An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƢƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
----------o0o----------
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: AN SINH XÃ HỘI
Đề tài:
Tìm hiểu và nghiên cứu về trợ cấp tuổi già
Danh sách nhóm: Nguyễn Thị Phƣơng _ 11142325_Nhóm trƣởng
Cao Thị Hƣờng _ 11141955
Hà Thị Thanh _ 11153956
Nguyễn Thị Ngọc Trang _ 11141320
Vũ Thị Ánh Tuyết _ 11150800
Lớp tín chỉ: An sinh xã hội_8
Hà Nội, tháng 10/2016
1
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
LỜI NÓI ĐẦU:
T
ừ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành, phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành ở Việt Nam, nhưng những nội dung của ASXH thì đã được thực hiện khá lâu. Những câu thành ngữ “áo lành đùm áo rách”, “thương người như thể thương thân”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…, đã thể hiện tính cộng đồng ở nước ta và nó đã góp phần điều chỉnh các hành vi trong xã hội về các hoạt động mang nội dung ASXH và dần được Nhà nước xây dựng thành các chính sách về ASXH. An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Để chính sách này đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Pháp luật về an sinh xã hội ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
Vì những nguyên do đó mà An sinh xã hội, đặc biệt là trợ cấp tuổi già, là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Và để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em đã nghiên cứu về an sinh xã hội-trợ cấp tuổi già với những vai trò của nó tới mọi mặt đời sống cũng như liên hệ thực tiễn về chế độ hưu trí tại Việt Nam.
2
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
II, Khái quát về tổ chức Lao động quốc tế (ILO................................................................11
1, Nguồn gốc......................................................................................................................11
2, Thành viên của ILO......................................................................................................12
3, Mục tiêu và hoạt động..................................................................................................12
4, Hình thức hỗ trợ của ILO.............................................................................................12
III, Nội dung các chính sách, chương trình trong hệ thống ASXH..................................14
1, Bảo hiểm xã hội (BHXH).............................................................................................14
2, Cứu trợ xã hội (CTXH)................................................................................................17
3, Ưu đãi xã hội (ƯDXH)................................................................................................20
4, Xóa đói giảm nghèo (XĐGN)......................................................................................21
IV, Vấn đề tài chính trong ASXH, cơ chế đóng góp, phương thức phân phối tài chính và
các đối tượng trong diện bảo vệ của an sinh..............................................................................24
V, Giới thiệu về già hóa dân số. Chế độ trợ cấp tuổi già...............................................24
1, Tại sao cần có trợ cấp tuổi già trên Thế giới.............................................................27
2, Sự cần thiết của chế độ hưu trí tại Việt Nam..............................................................28
3, Thực trạng về thu nhập và chế độ y tế dành cho người già trên Thế giới...................31
4, Mười hoạt động ưu tiên nhằm tận dụng tối đa cơ hội của dân số già hóa..................33
5, Đối tượng được hưởng trợ cấp tuổi già.......................................................................34
6, Điều kiện được hưởng trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp..................37
VI, Nhận thức về ASXH của mọi người hiện nay..............................................................41
1, Nhận thức của Đảng và nhà nước................................................................................41
2, Nhận thức của người dân...............................................................................................43
3, Trách nhiệm, cơ chế giám sát và sự quản lí của nhà nước, chính quyền......................44
Bài tiểu luận của chúng em bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: I, Phân tích tổng quan về An sinh xã hội.............................................................................4
3
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
I. Phân tích tổng quan về An sinh xã hội:
1. Quan niệm An sinh xã hội: a. Quan niệm về An sinh xã hội trên thế giới:
Trong thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp
cận nên hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về ASXH.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh thu nhập.
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là hình thức bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong, cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em.
Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống chính sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà ISSA quan tâm nhiều trong hệ thống ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua bảo hiểm y tế; hệ thống BHXH, chăm sóc tuổi già; phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ giúp xã hội.
4
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
b. Quan niệm về An sinh xã hội ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, mặc dù ASXH là một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ nhưng cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý nghiên cứu về vấn đề này.
- Theo GS Hoàng Chí Bảo thì: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội. ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống) như một con người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách.
- Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì "ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy cơ suy giảm, mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khác quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khoẻ cho cộng đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ giúp xã hội.
- GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được bản chất, chúng ta
phải tiếp cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này.
+ Theo nghĩa rộng: ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền để con người
được an bình, đảm bảo an ninh, an toàn trong xã hội.
. + Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, người bị thiên tai địch hoạ.
- "Chiến lược ASXH giai đoạn 2011 – 2020”ghi nhận: “An sinh xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”.
Trong bài "Đảm bảo ngày càng tốt hơn ASXH và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020” Thủ
5
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng "ASXH và PLXH là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân".
Trên cơ sở phân tích các quan điểm về ASXH trên, chúng ta có thể khái quát rằng: An sinh xã hội là những can thiệp của Nhà nƣớc và xã hội bằng các biện pháp kinh tế để hạn chế, phòng ngừa và khắc phục rủi ro cho các thành viên trong cộng đồng do bị mất hoặc giảm thu nhập bởi các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thƣơng tật, tuổi già và chết; đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay khi gặp những rủi ro xã hội khác. Chính sách ASXH là một chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội do đó nó vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và nhân đạo sâu sắc.
Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng thời, còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
6
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này là BHXH) đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, người khoẻ – người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. Ngoài BHXH, các hình thức truyền thống về tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người già, bảo vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều kiện tổ chức, chính trị, kinh tế – xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử, trong đó BHXH là trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social Security) trên thế giới là Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến
7
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
năm 1941, trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chính thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. ASXH đã được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về ASXH đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ phận.
c. Bản chất của An sinh xã hội:
ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển lành mạnh.
Là 1 cơ chế - công cụ phân phối lại thu nhập cá nhân trong xã hội theo
chiều ngang (nam, nữ, già ,trẻ…) và chiều dọc (giàu – nghèo).
Là sự che chắn, bảo vệ thành viên trong xã hội trước rủi ro, biến cố bất lợi tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mỗi quốc gia. Thể hiện rõ ràng nhất quyền của con người được LHQ công nhận- Chủ nghĩa nhân văn – nhân đạo: nhà nước và xã hội cùng giúp đỡ những người gặp rủi ro.
=> Tạo động lực cho họ và sự đoàn kết cộng đồng..- ASXH gồm những
chính sách: BHXH, CTXH, UĐXH, XĐ-GN, QDP.
2. a. Vai trò, ý nghĩa của An sinh xã hội: Vai trò của An sinh xã hội:
Vai trò, ý nghĩa của an sinh xã hội Vai trò của an sinh xã hội Khi đánh giá về vai trò của ASXH, Ngân hàng Thế giới cho rằng, một hệ thống ASXH được thiết kế tốt sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Thông qua
8
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
hệ thống ASXH, Nhà nước tiến hành phân phối lại thu nhập cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương, nhanh chóng tác động lên nghèo đói và bất bình đẳng xã hội. Trên cơ sở phân tích vị trí của ASXH trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, ASXH có những vai trò cơ bản sau:
Đối với xã hội:
+ Hệ thống ASXH là một trong những cấu phần quan trọng trong các chương trình xã hội của một quốc gia và là công cụ quản lý của nhà nước thông qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình ASXH. Mục đích của nó là giữ gìn sự ổn định về xã hội - kinh tế - chính trị của đất nước, đặc biệt là ổn định xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội; tạo nên sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển.
ASXH còn là một trong những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính sách xã hội. Nó hướng đến bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát triển của một nước trong quá trình phát triển và hội nhập.
+ Bảo đảm ASXH là nền tảng của phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thông qua việc áp dụng các cơ chế điều tiết, phân phối lại thu nhập giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế và các nhóm dân cư, ASXH có thể được coi như là một giá đỡ đảm bảo thu nhập cho người dân.
Hệ thống chính sách ASXH được thiết kế trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, đoàn kết ở các mức độ khác nhau còn thể hiện giá trị và định hướng phát triển của một quốc gia. Cách thức thiết kế hệ thống ASXH chính là sự thể hiện mô hình phát triển xã hội, quan điểm lựa chọn đầu tư cho con người.
+ Hệ thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thông qua việc "điều hoà”các "mâu thuẫn xã hội", đảm bảo xã hội không có sự loại trừ, điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và bất ổn định xã hội.
Nhà nước thông qua chính sách ASXH để cân đối, điều chỉnh nguồn lực cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triển hài hoà, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, hạn chế bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.
9
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Thông qua việc hoạch định và thực hiện chính sách ASXH, cho phép các Chính phủ tiến hành lựa chọn mục tiêu tăng trưởng hiệu quả và bền vững. Một hệ thống ASXH lâu dài, đầy đủ có thể thực hiện mọi mục tiêu tái phân phối của xã hội, giải phóng các nguồn lực trong dân cư.
Đối với các gia đình:
Nếu một hệ thống ASXH được thiết kế hiệu quả có thể tạo điều kiện cho các gia đình đầu tư tốt hơn cho tương lai. Trong vai trò này, hệ thống ASXH cơ bản là khắc phục các rủi ro trong tương lai, cho phép các gia đình tiếp cận đến được các cơ hội để phát triển.
Hệ thống ASXH còn góp phần hỗ trợ cho các gia đình quản lý được rủi ro. Thông qua các chương trình ASXH, ít nhất nó cũng giúp cho các gia đình đương đầu được với những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống.
ASXH còn là một yếu tố bảo hiểm, cho phép các gia đình được lựa chọn sinh kế để phát triển. Như vậy, hệ thống ASXH vừa bảo vệ cho các thành viên trong xã hội vừa nâng cao khả năng tồn tại độc lập của họ trong cuộc sống. Ý nghĩa của an sinh xã hội An sinh xã hội là một biện pháp của chính sách xã hội và là một trong những chỉ báo quan trọng về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống.
b. Ý nghĩa của an sinh xã hội
An sinh xã hội là một biện pháp của chính sách xã hội và là một trong những chỉ báo quan trọng về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mà đối tượng của nó là những người gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống.
An sinh xã hội vừa mang ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có giá trị về mặt xã hội, đặc biệt nó thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp và tinh thần nhân đạo sâu sắc. An sinh xã hội có các ý nghĩa cụ thể sau:
Thứ nhất, an sinh xã hội lấy con người làm trung tâm, coi quyền con người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro xảy ra. Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong tuyên
10
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua ngày 10.12.1948 đã khẳng định: “Tất cả mội người, với tư cách là thành viên xã hội xó quyền hưởng đảm bảo xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho sự tự do phát triển con người”.
Thứ hai, an sinh xã hội vừa tạo điều kiện cơ bản và thuận lợi giúp các đối tượng đặc biệt có cơ hội để phát huy hết thế mạnh của cá nhân đồng thời thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo cơ hội giúp họ hòa nhập vào cộng đồng.
