Häc viÖn chÝnh TrÞ-hµnh chÝnh Quèc Gia Hå ChÝ Minh

B¸o c¸o Tæng hîp kÕt qu¶ nghiªn cøu ®Ò tµi khoa häc cÊp bé n¨m 2010

M∙sè: B.10-17 viÖt Nam gia nhËp asean tõ n¨m 1995 ®Õn nay: thµnh tùu, vÊn ®Ò ®Æt ra

vµ triÓn väng

Cơ quan chủ trì: VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS NGUYỄN THỊ QUẾ Thư ký đề tài: ThS NGUYỄN THỊ MINH THẢO

8257

Hµ néi - 11/2010

DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN

1. Đặng Thị Lan Anh

2. CN. Hà Ngọc Biên

3. ThS. Nguyễn Văn Dương

4. TS. Hoàng Văn Đồng

5. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp

6. ThS. Phan Thị Thu Hằng

7. ThS. Trịnh Thị Hoa

8. PGS,TS. Thái Văn Long

9. ThS. Uông Minh Long

10. Nguyễn Lương Ngọc

11. ThS. Ngô Chí Nguyện

12. ThS. Phan Duy Quang

13. PGS, TS. Nguyễn Thị Quế Chủ nhiệm đề tài

14. PGS,TS. Phan Văn Rân

15. TS. Phạm Minh Sơn

16. TS. Đinh Thanh Tú

17. ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo Thư ký khoa học

18. ThS. Tống Đức Thảo

19. CN Nguyễn Đại Thắng

20. CN Nguyễn Thị Thủy

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

AANZFTA ACCI ACFTA ACIA ADB ADMM+ AEC AFSA AFTA AIA AICO AIPO AMBDC AMM APEC APSC ARF ASC ASCC ASEAN ASEM ASOEN ATIGA AU BSA CAFTA CA-TBD CEPT CLMV CNĐQ CNXH

Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtơ-rây-lia – Niu Di-lân Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN Ngân hàng phát triển châu Á Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng Cộng đồng kinh tế ASEAN Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Hiệp định về Khu vực đầu tư ASEAN Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN Liên minh Nghị viện ASEAN Hợp tác ASEAN về phát triển lưu vực sông Mê Công Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN Diễn đàn hợp tác kinh tế châu ¸-Thái Bình Dương Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN Cộng đồng an ninh ASEAN Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ¸ Hội nghị ¸-Âu Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN Liên minh châu Phi Thoả thuận hoán đổi song phương Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc Châu Á - Thái Bình Dương Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung Các nước ASEAN-4 (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam) Chủ nghĩa đế quốc Chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa tư bản Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông Cộng đồng Kinh tế Á - Âu Hội nghị cấp cao Đông Á Cộng đồng kinh tế châu Âu Chương trình Thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA Liên minh kinh tế và tiền tệ Liên minh châu Âu Hành lang kinh tế Đông - Tây Tổng thu nhập quốc nội Chương trình hợp tác phát triển tiểu vùng Mêkông mở rộng Tổng thu nhập quốc dân Sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN Diễn đàn hợp tác và phát triển IAI Quỹ tiền tệ quốc tế Cuộc găp không chính thức Jakarta Khoa học công nghệ Ủy hội sông Mê Công Hành lang kinh tế Bắc - Nam Tổ chức thống nhất châu Phi Viện trợ phát triển chính thức Phong trào cộng sản quốc tế Hiệp hội hợp tác khu vực Nam ¸ Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân Hành lang kinh tế phía Nam Cộng đồng các quốc gia độc lập Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam ¸ Ngân hàng thế giới Tổ chức thương mại thế giới Xã hội chủ nghĩa Khu vực ASEAN hòa bình, tự do và trung lập

CNTB COC DOC EAEC EAS EEC EHP EMU EU EWEC GDP GMS GNP IAI IDCF IMF JIM KHCN MRC NSEC OAU ODA PTCSQT SAARC SEANWFZ SEC SNG TAC WB WTO XHCN ZOPFAN

MỤC LỤC

Trang 1

MỞ ĐẦU Phần thứ nhất: VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ

CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY

13 13

28

1. Một số lý thuyết về liên kết khu vực 2. Việt Nam gia nhập ASEAN - sự mở đầu tiến trình liên kết của Việt Nam với khu vực 3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam- ASEAN sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN

38

Phần thứ hai: NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ

61 61

76

99

ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY 1. Quá trình Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN 2. Những thành tựu và đóng góp chủ yếu của Việt nam trong hợp tác, liên kết ASEAN 3. Những khó khăn, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN 4. Vai trò của hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đối với sự phát triển của Việt Nam

111

Phần thứ ba: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN VÀ MỘT SỐ

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020

134 134

1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020 2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

162 176 180

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8/8/1967. Từ 5 nước thành viên sáng lập ban đầu, sau 4 lần mở rộng (1984, 1995, 1997, 1999), ngày nay ASEAN đã quy tụ sự tham gia của 10 quốc gia Đông Nam Á. Trên chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động, với dân số hơn 500 triệu người, diện tích 4,5 triệu km2, quy mô GDP đạt gần 900 tỷ USD và tổng giá trị thương mại khoảng 800 tỷ USD. Thành tựu ấn tượng này đã đưa ASEAN trở thành một đối tác giàu tiềm năng của nhiều nước và tổ chức quốc tế, một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò ngày càng nổi bật ở châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên thế giới.

