SỰ ĐA HÌNH DI TRUYỀN HỆ ISOZYM ESTERAZA

Ở MỘT SỐ LOÀI MỐI VÀ TẰM DÂU

Trịnh Đình Đạt, Ngô Thị Hoan, Nguyễn Văn Quảng,

Nguyễn Văn Sáng, Đinh Nho Thái

Trường Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội

Nhiều loài côn trùng có hiện tượng biến dị hình thái lớn.

Những biến dị do nhiều nguyên nhân có bản chất di truyền

và không di truyền. Mặt khác ở côn trùng còn có hiện

tượng loài đồng hình chiếm ở sinh thái giống nhau nên khó

phân loại chúng[1]. Việc ứng dụng phương pháp phân tích

gen - enzym thông qua phân tích hệ izozym, tính tần số

alen góp phần phân loại chính xác những loài đồng hình

cũng như các dòng, giống vật nuôi.

Nhằm góp phần phân loại hai loài mối Odontotermes

yunanensis (O. yunanensis), loài Macrotermes annandalei

(M. annandalei) ở một số quần thể có địa bàn sinh thái

khác nhau[2] và một số giống, dòng tằm dâu Bombyx mori

(B. mori), chúng tôi tiến hành phân tích hệ isozym esteraza

của các đối tượng trên.

1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

* Đối tượng: Nghiên cứu được tiến hành trên hai loài mối

M. annadalei và O. yunanensis được thu thập tại rừng Quốc

gia Cúc phương và vùng đồi Xuân Mai, Hà Tây.

Các giống tằm dâu A1, A2, L70A, 810 và Đồ Sơn khoang

(ĐSK) nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu dâu tằm tơ Trung

ương.

* Phương pháp nghiên cứu

Hệ isozym esteraza được phân tích điện di theo phương

pháp của C.A. Green (1990)[3] trên gel polyacrylamid

7,5% với hệ đệm E.B.T, pH = 8,5 với U = 150v, I = 75mA trong thời gian 5 giờ, ở nhiệt độ 50C.

Sau điện di, bản gel được nhuộm với cơ chất và thuốc

nhuộm đặc hiệu với phản ứng của esteraza[4]. Kết quả các

băng được chụp ảnh và phân tích số liệu thống kê.

2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

a) Kết quả điện di esteraza của hai loài mối

* Kết quả phân tích loài mối O. yunanensis thu từ quần thể

Cúc Phương và Xuân Mai, Hà Tây.

Kết quả, sau khi nhuộm, băng có thể chia thành 3 vùng hoạt

tính tương ứng với 3 locut gen xác định.

Vùng 1: Mối của Cúc Phương có 1 băng với Rf = 0,58 tương ứng với 1 alen trội Est -1a xác định.

Mối của Xuân Mai có 2 băng với Rf = 0,58 và 0,56 tương ứng với 2 alen đồng trội Est -1a và Est -1b

Vùng 2: Mối của hai quần thể đều có hai loại băng với Rf = 0,46 và 0,45 tương ứng với 2 alen đồng trội Est -2a và Est -

2b xác định.

Vùng 3: Mối của cả hai quần thể đều xuất hiện một loại băng tương ứng với alen Est -3a xác định và có Rf = 0,40.

Tần số các alen của các locut esteraza của mối được trình

bày ở bảng 1

Bảng 1: Kết quả phân tích isozym esteraza của mối O.

yunanensis ở hai quần thể

Như vậy mối của hai quần thể cơ bản như nhau tuy nhiên

mối ở quần thể Xuân Mai đa hình hơn.

* Kết quả phân tích loài mối M.annandalei thu từ Cúc

Phương và Xuân Mai.

Kết quả nhuộm băng esteraza loài mối M. annandalei thu

từ hai quần thể đều biểu diễn hai vùng có đặc điểm giống

nhau cụ thể là:

Vùng 1 ở tất cả mẫu phân tích đều có 3 băng. Như vậy

vùng 1 do ba locut gen Est -1 , Est - 2 và Est -3 mỗi locut có 1 alen ký hiệu Est -1a, Est -2a, Est -3a tương ứng với Rf

= 0,58; 0,56 và 0,54 xác định.

Vùng 2 ở cả hai quần thể đều thu được 2 loại băng. Như vậy vùng 2 do 1 locut gen Est-4 với 2 alen Est -4a và Est -4b

tương ứng với Rf = 0,46 và 0,45 xác định.

Riêng mối M.annandalei của quần thể Cúc Phương xuất

hiện thêm vùng 3 và vùng 4 mỗi vùng có 1 băng. Như vậy

2 vùng này do 2 locut gen Est -5 có 1 alen (Rf = 0,40) và

Est -6 có 1 alen (Rf = 0,12) xác định.

Kết quả tính tần số alen của mối M. annandalei được trình

bày ở bảng 2.

Bảng 2: Kết quả phân tích isozym esteraza của mối

M.annandalei ở 2 quần thể

Như vậy hai quần thể mối M. annandalei có sự khác nhau

về tần số alen của locut Est -4. Mối ở quần thể Cúc Phương

xuất hiện thêm vùng 3 và vùng 4 đặc trưng những băng

chạy chậm.

b) Kết quả điện di esteraza của các giống tằm dâu B.

mori.

