Chương 9
Quyền, quyền lợi và nghĩa vụ của người làm việc trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
I. Quyền của người lao động làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước.
II.Quyền lợi của người lao động làm việc cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
III.Nghĩa vụ của người lao động làm việc
trong các cơ quan nhà nước.
IV.Kỷ luật lao động trong các cơ quan
nhà nước.
Trong các tổ chức, quyền, quyền lợi, và nghĩa vụ của người lao động luôn gắn liền chặt chẽ với nhau.
Quyền lợi và nghĩa vụ được xem như hai mặt của đồng tiền. Nếu thiếu một trong hai mặt đó, không thể tồn tại tổ chức.
Nghiên cứu quyền, quyền lợi, và nghĩa vụ của người lao động làm việc trong các tổ chức nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng không chỉ nhằm để tìm hiểu mà điều quan trọng hơn hết là thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa các vấn đề liên quan đến hai phạm trù nầy.
I. Quyền của người lao động làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước.
1. Quyền theo nghĩa là công dân
2. Quyền theo nghiã là người lao động
3. Quyền trên giác độ là người lao động
làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước
Người lao động làm việc trong cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng được xêm xét từ ba góc độ khác nhau:
Là công dân
Là người lao động
Là người lao động làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước – một loại tổ chức đặc biệt.
1.Quyền theo nghĩa là (của) công dân
Là công dân và mọi công dân đều có những quyền do hệ thống pháp luật nhà nước quy định. Nghiên cứu quyền của công dân cần tìm hiểu trong rất nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia.
Mỗi một lĩnh vực cụ thể có thể đưa ra những quy định cụ thể về quyền của công dân.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, quy định những quyền cơ bản nhất của công dân từng nước. Bốn bản Hiến pháp của nhà nước ta đã quy định một số nội dung cơ bản quyền công dân để làm nền tảng cho việc quy định chi tiết, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Hiến pháp 1946 quy định công dân Việt Nam có các quyền cơ bản sau:
Tự do ngôn luận
Tự do xuất bản
Tự do tổ chức và hội họp
Tự do tín ngưỡng
Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngòai
Tư pháp chưa quyết định thì chưa được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam
Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một các trái pháp luật
Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm.
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, quyền của công dân được ghi nhận cụ thể và bổ sung thêm những nội dung cần thiết do xu thế vận động và phát triển kinh tế – xã hội.
Hiến pháp 1992 đã quy định những quyền về lao động và thu nhập như:
Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. xã hội có kế hoạch ngày càng Nhà nước và nhiều việc làm cho người lao động.
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh họat, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức.
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. ( HP 1992)
2.Quyền theo nghiã là (của) người lao động
Pháp luật nhà nước quy định những quyền cơ bản mà người lao động có khi tham gia vào các mối quan hệ lao động trên thị trường lao động. Quy định những quyền cơ bản của người lao động bên cạnh các quyền công dân là nhằm bảo vệ người lao động khi họ tham gia thị trường lao động.
Tùy thuộc vào loại hình tổ chức lao động có thể pháp luật quy định chi tiết những quyền cơ bản phản ánh mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Bộ luâït Lao động của các nước đều quy định những quyền cơ bản của người lao động khi tham gia thị trường lao động và nhà nước có trách nhiệm bảo hộ những quyền đó.
Bộ luật Lao động nước ta quy định người lao động có những quyền cơ bản sau:
Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm tùy theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khỏe của mình.
Mọi người có quyền tự do lưạ chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình.
Đình công của tập thể người lao động cũng là một trong những vấn đề thuộc quyền của người lao động. Tuy nhiên, đây là một trong những vấn đề nhạy cảm cần được xem xét chi tiết ở các chương trình khác. Pháp luật của các nước đều có quy định về vấn đề nầy.
Ngoài những điều quy định chung, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của tổ chức có thể xác định thêm những quyền của người lao động trên cơ sở thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Trong các tổ chức thành lập ra để thực hiện một số hoạt động không mang nội dung của các mối quan hệ lao động, quyền của các thành viên của tổ chức được quy định dựa trên khuôn khổ pháp luật của nhà nước và sự thống nhất chung của đại đa số thành viên của tổ chức. Tổ chức có kết câùu chặt chẽ thì các quyền cũng như nghĩa vụ càng có hiệu lực.
3.Quyền trên giác độ là người lao động làm việc
trong các cơ quan hành chính nhà nước
Các cơ quan hành chính nhà nước là những tổ chức đặc biệt.
Quyền của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có những đặc trưng khác với quyền của người lao động nói chung trong các tổ chức sử dụng lao động cũng như mối quan hệ lao động trên thị trường lao động.
Bên cạnh những quyền mang tính chất chung cho mọi công dân, cho mọi người lao động, quyền của người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước được hiểu như là:
“Quyền của nhà nước trao cho họ để giúp họ thực hiện tốt nhất nhiệm vụ mà nhà nước trao cho”.
Điều nầy cũng có nghĩa là quyền của người lao động làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước có những nét đặc trưng cần chú ý:
Những quyền mà người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có được khi nhà nước trao cho họ.
Quyền nào được trao thì chỉ có quyền đó;
Khi nhà nước lấy lại quyền (nào), người lao động cũng sẽ không có quyền đó.