Do những lợi thế về vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế- xã hội nên ASEAN có vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế, gắn liền với lợi ích chiến lược và cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều cường quốc trên thế giới. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khu vực này đã từng là một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đối đầu Đông - Tây với sự chi phối, tương tác rất phức tạp của hình thái tam giác chiến lược Xô - Mỹ - Trung. Quan hệ giữa các nước khu vực, cũng vì thế, bị phân tuyến sâu sắc, thường xuyên căng thẳng giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Bởi vậy, chiến tranh lạnh kết thúc mở ra cơ hội lớn cho các nước ASEAN thực hiện ý tưởng ngay từ khi mới thành lập về thúc đẩy hợp tác, liên kết trên quy mô toàn Đông Nam Á. Sự mở rộng ASEAN-6 thành ASEAN-10 là bước phát triển có ý nghĩa nhất đối với ASEAN trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Đây là hệ quả tất yếu của sự điều chỉnh và thích ứng của ASEAN trước bối cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

Bước sang thế kỷ XXI, tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có những thay đổi to lớn và nhanh chóng. Để kịp thích ứng với tình hình mới, ASEAN một lần nữa lại tự điều chỉnh và đổi mới. Hướng đi cho tương lai của Hiệp hội đã được các nước thành viên nhất trí xác định rõ ràng, đó là phải đẩy mạnh liên kết nội khối sâu và toàn diện hơn, hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột (chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội) vào năm 2015, dựa trên cơ sở pháp lý chung là Hiến chương ASEAN. Sự kiện này mở ra bước ngoặt

1

mới đối với sự phát triển của ASEAN trong thế kỷ XXI, đưa ASEAN từ một hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ.

Gần hai thập niên qua kể từ năm 1991, sự phát triển năng động của ASEAN cùng với những thành tựu đạt được trong hợp tác, liên kết nội khối và những nỗ lực mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, nhất là với các nước lớn, làm cho ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vị thế của ASEAN càng trở nên quan trọng hơn không chỉ xét từ góc độ địa - chính trị và quân sự - chiến lược như trước đây, mà cả ý nghĩa địa - kinh tế và văn hoá...

Cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó lâu đời. Vào thời điểm tiến hành đổi mới, Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách nghiêm trọng: kinh tế - xã hội khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi tình trạng vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc và thù địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp trước hết là do những trở ngại từ “vấn đề Cam-pu-chia”. Đối với Việt Nam, đòi hỏi bức bách đặt ra là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.

Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức một cách sâu sắc rằng, để có môi trường quốc tế hoà bình và ổn định đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, thì trước tiên phải xây dựng được mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng khu vực. Do vậy, Việt Nam ngày càng chủ động đổi mới tư duy đối ngoại, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”, từng bước hình thành và triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, dành ưu tiên xứng đáng cho việc cải thiện, củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng khu vực, trong đó có các nước ASEAN.

Sự cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN (7/1995) là một quá trình Việt Nam xử lý hàng loạt vấn đề đối ngoại phức tạp. Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986), Việt Nam chú trọng thúc đẩy đối thoại với ASEAN, coi việc nhanh chóng đạt được giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề Cam-pu-chia là khâu đột phá trong quan hệ với ASEAN. Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết ngày 23/10/1991 mở ra bước phát triển mới của quan hệ Việt Nam- ASEAN. Sự kiện này còn tác động tích cực đến tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, Việt - Mỹ, từng bước đưa Việt Nam thoát ra khỏi vòng bị bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực quốc tế thù địch.

2

Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam năng động phát triển quan hệ với các nước trong Hiệp hội trên cả bình diện song phương lẫn đa phương. Thành tựu đạt được trong quá trình tham gia ASEAN không chỉ giúp Việt Nam tạo lập, củng cố môi trường hòa bình bình xung quanh đất nước, đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết yếu. Việt Nam tranh thủ được các nguồn lực trong khu vực, khai thác lợi thế của ASEAN, phát huy nội lực, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Nói cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra. Gia nhập ASEAN cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế.

Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam ngày càng tham gia một cách chủ động, tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của Hiệp hội. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp đối với sự phát triển các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định lịch sử là tăng cường liên kết, tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

Vào thời điểm 15 năm của quá trình hội nhập ASEAN, với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Hiệp hội, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển ở khu vực. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ song phương, ASEAN là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình hơn một thập niên Việt Nam gia nhập ASEAN cũng đặt ra những vấn đề bức xúc, với những khó khăn, hạn chế rất cần thiết phải khắc phục, tháo gỡ. Quan hệ Việt Nam- ASEAN vẫn còn những biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế, an ninh, chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường hợp cụ thể hợp tác kinh tế - thương mại chưa theo kịp những tiến bộ đạt được

3

về chính trị, ngoại giao, chưa tạo được nhiều bước đột phá mới về chất, chưa xây dựng được và khai thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau. Hợp tác Việt Nam - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề nhạy cảm và mới nảy sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, sự phối hợp hành động trước các vấn đề khu vực và quốc tế, v.v...

Những khó khăn, hạn chế trong việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trên nhiều mặt với ASEAN, nhất là việc tháo gỡ những vấn đề nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽ tác động không thuận chiều đối với môi trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong nước và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN.

Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020 đang đòi hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ những định hướng phát triển quan hệ với ASEAN. Từ đó sẽ cụ thể hóa thành những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới. Để xây dựng một chiến lược đối ngoại như vậy, thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện và thấu đáo thực tiễn 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (1995 - 2010) và triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN có vị trí, tầm quan trọng nổi bật trong khoa học nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chính sách đối ngoại ở nước ta hiện nay.

Từ những cách tiếp cận nêu cho thấy, việc nghiên cứu đề tài VIỆT NAM GIA

NHẬP ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG không chỉ có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và khoa học, mà còn mang tính chính trị thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là một đóng góp vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho xây dựng một chiến lược phát triển quan hệ của Việt Nam với ASEAN thời kỳ hội nhập và phát triển. Đặc biệt, đề tài càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh (1991) và xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó có nội dung về quốc tế và chính sách đối ngoại.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong hơn 20 năm Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, những thành tựu đối ngoại, hội nhập quốc tế thu được là hết sức ấn tượng, có sức thu hút lớn đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Một trong những thành tựu đối ngoại nổi bật của Việt Nam là sự phát triển quan hệ với các nước ASEAN, đặc biệt tiến trình hội nhập năng động và ngày càng sâu rộng của Việt Nam với

4

ASEAN kể từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức này (7/1995). Tuy nhiên, cho đến nay trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - ASEAN cả ở trong cũng như ngoài nước còn ít các công trình chuyên sâu và tổng hợp, phân tích và đánh giá một cách toàn diện các mặt của quá trình 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN.

2.1. Ở ngoài nước: Trước hết, cần khẳng định trong những năm qua, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về Việt Nam nói chung, trong đó có một số đề cập đến hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nhưng số các công trình lấy quan hệ Việt Nam - ASEAN từ sau năm 1995 đến nay làm đối tượng nghiên cứu chuyên sâu thì hầu như còn quá ít ỏi. Mặc dù vậy, trong khi đánh giá vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như phân tích về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam, một vài bài viết đã chỉ ra những đóng góp của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN. Trong số đó đáng chú ý là các công trình sau:

- Vietnam's Foreign Relations: Dynamics of Change của tác giả Frank

Frost (Pacific Affairs, Vol. 67, No. 4/1995);

- Ideology and Foreign Policy: Vietnam's Marxist Leninist Doctrine and Global Change, 1986-96 của Eeo Palmujoki (Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999);

- Dosch, Jorn (2006), Vietnam's ASEAN Membership Revisited: Golden Opportunity or Golden Cage?, Contemporary Southeast Asia, Journal of International and Strategic Affairs, Volume 28, Number 2, August

- Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng những cân bằng chiến lược mới,

của Madhur Singh (Hindustan Times, New Delhi, 20/6/2007);

- Vị thế Việt Nam tiếp tục được khẳng định trên trường quốc tế và khu vực (Tổng thuật bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Thông tin Những vấn đề chính trị - xã hội, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, số 9-2007).

Các công trình kể trên, khi phân tích những bước điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam từ giữa thập niên 80 - đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã khẳng định những thành tựu đối ngoại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra một số điểm thay đổi chủ yếu trong quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN. Tuy vậy, các công trình này mới chỉ tiếp cận một số mặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN, chưa có được cái nhìn tổng thể, toàn diện. Do đó, những nhận định, đánh giá của họ còn biểu hiện phiến

5

diện, nhất là lại được nhìn qua lăng kính hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia của cá nhân các nhà nghiên cứu.

Trong số các công trình liên quan đến đề tài ở ngoài nước, đáng chú ý hơn cả là sự xuất hiện các bài viết và tác phẩm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc bàn về chính sách đối ngoại Việt Nam như: Thử bàn chiến lược ngoại giao và chính sách ngoại giao của Việt Nam sau Chiến tranh lạnh của tác giả Trịnh Thuý Anh (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2001); Bàn về mở cửa đối ngoại và chính sách ngoại giao của Việt Nam của Lưu Man Na - Triệu Thụ Hải (Học báo Học viện Dân tộc Tây Nam, số 5/1997); Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam từ khi đổi mới của Vương Quốc Bình (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2006); Ngoại giao Việt Nam từ “nhất biên đảo” đến “đi cân bằng” của Hoàng Thắng Vĩ (T/c Tri thức thế giới, số 11/2001), v.v... Các công trình này đánh giá cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó cũng chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong quan hệ Việt Nam - ASEAN.

Tuy còn khá mờ nhạt, nhưng quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng được giới học giả nước ngoài đề cập trong một số công trình nghiên cứu chung về ASEAN như: Đông Nam Á- Chặng đường dài phía trước (Lim Chong Yah, Nxb Thế giới, HN 2002); ASEAN - Tri dexatiletia vnhesnhây politiki (1967- 1997) (N.P Malentin, MIMO, 1999); A New ASEAN in the New Millennium (Simon Tay, Jusus Estanislao, Hadi Soesastro, Centre for Strategic and International Studies, Singapore.2001); ASEAN Beyond the Regional Crisis: Challenges and Initiatives (Mya Than, ISEAS. 2001; Free Trade Agreement in Southeast Asia (Rahui Sen, ISEAS 2004); Roadmap to an ASEAN Economic Comunity (Denis Hew, ISEAS 2005); ASEAN Economic Co-operation (Linda Low, ISEAS 2005); ASEAN and Regionalism (Rodolfo Severino, ISEAS. 2005);... Các tác giả nêu trên, khi phân tích về tiến trình liên kết ASEAN đã có cách nhìn khá khách quan đối với sự tham gia của Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh những khó khăn mà Việt Nam cũng như các nước thành viên mới khác của ASEAN phải đối mặt khi triển khai các chương trình hợp tác, liên kết kinh tế của Hiệp hội do sự chênh lệch về trình độ phát triển.

