loại theo những căn cứ, tiêu chí nhất định. Hiện nay, việc phân loại ý thức pháp luật được phân theo hai tiêu chí: mức độ nhận thức pháp luật và chủ thể mang ý thức pháp luật.

o Căn cứ vào cấp độ, giới hạn nhận thức có thể chia ý thức pháp luật thành: Ý thức

pháp luật thông thường, ý thức pháp luật có tính lý luận.

 Ý thức pháp luật thông thường là ý thức pháp luật của đa số người dân trong xã hội. Ý thức pháp luật thông thường chỉ phản ánh được biểu hiện bên ngoài, có tính cục bộ của pháp luật, chưa có khả năng đi sâu vào bản chất của pháp luật. Bởi người có ý thức pháp luật thông thường là những chỉ có sự hiểu biết bề ngoài, ít ỏi về pháp luật.

o Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, có thể phân chia thành ý thức pháp luật

cá nhân, ý thức pháp luật giai cấp, ý thức pháp luật xã hội.

 Ý thức pháp luật mang tính chất lý luận là ý thức pháp luật của những người có sự hiểu biết đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về pháp luật, có trình độ lý luận cao về pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính chất lý luận phản ánh được một cách sâu sác bản chất của pháp luật, các mối liên hệ bên trong của pháp luật.

 Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiên tiến, đại diện cho xã hội, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ bản nhất của pháp luật. Vì có sự tiến bộ và có cơ sở khoa học nên ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến này được chính thức hóa trong toàn xã hội, đại diện cho ý thức pháp luật của toàn xã hội, gọi là ý thức pháp luật xã hội.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hoàn toàn khác nhau. Do sự mâu thuẫn về lợi ích giai cấp dẫn đến nhiều quy định của pháp

166

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

luật chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà không bảo vệ quyền lợi của giai cấp bị trị, nên nhiều đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ nhưng lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ phía giai cấp bị thống trị.

 Ý nghĩa của việc phân loại ý thức pháp luật

o Việc phân loại ý thức pháp luật vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.

 Ý nghĩa lý luận: Việc phân loại ý thức pháp luật theo các cấp độ nhận thức và chủ thể của ý thức pháp luật giúp cho sự nhận thức về ý thức pháp luật được toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu cuối cùng là nhằm xây dựng một lý thuyết hoàn chỉnh về ý thức pháp luật, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện, có lợi cho nhân dân, cho sự phát triển của đất nước.

 Ý nghĩa thực tiễn: Việc phân loại ý thức pháp luật giúp nhận thức rõ hơn về vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Từ đó đưa ra được các giải pháp hữu ích nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

6.2.4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật.

 Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau, nhưng có mối quan

hệ chặt chẽ, tác động qua lại đối với nhau.

o Pháp luật là tồn tại vật chất, quyết định nội dung ý thức pháp luật.

 Pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật. Pháp luật toàn diện, thống nhất, khoa học, thực tiễn tạo tiền đề để hình thành ý thức pháp luật tích cực. Bản thân tồn tại pháp luật với chức năng điều chỉnh, giáo dục, bảo vệ và phản ánh ý chí, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động tác động mạnh mẽ tới tâm tư, tình cảm của con người, tạo lập nên ở họ ý thức tôn trọng và tự giác thực hiện pháp luật.

 Hoạt động xây dựng pháp luật có chất lượng, có sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân góp phần vào việc hình thành và nâng cao ý thức pháp luật trong họ.

 Hoạt động phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật, kiểm tra giám sát thường xuyên, nghiêm túc, hiệu quả việc thực hiện pháp luật cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

o Ý thức pháp luật là tác động tích cực trở lại đến pháp luật.

 Việc thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động, tích cực, thường xuyên, đạt hiệu quả sẽ ảnh hưởng tích cực tới sự hình thành và nâng cao ý thức pháp luật của tất cả các chủ thể trong xã hội.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật. Một trong những thuộc tính của ý thức pháp luật là tính sáng tạo. Nhờ tính sáng tạo này mà sự phản ánh của tồn tại pháp luật vào bộ não con người không chỉ là phản ánh một chiều, thụ động, giản đơn mà có tính chọn lọc và có khả năng dự báo về tương lai. Ý thức pháp luật cho phép nhìn nhận đúng đắn thực trạng, nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan

167

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

hệ xã hội. Đối với các nhà làm luật, ý thức pháp luật càng cao thì họ càng nắm bắt nhanh, sâu sắc, đầy đủ sự thay đổi khách quan của đời sống xã hội để từ đó hình thành tư tưởng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện tư tưởng đó một cách hiệu quả. Đối với người dân, ý thức pháp luật của người dân càng cao thì học càng tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.

