ĐA HÌNH DI TRUYỀN GEN HORMON KÍCH

THÍCH BAO NOÃN (FSH) TRONG MỘT SỐ GIỐNG

LỢN Ở VIỆT NAM

Nguyễn Thị Diệu Thúy1, Nguyễn Thu Thúy1, Nguyễn Văn Cường1, A.W. Kuss2, H. Geldermann2

1. Viện Công nghệ Sinh học, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu

Giấy, Hà Nội.

2. Trường ĐH Hohenheim, Stuttgart, CHLB Đức.

Ở Việt Nam, lợn là vật nuôi quan trọng, cung cấp khoảng

75% tổng lượng thịt cho xã hội [5]. Cho đến nay, ở nước ta

các chương trình lai tạo và chọn giống lợn được sử dụng

chủ yếu dựa trên đặc điểm ngoại hình và một số chỉ tiêu

sinh hoá. Quá trình chọn lọc dựa trên di truyền số lượng

này đã góp phần chọn lọc đàn giống lợn có những đặc điểm

ưu việt hơn ví dụ như mức độ sinh trưởng cao hơn, chất

lượng thịt tốt. Tuy nhiên, quá trình này cần nhiều thời gian

và trong một số trường hợp kết quả chọn lọc không hoàn

toàn chính xác. Trong khoảng hơn mười năm gần đây, các

nhà di truyền học đã nghiên cứu và phát triển các chỉ thị di

truyền phân tử cũng như các gen liên quan đến các tính

trạng để hỗ trợ cho quá trình chọn lọc giống vật nuôi.

Việc tăng số lượng con sinh ra trong một lứa là một trong

những tính trạng sinh sản của lợn rất được quan tâm. Một

số chỉ thị di truyền liên quan đến tính trạng này như ESR

(Oestrogen receptor gene) [4], PRLR (Prolactin receptor)

[6], FSH (Follicle Stimulating Hormone  subunit Gene)

…đã được nghiên cứu ở một số giống lợn [2]. Gen kích

thích bao noãn FSH nằm trên nhiễm sắc thể số 2 và sản

phẩm của nó là tiểu đơn vị  của hormone kích thích bao

noãn. FSH tương tác với thụ thể của nó (receptor) nằm trên

các tế bào hạt và có tác dụng kích thích sự trưởng thành và

biệt hóa của các tế bào trứng. FSH cùng với LH (Lutein

Hormone) giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của

trứng trước khi thụ tinh. Đa hình gen FSH đã được nghiên

cứu rất kỹ ở giống lợn Meishan, Landrace, Yorkshire và

Duroc [2,3]. Kết quả của sự đột biến gen này là sự xen vào

của gen nhảy (transposon) chứa toàn bộ trình tự của RNA

polymerase II cũng như các vùng có thể sao chép. Gen

nhảy này có độ dài 292 bp xen vào ở vị trí 809 bp, nằm

giữa Intron I và Exon II của gen FSH. Đột biến này liên

quan đến số lượng con sinh ra trong 1 lứa. Những cá thể

mang gen nhảy thì số lượng con sinh ra trong 1 lứa ít hơn

so với cá thể không mang gen nhảy. Kết quả thực nghiệm

từ 289 lợn nái Landrace và Yorkshire cho thấy những cá

thể đồng hợp tử không mang gen nhảy (NN) có số con sinh

ra trong một lứa trung bình cao hơn cá thể đồng hợp mang

gen nhảy (TT) 1,5 con [3]. Sử dụng phương pháp này có

thể dự đoán số lượng lợn con sinh ra trong 1 lứa. Với mục

đích là bước đầu ứng dụng các kết quả của di truyền chất

lượng vào công tác chọn lọc đàn giống, chúng tôi tiến hành

khảo sát đa hình kiểu gen FSH của một số giống lợn ở Việt

Nam.

Vật liệu và phương pháp

- Các hoá chất sử dụng ở dạng tinh khiết dùng cho phân

tích sinh học phân tử đặt từ các hãng Alconox, Roth,

Eppendorf, Pharmacia, Merk, Serva, Sigma, MBI

Fermentas,…

- 302 mẫu máu thu được từ 7 giống lợn: Móng Cái

(n=61) từ nông trường Thành Tô (Hải Phòng), Mường

Khương (n=73) từ huyện Mường Khương (Lào Cai), Mẹo

(n=47) từ huyện Quỳ Châu (Nghệ An), Cỏ (n=42) từ huyện

Kon Kuông (Nghệ An), Tạp Ná (n=25) từ huyện Thông

Nông (Cao Bằng) và 2 giống lợn ngoại Landrace (n=24) và

Yorkshire (n=17) đã nhập vào Việt Nam trên 20 năm tại

Trung tâm Nghiên cứu lợn Thụy Phương, Viện Chăn nuôi

Quốc gia.

- DNA được tách chiết từ máu qua các bước: tiêu hoá

bằng ProteinaseK và làm sạch bằng Phenol, Chloroform

theo phương pháp được mô tả trong [1].