Thứ ba, an sinh xã hội góp phần ổn định phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu cơ bản của an sinh xã hội là tạo môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho người lao động, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. An sinh xã hội phỉa thực sự là công cụ phát triển tiến bộ xã hội. Ngoài việc giảm bớt, hạn chế những khó khăn cho đối tượng nghèo đói, an sinh xã hội còn phải đa dạng hóa các hình thức hoạt động khác nhau đối với các đối tượng khác nhau để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ tư, an sinh xã hội thể hiện truyền thống tương thân, tương ái, đoàn kết giúp đỡ nhau của cộng đồng. Trên cơ sở sự liên kết, hợp tác của cộng đồng những rủi ro hoạn nạn được chia sẻ, đây là yếu tố phát huy sức mạnh của cộng đồng, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc ta.
Thứ năm, an sinh xã hội góp phần phân phối lại thu nhập giữa xác tầng lớp dân cư, giữa những người lao động làm công ăn lương, giữa những người có công với nước, giữa những người gặp khó khăn, biến cố rủi ro, giữa những người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa...
II. Khái quát về tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
1. Nguồn gốc:
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) được thành lập năm 1919, vào thời điểm Chiến tranh Thế giới Thứ nhất kết thúc. Khởi xướng việc thành lập ILO là ông Robert Owen - nhà công nghiệp xứ Wales (1771-1853), và ông Daniel Legrand- nhà công nghiệp người Pháp (1783-1859). Lúc mới thành lập, ILO là tổ chức độc lập liên kết với Hội Quốc Liên. Đến năm 1946, ILO ký Hiệp định quy định các
11
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
mối quan hệ với Liên hợp quốc (LHQ) và trở thành tổ chức chuyên môn đầu tiên của LHQ. Từ năm 1920, ILO đóng Trụ sở tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sỹ.
2. Thành viên của ILO:
Khi thành lập năm 1919, ILO chỉ có 45 nước tham gia. Đến nay, ILO đã có 180 quốc gia thành viên trong đó Brunây là thành viên trẻ nhất - vừa gia nhập ILO đầu năm 2007. Nguồn kinh phí cho các hoạt động của ILO bao gồm: nguồn ngân sách thường xuyên do các nước thành viên ILO đóng góp niên liễm theo tỷ lệ của Liên hợp quốc, và các nguồn tài chính do các nhà tài trợ song phương và đa phương hỗ trợ.
3. Mục tiêu và hoạt động:
ILO được thành lập trên cơ sở ba mục tiêu cơ bản là mục tiêu nhân đạo (cải thiện điều kiện làm việc của người lao động); mục tiêu chính trị (đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ các quyền lao động và quyền con người sẽ tạo bình ổn xã hội); và mục tiêu kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu trên, ILO xây dựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua hình thức các Công ước (CW) và Nghị quyết trong đó qui định các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền của người lao động (ví dụ quyền tự do thương hội, quyền được tổ chức và đàm phán tập thể, quyền xoá bỏ lao động cưỡng bức, không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc và trong việc làm vv…). Đến nay (2/2007), ILO đã thông qua tổng cộng 187 Công ước và 197 Khuyến nghị. Trong số 187 CW trên, có 8 CW được coi là các Công ước cơ bản tập trung vào 4 lĩnh vực: Tự do lập hội và tổ chức; Chống lao động cưỡng bức; Xóa bỏ lao động trẻ em; Chống phân biệt đối xử. Các Công ước và Khuyến nghị của ILO được coi là cơ sở của Bộ luật lao động quốc tế.
4. Hình thức hỗ trợ của ILO:
12
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Các quốc gia thành viên được ILO hỗ trợ dưới hình thức các chương trình, dự án do ILO điều hành. Các hoạt động trợ giúp khác là: tư vấn; nghiên cứu kỹ thuật; tăng cường năng lực, thể chế; đào tạo, thăm quan khảo sát, hội nghị/hội thảo về các chuyên đề liên quan đến chiến lược và chính sách lao động, việc làm. Mọi hoạt động trợ giúp của ILO đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong Điều Lệ ILO, đó là tôn trọng quyền cơ bản tại nơi làm việc; tạo thêm nhiều cơ hội cho phụ nữ cũng như nam giới có được việc làm đàng hoàng với thu nhập phù hợp và được bảo vệ về nhân phẩm.
Trên cơ sở chính sách chung qui định trong Điều lệ ILO và 6 nội dung cơ bản nêu trong Chương trình Nghị sự về Việc làm Bền vững, ILO hỗ trợ các quốc gia thành viên thông qua các chương trình, dự án liên quan đến quan đến hỗ trợ hoạch định chiến lược, xây dựng chính sách lao động và việc làm đảm bảo phù hợp với ưu tiên của cả ILO và của quốc gia thành viên. Trên cơ sở các nguyên tắc trên, các lĩnh vực cụ thể được ILO ưu tiên trợ giúp là:
(1) hỗ trợ đào tạo và tái đào tạo nghề
(2) xây dựng các chính sách việc làm
(3) quản lý lao động
(4) xây dựng luật lao động và quan hệ lao động
(5) cải thiện điều kiện làm việc
(6) phát triển quản lý
(7) xây dựng hôi, nghiệp đoàn
(8) bảo đảm an sinh xã hội
(9) tập hợp tư liệu về lao động, an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp.
Nhìn chung, định hướng chiến lược các hoạt động của ILO thể hiện trong Chương trình Nghị sự về Việc làm Bền vững của Tổng Giám đốc ILO được các nước thành viên tích cực hưởng ứng. Hội đồng kinh tế xã hội của LHQ họp tháng 7/2006 đã dành thời gian Phiên Thảo luận Cấp cao để thảo luận và ủng hộ Chương trình này. Cho tới nay, các hoạt động hỗ trợ của ILO được đánh giá là hiệu quả, kịp
13
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
thời và góp phần hỗ trợ tích cực các quốc gia trong lĩnh vực xây dưng chính sách lao động, cải thiện quan hệ lao động và điều kiện làm việc cho người lao động.
III. Nội dung các chính sách, chƣơng trình trong hệ thống ASXH:
Bảo hiểm xã hội (BHXH):
1. a. Khái niệm BHXH:
- BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
b.
Bản chất của BHXH: BHXH ra đời, tồn tại và phát triển là một tất yếu khác quan cùng với sự phát triển của xã hội loài người, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động sẽ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được ILO cụ thể hóa như sau:
14
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
c. Đối tƣợng của BHXH:
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu...Chính vì vậy, đối tượng bảo hiểm xã hội chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được bảo hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH).
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có người sử dụng lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH là vì phần họ thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia BHXH, một phần là do sự ép buộc của Nhà nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với Nhà nước thì khác, họ tham gia BHXH với tư cách là: chủ sở hữu lao động đối với tất cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ ngân sách. Nhà nước là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà cụ thể là bảo hộ giá trị của quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quỹ nhằm tạo sự ổn định cho quỹ và sự phát triển xã hội.
Đối tượng được bảo hiểm xã hội trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải bỏ ra một khoản chi phí cho ngưòi lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh chóng được cơ quan bảo hiểm hoàn trả lại.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là ngưòi lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí. Nhưng trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội lại là thân nhân của người lao động như: bố, mẹ, con, vợ (chồng).
d. Phạm vi của BHXH:
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của tổ chức lao động
quốc tế ILO phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
15
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ
thực hiện kiến nghị đó ở mức độ khác nhau.
Ở nước ta theo điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
e.
Chính sách và chế độ BHXH: Chính sách BHXH là những quy định chung, có nội dung khái quát về đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ…nhằm đạt mục tiêu chung của BHXH. Việc ban hành chính sách BHXH dựa trên cơ sở các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chính sách BHXH được cụ thể hóa qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là cụ thể hóa chính sách BHXH, quy định cụ thể và chi tiết việc thực hiện BHXH. Thực chất đây là một hệ thống các quy định được luật hóa về đối tượng BHXH và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của nó.
Nội dung của Công ước số 102 về BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế
độ như sau:
1. Chế độ chăm sóc y tế
2. Chế đọ trợ cấp ốm đau
3. Chế độ trợ cấp thất nghiệp
4. Chế độ trợ cấp tuổi già
16
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
5. Chế độ trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp
6. Chế độ trợ cấp gia đình
7. Chế độ trợ cấp thai sản
8. Chế độ trợ cấp tàn tật
9. Chế độ trợ cấp tiền tuất.
Tuy điều kiện kinh tế - xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các quốc gia khi triển khai BHXH có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải có 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ (3), (4), (5), (8), (9).
Công ước số 157 được thông qua ngày 21-06-1982, gọi là Công ước về duy trì các quyền về an toàn xã hội, tiếp tục khẳng định 9 nhánh an toàn xã hội như trên. Đó là các chế độ: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thai sản; Trợ cấp tàn tật; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tiền tuất; Trợ cấp TNLĐ & BNN; Trợ cấp thất nghiệp và Trợ cấp gia đình. Tiếp theo vẫn còn một số các Công ước và Khuyến nghị liên quan đến các chế độ BHXH nhưng nội dung chủ yếu vẫn theo tinh thần của Công ước số 102.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu:
-Các chế độ BHXH được xây dựng theo luật pháp của mỗi quốc gia và có
tính ổn định tương đối.
-Hệ thống các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro.
-Việc chi trả chế độ BHXH chủ yếu căn cứ vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
-Chi trả các chế độ BHXH chủ yếu được thực hiện định kỳ.
2. Cứu trợ xã hội (CTXH):
a. Khái niệm:
17
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
CTXH là sự giúp đỡ của xã hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và cộng đồng đối với các thành viên gặp khó khăn, bất hạnh và rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn tật, già yếu…dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn túng quẫn nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn nghèo khốn và vươn lên trong cuộc sống bình thường.
b. Đặc trƣng của CTXH:
- Đối tượng được cứu trợ có phạm vi rộng, toàn dân.
- Người được nhận trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính.
Nguồn quỹ dùng để trợ cấp được lấy từ thuế hoặc từ đóng góp của cộng đồng.
- Mức trợ cấp không đồng đều mà tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và được xác định dựa vào việc thẩm tra đánh giá thu nhập, vốn và tài sản của người được xét hưởng trợ cấp.
- Trợ cấp có thể bằng tiền hoặc hiện vật. Khác với bảo hiểm xã hội là hầu
như chỉ bằng tiền.
c. Vai trò:
Vai trò của CTXH tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như nguyên nhân cụ thể gây tổn thương cho người dân nước đó. Nhìn chung, CTXH bao gồm những vai trò cơ bản sau:
- Đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng, từ đó giúp họ đối phó với những khủng hoảng bất ngờ, vượt qua được những khó khăn để tồn tại.
- Góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương của
những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế.
- Góp phần làm cho sự bảo vệ của hệ thống ASXH toàn diện hơn. CTXH đã khắc phục được hạn chế của BHXH (chưa có tính phổ cập, không thể bao trùm hết các bộ phận dân cư cũng như chỉ mới đưa ra mức hỗ trợ hạn chế), nó cung cấp bảo vệ bổ sung, đảm bảo tất cả mọi người trong xã hội đều được giúp đỡ khi gặp rủi ro.