 Ý thức pháp luật thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Bằng sự hiểu biết chính xác, đầy đủ nội dung, tinh thần của các quy định pháp luật (nhận thức đúng về pháp luật) mà các chủ thể lựa chọn được các hành vi phù hợp để thực hiện pháp luật trong thực tiễn đối với từng trường hợp cụ thể phát sinh. Hiểu được nội dung pháp luật, nhận thức được vai trò, giá trị của pháp luật và sự cần thiết phải thực hiện pháp luật, các chủ thể sẽ có thái độ tích cực đối với pháp luật, từ đó tự giác thực hiện pháp luật, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức pháp luật cũng giúp cho việc giải thích pháp luật được rõ ràng, hiệu quả từ đó dẫn đến việc thực hiện pháp luật nói chung và việc áp dụng pháp luật nói riêng của các chủ thể được nhà nước trao quyền được đúng đắn, nghiêm minh và không bị tùy tiện.

 Ý thức pháp luật giúp khắc phục chỗ trống của pháp luật hiện hành. Khi hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và trước sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ xã hội, ý thức pháp luật tạo khả năng giải quyết đúng đắn những trường hợp mà pháp luật chưa kịp thời điều chỉnh. Bằng việc áp dụng tương tự pháp luật, ý thức pháp luật đã phần nào thay thế cho pháp luật.

Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật

6.2.5.

 Nâng cao ý thức pháp luật là đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Xã hội ngày càng phát triển phức tạp thì việc nâng cao ý thức pháp luật trở nên hết sức cần thiết trước nhu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước.

o Nâng cao ý thức pháp luật không chỉ là nhiệm vụ cơ bản của nhà nước mà còn là

trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong xã hội.

trật tự pháp luật, trật tự xã hội.

 Đối với nhà nước: việc nâng cao ý thức pháp luật nhằm tạo lập nên và bảo vệ

và lợi ích chính đáng của họ.

o Nâng cao ý thức pháp luật giúp hình thành và phát triển tri trức về pháp luật của

mỗi người dân và hình thành tâm lý pháp luật tích cực ở họ.

 Đối với mỗi công dân: việc nâng cao ý thức pháp luật nhằm bảo đảm quyền

 Tri thức pháp luật càng ở mức độ cao sẽ giúp các chủ thể trong xã hội tích cực góp phần xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật được hoàn thiện, đồng bộ, thống nhất và khoa học.

 Để nâng cao ý thức pháp luật, cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Tâm lý pháp luật tích cực ở các chủ thể sẽ hình thành tình cảm, lòng tin của các chủ thể đối với pháp luật, từ đó hình thành hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, xây dựng lối sống theo pháp luật của các chủ thể trong xã hội.

168

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

o Giải pháp hướng tới pháp luật.

 Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

 Nâng cao chất lượng các quy phạm pháp luật.

chủ thể trong xã hội, của nhà nước

o Giải pháp hướng tới các chủ thể của ý thức pháp luật.

 Kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các

 Giải pháp nhằm tăng cường tri thức pháp luật của chủ thể.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Giải pháp nhằm hình thành tâm lý pháp luật tích cực đối với chủ thể.

169

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

 Thực hiện pháp luật là hành vi của các chủ thể đưa pháp luật vào cuộc sống.  Có các hình thức thực hiện pháp luật khác nhau: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử

dụng pháp luật và áp dụng pháp luật

 Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù bởi chủ thể thực hiện chỉ bao

gồm các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền.

 Trong nhiều trường hợp, để thực hiện pháp luật được đúng đắn, hiệu quả cần phải có sự giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật có thể là chính thức hoặc không chính thức phụ thuộc vào các chủ thể giải thích pháp luật.

 Pháp chế là yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật v à việc thực hiện pháp luật của tất cả các chủ thể trong xã hội. Để có pháp chế, cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản. Phụ thuộc vào các kiểu pháp chế mà các yêu cầu này có sự khác nhau nhất định.

 Thực hiện pháp luật.

 Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức và thái độ, tình cảm của các chủ thể đối với pháp

luật.

 Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội tuy nhiên bên cạnh các điểm chung

của một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật còn có những đặc điểm riêng.

 Ý thức pháp luật được cấu thành bởi hai yếu tố: hệ tư tương pháp luật và tâm lý pháp luật.  Ý thức pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. Ý thức pháp luật góp phần hoàn

thiện pháp luật và thúc đẩy các chủ thể thực hiện đúng pháp luật.

 Trên cơ sở các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm nâng

cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

 Ý thức pháp luật.

170

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật?

2. Phân biệt các hình thức thực hiện pháp luật?

3. Trình bày các trường hợp áp dụng pháp luật, đặc điểm và các nguyên tắc áp dụng pháp luật?

4. Trình bày các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật?

5. Phân tích khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc giải thích pháp luật?

6. Trình bày khái niệm và các yêu cầu cơ bản của pháp chế?

7. Trình bày khái niệm, đặc điểm của ý thức pháp luật?

8. Phân tích các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật?

9. Trình bày mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật.

BÀI TẬP

Bài 1.1:

Nêu các ví dụ và phân tích về các hình thức thực hiện pháp luật

Bài 1.2:

Anh A và chị B đến Ủy ban nhân dân phường X nơi chị B có hộ khẩu thường trú để gửi hồ sơ xin đăng ký kết hôn. Năm ngày sau, tại trụ sở Ủy ban, đại diện Ủy ban nhân dân phường X trao cho anh chị Giấy chứng nhận kết hôn, chính thức công nhận anh chị là vợ chồng.

So sánh hành vi của anh A chị B và Ủy ban nhân dân phường X trong thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn?

Bài 1.3:

Lên lớp 11, Nam được bố mẹ mua cho xe máy để đi học. Một hôm, đang đi đến trường, Nam bị Cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe vì đi xe máy không đội mũ bảo hiểm. Qua kiểm tra giấy tờ, chú cảnh sát nói Nam còn mắc thêm một lỗi nữa là chưa đủ tuổi đi xe máy. Chú cảnh sát đã phạt cảnh cáo Nam.

Việc cảnh sát giao thông xử phạt Nam là hình thức nào của thực hiện pháp luật? Hình thức đó được sử dụng trong những trường hợp nào?

Bài 1.4:

So sánh văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật.

Bài 1.5:

So sánh giữa pháp luật và pháp chế.

TGL101_Bai6_v1.0014103225

171

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

THUẬT NGỮ

A

pháp luật một cách chính xác, thống nhất của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhằm xây dựng xã hội có trật tự, kỷ cương.

S

Áp dụng pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật khác thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật.

Sử dụng pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền pháp lý của mình mà pháp luật quy định cho mình.

T

Tâm lý pháp luật Là những cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm về pháp luật và những hiện tượng pháp lý khác.

Áp dụng pháp luật tương tự Là việc giải quyết vụ việc pháp lý cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ việc khác có nội dung giống (tương tự) như vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật chung và bằng ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật.

Thi hành pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.

Áp dụng tương tự pháp luật Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự nhằm giải quyết một vụ việc pháp lý cụ thể dựa trên những nguyên tắc chung, cơ bản của pháp luật và bằng ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật.

Thực hiện pháp luật Là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm hiện thức hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống .

Tồn tại pháp luật Bao gồm hệ thống pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật

Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự nhằm giải quyết một vụ việc pháp lý cụ thể dựa trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã hội tương tự.

G

Tuân thủ pháp luật Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.

Giải thích pháp luật Là việc làm sáng tỏ nội dung và tư tưởng của các quy phạm pháp luật để đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh, thống nhất.

Tư tưởng pháp luật Là toàn bộ các quan điểm, quan niệm, học thuyết, sự hiểu biết của chủ thể về pháp luật.

P

V

Pháp chế Là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật hoàn thiện với sự tôn trọng và thực hiện

Văn bản áp dụng pháp luật Là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan nhà nước, công

TGL101_Bai6_v1.0014103225

172

Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật

Y

Ý thức pháp luật Là tổng thể những tri thức, quan niệm, quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự nhận thức, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật.

chức nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định trên cơ sở áp dụng các quy phạm pháp luật đối với những quan hệ cụ thể, cá biệt nhằm thiết lập quyền và nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhất định hoặc xác định trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.

TGL101_Bai6_v1. 0014103215

173