2.2. Những nghiên cứu trong nước: Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, thì ở nước ta cũng diễn ra một sự “bùng nổ” rất đáng khích lệ của công tác nghiên cứu về quốc tế và quan hệ đối ngoại. Các nhà nghiên cứu trong nước không chỉ ngày càng quan tâm đến những vấn đề quốc tế, mà còn đặc biệt chú trọng các vấn đề lý luận và thực tiễn đối ngoại Việt

6

Nam. Hàng loạt công trình nghiên cứu đã ra đời, cung cấp cho người đọc khối lượng tri thức phong phú, đa chiều và tương đối toàn diện về đường lối, chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam, trong đó có nhiều công trình liên quan trực tiếp quan hệ Việt Nam - ASEAN kể từ khi nước ta chính thức gia nhập ASEAN.

Sự hiện diện một cách đông đảo các tác giả trong nước với các công trình, bài viết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ đề quan hệ Việt Nam - ASEAN cho thấy rõ tính cấp thiết về khoa học và thực tiễn đối với công tác nghiên cứu mối quan hệ này. Tựu chung lại, có thể chia thành 5 loại công trình chủ yếu sau:

Thứ nhất: Các công trình đề cập quan hệ Việt Nam- ASEAN trong nghiên cứu tổng thể về chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam. Các công trình này dành một dung lượng nhất định phân tích vai trò của ASEAN trong hoạt động đối ngoại Việt Nam, nêu một số thành tựu và sự chuyển biến cơ bản trong quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đó là các công trình: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000 (Nguyễn Đình Bin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002); Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002) (Vũ Dương Huân chủ biên, Học viện Quan hệ Quốc tế, 2002); Quá trình triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam (Trình Mưu, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp đồng chủ biên, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); Hai mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại (Vũ Khoan, trong “Việt Nam 20 năm đổi mới”, Nxb. CTQG, HN, 2006); Bước phát triển tư duy đối ngoại của Đảng trong quan hệ các nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Mai Hoa, T/c Lịch sử Đảng số 5-2005); Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế (Vũ Như Khôi, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006); Chủ động hội nhập kinh tế, những thành tựu quan trọng (Lương Văn Tự, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb CTQG, HN, 2006),...

Thứ hai: Các công trình nghiên cứu quan hệ Việt Nam - ASEAN dưới góc độ tổng kết thực tiễn của các cơ quan trực tiếp làm công tác đối ngoại. Điểm nổi bật của các công trình này là đều từ thực tiễn phát triển của mối quan hệ khái quát nên các bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến nghị xử lý những vấn đề đối ngoại liên quan. Một số công trình sau được hoàn thành vào trước thời điểm diễn ra Đại hội X của Đảng và đã có những tổng kết, đánh giá về quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam: Tổng kết chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới (Vụ Chính sách đối ngoại, Bộ Ngoại giao); Tổng kết chính sách và quan hệ của Đảng và Nhà

7

nước ta với khu vực Đông Nam Á từ 1986 đến nay (Vụ châu Á 2, Bộ Ngoại giao); Tổng kết chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta và quá trình hội nhập quốc tế của ta từ 1986 đến nay (Vụ Hợp tác kinh tế đa phương). Thứ ba: Các công trình phân tích quá trình hợp tác và liên kết ASEAN, trong đó quan hệ Việt Nam - ASEAN được xem xét với mức độ khác nhau. Nhìn chung trong các công trình này, quan hệ của Việt Nam với ASEAN được đề cập trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, không ít công trình đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, vai trò và những đóng góp của Việt Nam trong liên kết khu vực, vấn đề Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của ASEAN đối với việc thực hiện các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình,… Các công trình thuộc loại này rất đông đảo về số lượng như: ASEAN những vấn đề và xu hướng (Viện nghiên cứu Đông Nan Á, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997); Từ ASEAN 7 đến ASEAN 10: Một Đông Nam Á thống nhất và thách thức (Nguyễn Quốc Hùng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998); Từ ASEAN 7 tới ASEAN 10 - Cơ hội hay là thách thức (Nguyễn Thu Mỹ, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1997); ASEAN Hôm nay và triển vọng (Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998); Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển bền vững (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001); Thành tựu, thách thức và triển vọng giao lưu, phát triển văn hoá thông tin các nước ASEAN (Lê Thanh Bình, T/c Nghiên cứu quốc tế, 2/2001); Thu hẹp khoảng cách phát triển- Thách thức mới trong liên kết ASEAN (Đào Việt Hưng, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, 6/2002); Hợp tác và liên kết ASEAN trong những thập niên qua: Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm (Trần Khánh, T/c Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, 6/2003); Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá (Trần Khánh chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002); Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI (Phạm Đức Thành chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2006); …