18
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
- Góp phần phát triển một xã hội hài hòa và bền vững, đưa những người được cứu trợ ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi tâm lý mặc cảm, vươn lên hòa nhập vào cộng đồng. Từ đó giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
d. Mục tiêu:
- Chuyển nhượng các nguồn lực cho cá nhân, các hộ gia đình và các bộ phận dân cư rơi vào tình trạng túng quẫn và dễ bị tổn thương nhất, từ đó giúp họ đảm bảo mức sống tối thiểu và cả thiện điều kiện sống.
- Mục tiêu sâu xa: giảm nghèo và tạo ra nhiều cơ hội tiếp cận cho những người hoặc những nhóm dân cư dễ bị tổn thương (giảm chênh lệch mức sống, xây dựng nếp sống tốt đẹp giữa người với người, xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân đạo và văn minh).
e. Những quan điểm cơ bản về CTXH:
- Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được CTXH khi cần thiết.
- Nhà nước là chủ thể chính thực hiện CTXH.
- Xã hội hóa hoạt động CTXH là xu hướng tất yếu hiện nay.
- Các đối tượng được CTXH phải có trách nhiệm đối với bản thân và
cộng đồng.
- CTXH là cơ sở để phát triển xã hội bền vững.
f. Đối tƣợng của CTXH:
Đối tượng của CTXH rất đã dạng, bao gồm:
- Những người tàn tật trong cộng đồng, là người bị khiếm khuyết một
hay nhiều bộ phận hoặc chức năng biểu hiện dưới các dạng tật khác nhau, làm suy
giảm khả năng lao động.
- Những người già yếu từ cộng đồng, chủ yếu là những người già cô đơn
không nơi nương tựa, thiếu thốn về thu nhập và sinh hoạt.
- Đối tượng tiếp theo là trẻ em, trẻ em là mầm non của đất nước, luôn
được toàn xã hội quan tâm, tuy nhiên vẫn còn một số bộ phận trẻ em rơi vào tình
19
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
cảnh bất hạnh và dễ tổn thương.
- Ngoài các nhóm đối tượng nên trên, còn có các đối tượng khác như
người bị nhiếm HIV/AIDS, người lang thang xin ăn, những người nghiện hút ma
túy, những người hoạt động mại dâm...nhất là trong thời kỉ kinh tế thị trường hiện
nay, các tệ nạn xã hội đang có điều kiện thuận lợi để phát triển.
- Ngoài các cá nhân yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng thì đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội còn được xác định theo đơn vị hộ gia đình, chẳng hạn như hộ gia đình rất nghèo, các hộ gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
g. Các hình thức của cứu trợ xã hội:
- Cứu trợ xã hội thường xuyên.
- Cứu trợ xã hội đột xuất.
- Cứu trợ xã hội bằng tiền.
- Cứu trợ xã hội bằng hiện vật.
3. Ƣu đãi xã hội (ƢĐXH):
a. Khái niệm:
- ƯĐXH là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất lẫn tinh thần của Nhà nước
và xã hội nhằm ghi nhận và đền đáp công lao đối với những cá nhân hay tập thể có
cống hiến đặc biệt cho cộng đồng.
b. Vai trò:
- Giáo dục cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai ý thức được trách nhiệm của
mình đối với xã hội, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp của dân tộc.
- Thực hiện chính sách ƯĐXH sẽ góp phần ổn định xã hội, giữ vững thể
chế chính trị.
- Thực hiện ƯĐXH là góp phần thực hiện chính sách con người của quốc
gia, thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”.
c. Mục đích:
20
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
- ƯĐXH nhằm ghi nhận và tri ân những cá nhân hay tập thể đã có những
cống hiến đặc biệt cho cộng đồng và đất nước.
- Nhằm đảm bảo công bằng xã hội, vì ai cống hiến nhiều cho xã hội,
người đó phải được hưởng nhiều, đây là sự cống hiến đặc biệt bằng cả xương máu.
- Tái sản xuất những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc và giáo dục
truyền thống cho những thế hệ tương lai.
- Đảm bảo ổn định thể chế chính trị của Nhà nước.
d. Các quan điểm cơ bản về ƢĐXH:
- ƯĐXH là một chính sách xã hội đặc biệt quan trọng trong hệ thống các
chính sách ASXH ở mỗi quốc gia.
- ƯĐXH là việc đầu tư xã hội nhằm tái sản xuất những giá trị tinh thần
cao đẹp của dân tộc.
- ƯĐXH không phải là sự ban ơn mà là thực hiện công bằng xã hội.
- ƯĐXH là trách nhiệm của cả Nhà nước và toàn dân.
e. Đối tƣợng đƣợc hƣởng ƢĐXH:
- Những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc:
+ Liệt sĩ và gia đình liệt sĩ
+ Thương binh và bệnh binh
+ Những người tham gia hoạt động Cách mạng
- Những người có cống hiến đặc biệt trong công cuộc xây dựng đất nước.
f. Các hình thức ƢĐXH:
- Ưu đãi về vật chất: trợ cấp bằng tiền; bằng hiện vật; trợ cấp nghỉ dưỡng,
an dưỡng, tham quann du lịch; ưu tiên giao hoặc thuê đất, vay vốn ưu đãi sản
xuất,…
- Ưu đãi về tinh thần: tặng bằng khen, huân, huy chương; tặng bằng Tổ
quốc ghi công; dựng tượng đài có công; dùng tên người có công để đặt tên phố, ưu
tiên con em các đối tượng có công trong tuyển sinh giáo dục và đào tạo,…
4. Xóa đói, giảm nghèo (XĐGN):
Nội dung chương trình XĐGN xét trên góc độ các vấn đề can thiệp bao
21
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
gồm nhiều biện pháp được sử dụng như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đất đai sản xuất và
nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế và giáo dục…Các biện pháp này có thể
được chia thành 3 nhóm chính: Nhóm các biện pháp tạo điều kiện cho người nghèo
phát triển sản xuất tăng thu nhập; nhóm các biện pháp tạo cơ hội cho người nghèo
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; và nhóm các biện pháp mở rộng mạng lưới
ASXH đến với người nghèo.
a. Tạo điều kiện cho ngƣời nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập:
- Tín dụng ưu đãi cho người nghèo: Một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến nghèo đói đó là thiếu vốn sản xuất (ở nước ta có tới 79% người nghèo là
do thiếu vốn). Vì vậy, việc Nhà nước cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo có ý
nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện giúp họ tự thoát nghèo, có điều kiện để
mua sắm thêm các phương tiện sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi
phương thức sản xuất có năng suất lao động cao hơn.
- Hỗ trợ đất sản xuất: Chương trình này thường được thực hiện ở các
nước sản xuất nông nghiệp và người nghèo chủ yếu là người nông dân.
- Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu: Các điều kiện về cơ sở hạ tầng
như: đường sá, trường học, trạm điện, trạm bơm nước, công trình thủy lợi có ảnh
hưởng sâu sắc đến công tác xóa đói giảm nghèo; đặc biệt là ở các khu vực nông
thôn, nơi thường có nhiều người nghèo sinh sống.
- Chương trình khuyến nông, lâm, ngư: Các dịch vụ khuyến nông nhằm
tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận với các thông tin, kỹ thuật, và phát triển
thị trường. Vì vậy, đây là biện pháp quan trọng để thực hiện xóa đói giảm nghèo
một cách bền vững, đặc biệt là ở các nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
- Các chương trình hỗ trợ khác: Tùy theo điều kiện cụ thể mà mỗi nước
còn có thể có những chương trình hỗ trợ khác.
b. Tạo điều kiện để ngƣời nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản:
- Hỗ trợ về y tế cho người nghèo: Có một thực tế là người nghèo cảm
thấy họ ít khi ốm, nhưng khi ốm tình trạng của họ lại rất nghiêm trọng, đòi hỏi
những chi phí khám chữa bệnh lớn trong khi thu nhập của họ lại rất hạn chế. Chính
22
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
vì vậy, hỗ trợ về y tế cho người nghèo là một chính sách rất quan trọng nhằm giúp
người nghèo có điều kiện được khám chữa bệnh.
- Hỗ trợ người nghèo về giáo dục: Giáo dục là một trong những biện
pháp quan trọng để giúp người nghèo thoát nghèo thông qua việc nâng cao trình độ
dân trí và hiểu biết. Tuy nhiên, do hạn chế về thu nhập khiến các gia đình nghèo
không có đủ tiền cho con ăn học, và càng khó khăn hơn khi các gia đình nghèo lại
thường đông con. Ngoài ra, chi phí cơ hội của việc cho con đến trường cũng là một
nguyên nhân khá quan trọng. Đối với nhiều hộ nghèo, sức lao động của con trẻ có
giá trị hơn nhiều so với việc để chúng đến trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục
không thể bù đắp được những tổn thất về thu nhập trong ngắn hạn. Vì vậy, nhiều
trẻ em đã không được đi học hoặc được đi học nhưng không đều hoặc không hoàn
thành được bậc học cơ sở. Do đó, các chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người
nghèo như miễn giảm học phí, cung cấp sách vở học tập, xây dựng trường lớp và
các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật khác…là rất quan trọng.
- Hỗ trợ người nghèo về nhà ở: Chi phí về nhà ở là một trong những chi
phí lớn đối với người dân nói chung. Vì vậy, đối với người nghèo hỗ trợ của Nhà
nước và xã hội về nhà ở là rất cần thiết, đặc biệt ở các nước phát triển và ở các khu
đô thị khi mà chi phí về đất đai và xây dựng là rất đắt đỏ. Nhìn chung, ở các nước
đều có các chương trình hỗ trợ người nghèo về nhà ở như mua bán nhà với giá rẻ,
xây nhà cho người vô gia cư…
- Hỗ trợ các dịch vụ về nước sạch và vệ sinh: Hiện nay ở các nước, các
dịch vụ về nước và vệ sinh đều do nhà nước cung cấp hoặc do tư nhân làm thì cũng
có sự điều tiết và hỗ trợ của nhà nước, để đảm bảo mức giá hợp lý và thường là
thấp cho người dân nói chung, trong đó có đối tượng người nghèo. Trong một số
trường hợp các hộ nghèo có thể có những hỗ trợ thêm như: hỗ trợ và tư vấn xây
nhà vệ sinh, cung cấp nươc sạch cho những vùng khô hạn…
c. Mở rộng mạng lƣới ASXH đến với ngƣời nghèo:
- Chính sách BHXH nhìn chung được các nước thực hiên khá hoàn thiện
với đối tượng là người lao động hưởng lương. Bới vì đối tượng này có quan hệ hợp
23
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
đồng lao động dài hạn và có sự tham gia đóng góp của chủ sử dụng lao động vào
quỹ BHXH. Còn với các đối tượng lao động là nông dân và lao động tự do, chính
sách BHXH thường không hoàn chỉnh và được thực hiện muộn hơn. Trong khi đây
là những đối tượng có thu nhập thấp và dễ bị tổn thương trước những biến cố thất
thường của cuộc sống.
- Xóa đói giảm nghèo không chỉ đơn thuần làm thề nào để người nghèo thoát nghèo, một phần quan trọng không kém là ngăn cho những người hiện đang không nghèo khỏi bị rơi vào cảnh nghèo. Đó là những người có thu nhập cận mức nghèo hoặc thu nhập chưa đủ cao dễ bị tổn thương trong cuộc sống, Vì vậy các quỹ ASXH giúp đỡ họ khi gặp khó khăn là cần thiết.