- Trình tự ADN của đoạn gen FSH cần nhân lên và trình

tự cặp mồi đặc hiệu được trình bày dưới đây:

Trong đó: P1 và P2 là trình tự mồi đặc hiệu với đoạn

gen FSH

Đoạn viết ở dạng chữ in là trình tự đoạn gen nhảy dài

292 bp.

- Thành phần và chu trình nhiệt phản ứng PCR của gen

FSH được ghi trong bảng 2 và 3.

Bảng 2: Thành phần phản ứng PCR

Bảng 3: Chu trình nhiệt phản ứng PCR nhân đặc hiệu đoạn

FSH

- Sản phẩm PCR được kiểm tra trên gel agarose 1,5%,

nhuộm Ethidium Bromide và phát hiện dưới ánh sáng UV.

Kết quả và thảo luận

Kết quả PCR nhân đoạn gen FSH

Trước tiên, chúng tôi phải tiến hành tối ưu hoá điều kiện

phản ứng PCR, trong đó quan trọng nhất là 2 yếu tố nồng

độ MgCl2 và nhiệt độ bám. Phản ứng PCR được tiến hành

trên máy Gradient Cycle PTC-100 với gradient nồng độ MgCl2 từ 1,5mM đến 3,0mM và nhiệt độ bám từ 500C đến

620C. Kiểm tra sản phẩm PCR trên agarose 1,5% cho thấy ở điều kiện nhiệt độ bám 550C và nồng độ MgCl2 1,5mM là

cho kết quả tốt nhất, sản phẩm PCR có 1 vạch rõ và duy

nhất có kích thước 540bp tương ứng với cá thể có mang

đoạn gen nhảy.

Kết quả phân tích kiểu gen FSH bằng PCR trong 7 giống

lợn Móng cái (MC), Mường Khương (MK), Mẹo (ME), Cỏ

(CO), Tạp Ná (TN), Landrace (LR) và Yorkshire (YS)

được trình bày ở hình 1. Sản phẩm PCR thu được có độ dài

khác nhau, phụ thuộc vào sự có mặt hay vắng mặt của gen

nhảy ở 1 hoặc cả 2 nhiễm sắc thể. Những cá thể mang gen

nhảy được ký hiệu là T tương ứng với sản phẩm PCR có độ

lớn là 540bp, những cá thể không mang gen nhảy ký hiệu là

N tương ứng với sản phẩm PCR có độ lớn là 248 bp. Sản

phẩm PCR ở các giếng 4,5,6 là 1 băng ADN có độ lớn

tương ứng với 248 bp, tức là những cá thể này có kiểu gen

đồng hợp tử NN, sản phẩm PCR ở các giếng 1,2,3 là 1 băng

ADN có độ lớn tương ứng với 540 bp, tức là những cá thể

này có kiểu gen đồng hợp tử TT, sản phẩm PCR ở các

giếng 7,8,9,10,11 xuất hiện 2 băng ADN tương ứng với

540bp và 248 bp, đó là các cá thể có kiểu gen dị hợp tử TN.

Hình 1: Kết quả điện di agarose 1,5%

M: ADN chuẩn 100bp

1-3: Sản phẩm PCR nhân đoạn gen FSH của các cá thể có

kiểu gen TT (540bp)

4-6: Sản phẩm PCR nhân đoạn gen FSH của các cá thể có

kiểu gen NN (248 bp)

7-11: Sản phẩm PCR nhân đoạn gen FSH của các cá thể có

kiểu gen TN (540bp và 248bp)

Tần suất xuất hiện kiểu gen FSH trong một số giống lợn

Trong 61 MC có 59 con mang kiểu gen đồng hợp tử TT

chiếm 96,7%; 2 các thể mang kiểu gen đồng hợp tử NN

chiếm 3,3% và không có cá thể nào mang kiểu gen dị hợp

tử TN. Trong số 73 cá thể giống lợn MK tần số kiểu gen

đồng hợp tử NN là 11% (8 cá thể), dị hợp tử TN 21,9% (16

các thể) là cao hơn so với MC, còn lại là 49 cá thể mang

kiểu gen đồng hợp tử TT chiếm 67,1%. Còn đối với các

giống lợn Yorkshire và Landrace nhập vào Việt Nam thì

tần số kiểu gen NN, TN và TT lần lượt là 76,5%, 79,5%;

5,9%, 8,3% và 17,6%, 12,5%. Kết quả bảng 1 cho thấy tần

số cá thể không mang gen nhảy tức là kiểu gen NN ở các

giống lợn ngoại nhập cao hơn hẳn so với các giống lợn nội

Việt Nam. Trong số các giống lợn nội thì không có cá thể

nào của giống lợn CO mang kiểu gen NN, và chỉ có 2,1%

và 4% giống lợn ME và TN mang kiểu gen đồng hợp tử

NN. Kết quả này chỉ ra rằng với giống lợn ngoại đã được

chọn lọc thì tần số kiểu gen NN (không mang gen nhảy)

cao hơn hẳn các giống lợn nội, liên quan số lợn con sinh ra

trong một lứa nhiều hơn. Điều này có thể do các giống lợn

ngoại YS và LR là các giống nhập ngoại vì thế đã qua quá

trình chọn lọc nhân tạo của con người, còn các giống lợn

nội (MK, ME, CO, TN) còn hoàn toàn chăn nuôi tự nhiên.