Thứ tư: Các công trình trực tiếp nghiên cứu quan hệ Việt Nam - ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác, liên kết ASEAN. Các công trình thuộc loại này tập trung phân tích hợp tác của Việt Nam với ASEAN và triển vọng trong những lĩnh vực cụ thể; một số công trình có sự đánh giá khái quát tiến trình hội nhập ASEAN của Việt Nam ở những giai đoạn khác nhau. Có thể thấy rõ điều này qua một số công trình, bài viết như: Quan hệ văn hoá Việt Nam - ASEAN: Một cách tiếp cận (Lê Đình Tự, T/c Nghiên cứu quốc tế, 5/1997); Tiến trình mở rộng quan hệ Việt Nam - ASEAN (Đinh Xuân Lý, T/c Cộng sản, số 15/1999); Những nhân tố thúc đẩy và hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam - ASEAN trong 5 năm qua (Ngô Hữu Mạnh, T/c Nghiên cứu quốc tế, 4/2000); Nhìn lại 5 năm hợp tác với ASEAN trong lĩnh

8

vực môi trường biển và vùng ven bờ (Nguyên Chu Hồi, Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 5 năm Việt Nam hợp tác với ASEAN trong lĩnh vực môi trường, HN 2000); Vai trò của ASEAN trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam (Hoa Hữu Lân, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2000); Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào hệ thống thương mại nội bộ ASEAN (Từ Thanh Thuỷ, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, 2/2001); Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam dưới tác động của tiến trình AFTA (Nguyễn Bích Hường, T/c Những vấn đề KTTG, 5/2003); Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song phương (Vũ Dương Ninh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004); Việt Nam, vai trò và những đóng góp đối với ASEAN (Trần Đức Cường, T/c Nghiên cứu ĐNA, 5/2004); Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam (Luận Thùy Dương, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2005); 40 năm hợp tác, liên kết ASEAN và đóng góp của Việt Nam (Nguyễn Hoàng, T/c Lý luận chính trị, 8/2007); Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam (Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008);…

Thứ năm: Các công trình và bài viết về sự phát triển quan hệ của Việt Nam với từng nước ASEAN. Đây là một hướng nghiên cứu đa dạng về hình thức, từ hội thảo khoa học đến bài viết và nhiều tác phẩm chuyên khảo, đồng thời cũng rất phong phú về nội dung, bao gồm nhiều lĩnh vực từ chính trị, an ninh đến kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật... Chẳng hạn các công trình như: Giao lưu và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước láng giềng (Bùi Danh Lưu, Nxb Giao thông, Hà Nội, 2003); Tổng quan hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Lào (1991-2001) (Nguyễn Hoàng Giáp, T/c Những vấn đề KTTG, 4/2001); 35 năm quan hệ láng giềng gần gũi Việt Nam - Cam-pu- chia (Vũ Dương Huân, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 4/2002); Ba mươi năm quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (1977-2007) (Nguyễn Hào Hùng, T/c Nghiên cứu ĐNA, 8/2007); Quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia trong bối cảnh mới (Hội thảo khoa học quốc tế, ngày 30/5/2007 của Viện KHXH Việt Nam); Quan hệ kinh tế biên giới Việt Nam- Cam-pu-chia (Trần Văn Tùng, T/c Cộng Sản, số 2+3/2006); Quan hệ Việt Nam- Xinh-ga-po từ 1975-2007 (Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2008), Quan hệ với các nước láng giềng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm 1991 đến nay (Đề tài cấp Bộ năm 2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, do Nguyễn Hoàng Giáp làm chủ nhiệm),…

Nhìn chung, với số lượng lớn và nội dung phong phú, tất cả các công trình, bài viết nêu trên đã phác họa một cách tổng quát tiến trình hội nhập khu

9

vực của Việt Nam. Nhiều công trình trong số đó đã đi sâu luận bàn một số khía cạnh của quan hệ Việt Nam - ASEAN từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN trở lại đây. Và đây thực sự là những tài liệu hết sức quan trọng, hữu ích có thể khai thác, kế thừa và tham khảo trong quá trình nghiên cứu về nội dung của đề tài “Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề đặt ra và triển vọng”. Mặc dù, phần lớn các công trình đó, về cơ bản là phân tích các mối quan hệ đơn lẻ của Việt Nam với các nước ASEAN, hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Hơn thế, một số công trình, bài viết cũng mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc giải thích hoặc minh họa chính sách đối ngoại theo quan điểm của Đảng, mà chưa thật sự có sự khái quát trong chiều sâu lý luận cần thiết, đồng thời cũng chưa có những đột phá trong việc đánh giá, dự báo chiều hướng, triển vọng của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đây là những vấn đề rất cần thiết phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở phân tích thực tiễn và động thái phát triển của mối quan hệ này.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1.Mục tiêu của đề tài Dựa trên sự phân tích tiến trình Việt Nam tham gia ASEAN từ 1995 đến nay, đề tài làm rõ những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - ASEAN; từ đây dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: 1) Nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn của việc Việt Nam gia nhập ASEAN, những nhân tố tác động đến sự vận động quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến 2010.

2) Phân tích những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - ASEAN kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN đến 2010, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và khó khăn hạn chế đó.