IV. Vấn đề tài chính trong ASXH, cơ chế đóng góp, phƣơng thức phân phối tài chính và các đối tƣợng trong diện bảo vệ của an sinh:
Nguồn lực tài chính để thực hiện ASXH chủ yếu là từ ngân sách Nhà nước bị hạn chế, sự đóng góp của người dân là rất ít. Người dân vẫn chưa ý thức được nguyên tắc có đóng - có hưởng trong hoạt động bảo hiểm. Mức độ che phủ, đóng góp và mức hưởng đều thấp. Các loại hình bảo hiểm xã hội còn hạn chế, chưa đa dạng hóa, thủ tục thanh toán còn nhiều trở ngại, tỉ lệ tham gia không cao. Người dân chưa mặn mà với bảo hiểm y tế do chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của đối tượng tham gia.
Đối tượng trong diện bảo vệ của an sinh là tất cả mọi người vì:
-ASXH luôn khơi dậy được tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lần nhau trong
cộng đồng xã hội.
-ASXH góp phần àm đảm bảo công bằng xã hội
-ASXH vừa là một nhân tố ổn định, vừa là một nhân tố động lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
-ASXH là “chất xúc tác” giúp các nước, các dân tộc hiểu biết và xích lại
gần nhau hơn, không phân biệt thể chế chính trị, màu da và văn hóa.
V. Giới thiệu về già hóa dân số. Chế độ trợ cấp tuổi già:
Theo các chuyên gia dân số và kinh tế, già hóa dân số là một trong những
24
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
xu hướng có ý nghĩa nhất của thế kỷ 21, có tác động đến toàn bộ các khía cạnh của
đời sống xã hội của thế giới và từng quốc gia. Dân số già, điều đó có nghĩa là tuổi
thọ dân cư tăng lên và đó là hệ quả tích cực, một thành tựu của phát triển kinh tế,
Con người sống lâu hơn nhờ các điều kiện tốt hơn về chế độ dinh dưỡng, vệ sinh,
tiến bộ y học, chăm sóc y tế, giáo dục và đời sống kinh tế và phúc lợi xã hội. Theo
thống kê, hiện nay trên thế giới có gần 7 tỷ người và 1/9 trong số này là người từ
60 tuổi trở lên. Theo dự báo, đến năm 2050 dân số thế giới đạt 9,2 tỷ người và tỷ lệ
người từ 60 tuổi trở lên sẽ là 1/5, nghĩa là cứ 5 người thì có một người cao tuổi.
Bên cạnh việc được coi là thành tựu của quá trình phát triển, già hóa dân
số cũng tạo ra thách thức về mặt kinh tế, xã hội và văn hóa ở các cấp độ cá nhân,
gia đình, cộng đồng và xã hội trên toàn thế giới. Thách thức lớn nhất là thay đổi cơ
cấu lao động, tỷ lệ người ở độ tuổi cao (từ 45-60 tuổi) sẽ tăng lên và tỷ lệ gia nhập
thị trường lao động sẽ có xu hướng giảm đi và như vậy, để đáp ứng nhu cầu nhân
lực cho nền kinh tế, các nước phải sử dụng lao động già hơn (đồng nghĩa với việc
tăng tuổi nghỉ hưu để có thêm nhân lực cho nền kinh tế). Về mặt kinh tế, già hóa
dân số và dân số già có ảnh hưởng kép đến nền kinh tế. Một mặt, năng suất lao
động của nhóm tuổi cao sẽ kém hơn so với các nhóm tuổi trẻ khác trong lực lượng
lao động, dẫn đến thu nhập của nền kinh tế nói chung và của từng gia đình nói
riêng bị ảnh hưởng. Điều này dẫn đến hệ lụy là những người trẻ tuổi phải làm việc
nhiều hơn để bù đắp thiếu hụt thu nhập của gia đình. Mặt khác, chi phí chăm sóc y
tế và các phúc lợi khác cho người cao tuổi tăng lên, ảnh hưởng đến đầu tư cho phát
triển. Về mặt xã hội, trong một xã hội dân số già, các vấn đề xã hội sẽ phát sinh
như quan hệ giữa các thế hệ, sự chăm sóc cho người già của từng gia đình và xã
hội… sẽ là những vấn đề các quốc gia phải quan tâm. Như lời tựa trong báo cáo
của Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon “Ảnh hưởng về kinh tế và xã hội của
hiện tượng già hóa dân số có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, không chỉ tác động tới cá
nhân người cao tuổi và gia đình họ mà còn tác động lan tỏa tới toàn xã hội và cộng
đồng toàn cầu theo những cách thức chưa từng được biết đến” (UNFPA, 2012).
25
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Hiện nay, có tới 33 quốc gia đạt được tuổi thọ trung bình trên 80 tuổi; trong khi đó năm năm trước đây, chỉ có 19 quốc gia đạt con số này. Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia duy nhất có trên 30% dân số già; nhưng đến năm 2050, dự tính sẽ có 64 nước có trên 30% dân số già như Nhật Bản. Theo Liên hợp quốc, già hóa dân số đang diễn ra ở tất cả các Châu lục và các quốc gia trên toàn thế giới với tốc độ khác nhau. Già hóa dân số đang tăng nhanh ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam. Chẳng hạn để tỷ lệ người già trong tổng số dân của Hàn Quốc tăng từ 7% lên 14% chỉ mất có 18 năm, ở Nhật Bản mất 24 năm, thì ở Thụy Điển mất 85 năm, ở Hoa kỳ mất 73 năm… Tương tự như vậy, để tỷ lệ người già tăng từ 14%- 20% Hàn Quốc chỉ mất có 8 năm, Nhật Bản là 12 năm, thì ở Thụy Điển mất 39 năm và Hoa Kỳ mất 21 năm.
Ở Hàn Quốc, năm 2010 tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm 11% dân số. Theo dự báo, đến năm 2016 tỷ lệ này là 18,1%, nhưng đến năm 2030 đã tăng lên 24,3%, 2040 tăng lên 32,5%. Như vậy, đến năm 2016 Hàn Quốc sẽ bắt đầu trở thành quốc gia “già”.
VN Dân số Việt Nam đã già chưa? Chúng ta đã vào giai đoạn già hóa chưa? Đây là câu hỏi rất đáng quan tâm, vì liên quan đến rất nhiều chính sách kinh tế-xã hội trong đó có chính sách an sinh xã hội. Theo tổng điều tra dân số 1/4/2009, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên trong dân số Việt nam là 8,67%, còn tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên là 6,4%. “Chiếu” theo các quy ước Quốc tế nên trên thì nước ta vẫn thuộc nhóm nước dân số trẻ hay chưa “già hóa”. Tuy nhiên, theo thống kê tại thời điểm 1/4/2010, số người từ 60 tuổi trở lên trong dân số nước ta đã chiếm 9,4%. Như vậy, chỉ qua 1 năm, tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam đã tăng 0,7 điểm phần trăm/năm, trong khi ba thập kỷ trước đó (1979-2009) chỉ tăng có 0,06 điểm phần trăm/năm. Tức là một năm vừa qua tỷ lệ tăng đã hơn gấp 10 lần so với giai đoạn trước đây (theo Dương Quốc Trọng, 2011). Với tốc độ này, dân số Việt Nam sớm bước vào giai đoạn già hóa nhanh hơn so với dự báo. Theo dự báo của Tổng cục Dân số, nước ta sẽ bước vào giai đoạn “già hoá dân số” vào năm 2017. Tuy nhiên, nếu với tốc độ gia tăng tương tự như năm 2010 thì đến 1/4/2011, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã là 10,1%, người từ 65 tuổi trở lên đã là 7,2% và như vậy, dù theo tiêu chí nào, chúng ta cũng đã bước vào giai đoạn “già hoá dân số” ngay từ năm 2011 rồi, sớm hơn 6 năm so với dự báo trước đây. Hơn nữa, quá trình chuyển từ già hóa dân số sang dân số già ở nước ta cũng diễn ra nhanh hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Theo dự báo của Tổng cục Dân số, để chuyển từ già hóa dân
26
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
số sang dân số già ở nước ta chỉ mất khoảng 20 năm, thậm chí theo Dương Quốc Trọng, chỉ khoảng 17 đến 18 năm (trong khi đó Philippin mất khoảng 40 năm, Malaysia khoảng 26 năm). Theo dự báo, đến năm 2035 trong cơ cấu dân số nước ta, tỷ lệ trẻ em (dưới 15 tuổi) và người già (từ 60 tuổi trở lên) là 1/1, nghĩa là cứ có 1 trẻ em thì có 1 người già và đến năm 2049, tỷ lệ này là 1/1,41, nghĩa là cứ có 1 trẻ em thì có 1,41 người già.
1. Tại sao cần có trợ cấp tuổi già trên Thế giới:
Một trong những mối quan tâm hàng đầu của người cao tuổi trên toàn thế giới là đảm bảo thu nhập. Cùng với y tế, vấn đề này là một trong những vấn đề được chính người cao tuổi thường xuyên đề cập đến. Đây cũng chính là những thách thức lớn nhất mà các chính phủ phải đối mặt trong quá trình dân số già hóa. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho áp lực về tài chính thêm trầm trọng và khó khăn trong việc đảm bảo cả kinh tế và tiếp cận các dịch vụ y tế cho người cao tuổi. Đầu tư cho hệ thống lương hưu được xem là một trong những biện pháp quan trọng nhất đảm bảo độc lập về mặt kinh tế và giảm nghèo cho người cao tuổi. Ở các quốc gia phát triển, mối quan tâm chính là làm sao duy trì tính bền vững của những hệ thống này. Trong khi đó, tại các quốc gia đang phát triển, khả năng bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và trợ cấp hưu trí cho người cao tuổi là thách thức chính, khi phần lớn lực lượng lao động làm việc trong khu vực không chính thức. Sàn an sinh xã hội cần phải được thực hiện để đảm bảo thu nhập và tiếp cận đến các dịch vụ xã hội và y tế thiết yếu cho toàn bộ người cao tuổi và cung cấp một mạng lưới trợ giúp góp phần trì hoãn khuyết tật và phòng chống đói nghèo cho người.