Impersonal (adjective)
not personalized: not referring to individuals
anonymous: not considering people as
cold and alienating: making a person feel
without human traits: without any human
1. or reflecting personalities but focusing on events and facts • an impersonal style of reporting 2. individuals • an impersonal bureaucracy 3. insignificant and ignored as an individual • the service in the restaurant was brisk and impersonal 4. characteristics or personality
refer
GRAMMAR not specific: used to describe a
5. clause or construction that includes a personal pronoun that does not refer to a specific person or thing, such as “it is raining” or “you shouldn’t drink and drive”
—im·per·son·al·i·ty [im pùrs’n állətee], noun —im·per·son·al·ly [im púrsən’lee], adverb
Pháp nhân : một cái chủ thể có quyền lợi và nghĩa vụ như cá nhân, song do pháp luật đặt ra chứ không phải tự nhiên mà có, ví như công ty buôn bán là pháp nhân.
(Tự điển Hán Việt Đào duy Anh trang 101)
Pháp luật đã nhân cách hoá các tập thể nầy như một con người làm chủ thể quyền lợi, nhưng là con người về mặt pháp lý mà thôi gọi là “pháp nhân”, nên pháp nhân còn được gọi là “thể nhân vô hình”, chúng có đặc điểm: tên hiệu, trụ sở, sản nghiệp, quốc tịch.
Thể nhân (personne physique) là con người cụ thể có quyền làm chủ các quyền lợi và nghĩa vụ trong xã hội. Luật Việt Nam gọi thể nhân là cá nhân.
Thể nhân có 4 đặc điểm: tên họ, cư sở, nghề nghiệp và quốc tịch
Các loại pháp nhân
Pháp nhân tư pháp: theo đuổi những mục đính tư ích. Có hai loại: vụ lợi và bất vụ lợi.
Pháp nhân công pháp: có sản nghiệp nhà nước và chỉ nhằm hoạt động nhằm mục đích công ích gồm:
Quốc gia và các đơn vị hành chính
Một số nước cho Quốc hội và Toà Aùn tối cao có tư cách pháp nhân vì có ngân sách tự trị
Các xí nghiệp quốc doanh, các công sở tự trị có sản nghiệp và ngân sách riêng. Ví dụ như Phòng thương mại, Viện đại học ở các nước… doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Do có nhiều nhóm người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nên quyền của từng nhóm người sẽ khác nhau, tùy thuộc vào vị trí làm việc của họ. Những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị thuộc bộ máy hành chính nhà nước có những quyền khác với quyền của những người thực thi công vụ.
Quyền của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước phụ thuộc vào quyền của cơ quan họ làm việc. Những cơ quan thực hiện chức năng.
Những cơ quan thực hiện chức năng hành chính nhà nước (các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp) có thẩm quyền để ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật, trong khi đó,
các cơ quan sự nghiệp không được trao quyền để ban hành nhưng loại văn bản quy phạm pháp luật đó và do đó những người làm việc trong cơ quan sự nghiệp (bao gồm những nhà lãnh đạo, quản lý) không được quyền ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật.
Quyền của các đơn vị hành chính nhà nước được trao khi có quyết định thành lập. Khi muốn thay đổi, bổ sung hay rút bớt quyền đòi hỏi phải có quyết định mới thay cho quyết định đã có.
Quyền của người lao động làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước không quy định trong hệ thống văn bản pháp luật chung như quyền của ngừơi lao động trong Bộ luật lao động. Tùy thuôïc vào nhóm người mà có những quy định riêng.
Pháp lệnh cán bộ, công chức của UBBTVQH số 1/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26 tháng 02 năm 1998 sử dụng để điều chỉnh hoạt động của nhóm người làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng.
Pháp lệnh quy định những quyền chung của những người được gọi là cán bộ, công chức (như đã nêu ở phần trên của chương III). Tuy nhiên, thuật ngữ quyền được sử dụng trong pháp lệnh mang ý nghĩa quyền lợi hơn là quyền hạn của cán bộ, công chức.
Khi nghiên cứu quyền của người lao động làm viêïc trong cơ quan hành chính nhà nước với những người lao động thuộc các tổ chức khác, cần chú ý đến những khía cạnh khác nhau. Một mặt, người lao động làm việc trong các cơ quan quản lý hành chính nhà nước là công dân, là người lao động nên có những quyền chung, nhưng bản chất quyền lực nhà nước trao cho họ và họ có một số quyền hạn chế hơn những công dân khác.
Quyền tự do xuất nhập cảnh bị ràng buộc bởi quy chế của cơ quan; quyền tham gia các tổ chức chính trị cũng có thể bị ràng buộc.
Người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và nhóm công chức của các nước cũng như nước ta bị hạn chế bởi những văn bản quản lý nhân sự của nhà nước quy định một số điều không được làm (trang 307).
Những việc quy định công chức không được làm là một tất yếu nhằm ngăn chận công chức có thể vì lợi ích cá nhân làm sai lệch các quyết định quản lý và bảo đảm cho việc thực thi công vụ gắn liền với quyền lực nhà nước bảo đảm đúng đắn bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, khôngn vì các nhân.
Quy định những gì công chức không được làm không hoàn toàn giống nhau giữa các nước. Những quy định đó phụ thuộc vào điều kiện và mức độ phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia; phụ thuộc vào văn hóa tổ chức và các yếu tố khác.