3) Phân tích và dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020. 4) Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hơn

nữa chất lượng, hiệu quả hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đến năm 2020.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế. Đề tài

10

vận dụng những quan điểm cơ bản về đối ngoại, về đoàn kết và hợp tác quốc tế,

về mối quan hệ với láng giềng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tình hình thế giới, về hoạch định

và triển khai đường lối đối ngoại đổi mới (Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X

và các Nghị quyết Hội nghị TW về đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế), coi đây

là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận, định hướng tư tưởng và khoa học để

thực hiện đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu

chuyên ngành và liên ngành, chủ yếu là:

+ Phương pháp nghiên cứu kết hợp lịch sử với lôgic: Vận dụng quan điểm

lịch sử để nêu rõ tính kế thừa, đồng thời làm nổi bật những điều chỉnh trong quan

điểm chính sách của Việt Nam đối với các nước ASEAN trong các giai đoạn

khác nhau của thời kỳ đổi mới. Mặt khác, nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam -

ASEAN được đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể sau chiến tranh lạnh.

+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Qua đó đem lại sự hiểu biết về hệ

thống các quan điểm đối ngoại, hệ thống các khái niệm trong nhận định tình

hình khu vực và thế giới, hệ thống về đường lối chính sách đối ngoại của nước

ta thời kỳ Đổi mới, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay...

+ Phương pháp nghiên cứu quốc tế: Đặt quan hệ của Việt Nam - ASEAN

và quá trình hội nhập của Việt Nam với ASEAN trong những xu thế chung của

quan hệ quốc tế, để từ đó phân tích các nhân tố tác động vào quá trình vận động

của quan hệ Việt Nam - ASEAN.

+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phân tích từ các sự kiện, các số

liệu và từ các cuộc tiếp xúc để đánh giá khách quan mặt được và mặt chưa được

trong quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN.

+ Phương pháo dự báo: Nêu lên xu hướng phát triển của tình hình thế

giới đến năm 2020 trên những cứ liệu khoa học đáng tin cậy. Từ đó đưa ra

những dự báo về triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN, cũng như đề xuất các

giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác,

liên kết ASEAN đến năm 2020.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây:

11

- Góp phần luận giải một cách khoa học và làm rõ thêm những quan điểm

cơ bản trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển quan hệ với

ASEAN trong giai đoạn hiện nay, chỉ rõ những bước điều chỉnh linh hoạt và sự

bổ sung nội dung chính sách đó trên cơ sở những nhận thức mới của Đảng ta

trước thực tiễn mới trong nước và quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

- Góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về quan hệ quốc tế

và chính sách đối ngoại Việt Nam nói chung, chính sách và quan hệ với

ASEAN nói riêng trong thời kỳ đổi mới.

- Đối với các ngành khoa học có liên quan, đề tài sẽ góp phần cung cấp

những nhận thức mới về chính sách của Việt Nam đối với một trong những đối

tác được ưu tiên hàng đầu của Việt Nam hiện nay là ASEAN. Mặt khác, nâng

cao thêm nhận thức về sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta đối với tư

tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thông qua tiến trình 15 năm nước ta tham gia

hợp tác, liên kết trong khuôn khổ ASEAN.

- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn đối với việc hoạch

định chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong củng cố, phát triển quan hệ với

các nước ASEAN từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, phát

triển và hội nhập quốc tế của đất nước.

- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với những cán bộ hoạt động

trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Với ý nghĩa trên, sau khi được

nghiệm thu, đề tài sẽ là nguồn tư liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu

về chính trị quốc tế, quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại trong hệ thống

Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài có

cấu trúc gồm 3 phần:

Phần thứ nhất: Việt Nam gia nhập ASEAN và những nhân tố chủ yếu

tác động đến quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay

Phần thứ hai: Những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong

quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay

Phần thứ ba: Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và một số giải pháp tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt trong hợp tác liên kết ASEAN đến năm 2020.

12

Phần thứ nhất VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY

1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LIÊN KẾT KHU VỰC 1.1. Khái niệm về liên kết khu vực, chủ nghĩa khu vực và các hình

thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế hiện đại

* Về liên kết khu vực Liên kết khu vực "là một trong nhiều hình thức liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử nhân loại. Đây là kiểu liên kết đa phương giữa các nước, nhóm nước, dựa trên cơ sở gần gũi về mặt địa lý và thường được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế"1.

Theo khái niệm này, các quốc gia có vị trí địa lý gần gũi nhau, tuy khác nhau về thể chế chính trị, về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa, tôn giáo,… song đều có một nhu cầu chung là hợp tác để tăng cường thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế, thì có thể liên kết với nhau tạo nên một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội mới. Và cho đến nay sự phát triển các mô hình liên kết ở phạm vì không gian khu vực đang thể hiện đó là một quy mô thích hợp đối với việc điều tiết nền kinh tế thế giới.

* Về chủ nghĩa khu vực Lý luận về chủ nghĩa khu vực được phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX gắn liền với kinh nghiệm thực tế là quá trình hội nhập của khu vực Tây Âu với sự phát triển nhiều trường phái lý luận khác nhau. Trong đó phải kể đến lý luận của trường phái liên chính phủ (intergovernmentalism) đứng đầu là Stanley Hoffmann với quan điểm cho rằng tiến trình hội nhập không có nghĩa là các quốc gia tham gia hội nhập mất đi quyền lực của mình, tiến trình hội nhập chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ thành viên, và do vậy nó mang tính chất liên chính phủ nhiều hơn là tính chất siêu quốc gia. Thực chất của sự hội nhập là việc các quốc gia thành viên tự nguyện tham gia vào các hiệp định nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề chung trên cơ sở sự đồng thuận và nhất trí giữa họ.

Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và những tiến triển trong quá trình hội nhập trên thực tế giữa 1 Trần Khánh, Liên kết ASEAN - Xét từ góc độ lý luận của khu vực hóa, Tạp chí Cộng sản , số 47 - 2003 13

các quốc gia ở khu vực châu Á, châu Phi và châu Mỹ với sự ra đời của rất nhiều các tổ chức khu vực, các khối kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các khu vực mậu dịch tự do,… khiến cho những lý luận về chủ nghĩa khu vực được bổ sung và có bước phát triển mới trên cơ sở chắt lọc các tư tưởng lý luận về hội nhập khu vực, được gọi là "chủ nghĩa khu vực mới" để phân biệt với những lý luận của thời kỳ trước (còn được gọi là lý luận cổ điển về chủ nghĩa khu vực).

"Chủ nghĩa khu vực mới" được giới học giả nhìn nhận và phân tích từ nhiều góc độ. Trong mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực với toàn cầu hóa,"chủ nghĩa khu vực mới" là phản ứng, và ở một chừng mực nào đó, là sự điều chỉnh những tác động tiêu cực có thể phát sinh từ tiến trình toàn cầu hóa. Từ góc độ kinh tế-chính trị, "chủ nghĩa khu vực" những năm 90 của thế kỷ XX là sự biểu hiện tập trung của cạnh tranh quyền lực kinh tế-chính trị trong nền kinh tế toàn cầu, trong bối cảnh đan xen giữa các dòng chảy liên khu vực và trong nội bộ khu vực2. Chủ nghĩa khu vực mới không chỉ thuần túy coi nhà nước là chủ thể chi phối tiến trình hội nhập mà còn đề cập đến vai trò của các nhân tố phi nhà nước như mạng lưới các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia và các lực lượng xã hội trong khu vực. Không chỉ nhấn mạnh yếu tố sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế - chính trị đối với tiến trình hội nhập khu vực, chủ nghĩa khu vực mới còn thừa nhận vai trò không nhỏ của các yếu tố tư tưởng và bản sắc văn hóa.

Một đặc trưng khác biệt với chủ nghĩa khu vực cổ điển trước đây là chủ nghĩa khu vực mới mang tính chất "mở", toàn diện và đa dạng về hình thái và thành phần (chủ nghĩa khu vực cổ điển mang nặng tính chất đóng và bảo hộ với những hạn chế trong các lĩnh vực hợp tác và tập trung vào nhân tố nhà nước). Tính chất mở của chủ nghĩa khu vực thể hiện ở một số khía cạnh sau:

Thứ nhất là xu thế mở rộng số lượng thành viên của các tổ chức hợp tác khu vực. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, trong hai thập kỷ gần đây, thị trường thế giới và khu vực phát triển mạnh mẽ cả về tốc độ và quy mô, các tổ chức khu vực đều có nhu cầu nội tại tăng cường ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế và điều này kéo theo việc các tổ chức khu vực không còn khép kín với số lượng thành viên ban đầu nữa (trường hợp của EU, NAFTA, ASEAN,…).

Thứ hai là sự đa dạng về thể chế chính trị và trình độ phát triển của các thành viên tham gia vào tổ chức khu vực. Đây cũng là một yếu tố mới của tiến trình hợp tác khu vực gắn liền với sự thay đổi của cục diện thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. 2 Đinh Thị Hiền Lương, Chủ nghĩa khu vực các trường phái tiếp cận lý thuyết, www.hocvienngoaigiao.org.vn 14

Thứ ba là sự mở rộng hợp tác, liên kết giữa các tổ chức khu vực với nhau, hình thành khái niệm về sự hợp tác liên khu vực. Các tổ chức khu vực không chỉ giới hạn sự hợp tác, liên kết kinh tế của mình trong nội bộ khu vực mà còn mở rộng hợp tác kinh tế với các khu vực khác hoặc là sự ra đời của các tổ chức mang tính liên khu vực (APEC là một ví dụ).

Thứ tư là hiện tượng một quốc gia có thể đồng thời là thành viên của vài tổ chức hợp tác kinh tế khu vực khác nhau (Ví dụ như Mỹ và Ca-na-đa vừa là thành viên của NAFTA vừa là thành viên của APEC hay Việt Nam vừa là thành viên của ASEAN vừa là thành viên của APEC).

* Các hình thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc

tế đương đại Chủ nghĩa khu vực được thể hiện trên thực tế thông qua sự hình thành các tổ chức khu vực và liên khu vực. Sự hình thành các tổ chức này có thể dựa trên sự gần gũi về địa lý hoặc sự tương đồng về ngôn ngữ và văn hóa và sự liên kết, hợp tác giữa các yếu tố cấu thành tổ chức có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự,…

Các liên kết theo khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về địa lý: Đặc điểm các nước tham gia vào liên kết này có thể có trình độ phát triển và chế độ chính trị khác nhau. Ví dụ như trường hợp Liên minh châu Âu: thành viên của tổ chức này bao gồm cả các nước có trình độ phát triển cao (Anh, Pháp, Đức), các nước có trình độ phát triển trung bình (như Bồ Đào Nha, Hy Lạp) và các nước đang phát triển (như Bun-ga-ri, Ru-ma-ni). Các nước thành viên của tổ chức ASEAN cũng có trình độ phát triển không đồng đều như vậy và trong đó còn có các nước có thể chế chính trị khác nhau.