Trên toàn cầu, phụ nữ chiếm đa số trong dân số cao tuổi. Hiện nay trên thế giới, cứ 100 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên thì chỉ có 84 nam giới. Cứ 100 phụ nữ từ 80 tuổi trở lên thì chỉ có 61 nam giới. Nam giới và phụ nữ trải qua giai đoạn tuổi già một cách khác nhau. Mối quan hệ về giới tác động tới toàn bộ quá trình sống, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội một cách liên tục cũng như tích lũy. Trong rất nhiều trường hợp, phụ nữ cao tuổi thường hay bị phân biệt đối xử hơn, như hạn chế trong tiếp cận công ăn việc làm và dịch vụ chăm sóc sức khỏe bị hạn chế, dễ bị lạm dụng, bị từ chối quyền cá nhân và quyền thừa kế tài sản, thiếu thu nhập tối thiểu cơ bản và an sinh xã hội. Nam giới cao tuổi, đặc biệt sau khi về hưu cũng gặp nhiều khó khăn do khả năng tiếp cận các mạng lưới hỗ trợ xã
27
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
hội còn hạn chế, và cũng có thể có nguy cơ bị lạm dụng, đặc biệt là lạm dụng về tài chính. Những điểm khác biệt cho thấy những lưu ý quan trọng trong việc hoạch định chương trình và chính sách công. Không thể áp dụng một chính sách chung đồng nhất cho nhóm người cao tuổi. Điều quan trọng là không nên coi nhóm người cao tuổi là một nhóm đối tượng duy nhất mà phải nhìn nhận người cao tuổi một cách đa dạng như bất kỳ nhóm tuổi nào khác về các khía cạnh tuổi, giới tính, dân tộc, giáo dục, thu nhập và sức khỏe. Mỗi nhóm người cao tuổi, như các nhóm người cao tuổi nghèo, phụ nữ, nam giới, nhóm già nhất, nhóm người dân tộc, nhóm không biết đọc biết viết, nhóm nông thôn hay thanh thị, đều có nhu cầu và mối quan tâm cụ thể cần được giải quyết thông qua các chương trình và mô hình can thiệp dành riêng cho họ.
Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế giúp người cao tuổi đòi hỏi quyền của mình, chống lại sự phân biệt đối xử và vượt qua đói nghèo, để người cao tuổi có một cuộc sống có nhân phẩm, an toàn, tích cực và mạnh khỏe. Hoạt động của Tổ chức được tăng cường nhờ thông qua mạng lưới toàn cầu gồm các tổ chức có cùng tầm nhìn – là một tổ chức làm việc về người cao tuổi duy nhất trên thế giới có mạng lưới toàn cầu.
2. Sự cần thiết của chế độ hƣu trí tại Việt Nam:
Như đã nêu, già hóa dân số và dân số già đã đặt ra thách thức lớn đối với toàn thế giới, đặc biệt là đối với Việt Nam, khi tốc độ già hóa của dân số nước ta diễn ra nhanh hơn và quá trình chuyển từ già hóa sang già của dân số nước ta diễn ra ngắn hơn nhiều so với các nước. Dưới giác độ ASXH, già hóa dân số và dân số già ở nước ta, đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, khi dân số cao tuổi chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số cũng đồng nghĩa với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm đi và số người sau 60 tuổi sẽ tăng lên và sống lâu hơn. Như vậy, số người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ có xu hướng giảm đi và số người thụ hưởng sẽ có xu hướng gia tăng. Điều này ở một khía cạnh nào cũng sẽ tạo ra “gánh nặng” cho quỹ hưu trí quốc gia khi phải chi trả lương hưu nhiều hơn và dài thời gian hơn, trong khi đó số người đóng góp có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng (do hệ quả của mức sinh thấp). Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi phải có những điều chỉnh hợp lý trong thiết kế chế độ hưu, như tăng mức đóng góp hoặc tăng tuổi nghỉ
28
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
hưu (kéo dài thời gian đóng góp hơn) hoặc tăng cả hai (vừa tăng mức đóng góp vừa tăng thời gian đóng góp BHXH). Đối với nước ta hiện nay, mở rộng đối tượng tham gia BHXH (hướng tới BHXH cho toàn bộ người lao động) sẽ là một trong những giải pháp để tăng quy mô quỹ hưu trí và tăng khả năng chi trả BHXH cho người thụ hưởng trong tương lai gần. Đồng thời, đòi hỏi phải điều chỉnh, thiết kế lại quỹ hưu trí. Mặt khác, cần khai thác khía cạnh tích cực của người cao tuổi. Khi có sự chăm sóc y tế tốt (ngay từ khi còn trẻ), người cao tuổi ( 60, 65 tuổi trở lên) vẫn còn khỏe mạnh và vẫn có thể tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình. Vấn đề đặt ra trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia là phải có chính sách việc làm phù hợp cho người cao tuổi, để họ vừa duy trì được sức khỏe vừa có được thu nhập.
Thứ hai, theo quy luật chung, tuổi càng cao, sức khỏe càng giảm. Dù muốn hay không, con người vẫn đối mặt với tình trạng bệnh tật, sức khỏe của mình khi tuổi ngày càng cao trong vòng đời Sinh- Lão- Bệnh- Tử. Khi đã ngoài 60 tuổi, quá trình đồng hóa giảm đi, quá trình dị hóa tăng lên, quá trình lão hóa diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, đồng thời phát sinh những loại bệnh tật đặc trưng của tuổi già. Mặc dù, nhờ những thành tựu trong phát triển kinh tế cũng như trong tiến bộ của y học, nhưng cơ cấu bệnh tật của dân số nước ta nói chung và của người cao tuổi nói riêng đang chuyển dần từ mô hình bệnh tật của những nước đang phát triển sang của nước phát triển. Cơ cấu bệnh tật hiện nay của nước ta chuyển từ không nhiễm trùng, không lây nhiễm sang các bệnh chủ yếu như cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa… (Giang Thanh Long, 2011). Như vậy, cùng với tuổi tác, cơ cấu chi tiêu của người cao tuổi đã thay đổi nhiều, chi phí cho khám, chữa bệnh có xu hướng tăng lên. Người già lại hay bị những loại bệnh đòi hỏi chi phí y tế cao như huyết áp, đột quỵ, tim mạch…Theo PGS-TS Phạm Thắng- Viện Lão khoa quốc gia, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn đối với xã hội và gia đình. Người cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn, trong khi chi phí cho đối tượng này cũng cao gấp 7-8 lần so với trẻ em. Chi phí này hoặc là gia đình phải tự chi hoặc là hệ thống BHYT chi trả (đối với những người tham gia BHXH hoặc đối tượng thụ hưởng BHXH, BHYT). Dù giác độ này hay giác độ khác thì đây cũng là vấn đề của hệ thống ASXH. Một mặt, nhà nước và xã hội phải tăng các chi phí cho hệ thống y tế (gia tăng số giường bệnh, bệnh viện lão khoa, nhà dưỡng lão, chi phí khám, chữa bệnh…). Mặt khác, phải mở rộng, phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi với những nguồn nhân lực và tài lực nhất định. Do điều kiện kinh tế- xã hội ở nước ta, người
29
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
cao tuổi ở Việt Nam có sức khỏe kém hơn so với những người cùng độ tuổi ở các nước phát triển. Nói cách khác, tuổi thọ khỏe mạnh của người cao tuổi Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước, sống lâu nhưng không sống khỏe. Theo một số số liệu thống kê, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam là 73 thì đã mất 12 năm ốm đau, bệnh tật.
Thứ ba, đối với một nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, cho đến nay, về cơ bản nước ta vẫn là nước nông nghiệp với trên 70% số dân và cũng khoảng 70% số lao động đang sống ở và lao động ở nông thôn, trong đó khoảng 50% làm các nghề nông nghiệp. Trong khi đó số lao động tham gia hệ thống BHXH chỉ chiếm khoảng 10% -20% tổng lực lượng lao động và chủ yếu ở khu vực thành thị. Như vậy, đa số người lao động nông thôn khi trở thành người cao tuổi (60 tuổi trở lên) sẽ không được hưởng lương hưu từ hệ thống BHXH. Để tiếp tục cuộc sống, những người cao tuổi này buộc phải tự lao động kiếm sống hoặc nhờ sự hỗ trợ của con cháu, hoặc nhờ sự trợ giúp của cộng đồng. Theo chính sách chăm sóc người cao tuổi của Đảng và Nhà nước, những người cao tuổi cần được chăm sóc, khi đó cần phải có những cơ chế khác với những nguồn lực khác của hệ thống ASXH để đảm bảo cuộc sống và sức khỏe cho người cao tuổi ở nông thôn. Tuy nhiên, điều này không dễ dàng được giải quyết khi các nguồn lực còn hạn chế. Do vậy, đối với người cao tuổi ở nông thôn, việc làm, thu nhập và chăm sóc sức khỏe luôn là những vấn đề không chỉ là hiện tại và vẫn là những vấn đề của tương lai khi xu hướng dân số đang già hóa. Vấn đề càng “cộm” hơn khi trong xã hội Việt Nam hiện đại, các gia đình nhiều thế hệ (Ông bà- Bố mẹ- Con…) ngày càng giảm đi, quy mô gia đình ngày càng nhỏ do số con ít đi. Con cái hoặc không muốn sống với bố mẹ hoặc vì điều kiện sinh sống, không thể sống cùng hoặc sống gần bố mẹ. Người cao tuổi khi đó rất dễ rơi vào tình trạng sống cô đơn hoặc sống chỉ có hai vợ chồng già. Trong khi hiện nay ở nước ta các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, dịch vụ đối với người cao tuổi (không chỉ là chăm sóc) còn hạn chế. Đó thực sự là vấn đề xã hội của người cao tuổi và là áp lực rất lớn đối với chính sách ASXH.
Thứ tư, nước ta trải qua các cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ người lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc da cam… Đến nay, đa phần họ đã thuộc nhóm người cao tuổi. Ngoài những loại bệnh của người già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần trong số họ sau chiến tranh về quê nhà sinh sống, họ
30
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
không có lương hưu. Điều này, đòi hỏi cần có những chính sách ASXH đặc thù cho nhóm người này.
Thứ năm, cũng là đặc thù của nền kinh tế Việt Nam khi thu nhập của người lao động thấp, thu nhập chỉ đủ trang trải (thậm chí không đủ) cho những chi tiêu trước mắt, không có và không thể có cho tích tũy trong tương lai. Điều này là nguy cơ tiềm năng khi người lao động không làm việc được nữa, họ sẽ không có khoản tích lũy để chi dùng khi trở thành người cao tuổi. Một số nhà phân tích đã nêu, người lao động Việt Nam “già khi chưa giàu”. Đối với một người “già khi chưa giàu” sẽ tạo áp lực cho con cái, nhưng đối với một xã hội “già hóa” và xã hội “già” thì áp lực này sẽ chuyển sang hệ thống ASXH.
Qua những phân tích trên cho thấy giữa già hóa dân số, dân số già và ASXH có mối quan hệ “nhân- quả”. Điều này cho thấy, một mặt phải điều chỉnh chính sách dân số sao cho quá trình già hóa dân số diễn ra chậm hơn và quá trình chuyển từ dân số già hóa sang dân số già diễn ra với thời gian lâu hơn; mặt khác, cần phải có chiến lược ASXH ứng phó phù hợp. Chính sách ASXH đối với người cao tuổi không nên chung cho mọi nhóm bởi người cao tuổi không phải là nhóm dân số đồng nhất. Người cao tuổi cũng có người giàu, người nghèo; có người khỏe mạnh và người ốm yếu; có người được sống cùng con cháu, nhưng có người chỉ sống một mình… Vì vậy, nên phân nhóm đối tượng để có chính sách ASXH ứng phó phù hợp. Phải xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là đối với người cao tuổi ở nông thôn. BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân là hướng đi và là giải pháp tích cực, chủ động trong chính sách ASXH của mỗi quốc gia. Sinh- Lão– Bệnh– Tử là quy luật của cuộc sống loài người. Ai sinh ra rồi cũng phải già và chết. Do vậy, ASXH đối với người cao tuổi hiện tại cũng chính là đảm bảo ASXH tương lai cho người lao động hiện tại.