Ví dụ, vấn đề cấm hay cho phép ở mức độ nhận quà của các bên có liên quan đến hoạt động công vụ.
II.Quyền lợi của người lao động làm việc cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
1. Quyền lợi tinh thần
2. Quyền lợi về vật chất
Nếu như quyền của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước gắn liền với quyền lực nhà nước, thì quyền lợi của họ được hiểu là những lợi ích vật chất hay tinh thần mà họ nhận được trong quá trình làm việc.
Quyền lợi của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước được quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan. Quyền lợi đó được chia thành hai nhóm: quyền lợi tinh thần và quyền lợi vật chất.
1.Quyền lợi tinh thần
Đây là phạm trù tương đối rộng và do đó khi xem xét quyền lợi tinh thần của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có thể trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các nước đều sử dụng nhiều hình thức khác nhau nhằm tôn vinh người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước (phục vụ tổ quốc, nhân dân). Nhiều hình thức khen thưởng về sự cống hiến được nhà nước áp dụng. Các nước đều có những loại huân, huy chương để khen tặng cho những người có công với nước.
Người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước được hưởng các quyền về chính trị, văn hóa xã hội theo những cách thức do pháp luật quy định.
2.Quyền lợi về vật chất
Văn bản pháp luật của các nước quy định cụ thể quyền lợi vật chất của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước.
Nhiều loại quyền lợi vật chất của người lao động được áp dụng nhưng đồng thời nhiều loại quyền lợi khác được bổ sung.
Nhóm các quyền lợi được bổ sung nhằm phân biệt giữa người làm việc cho các cơ quan nhà nước với các tổ chức bên ngoài thường được coi là hấp dẫn ở nhiều nước để nhiều người lao động muốn vào làm việc cho các cơ quan nhà nước. Điều nầy cũng chỉ mang tính chất tương đối, phụ thuộc vào sự phát triển khu vực không phải nhà nước.
Nhiều nước không có sự chênh lệch đáng kể về quyền lợi vật chất giữa hai khu vực và không ít nước quyền lợi vật chất của người làm việc cho các tổ chức không phải nhà nước lớn hơn so với khu vực nhà nước.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, không lâu sau khi giành được độc lập, đội ngũ những người “…được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước…” được hưởng những qyền lợi cơ bản:
Hưởng lương, các thứ phụ cấp và hưu bổng;
Nghỉ hàng năm có lương, được chăm sóc về sức khỏe và trợ cấp khi tai nạn;
Hoạt động về chính trị, văn hóa, xã hội;
Gia nhập công đòan;
Trải qua quá trình phát triển của đất nước, quyền lợi của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước được quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 quy định những quyền lợi mà đội ngũ những người cán bộ, công chức được hưởng.
Quyền lợi của cán bộ, công chức là những quyền về nghỉ hưu, nghỉ phép, tiền lương…
Điều nầy thừa nhận mối quan hệ lao động giữa nhà nước (người sử dụng lao động) và cán bộ, cán bộ (công chức) khi áp dụng nhiều điều khoản quy định quyền lợi người lao đôïng nhận được khi tham gia các quan hệ lao động. Mặt khác, quyền lợi quy định nầy cũng thể hiện việc thừa nhận tính đặc biệt của lao động trong các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nức nói riêng.
2.1- Tiền lương của người lao động
Trong tất cả các vấn đề thuộc về quyền lợi của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, chế độ tiền lương được coi như là một vấn đề mang tính đặc trưng.
Trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh vấn đề tiền lương và thu nhập của người lao động theo cơ chế thị trường và tuân thủ những quy định tối thiểu của nhà nước về mức lương.
Bộ luật lao động nước ta hướng dẫn chi tiết cơ chế tiền lương trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, đó chỉ là những định hướng chung để các tổ chức sản xuất thiết lập mối quan hệ giữa lao động và tiền lương.
Bộ luật Lao động không quy định cụ thể thang bảng lương của người lao động trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh không phải của nhà nước. Về nguyên tắc, lương hoặc tiền công của người lao động do cơ chế thị trường quyết định và được thỏa thuận thông qua hình thức hợp đồng lao động.
Việc quy định mức lương không được thấp hơn mức lương tối thiểu nhằm đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho những người lao động đơn giản tại các tổ chức sản xuất, kinh doanh. Luật pháp của nhà nước ta cũng quy định cách thức tính mức lương tối thiểu cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.
Tiền lương và cách tính lương cho người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước được quy định riêng.
Theo pháp luật hiện hành, chế độ tiền lương nầy được xây dựng trên cơ sở mức lương tối thiểu (được ấn định theo giá sinh họat), được xác định trên bảng lương cho các ngạch công chức, viên chức cũng như cán bộ dân cử các cấp tỉnh, huyện.
Lương của những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và lương của các chuyên gia cao cấp được tính riêng, ngoài hệ thống bảng lương, pháp luật còn quy định các khoản phụ cấp lương.
Các loại phụ cấp : p/c khu vực; p/c độc hại, nguy hiểm; p/c trách nhiệm; p/c làm đêm; p/c thu hút; p/c đắt đỏ; p/c lưu động;
Đối với lực lượng vũ trang có thêm chế độ sau: p/c thâm niên; p/c phục vụ quốc phòng an ninh; chế độ ăn thêm đối với quân binh chủng đặc biệt.