Để phân tích điện di isozym esteraza mỗi bản gel được thực

hiện với 3 - 4 giống tằm. Kết quả băng điện di có thể chia

làm 6 vùng tương ứng với 6 locut gen kiểm soát. Trên cơ

sở các băng điện di chúng tôi xác định số alen, tần số alen

của mỗi locut.

Kết quả phân tích isozym esteraza ở các giống tằm được

nêu ở bảng 3.

Bảng 3: Kết quả phân tích isozym esteraza ở tằm dâu

Kết quả trên cho thấy 3 giống tằm A2, 810, L70A có nhiều

đặc điểm di truyền hệ isozym esteraza giống nhau. Sự khác

nhau là biểu hiện ở tần số alen của locut Est -4 và Est -5.

Giống tằm A1 khác các giống tằm trên là xuất hiện locut

Est -6 có các băng chạy chậm và không có băng của locut

Est -1.

Giống tằm ĐSK có tính đa hình thấp mang tính thuần

chủng rõ rệt.

Một số hình ảnh kết quả điện di hệ isozym etsteraza của

mối và tằm được biểu hiện ở hình 1 và 2.

3. Kết luận

Phân tích điện di hệ isozym esteraza ở 2 loài mối và 5

giống tằm có thể thấy được một số nhận xét sau:

- Hai loài mối và 4 giống tằm A1, A2, 810, L70A đều mang

tính đa hình di truyền.

- Hệ isozym esteraza loài mối O. yunanensis ở quần thể

Xuân Mai đa hình hơn quần thể Cúc Phương.

- Hệ isozym esteraza loài mối M. annandalei ở quần thể

Xuân Mai do 4 locut xác định trong khi đó ở quần thể Cúc

Phương do 6 locut xác định. Do vậy chúng khác nhau về di

truyền.

Ba giống tằm A2, 810, L70A có đặc điểm di truyền hệ

isozym esteraza giống nhau. Giống tằm A1 về cơ bản sai

khác 3 giống tằm trên bởi sự xuất hiện locut Est -6 có băng

chạy chậm. Giống tằm ĐSK là khá thuần và sai khác với

các giống tằm khác trong nghiên cứu này.

H1. Ảnh điện di esteraza của hai loài mối

1 - 8 : O. yunanensis CP

9 -16 : M. annandalei XM

17-24 : M. annandalei CP

H2. Ảnh điện di esteraza của một số giống tằm

1 - 6 : giống A2;

7 - 12 : giống A1

13 - 18: giống L70A;

19 - 24 : giống ĐSK

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trịnh Đình Đạt, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, 2000. Ứng

dụng phân tích isozym trong nghiên cứu đa dạng sinh học

và phân loại một số loài động vật. Những vấn đề nghiên

cứu cơ bản trong sinh học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Tr. 48 - 50.

2. Nguyễn Đức Khảm, 1966. Một số ý kiến về phân loại

mối Isoptera ở Việt Nam. Tạp chí bảo vệ thực vật số 5.

3. Green. C.A et. al., 1990. Population genetic evidence

for two species in An. minimus in Thailand.

Med. Vet Ent. 4: 24 - 34pp.

4. Steiner W.W.M and Joslyn D.J., 1979. Electrophoretic

techniques for the genetic study in mosquitoes. Mosquito

News. 39: 18 - 54pp.

Lời cảm ơn:

Công trình này được hoàn thành với sự hỗ trợ của chương

trình nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.

SUMMARY

Genetic polymorphism of esterase isozyme system of

some termite and silkworm species.

There are many insect species, which live in sympatric

areas with their great morphological variability, lead to

homeomorphic species. It is very difficult to distinguishing

of these species, so we carry out research: Genetic

polymorphism of esterase isozyme system of some termite

and silkworm species, to take part in homeomorphic

species classification to serve in biodiversity conservation.

We studied two termite species: M. annandale and O.

yunanensis, which were collected from Cuc phuong

national park, hills of Xuan mai town, Hatay province. Five

silkworm breeds A1, A2, L70A, 810 and Do son spotted

silkworm (DSK silkworm) from National Silkworm

Research Center (NSRC) also were studied.

Esterase isozyme system were analyzed by C.A. Green

electrophoresis method (1990)[3] in 7,5% polyacrilamide

gel with EBT buffer, pH = 8,5, U = 150V, I = 75 mA, h = 5 and t = 5 oC. After electrophoresis procedure , gel plate was

stained with specific substrates and dyes. The result was

analyzed by appearance of electrophoresis bands.

* The results of esterase isozyme system of two termite O.

yunanensis, M. annandalei species showed that:

- Esterase isozyme of the termite species and silkworm

varieties are polymorphic.

- Esterase isozyme of O. yunanensis consisted 3 loci and

Xuanmai population showed higher degree of

polymorphism than Cucphuong termite population.

- Esterase isozyme of Xuanmai M. annandalei showed 4

loci and in esterase of Cucphuong termite 6 loci were

investigated.

* And esterase isozyme system of five silkworm varieties

was analyzed, the result showed that:

- Esterase isozyme of A2, 810, L70A silkworm varieties

genetically is not different. DSK silkworm is not

polymorphic.

Người thẩm định nội dung khoa học: TS. Nguyễn Quốc

Khang.