Bảng 4. Tần suất các kiểu gen FSH trong một số giống lợn

I. Kết luận

- Đã nhân được đoạn gen đặc hiệu của gen FSH có độ

dài 540 bp trong trường hợp có mang gen nhảy và độ dài

248 bp trong trường hợp không mang gen nhảy bằng kỹ

thuật PCR.

- Đã khảo sát đa hình di truyền gen FSH của 7 giống lợn

trong đó có 5 giống lợn nội và 2 giống lợn ngoại nhập vào

Việt Nam. Kết quả cho thấy hai giống lợn ngoại Yorkshire

và Landrace có tần số kiểu gen không mang gen nhảy cao

hơn hẳn các giống lợn nội Việt Nam.

II. Tài liệu tham khảo

1. Frederich M. Ausubel, Roger Brent, Robert E.

Kingston, David D. Moore, J.G. Seidman, John A. Smith,

and Kevin Struhl. Shrort Protocols in Molecular Biology,

Third Edition.

2. Li, N., Zhao, Y.F., Xia, L., Zhang, F.J., Chen, Y.Z.,

Dai, R.J., Zhang, J.S., Shen, S.Q., Chen, Y.F. and Wu, C.X.

1998. Candidate gene approach for identification of genetic

loci controlling litter size in swine. Proc 6th World

Congress Quatitative Genetics of Livestock 26: 183-186.

3. Li et al. DNA marker for pig litter size. United States

Patent, September 18, 2001.

4. Max Rothschild et al. The estrogen receptor locus is

associated with a major gene influencing litter size in pigs.

1996. Proc. Natl. Acad. USA. Genetics. Vol. 93, 201-205.

5. Nguyễn Văn Đức, Tạ Thị Bích Duyên, Giang Hồng

Tuyến, Nguyễn Văn Hà và Lê Viết Ly. 2000. Kết quả chọn

lọc dòng lợn Móng Cái về tăng trọng, tiêu tốn thức ăn và tỷ

lệ nạc. Tóm tắt báo cáo khoa học năm 1999. Viện Chăn

Nuôi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 3-5.

6. Vincent, A.L., Short, T.H., Eckardt, G.R., McLaren,

D.G., Southwood, O.I., Plastow, G.S., Tuggle, C.K. and

Rothschild, M.F. 1998. The prolactin gene receptor is

associated with increased litter size in pigs. Proc 6th World

Congress Quantitative Genetics of Livestock 27: 15-18.

SUMMARY

Genetic frequency of follicular stimulating hormone

gene in pig breeds in VietNam.

Nguyen Thi Dieu Thuy et al.

Institute of Biotechnology.

The follicular stimulating hormone gene (FSH) plays an

importance role in the development of the oocyte before

fertilization by interacting with its receptor on granular

cells to promote the maturation and differentiation of

ovarian follicles. The association between litter size and the

polymorphism of porcine FSH beta-subunit gene was

confirmed. A mutation caused by an insertion of a

transposon which contains a complete promoter for RNA-

polymerase II and other possible transcription regions, in

the FSH-beta subunit gene has been identified. The litter

size in pigs carrying the mutation is significantly lower

than those of pigs lacking the mutation. To analyze the

frequency of follicular stimulating hormone gene in pig

breeds in Viet Nam we have screened the mutated FSH-

gene in 302 individuals belonging to 5 local pig breeds

(Muong Khuong, Mong Cai, Meo, Co and Tap Na) and 2

exotic pig breeds (Yorkshire and Landrace) by polymerase

chain reaction (PCR). Two specific primers (P1: 5’-

ccttnnagacagtcaatgg-3‘; P2: 5‘-ccagtnnttcaaggtttggtca-3‘)

have been used for PCR amplification of mutated and

unmutated DNA fragment in the FSH gene. PCR condition

was optimized on MgCl2 and annealing temperature. The PCR condition of 1.5mM MgCl2 and 550C gave the best

result. The mutated and unmutated allele was identified as

allele “T” and “N”. The homozygote (TT) and (NN) will

present one bands of 540bp and 248bp, respectively. The

heterozygote (TN) will present two bands of 540bp and

248bp. Analysis of FSH gene polymorphism on Landrace,

Yorkshire, showed that the frequencies of the homozygote

(NN) were 79.2% and 76.5%, respectively. In digenous pig

breeds, the frequencies of the homozygote (NN) were very

low, even in case of Co breed no animal has been detected.

Among the local pig breeds, the highest frequency of the

homozygote (NN) and the heterozygote (TN) was found in

Muong Khuong breed and have the value of 11% and

21.9%, respectively. The frequency of homozygote (NN) in

exotic breeds is higher than in indigenous breeds. The

preliminary results are consistent with the fact that the

exotic breeds were selected for reproductive trait, while

indigenous breeds were not.

Người thẩm định nội dung khoa học: PGS.TS. Nguyễn Kim

Độ.