Mức lương và xét nâng bậc lương cho người lao động làm việc trong cơ quan nhà nước được xác định dựa trên cơ sở thang bảng lương.
Thời gian để nâng bậc lương được xác định dựa trên thâm niên của ngạch và sự cống hiến. Có thể từ 2, 3, và 4 năm đối với các ngạch công chức. Người lao động làm việïc trong cơ quan nhà nước có thể được nâng bậc lương trước thời hạn nếu có thành tích đặc biệt xuất sắc.
Theo NĐ 25/CP thời gian nâng bậc lương đối với ngạch thấp hơn ngạch chuyên viên là 2 năm; từ chuyên viên trở lên là 3 năm và cho ngạch cao cấp là 4 năm.
Lương của người làm việc trong cơ quan nhà nước khác về bản chất so với lương của người lao động quy định trong bộ Luật Lao động.
Lương được nhà nước quy định từ trước thông qua hệ thống thang bảng lương và những người tham gia lực lượng lao động trong hệ thống các cơ quan nhà nước khi được bổ nhiệm vào một vị trí nào đó thì được hưởng mức lương theo quy định của nhà nước, không phải là sự thỏa thuận như hợp đồng lao động trong tổ chức tư nhân.
Mỗi một cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có một lộ trình lương nhất định. Việc thay đổi bậc lương phụ thuộc vào:
Kết quả thi nâng ngạch. Một cán bộ, công chức sau khi thi đạt yêu cầu thì được chuyển từ bậc lương của ngạch nầy sang bậc lương kề cận tiếp theo của ngạch cao hơn.
Tăng lương theo thâm niên công tác trong ngạch và không bị bất kỳ hình thức kỷ luật nào.
Việc xét tăng lương không áp dụng cho những người làm hợp đồng.
Vấn đề tiền lương của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước là môït vấn đề phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải nghiên cứu trong các chuyên đề riêng biệt .
Các nước hiện đang cải cách chế độ tiền lương của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cải cách gặp những khó khăn do nguồn tài chính để trả lương là từ thuế mà việc cân đối ngân sách giữa chi trả thường xuyên (lương) và chi cho đầu tư phát triển luôn là việc khó khăn.
Ơû các nước đang phát triển, thu nhập của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước thường thấp hơn thu nhập của người lao động trong khu vực tư nhân; ở các nước công nghiệp thì có sự tương đương.
2.2- Các chế độ bảo hiểm xã hội – một dạng quyền
lợi của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Chế độ bảo hiểm xã hội là một trong những quyền lợi mà người lao động nhận được trong quá trình tham gia lao động.
Trách nhiệm thực hiện các quyền lợi về bảo hiểm xã hội do cả hai bên tham gia trong quá trình thực hiện quan hệ lao động: cả người sử dụng lao đôïng lẫn người lao động.
Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức những người thuôïc diện quy định trong pháp lệnh được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như đã quy định trong các điều tương ứng của Bộ Luật lao động.
Chế độ bảo hiểm xã hội theo pháp luật hiện hành gồm các loại hình sau:
Chế độ trợ cấp ốm đau;
Chế độ trợ cấp thai sản;
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp;
Chế độ hưu trí;
Chế độ tử tuất.
2.3- Một số nhận xét về cơ chế trả lương cho người làm việc trong các cơ quan nhà nước (nói chung)
Trước hết, cơ chế trả lương khác nhau giữa các quốc gia. Các nứơc đều không trả lương người làm việc cho nhà nước theo hình thức hợp đồng mà áp dụng hình thức phổ biến hình thức trả lương tháng, theo thâm niên. Hợp đồng là dạnh trả lương ở một số lĩnh vực.
Hai là, tiền công mà người làm việc cho nhà nước nhận được mang tính đơn phương.
Nghĩa là lương được nhà nước xác định và trả cho người làm việc trên cơ sở khoản ngân sách co được hành năm. Trong khi đó, ở các doanh nghiệp thì tiền lương là sự thỏa thuận giữa người thuê lao động và người làm thuê.
Ba là, khoản thu nhập của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước không chỉ đơn thuần là tiền lương mà còn bao gồm nhiều khoản phúc lợi khác.
Nhiều khoản chi phí cho sinh hoạt trước đây được nhà nước các nước bao cấp hoặc trả theo giá thấp hơn giá thành. Xu hướng chung là đưa các khoản trợ cấp vào trong tiền lương trực tiếp nhằm đản bảo sự bình đẳng trong thu nhập và tiếp cận gần hơn với cơ chế thị trường trong lao động.
Bốn là, mỗi một nhóm, loại, hạng, của công chức được thiết lập một bảng lương riêng. Trong bảng lương thường quy định theo nguyên tắc:
Mức lương thấp nhất trong một ngạch;
Mức lương cao nhất trong một ngạch;
Sự chênh lệch giữa hai bậc liền kề.
Mức lương cao nhất và mưcù lương tối thiểu cũng như mối quan hệ giữa hai bậc lương liền kề của một ngạch được chính phủ quy định hoặc có thể do một bộ do chính phủ ủy quyền. Ví dụ, Bộ Tài chính, Bộ công vụ hay Uûy ban công vụ.