3.
Thực trạng về thu nhập và chế độ y tế dành cho ngƣời già trên Thế giới:
• Trên toàn thế giới, chỉ có một phần ba các quốc gia, chiếm 28% tổng dân số thế giới, có hệ thống bảo trợ xã hội toàn diện bao phủ tất cả các khía cạnh của an sinh xã hội.
• Chi phí cho quỹ hưu trí toàn dân cho người từ 60 tuổi trở lên ở các nước
đang phát triển chỉ chiếm từ 0,7% đến 2,6% tổng thu nhập quốc dân.
31
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
• Trên toàn cầu, có 47% nam giới cao tuổi và 23,8% nữ giới cao tuổi
tham gia vào lực lượng lao động.
• 30 năm trước đây, không có “nền kinh tế già” mà trong đó tiêu dùng của người cao tuổi nhiều hơn giới trẻ. Năm 2010, có 23 nền kinh tế già và đến năm 2040, con số này sẽ tăng lên là 89.
• Trên toàn thế giới, có hơn 46% người từ 60 tuổi trở lên bị khuyết tật. Có hơn 250 triệu người cao tuổi bị khuyết tật vừa đến khuyết tật nặng. Dự tính tổng số người mất trí nhớ trên toàn thế giới là 35,6 triệu người và cứ 20 năm con số sẽ tăng gấp đôi, và sẽ đạt 65,7 triệu người năm 2030.
Trong số 1.300 nam giới và phụ nữ cao tuổi tham gia trong các buổi thảo
luận, tọa đàm theo như nghiên cứu:
• 43% người cho biết họ lo sợ bạo lực cá nhân.
• 49% người tin rằng họ được đối xử một cách kính trọng.
• 61% người sử dụng điện thoại di động.
• 53% người cho biết họ gặp khó khăn hoặc rất khó khăn trong việc chi
trả các dịch vụ cơ bản.
• 44% người nhận định tình trạng sức khỏe hiện tại của họ là ổn.
• 34% người cho biết họ gặp khó khăn hoặc rất khó khăn trong việc tiếp
cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi họ cần.
Già hoá dân số, một vấn đề toàn cầu đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, xu hướng già hoá dân số mang tính lâu dài và không thể đảo ngược. Già hoá dân số đang diễn ra mạnh mẽ, kéo theo nhiều vấn đề kinh tế-xã hội cần phải giải quyết. Già hóa dân số không phải là một gánh nặng nhưng nó sẽ làm cho gánh nặng kinh tế và xã hội trở nên trầm trọng hơn nếu không có những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Những thách thức của già hoá dân số ở nước ta là rất lớn, rất đa dạng và không thể vượt qua bằng những giải pháp đơn lẻ và ngắn hạn. Vì vậy, cần có những giải pháp, những chính sách đặc biệt là về an sinh cho người cao tuổi nhằm chăm sóc, phát huy tài năng trí tuệ của họ.
32
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
4. Mƣời hoạt động ƣu tiên nhằm tận dụng tối đa cơ hội của dân số già
hóa:
1. Nhận thức được tính tất yếu của già hóa dân số và sự cần thiết phải chuẩn bị một cách đầy đủ của tất cả các đối tác liên quan (các cơ quan chính phủ, tổ chức xã hội dân sự, khu vực tư nhân, cộng đồng và gia đình) đối với số lượng người cao tuổi ngày càng gia tăng. Điều này phải được thực hiện thông qua nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực quốc gia và địa phương, xây dựng cải tổ về chính trị, kinh tế và xã hội cần thiết để giúp xã hội thích ứng kịp thời với một thế giới đang già hóa.
2. Đảm bảo tất cả người cao tuổi có thể được hưởng cuộc sống được tôn trọng và bảo đảm, được tiếp cận đến các dịch vụ xã hội và y tế thiết yếu và có thu nhập tối thiểu thông qua việc thực hiện sàn an sinh xã hội quốc gia và các đầu tư xã hội khác làm tăng tính tự chủ và độc lập của người cao tuổi, phòng tránh đói nghèo và góp phần già hóa một cách mạnh khỏe. Các hành động này cần được dựa trên một tầm nhìn dài hạn, được hỗ trợ bởi các cam kết chính trị mạnh mẽ và một nguồn có ngân sách đảm bảo nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong các tại thời điểm khủng hoảng hoặc khi có thay đổi về chính quyền.
3. Hỗ trợ cộng đồng và gia đình xây dựng mạng lưới hỗ trợ cho người cao tuổi già yếu có được các dịch vụ chăm sóc lâu dài cần thiết, và thúc đẩy cuộc sống tuổi già mạnh khỏe, năng động ở từng địa phương nhằm đảm bảo già hóa tại chỗ.
4. Đầu tư cho giới trẻ ngày nay thông qua đẩy mạnh những thói quen sức khỏe lành mạnh, đảm bảo các cơ hội về giáo dục và việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế và bao phủ an sinh xã hội cho tất cả những người lao động sẽ là nguồn đầu tư tốt nhất nhằm cải thiện cuộc sống của các thế hệ người cao tuổi trong tương lai. Cần phải đẩy mạnh hơn nữa các cơ hội việc làm linh hoạt phù hợp, cơ hội học tập và đào tạo thường xuyên lâu dài nhằm thúc đẩy sự hội nhập của người cao tuổi trong thị trường lao động của các thế hệ hiện tại.
5. Hỗ trợ các nỗ lực quốc tế và trong nước để tiến hành nghiên cứu so sánh về già hóa, nhằm đảm bảo cung cấp các số liệu và bằng chứng có tính nhạy cảm về giới và văn hóa cho quá trình xây dựng chính sách.
33
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
6. Lồng ghép vấn đề già hóa vào tất cả các chính sách về giới và ngược lại lồng ghép vấn đề giới vào các chính sách về già hóa, có tính đến các nhu cầu cụ thể của phụ nữ và nam giới cao tuổi.
7. Đảm bảo già hóa và các nhu cầu của người cao tuổi được tính đến
trong tất cả các chương trình và chính sách phát triển cấp quốc gia.
8. Đảm bảo già hóa và nhu cầu của người cao tuổi được tính đến trong các đáp ứng về con người cấp quốc gia, các kế hoạch làm giảm tác động và thích nghi với biến đổi của khí hậu, các chương trình quản lý và ứng phó với thiên tai.
9. Đảm bảo rằng vấn đề già hóa được phản ảnh một cách đầy đủ trong chương trình phát triển sau năm 2015, bao gồm việc xây dựng các mục tiêu và chỉ số cụ thể.
10.Xây dựng một cơ sở văn hóa mới về già hóa dựa trên quyền; thay đổi quan niệm và thái độ xã hội về già hóa và người cao tuổi, nhìn nhận người cao tuổi không phải từ góc độ những người nhận trợ cấp xã hội mà là những thành viên có đóng góp tích cực trong xã hội.
Để thực hiện được điều này, bên cạnh các vấn đề khác, cần phải hành động để xây dựng công cụ quốc tế về quyền con người, và đưa các công cụ này vào luật và các chính sách quốc gia, cũng như có các biện pháp cứng rắn để đối phó với các hành vi phân biệt đối xử người cao tuổi và nhìn nhận người cao tuổi là những chủ thể tự chủ.
5.
Đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp tuổi già: Căn cứ pháp lý: Nghị đinh 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Khoản 5 Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 10 năm 2003 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối tượng bảo trợ xã hội có nêu: Đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng là người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng;
34
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
b) Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm a Khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
c) Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng.
Như vậy, những người là công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên và thuộc 1
trong 3 trường hợp nêu trên thì được hưởng trợ cấp hàng tháng.
Nghị định cũng quy định có 7 đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế, bao gồm: Đối tượng 1, 2, 3 và 5 nêu trên; con của người đơn thân nghèo; người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng; người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác mà chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí.
Công ước 102 năm 1952 quy phạm tối thiểu an toàn xã hội: Điều 26
1. Trường hợp bảo vệ là tình trạng sống lâu hơn một độ tuổi được quy
định.
2. Độ tuổi quy định không được quá 65. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền có thể ấn định một độ tuổi cao hơn, xét theo khả năng làm việc của những người cao tuổi trong nước đó.
3. Pháp luật hoặc quy định quốc gia có thể đình chỉ trợ cấp nếu người thụ hưởng tiến hành những hoạt động có thu nhập đã được quy định, hoặc có thể giảm bớt trợ cấp có tính chất đóng góp khi thu nhập của người đó vượt quá một mức quy định và có thể giảm bớt trợ cấp không có tính chất đóng góp khi thu nhập hay những phương tiện sinh sống khác của người đó, hoặc cả hai thứ cộng lại, vượt quá một mức quy định.
Điều 27
Những người được bảo vệ phải bao gồm:
a) những loại làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm
50% toàn bộ những người làm công ăn lương;
35
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
b) hoặc những loại được quy định trong dân số hoạt động kinh tế, tổng số
ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người thường trú;
c) hoặc mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường
hợp bảo vệ xảy ra không vượt quá giới hạn quy định theo Điều 67;
d) hoặc, khi đã có bản tuyên bố để áp dụng Điều 3, phải bao gồm những loại làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Điều 28
Trợ cấp là chế độ chi trả định kỳ theo mức được tính như sau:
a) theo quy định tại Điều 65 hoặc Điều 66, khi người được bảo vệ là
người làm công ăn lương hoặc nhựng loại trong dân số hoạt động;
b) theo quy định tại Điều 67, khi người được bảo vệ là người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra, không vượt quá giới hạn quy định.
Điều 29
1. Khi xảy ra trường hợp bảo vệ, trợ cấp nêu tại Điều 28, phải ít nhất bảo
đảm cho:
a) người được bảo vệ mà trước khi trường hợp bảo vệ xảy ra và theo những quy tắc quy định, đã có thâm niên có thể gồm 30 năm đóng góp hay làm việc, hoặc 20 năm thường trú;
b) khi về nguyên tắc mọi hoạt động đều được bảo vệ, thì bảo bảo đảm cho người được bảo vệ đã có thâm niên đóng góp theo quy định, và đối với người đó, trong suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp đã đạt số đóng góp trung bình hàng năm theo quy định.
2. Nếu việc trợ cấp nêu tại Đoạn 1 tùy thuộc vào việc có một khoảng thời gian đóng góp hoặc làm việc tối thiểu, thì ít nhất phải bảo đảm một trợ giảm bớt cho:
36
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
a. người được bảo vệ nào, trước khi trường hợp bảo vệ xảy ra và theo
những quy tắc đã định, đã có thâm niên 15 năm đóng góp hoặc làm việc;
b. khi về nguyên tắc mọi hoạt động đều được bảo vệ, thì phải bảo đảm cho người được bảo vệ nào đã có thâm niên đóng góp theo quy định, và đối với người đó, trong suốt độ tuổi lao động, sự đóng góp đã đạt một nửa số đóng góp trung bình hàng năm quy định theo khoảng b) Đoạn 2, Điều này.