Năm là, đại đa số các mức lương của khu vực tư nhân thường cao hơn mức lương của khu vực nhà nước. Tuy nhiên, điều nầy cũng không làm giảm đi tính hấp dẫn của khu vực nhà nước do nhiều khoản thu nhập khác mang lại.
Các nước có thị trường việc làm không ổn định, làm việc trong khu vực nhà nước vẫn là điều mong muốn của nhiều người.
Sáu là, sự tăng lương hàng năm mang tính chất thâm niên hơn là theo công trạng, thành tích.
Mức tăng lương như nhau cho mọi người trong cùng một nghạch, măïc dù gần đây các nước đều có quy định tăng lương trước thời hạn cho những người có thành tích. Nhưng việc xác định chính xác thành tích trong công vụ để được tăng lương sớm gặp khó khăn do việc đánh giá hoạt động trong khu vực nhà nước còn nhiều bất cập.
Bảy là, mức lương do ngạch công chức quy định và thay đổi tiền lương trong ngạch xảy ra chủ yếu do thâm niên. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính sách lương của chính phủ các nước mang ý nghĩa hình thức, chưa thực sự phát huy chức năng của tiền lương như trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Chính sách tiền lương nói chung được xác định dựa trên khả năng ngân sách của chính phủ hơn là chức năng của các cơ quan hành chính nhà nước và người thực thi công vụ.
Trả lương theo công việc hay mức độ hoàn thành công việc được coi là cách áp dụng kinh nghiệm của khu vực tư nhân vào khu vực công. Trongn khu vực tư nhân, tiền lương hay tiền công được xác định thông qua mức tăng năng suất lao động hay mức tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Và tiền lương chỉ tăng khi có đủ đièu kiện để tăng.
III.Nghĩa vụ của người lao động làm việc
trong các cơ quan nhà nước.
1. Khái niệm chung về nghĩa vụ
2. Nghĩa vụ của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước
1.Khái niệm chung về nghĩa vụ
Nghĩa vụ là một khái niêïm để chỉ những gì con người trong các tổ chức phải làm nếu như họ muốn tồn tại trongn tổ chức đó. Nghĩa vụ trong môït ý nghĩa nào đó có tính cưỡng bức.
Mỗi một tổ chức đều có quy định nghĩa vụ mà các thành viên của họ phải thực hiện. Nghĩa vụ của các tổ chức do quá trình hình thành và phát triển tổ chức tạo nên. Những quy định đó do tập thể tổ chức đề ra.
Nhà nước cũng đưa ra những quy định mang tính nghĩa vụ bắt buộc mọi công dân phải tuân theo. Những quy định mang tính nghĩa vụ có thể được ghi nhận trong nhiều loại văn bản pháp luật khác nhau.
Các bản Hiến pháp của nhà nước ta đều giành một chương nêu nghĩa vụ của công dân. Đó là những nghĩa vụ chung nhất cho mọi công dân nước Việt Nam:
Hiến pháp 1946 quy định mỗi công dân Việt nam phải:
Bảo vệ tổ quốc;
Tôn trọng Hiến pháp;
Tuân theo pháp luật;
Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính (HP 1946)
Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 cụ thể hoá thêm một số dạng nghĩa vụ của công dân.
Mỗi một giai đoạn lịch sử và tuỳ thuộc vào mức độ phát triển mà nhà nước quy định nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc đối với công dân trên mỗi lĩnh vực đời sống.
Trong các tổ chức, nghĩa vụ không có cơ sở pháp lý như của nhà nước. Nghĩa vụ trong các tổ chức thông thường có thể hiểu như là một sự cam kết tập thể. Mỗi một thành viên tổ chức đều tự nguyện chấp hành. Trong trường hợp ngược lại, các tổ chức có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau để xử lý.
2.Nghĩa vụ của người lao động làm việc trong các
cơ quan hành chính nhà nước
Như trên đã nêu, những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước là những người lao động đặc biệt. Tính đăïc biệt của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và các cơ quan nhà nước nói chung do đặc trưng của cơ quan hành chính quyết định.
Điều nầy cũng có nghĩa là những người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nầy được xem xét trên hai góc độ: công dân và là người lao động làm việc cho một tổ chức đặc biệt – các cơ quan hành chính nhà nước.
Trên phương diện công dân, những người làm việc cho các cơ quan hành chính nhà nước phải có nghĩa vụ đối với nhà nước như mọi công dân.
Nhưng họ là những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nên việc chấp hành các nghĩa vụ công dân phải được xã định ở mức tuyệt đối. Nhiều nước quy định xử lý rất nặng đối với những người làm việc trong cơ quan nhà nước không chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ của nhà nước quy định.
Trên phương diện là những người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, họ có những nghĩa vụ riêng do chính hệ thống pháp luật liên quan đến nhóm các cơ quan hành chính nhà nước quy định.
Trong hệ thống pháp luật dành cho đội ngũ những người là cán bộ, công chức, nghĩa vụ được xác định cụ thể trong các đạo luật như luật công vụ hoặc các đạo luật công khác.
Nghĩa vụ của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước là một mặt của hai phạm trù quyền lợi và nghĩa vụ đã nêu trên.
Nghĩa vụ chính là những gì nhà nước bắt buộc người lao động làm việc cho mình phải tuân thủ và đó cũng chính là những gì người lao động cam kết phải thực hiện khi họ trở thành thành viên của các cơ quan nhà nước.
Trên nguyên tắc, nghĩa vụ của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước mang tính đơn phương, do nhà nứơc quy định và người lao động phải cam kết tuân theo.
Những nghĩa vụ đó mang tính pháp lý và không phải là một sự thoả thuận giữa nhà nước và người lao động làm việc cho nhà nước.
Nếu như với các tổ chức khác, bên cạnh những quy định mang tính chất chung của pháp luật, người sử dụng lao động và người lao động có thể đi đến thoả thuận một số nội dung mang tính quy chế lao động, trong khi đó đối với cơ quan nhà nước những quy chế đó đã hình thành từ trước và người lao động muốn tham gia làm việc phải cam kết thực hiện.
Luật công vụ trên thực tế xác định nhiều yếu tố có liên quan đến nghĩa vụ của cán bộ, công chức. Pháp luật hiện hành của nước ta quy định cán bộ, công chức có những nghĩa vụ sau đây:
Trung thành với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ sự an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia.
Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật;
Tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân;
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
Có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; không được quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng;
Có ý thức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức; giữ gìn và bảo vệ của công, bảo vệ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật;
Thường xuyên học tập nâng cao trình độ; chủ động sáng tạo, phối hợp trong công tác nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ, côngn vụ được giao;
Chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo còm phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền theo quy định của pháp luật;
Cán bộ, công chức phải chấp hành quyết định của cấp trên; khi có căn cứ để cho là quyết định đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra quyết định; trong trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người ra quyết định và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.
Ngoài những nghĩa vụ mang tính chất phổ biến, người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước, tuỳ theo từng cơ quan mà có những nghĩa vụ khác.
Ví dụ, ngay khi thành lập Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hoà đã ban hành sắc lệnh số 22A NV / PC (ngày 18 tháng 2 / 1946) quy định “các công chức và binh sĩ tại ngũ có thể là Hội viên Hội đồng nhân dân được. Các công chức nếu được bầu vào một Uỷ ban hành chính huyện, tỉnh, hay kỳ phải xin nghỉ dài hạn không lương để tham gia vào Uỷ ban hành chính hoặc từ chối không nhận vào Ủy ban hành chính. Tạm thời cho tới khi có thể lệ định phụ cấp cho các uỷ viên, các công chức, vào trường hợp trên, có thể xin tạm ra ngoài ngạch để vào Uỷ ban hành chính và vẫn được hưởng lương bổng và phụ cấp theo bậc và nơi làm việc mới của mình.
Các công chức được bầu vào Uỷ ban hành chính xã có thể vừa làm công chức vừa tham gia vào Uỷ ban hành chính xã, nhưng chỉ được lĩnh lương công chức hoặc phụ cấp của uỷ viên hành chính xã.
Các binh sĩ tại ngũ không được ứng cử vào Uỷ ban hành chính (xã, huyện, tỉnh hay kỳ)”.
Một số nước đưa ra những quy định như: công chức trongn bộ máy hành chính nhà nước không được tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các chiến dịch vận động bầu cử; những ứng viên của các cuộc bầu cử không trúng cử, trong vòng một năm không được bổ nhiệm vào các vị trí của các cơ quan nhà nước kể cả doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Như vậy, những người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có thể lựa chọn hoặc tham gia các cơ quan dân cử (bầu) hoặc hoạt động hành chính nhà nước. Nhiều nước quy định Bộ trưởng không được trở thành đại biểu Quốc hội; nhưng cũng có nước quy định thành viên nội các phải là đại biểu Quốc hội.
Một trong những nghĩa vụ đặc biệt của những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước ở các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc cho tất cả cán bộ, công chức là không được làm một số điều cấm, những quy định này nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước được trao để mưu cầu lợi ích riêng.
Theo luật pháp hiện hành, cán bộ, công chức ở các nước không được làm một số việc như: không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc; không được cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc, .v.v.v.
Ngừơi lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước và trong bộ máy hành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp, về nguyên tắc phải là nhữngn người chấp hành nghiêm chỉnh, tuyệt đối pháp luật của nhà nước. Điều đó không chỉ phản ảnh đặc trưng của những người lao động trong các cơ quan nhà nước mà còn là yếu tố nhằm bảo đảm cho pháp luật nhà nước hiêju lực.
Nghĩa vụ chấp hành tuyệt đối nghiêm chỉnh pháp lụat nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trongn việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực.
Nếu công dân có nghĩa vụ chấp hành pháp luật theo nguyên tắc “sống và làm việc theo pháp luật” thì đội ngũ nhữngn người làm việc trong các cơ quan nhà nước phải thực hiện khẩu hiệu trên mang ý nghĩa tuyệt đối.
IV.Kỷ luật lao động trong các cơ quan
nhà nước.
1. Kỷ luật lao động trong các cơ quan
hành chính nhà nước
2. Xử lý vi phạm kỷ luật lao động đối với người làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước
3. Hình thức xử lý kỷ luật lao động
4. Nguyên tắc xử lý vi phạm kỷ luật lao
động
5. Cách thức tiến hành xử lý kỷ luật
6. Trách nhiệm vật chất trong kỷ luật
lao động
7. Một vài cách tiếp cận đến việc xử lý
kỷ luật
Thuật ngữ này được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung cũng như trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, nhiều người hiểu kỷ luật theo nghĩa tiêu cực của nó theo hướng “bị kỷ luật”.