3. Những quy định tại Đoạn 1, Điều này, coi là được thỏa mãn, nếu trợ cấp được tính theo Phần XI nhưng theo một tỷ lệ phần trăm thấp hơn 10 đơn vị so với tỷ lệ ghi trong Biểu kèm theo phần đó cho đối tượng thụ hưởng đủ tiêu chuẩn, sẽ ít nhất bảo đảm cho người được bảo vệ nào, theo quy tắc đã định, đã có 10 năm đóng góp hay làm việc, hoặc đã có 5 năm thường trú.
4. Tỷ lệ phần trăm ghi ở Biểu kèm theo Phần XI có thể được giảm bớt theo mức phần trăm, nếu thâm niên để hưởng trợ cấp tương ứng với mức phần trăm giảm bớt là trên 10 năm đóng góp hoặc làm việc, nhưng dưới 30 năm đóng góp hoặc làm việc. Nếu thâm niên đó là trên 15 năm thì một trợ cấp giảm bớt sẽ được cấp theo Đoạn 2, Điều này.
5. Nếu trợ cấp nêu trong Đoạn 1,3 hoặc 4, Điều này, tùy thuộc vào việc có một khoảng thời gian đóng góp hoặc làm việc tối thiểu, thì phải bảo đảm trợ cấp giảm bớt theo những điều kiện quy định, cho người được bảo vệ đã cao tuổi khi quy định cho phép áp dụng Phần này của Công ước bắt đầu có hiệu lực, và do đó không có đủ những điều kiện quy định theo Đoạn 2, Điều này, trừ phi việc trợ cấp phù hợp với những quy định tại các Đoạn 1, 3 hoặc 4, Điều này, được trả cho người đó ở một độ tuổi cao hơn so với độ tuổi bình thường.
6.
Điều kiện đƣợc hƣởng trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp và thời gian trợ cấp: - Thông thường để được hưởng một chế độ bảo hiểm xã hội người hưởng bảo hiểm phải đảm bảo một số điều kiện nhất định. Tùy từng chế độ bảo hiểm cụ thể mà điều kiện hưởng khác nhau nhưng nhìn chung đều căn cứ vào mức đóng góp của người tham gia bảo hiểm. Đối với chế độ bảo hiểm hưu trí, điều kiện quan trọng để người lao động được hưởng bảo hiểm chính là thời gian đóng và tuổi đời. Do vậy, phải đến một mức độ tuổi và có một khoảng thời gian đóng bảo hiểm nhất định người lao động mới được nghỉ hưu và hưởng trợ cấp. Về nguyên tắc, chế độ bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dành cho những người đã già không còn
37
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
tham gia quan hệ lao động nữa, vì vậy chỉ đến khi hết tuổi lao động người lao động mới được hưởng chế độ này.
+ Độ tuổi này là tuổi nghỉ hưu theo luật định và thay đổi theo từng quốc gia, từng thời kỳ và từng nhóm đối tượng lao động cụ thể. ILO khuyến cáo các nước thành viên tham gia Công ước số 102 quy định độ tuổi nghỉ hưu không quá 65 tuổi.
+ Tùy theo các điều kiện về nhân khẩu, kinh tế và xã hội cũng như khả năng làm việc của những người cao tuổi ở quốc gia đó mà có thể quy định độ tuổi nghỉ hưu cao hơn.
+ Độ tuổi nghỉ hưu phải được hạ thấp hơn đối với những người lao động
làm những công việc nặng nhọc và độc hại.
- Nếu người thụ hưởng chế độ tuổi già tiến hành các hoạt động mạng lại thu nhập thì có thể bị đình chỉ trợ cấp. Nếu thu nhập vượt quá một mức quy định thì có thể quy định giảm bớt trợ cấp. A. Chế độ hƣu trí bắt buộc:
1. Chế độ hưu trí hàng tháng: 1.1 Chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều kiện chung để được hưởng chế độ hưu trí là: đối với lao động nam đủ 60 tuổi, lao động nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên. Tuổi nghỉ hưu này được giảm tối đa 5 tuổi, cụ thể là 55 tuổi đến 60 tuổi đối với lao động nam, 50 tuổi đến 55 tuổi đối với lao động nữ trong các trường hợp người lao động đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc độc hại; có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0.7 trở lên. Đối với những người là việc trong lực lượng vũ trang nhân dân được giảm 5 năm tuổi đời so với những người lao động ở khu vực dân sự. (Điều 50 Luật BHXH)
- Ở Mỹ, độ tuổi nghỉ hưu ở cả hai giới là 65 tuổi, ở Anh độ tuổi nghỉ hưu của nam là 65 tuổi và nữ là 60 tuổi, ở Nhật tuổi nghỉ hưu của nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi.
Hiện nay do tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên nên một số đất nước đang có xu hướng tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động hoặc áp dụng chế độ hưu trí mềm dẻo với các biện phát không chính thức khuyến khích người lao
38
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
động tiếp tục làm việc và nghỉ hưu muộn hơn. Về cơ bản những quy định của phát luật Việt Nam về tuổi nghỉ hưu là tương đồng với pháp luật của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế ở khu vực sản xuất kinh doanh, người lao động làm công việc nặng nhọc độc hại, tuy tuổi nghỉ hưu đã giảm xong nhiều người lao động vẫn khó thể tiếp tục làm việc đến khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật.
1.2. Chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn: Theo quy định của pháp luật hiện hành, người lao động nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ được hưởng hưu trí hàng tháng với mức lương thấp hơn:
- Nam từ đủ 50 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi có thời gian đóng BHXH từ đủ 20
năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
- Người lao động đã đóng BHXH từ đủ 20 năm trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
2. Chế độ hưu trí một lần: Theo pháp luật quy định, đối với người lao động khi nghỉ việc không đủ điều kiện về tuổi đời hoặc thời gian đóng bảo hiểm hoặc cả hay để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng thì tùy trường hợp mà họ được hưởng trợ cấp một lần, được chờ cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng hoặc được bảo lưu thời gian đóng BHXH đến khi có điều kiện thì tiếp tục đóng bảo hiểm. Điều này không chỉ phụ thuộc vào tuổi đời, thời gian đóng BHXH của người lao động mà còn căn cứ vào nguyện vọng của chính bản thân họ.
B. Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp:
- Mức trợ cấp:
+ Là số tiền mà người lao động tham gia BHXH được nhận khi nghỉ hưu
và phụ thuộc vào thời gian họ tham gia BHXH.
+ Trợ cấp tuổi già định kỳ được áp dụng đối với người lao động đã có thâm niên tham gia BHXH (hoặc thâm niên công tác) là 30 năm và ít nhất là 15 năm.
+ Mức hưởng trợ cấp được quy định theo một tỷ lệ nhất định so với thu
nhập trước đó của người lao động và tối thiểu là 40%.
39
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
+ Các trường hợp có thời gian tham gia BHXH hoặc thời gian lao động thực tế ngắn, sẽ bị giảm mức trợ cấp. Mức giảm cũng phụ thuộc vào thâm niên đó.
1.1 . Chế độ hưu trí hàng tháng: Mức hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng tính trên cơ sở thời gian đóng BHXH và mức bình quân tiền lương của tiền lương tháng làm cơ sở đóng BHXH. Điều 52 Luật BHXH quy định mức bảo hiểm cao nhất bằng 75% mức bình quân tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm nhằm đảm bảo sự công bằng giữa lao động nữ và nam khi về hưu bởi lao động nữ về hưu sớm hơn lao động nam 5 năm. Do vậy, lao động nữ đủ 55 tuổi và đủ 25 năm đóng BHXH cũng sẽ được hưởng mức lương hàng tháng tối đa như lao động nam 60 tuổi và có 30 năm đóng BHXH. Với mức hưởng bảo hiểm hưu trí hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc mức hưởng BHXH không được cao hơn tiền lương khi người lao động đang làm việc nhưng cũng không thấp hơn mức BHXH tối thiểu.
VD: Ngày 20/07/2008 ông A 60 tuổi, làm việc ở doanh nghiệp B từ năm 195, ông đã tham gia đóng BHXH đầy đủ trong suốt quá trình làm việc cho đến nay, giả sử mức lương bình quân tháng của ông là 1.5 triệu động. Hỏi chế độ bảo hiểm hưu trí của ông được giải quyết như thế nào?
Theo điều 50 và 52 Luật BHXH và các quy định của Thông tư 03/2007/BLĐTBHXH thì ông A đủ tuổi để hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí (đối với nam là 60 tuổi) và ông đã có thời gian đóng bảo hiểm là 23 năm (đủ 20 năm trở lên) vậy nên ông A sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng. Mức lương hưu hàng tháng ông A được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương đóng BHXH đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH và sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm thì tính thêm 2% đối với nam. Như vậy, mức lương hưu hàng tháng ông A nhận được là:
+ 15 năm đầu tính bằng 45%. + Từ năm thứ 16 đến năm thứ 23 là 8 năm, tính thêm 8 x 2% = 16% Như vậy, tỉ lệ hưởng lương hưu hàng tháng của ông A là 45% + 16% =
61%.
+ Mức bình quân tiền lương là 1.500.000đ. Tiền lương hưu hàng tháng ông A nhận được là: 61% x 1.500.000 = 1.050.000đ. 1.2 . Chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn:
40
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
VD: Ông M làm việc trong điều kiện bình thường, có 20 năm đóng BHXH, bị suy giảm khả năng lao động 61%, nghỉ việc hưởng lương hưu khi 50 tuổi 3 tháng.
- Tỉ lệ hưởng lương hưu hằng tháng của ông M được tính bằng 55%. - Ông M nghỉ việc hưởng lương hưu khi 50 tuổi 3 tháng, như vậy tuổi nghỉ hưu của ông M được tính là 51 tuổi, ông M nghỉ hưu trước tuổi 60 là 9 năm nên tỉ lệ hưởng lương hưu tính giảm 9%.
Tỉ lệ hưởng lương hưu hàng tháng của ông M là : 55% - 9% = 46%. 1. Chế độ hưu trí một lần:
Mức bảo hiểm hưu trí một lần được tính theo thời gian đóng BHXH. Cứ mỗi năm đóng BHXH tính bằng 1.5 tháng mức tiền lương bình quân tháng làm căn cứ đóng BHXH.
VD: Bà D đến nay đã đủ 55 tuổi, tham gia đóng BHXH 17 năm, mức
lương trung bình của bà là 2 triệu.
Theo quy định pháp luật, bà D đã đủ tuổi nghỉ hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH nên bà sẽ được hưởng trợ cấp một lần như sau 17 năm x 1.5 x 2 triệu = 51 triệu.
- Thời gian trợ cấp
+ Trợ cấp tuổi già được chi trả định kỳ (hàng tháng, hàng tuần) nhưng trong một số trường hợp cụ thể (ví dụ chưa đủ khoảng thời gian tham gia BHXH hoặc thời gian lao động tối thiểu theo quy định) cũng có thể chi trả trợ cấp theo một hoặc một số lần nhất định.
+ Thời gian trợ cấp kéo dài cho đến khi người thụ hưởng trợ cấp tuổi già qua đời.