Thuật ngữ “kỷ luật” được hiểu là “ những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ của tổ chức”.
Trong nhiều tài liệu liên quan đến quản lý, kỷ luật được hiểu là hệ thống các quy tắc, quy chế của các cơ quan, tổ chức đề ra nhằm đảm bảo cho hoạt động của tổ chức đó hoạt động thông suốt để đạt được mục tiêu của tổ chức đề ra với chi phí thấp nhất (hiệu lực và hiêïu quả).
Theo cách tư duy nầy, hệ thống các quy tắc, quy chế của tổ chức phải được thiết lập một cách khoa học, cụ thể, chi tiết, dễ thực hiện và mọi thành viên của tổ chức đều có quyền tham gia vào việc thiết lập các quy tắc, quy chế đó và biết rõ nó để thực hiện.
Trong các tổ chức sản xuất, chu trình thiết lập hệ thống quy tắc, quy chế (kỷ luật) thường theo sơ đồ sau:
Đánh giá
Người chủ (nhà quản lý)
Các mục tiêu, quy tắc, quy chế
Phổ biến các mục tiêu, quy tắc, quy chế
Xử lý hành vi không mong đợi
Người lao động
Quy trình thiết lập kỷ luật trong tổ chức
Trong các tổ chức chính trị – xã hội đều có những quy tắc, quy chế đề ra để định hướng và bắt buộc các thành viên của tổ chức phải thực hiện. Ví dụ, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam – đó chính là hệ thống quy tắc, quy chế (kỷ luật) bắt buộc các đảng viên phải tuân theo.
Trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, kỷ luật cũng được hiểu không khác với kỹ luật được sử dụng trong các tổ chức không phải nhà nước.
Tuy nhiên, kỷ luật trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước khi thi hành công vụ là những chế định mang tính pháp lý (được quy định trong các văn bản quản lý nhà nước) hằm đảm bảo cho nền công vụ hoạt động có hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra của nhà nước trong từng giai đoạn.
Kỷ luật cán bộ, công chức được hiểu là một chế định pháp luật, là tổng thể các quy định nhằm đảm bảo trật tự, nề nếp hoạt động của cơ quan, tổ chức.
Thuật ngữ “kỷ luật” còn được hiểu là sự chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về chế độ kỷ luật. Có nhiều dạng kỷ luật, có thể phân chia thành hai loại chính: kỷ luật Nhà nước (các quy định pháp luật về kỷ luật như kỷ luật lao động theo luật Lao động, kỷ luật tài chính… hoặc nội quy của các cơ quan, tổ chức Nhà nước) và kỷ luật xã hội (các quy định về chế độ kỷ luật của các tổ chức xã hội).
1.Kỷ luật lao động trong các cơ quan hành chính
nhà nước
Nghiên cứu kỷ luật lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước là nghiên cứu hệ thống các quy tắc, quy chế bắt buộc người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Hiện nay nhiều nước trong đó có Việt nam, hệ thống những quy tắc, quy chế mang tính kỷ luật của người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng về nguyên tắc được xây dựng thống nhất và đưa vào trong luật lao động công.
Kỷ luật lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước có thể tìm thấy trongn hệ thốngn các văn bản pháp luật.
Quy chế công vụ là văn bản thường được nhiều nước đề cập đến để xác định tính kỷ luật trong khi thi hành công vụ.
Quy chế hoạt động của nhóm các ngành khác nhau như hải quan, y tế, thuế…
Các cơ quan hành chính nhà nước đều ban hành quy chế hoạt động của cơ quan quy định các thủ tục giải quyết các công việc của nhân dân (ví dụ: quy định thủ tục hành chính “một cửa” trongn việc phục vụ nhân dân cũng thể hiện xu thế hoàn thiện kỷ luật trong dịch vụ công).
Nghiên cứu kỷ luật trong cơ quan hành chính nhà nước tức nghiên cứu các quy tắc, quy chế phục vụ nhân dân của các cơ quan đó, đồng thời nghiên cứu việc tuân thủ các quy tắc, quy chế đó của đội ngũ người lao động trong cơ quan hành chính nhà nước.
Hệ thống các quy tắc, quy chế của cơ quan hành chính nhà nước (khía cạnh kỷ luật tích cực) nếu được xây dựng một cách khoa học, đơn giản và dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát việc thực hiện thì đội ngũ những người lao động làm việc dựa trên quy tắc, quy chế đó sẽ thuận tiện và dễ được đánh giá đúng.
Trên thực tế, kỷ luật lao động của các cơ quan hành chính nhà nước còn thiếu cả hai tính chất trên (khoa học, đơn giản và dễ thực hiện…).
Hệ thống các quy tắc, quy chế nầy hoặc xây dựng quá sơ sài, chung chung hoặc không có nên khi thực hiện các hoạt động cụ thể, người lao động có thể tuỳ tiện đưa ra các một cách thức hoạt động riêng.(vận dụng?)
Điều đó làm cho nhiều hoạt động quản lý hành chính nhà nước khác nhau giữa cơ quan nầy với cơ quan khác trên cùng một vấn đề. Mặt khác, không ít người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước coi nhẹ tính kỷ luật và vi phạm kỷ luật khi thừa hành công vụ.
2.Xử lý vi phạm kỷ luật lao động đối với người làm
việc trong cơ quan hành chính nhà nước
a.Đối với nhóm cán bộ, công chức
b.Nhóm công chức
c. Nhóm người lao động làm việc theo chế độ hợp
đồng
Xử lý vi phạm kỷ luật lao động đối với người làm việc trong cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng chỉ là đề cập đến các khía cạnh của kỷ luật hành chính, tức vi phạm quy tắc, quy chế hoạt động của cơ quan.
Trong những trường hợp vi phạm kỷ luật khác (hình sự, dân sự,…) không được xem xét ở môn học nầy, hay nói cách khác, vi phạm kỷ luật ở đây chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hình thức vi phạm kỷ luật của người lao động làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước nước ta có thể chia thành nhiều nhóm khác nhau:
Cán bộ, công chức theo pháp lệnh cán bộ, công chức (1998)
Công chức, những người được quy định trong Nghị định 95-1998/NĐ-CP
làm việc trong cơ quan hành
Những người chính nhà nước theo chế độ hợp đồng.
Tuỳ theo nhóm đối tượng, việc xử lý kỷ luật có thể dựa trên nhiều quy định. Ví dụ, những người là công chức theo quy định của Nghị định 95- 1998/NĐ-CP khi bị xử lý kỷ luật còn phải dựa vào những quy định của quân đội và của công an; nhóm người lao động trong các cơ quan hành chính nhà nước theo chế độ hợp đồng được xử lý theo Bộ Luật Lao động.
a.Đối với nhóm cán bộ, công chức
Vi phạm kỷ luật của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước được xử lý theo các điều khoản quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Hình thức kỷ luật:
Khiển trách;
Cảnh cáo;
Hạ bậc lương;
Hạ ngạch;
Cách chức;
Buộc thôi việc.
Cán bộ, công chức làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của Nhà nước thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại cho người khác thì phải hoàn trả cho cơ quan, tổ chức khoản tiền mầ cơ quan, tổ chức đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian đang bị xem xét kỷ luật, cán bộ, công chức có thể bị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý ra quyết định tạm đình chỉ công tác nếu xét thấy cán bộ, công chức đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xác minh hoặc tiếp tục có hành vi vi phạm. Thời hạn tạm đình chỉ không quá mười lăm (15) ngày, trong trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng không được quá ba tháng;
hết thời hạn tạm đình chỉ công tác, nếu không bị xử lý thì cán bộ, công chức được tiếp tục làm việc. Cán bộ, công chức trong thời gian bị đình chỉ công tác được hưởng lương theo quy định của Chính phủ.
Cán bộ, công chức không có lỗi thì sau khi tạm đình chỉ công tác được bố trí về vị trí công tác cũ; trường hợp các bộ, công chức bị xử lý kỷ luật bằngn các hình thức khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể được bố trí về vị trí công tác cũ hoặc chuyển làm công tác khác. Cán bộ, công chức bị kỷ luật bằng hình thức cách chức được bố trí làm công tác khác.
Cán bộ, công chức trừ những người do bầu cử để giữ chức vụ theo nhiệm kỳ theo điều 1 của Pháp lệnh nầy bị kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo, cách chức thì bị kéo dài thời gian nâng bậc lương thêm một năm; trong trường hợp bị kỷ luật bằng một trong các hình thức từ khiển trách đến cách chức thì không được bổ nhiệm vào các chức vụ cao hơn trong thời hạn ít nhất một năm, kể từ khi có quyết định kỷ luật.
Trong trường hợp cán bộ, công chức bị kỷ luật vì có hành vi tham nhũng, thì việc xử lý kỷ luật được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật, điều lệ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.
Cán bộ , công chức phạm tội bị Toà án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thội việc kể từ ngày quyết định bản án có hiệu lực.
Luật pháp quy định cụ thể những cách thức tiến hành xử lý cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật đồng thời xác định quyền của cán bộ, công chức khiếu nại đối với hình thức kỷ luật. Những quy định như trên nhằm dảm bảo nguyên tắc: kỷ luật nhằm giáo dục cán bộ, công chức chấp hành tuyệt đối pháp luật của nhà nước.
b.Nhóm công chức
Nếu như Pháp lệnh quy định kỷ luật chung cho cán bộ, công chức, văn bản pháp quy của Chính phủ (NĐ 97/1998/NĐ-CP) quy định cac hình thức cụ thể để xử lý công chức (những người được xác định theo tinh thần Nghị định 95/1998/NĐ-CP) vi phạm kỹ luật.
Dó là những công chức không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã ghi trong pháp lệnh cán bộ, công chức cũng như những quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động công vụ (NĐ 97). Pháp lệnh chốnh tham nhũng p293
c. Nhóm người lao động làm việc theo chế độ hợp
đồng
3.Hình thức xử lý kỷ luật lao động
4.Nguyên tắc xử lý vi phạm kỷ luật lao động
5.Cách thức tiến hành xử lý kỷ luật
6.Trách nhiệm vật chất trong kỷ luật lao động
7.Một vài cách tiếp cận đến việc xử lý kỷ luật