VI. Nhận thức về ASXH của mọi ngƣời hiện nay: Nhận thức của Đảng và nhà nƣớc: 1.
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn ASXH và phúc lợi xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đến sự ổn định chính trị xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều thập kỉ qua, trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội, cùng với chế độ không ngừng cải tiến tiền công,tiền lương và nâng cao thu nhập cho người lao động. Đảng và nhà nước rất quan tâm chăm lo đến
41
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
ASXH và phúc lợi cho người dân. Ngay từ đại hội lần thứ 3 Đảng ta đã xác định:”….Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước làm cho nhân dân ta được ăn no mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ và có thêm nhà ở và học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng và xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị…” Những năm sau đó mặc dù rất khó khăn thiếu thốn nhưng Đảng vẫn dành sự quan tâm đặc biệt đến ASXH và phúc lợi xã hội. Nhận thức quan điểm về cơ chế chính sách về ASXH và phúc lợi xã hội dần được hoàn thiện vào các kì của đại hội Đảng. Đến đại hội lần thứ 9 của Đảng, chủ trương này trở thành một định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước :” … Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường ..”. Đại hội lần thứ 10 của Đảng xác định :”… Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, thực hiên bảo hiểm y tế toàn dân..”, “ từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống ASXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo.”
Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói giảm nghèo cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội để nâng cao mức sông chung của nhân dân, Đảng và nhà nước đã tập trung chỉ đạo và ban hành nhiều chính sách, chương trình dự án và huy động nguồn lực toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, giúp người nghèo vượt qua khó khăn, thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên 3 phương diện: 1> giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lí , nhà ở, sinh hoạt. 2> Hỗ trợ phát triển thông qua các chính sách về bảo đảm sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông – lâm – ngư, phát triển ngành nghề. 3> Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và nhà nước tiếp tục coi bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo phát triển chiến lược kinh tế xã hội 2011-2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng sống của nhân dân, phát triển hệ thống ASXH ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.
Quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước cùng với tiềm lực kinh tế của đất nước được nâng lên làm cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt hơn ASXH và phúc lợi
42
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
xã hội. Tuy nhiên chúng ta cũng phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức: công cuộc xoá đói giảm nghèo phải tập trung vào các cùng, các đối tượng khó khăn, một bộ phân không nhỏ của cả nước chưa có nghề hoặc thiếu kĩ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, tiền công và bảo trợ xã hội thấp, những rủi ro về kinh tế xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sau rộng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hường tăng lên…tác động tiêu cực đến đời sống và ASXH của nhân dân, nên cần có nhận thức mới về ASXH.
2. Nhận thức của ngƣời dân:
Việt Nam là một nước đang phát triển có phần lớn dân số sống ở nông thôn với mức thu nhập thấp, đa phần người dân chưa có nhận thức đầy đủ và chính xác về hệ thống ASXH cũng như quyền lợi và nghĩa vụ mà họ được hưởng từ chế độ này.
Một thực tế cho rằng BHXH đã xuất hiện ở nước ta trong một thời gian khá dài nhưng phần lớn người dân có thu nhập thấp và không ổn định nên không tham gia BHXH. Mặc dù được nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện nhưng một bộ phân người lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đặc biệt tỉ lệ tham gia của bộ phận người lao động ở khu vực ngoài nhà nước còn thấp. Còn đối với BHXH tự nguyện, đa số những người tham gia là những người đã tham gia BHXH bắt buộc từ trước, số lao động trong khu vực phi chính thức, đặc biệt là nông dân nông thôn, lao động trẻ chưa tham gia nhiều, một phần là do nhận thức tự nguyện chưa cao, và lí do chính là thu nhập hàng tháng thấp nên không đủ điều kiện tham gia. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền về BHXH chưa được quan tâm đúng mức nên không chỉ người dân và lao động tự do mà còn cả cán bộ công chức Nhà nước cũng chưa nhận thức được đầy đủ và chính xác nội dung cơ bản của chính sách BHXH. Ngoài ra công tác thực hiện chính sách này còn nhiều bất cập khiến cho người dân thiếu tin tưởng, vì vậy số lượng tham gia vào loại hình này chưa đông.
Đó là đứng trên phương diện người lao động còn đứng trên phương diện người sử dụng lao động, việc phổ cập về ASXH còn nhiều hạn chế. Việc tham gia BHXH ở các công ty ngoài quốc doanh, doanh nghiệp quy mô nhỏ còn tương đối thấp do tình trạng trốn đóng BHXH, chế tài sử phạt lỏng lẻo và người dân chưa nhận thức được đầy đủ ,… Việc mở rộng hệ thống ASXH ở khu vực lao động phi
43
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
chính thức được thực hiện thông qua chương trình BHXH, BHYT cũng đối mặt với nhiều thách thức, riêng BHXH tự nguyện năm 2009 mới chỉ có khoảng 50.000 người tham gia.
Cho đến nay hệ thống ASXH ở Việt Nam còn ở mức sơ khai, độ bao phủ mỏng, các chính sách về ASXH chưa được phân phối một cách công bằng, những đối tượng ở khu vực vùng sâu vùng xa, khu vực nông thôn vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ với các chính sách về ASXH. Mặt khác trong một thời gian dài, do đặc điểm cơ chế quản lí kinh tế xã hội, chế độ đảm bảo của BHXH và ASXH chỉ mới chăm lo cho công nhân – viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, những người đóng góp cho cách mạng chứ chưa thực mở rộng bảo đảm cho nhân dân lao dộng toàn xã hội. Phân đông những người nghèo chưa được tiếp cận các chương trình ASXH, chưa có nhận thức và hiểu biết về chương trình này. Các chương trình cứu trợ, các hệ thống dịch vụ xã hội, các hình thức hỗ trợ dịch vụ khác... chưa đến được đông đảo người dân, vì vậy thiệt thòi vẫn thuộc về người nghèo.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, Nhà nước ngày càng bảo đảm quan tâm tốt hơn về ASXH , nhằm nâng cao chất lượng cho cuộc sống người dân. Ngoài việc ban hành các hình thức bảo hiểm, hàng loạt các quỹ hỗ trợ xã hội khác được hình thành và phát triển như: Quỹ hỗ trợ tuổi già, quỹ hỏi thăm các tổ chức kinh tế chính trị - xã hội, quỹ hỗ trợ thiên tai và cứu đói lúc giáp hạt, Quỹ bảo trợ dự phòng… Các quỹ này đã và đang phát huy tác dụng trong việc bảo đảm ASXH cho người dân giúp người dân vượt qua khó khăn trước mắt và từng bước ổn định cuộc sống. Từ đó tầm quan trọng của nhận thức về ASXH trong nhân dân từng bước được nâng cao. Mặt khác , thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng lên, người dân càng ý thức hơn về tâm quan trọng của ASXH. Vì vậy trong thời gian gần đây tỉ lệ người tham gia BHXH ngày càng tăng.
Từ thực tế trên, Nhà nước ngoài những chính sách nâng cao ASXH, phải có những biện pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền về ASXH đến đông đảo người dân để giúp người dân nhận thức nâng cao nhận thức về ASXH, từ đó phối hợp với Nhà nước để công tác ASXH ngày càng hiệu quả hơn.
3.
Trách nhiệm, cơ chế giám sát và sự quản lí của nhà nƣớc, chính quyền:
44
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) của Đảng đã ra Nghị quyết về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới an sinh xã hội. Cùng với việc nêu ra những hạn chế, yếu kém trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội, nghị quyết đã xác định những quan điểm rất cơ bản, có tác dụng và ý nghĩa chỉ đạo thực hiện lâu dài.
Trong đó, nghị quyết đã nhấn mạnh, bảo đảm an sinh xã hội là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội. Các chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng cân đối, huy động nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên đối với người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện; phải bảo đảm công bằng và bền vững có tính chia sẻ giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia; đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hội nhập quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Những quan điểm chỉ đạo nêu trên, Nhà nước đang từng bước thể chế hóa thành luật và chính sách để thực hiện trong cuộc sống, tập trung vào các nhiệm vụ: việc làm, thu nhập, giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp chung, bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm; hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội; bảo đảm giáo dục, y tế, nhà ở tối thiểu, hướng trực tiếp vào người nghèo, hộ nghèo; tăng cường thông tin truyền thông đến người dân nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn… Đây được xem là những nỗ lực đầy trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện an sinh xã hội, nhằm phục vụ tốt hơn cuộc sống của nhân dân, tạo động lực phát triển xã hội.
45
An sinh xã hội_Trợ cấp tuổi già
TỔNG KẾT:
An sinh xã hội, có thể coi là một hợp phần của hệ thống các vấn đề xã hội, hơn nữa, là hợp phần nổi bật, nổi trội nhất trong hệ thống ấy. Thực hiện được an sinh xã hội là thực hiện được tiền đề của ổn định, thực hiện được điều kiện của phát triển. An sinh xã hội là chỉ số báo cáo xác thực nhất vấn đề bảo đảm ổn định tích cực, lành mạnh và phát triển bền vững mà thước đo nhân văn của một xã hội phát triển bền vững là phát triển bền vững con người. Cắt nghĩa An sinh xã hội một cách trực tiếp và thực chất chính là sự an toàn, độ an toàn của cuộc sống con người. An ninh và an toàn vừa là nội dung lại vừa là điều kiện bảo đảm của an sinh xã hội. Giải quyết kịp thời, đúng đắn, hợp lý, công bằng các vấn đề xã hội và an sinh xã hội là điều kiện tối cần thiết và quan trọng để giữ vững ổn định, đoàn kết và đồng thuận xã hội, để bảo đảm và thúc đẩy phát triển bền vững. Những nhận thức đó dần từng bước định hình trong lý luận đổi mới của Việt Nam và cũng từng bước được thực hiện trong các chương trình, chính sách quốc gia của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Hệ mục tiêu của đổi mới thể hiện rất rõ những định hướng phát triển An sinh xã hội quốc gia: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, trong thời gian qua, An sinh xã hội, đặc biệt là vấn đề trợ cấp tuổi già (chế độ hưu trí), đã đem lại rất nhiều lợi ích cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội trên toàn Thế giới, trong đó có cả Việt Nam. Tuy nhiên, để tận dụng tối đã lợi ích của trợ cấp người già và đối mặt với những thách thức, khó khăn trong việc phổ cập ý nghĩ của nó tới toàn thể xã hội vẫn còn đang là một vấn đề nan giản của toàn nhân loại. Vì vậy, hiểu rõ bản chất cũng như chức năng của Chế độ hưu trí không chỉ cần thiết cho Chính phủ mọi quốc gia mà còn cho nhận thức của mỗi các nhân mọi người.
Mong rằng, bài tiểu luận trên đây của chúng em đã góp được phần nào nhỏ bé vào vấn đề nâng cao nhận thức về An sinh xã hội cũng như trợ cấp tuổi già cho toàn xã hội. Tuy đã rất cố gắng làm rõ vấn đề trợ cấp tuổi già trong xã hội, nhưng do hiểu biết còn hạn hẹp, nguồn tài liệu chuyên môn ít ỏi nên chắc chắn bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi thiếu sót, khiếm khuyến nhất định. Rất mong nhận được sự cộng tác, đóng góp ý kiến của giảng viên cũng như quý bạn đọc để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân thành cảm ơn!
46