Các liên kết khu vực và liên khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về truyền thống lịch sử, văn hóa tôn giáo: Đây là xu thế lâu dài nhất trong các liên kết, liên minh. Nó dựa trên cơ sở khách quan là sự gần gũi giữa các dân tộc về mặt tôn giáo như Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), Nhóm 8 nước Hồi giáo đang phát triển (D-8); hay sự tương đồng về văn hóa và ngôn ngữ như Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), Khối các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha gồm 27 nước (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và 25 nước ở Trung Mỹ và Mỹ La-tinh),...

Các hình thức liên kết khu vực theo lĩnh vực, gồm: - Liên kết trong lĩnh vực kinh tế: Là hình thức liên minh phổ biến nhất. Nó chủ yếu gắn với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nhưng cũng chịu chi phối của các nhân tố khác. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức

15

độ nhất định cùng với việc quốc tế hóa đời sống kinh tế của các dân tộc thì cũng bắt đầu hình thành các liên kết tập hợp đa phương của các nước trên lĩnh vực kinh tế. Nói đến liên kết trên lĩnh vực kinh tế có thể kể đến một số tổ chức sau : Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng phát triển miền Nam châu Phi (SADC), Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội Nam Á vì sự hợp tác khu vực (SAARC)... Một số liên kết khu vực không chỉ giới hạn trong liên kết trên lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực khác là chính trị - ngoại giao và quân sự (như tổ chức EU và ASEAN).

- Liên kết về chính trị: Hình thành chủ yếu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai trên cơ sở nước có trùng lợi ích trong cuộc đấu tranh cho một hệ thống quan hệ quốc tế về chính trị và kinh tế công bằng hơn. Đại diện cho hình thức liên minh này có Nhóm G7, Nhóm G77.

- Liên kết về quân sự: Trong thời kỳ chiến tranh lanh, sự đối đầu giữa hai hệ thống TBCN và XHCN đã dẫn đến hình thành các liên kết quân sự trong nội bộ các hệ thống như Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức Hiệp ước VACSAVA. Sau khi trật tự hai cực kết thúc, một câu hỏi được đặt ra là liệu có cần tồn tại một tổ chức quân sự gắn liền với sự đối đầu đông tây như NATO nữa hay không, và thực tiễn đã cho thấy, tổ chức không những được duy trì mà còn được củng cố và mở rộng.

Trong trường hợp hình thành liên minh khu vực thì đối với một liên minh kinh tế, các chính sách kinh tế của các quốc gia thành viên được điều hòa và được cấu trúc chung. Đối với liên minh tiền tệ, các quốc gia thành viên chấp nhận một dạng tỉ giá hối đoái cố định, hoặc là đạt tới một tài chính ngoại hối chung. Đối với liên minh chính trị, các Nhà nước có liên quan từ bỏ những chủ quyền chính trị của họ và ủy quyền quyết định cho các thể chế trên quốc gia.

1.2. Lý thuyết khu vực hoá Khu vực hoá đã trở thành một xu thế phát triển mạnh trên toàn thế giới với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời và phát triển của EU, ASEAN, APEC, ASEM, NAFTA... Hiện nay, các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tuân thủ các nguyên tắc của WTO, được WTO công nhận, đều nhằm mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, tạo lập lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, nhưng mỗi tổ chức đều chọn những lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn để tập

16

trung nguồn lực, hợp tác chiều sâu, theo những phương thức đa dạng nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực. Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực như đã nói trên là để giải quyết vấn đề thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá là sản phẩm của quá trình cạnh tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các quốc gia và giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của vấn đề thị trường tiêu thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lưu thương mại và đầu tư ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới ngày càng trở thành một thị trường chung. Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh phân chia thị trường. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ ở châu Á và trên thế giới trong thời gian vừa qua không những không đảo ngược xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc tế về thương mại, đầu tư trên thế giới mà thậm chí còn có phần kích thích xu thế đó phát triển.

Liên kết khu vực theo hướng khu vực hoá là một trong những hình thức liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng đa phương giữa các nước, nhóm nước, dựa trên cơ sở gần gũi về mặt địa lý, và thường được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế. Nền tảng lý luận của nó bắt nguồn từ thuyết lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế mà người khởi xướng là David Ricardo (1772-1823). Lý thuyết này xác định những cái lợi của thương mại bằng cách chứng minh rằng trao đổi, với những sự chuyên môn hóa mà nó tạo nên, đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia trao đổi. Mỗi nền kinh tế địa phương ắt sẽ có lợi trong việc chuyên môn hóa trong một hay một số khu vực có một lợi thế so sánh, cho dù đó là nguồn nhân công dồi dào, rẻ tiền hay là tài nguyên khoáng sản và các tiềm năng về năng lượng như than đá, dầu mỏ, …

Lý thuyết lợi thế so sánh đối lập với lý thuyết về tự cung tự cấp. John Stuart Mill viết: Nếu hai nước mua bán với nhau tìm cách tập trung cả khả năng vật chất của mình để sản xuất ra những thứ mà họ hiện đang nhập của nhau, thì nhân công và tư bản hai nước sẽ không được sử dụng có hiệu quả, cả hai nước gộp lại sẽ không thể thu được từ nền công nghiệp của mình một lượng hàng hóa lớn như khi mỗi nước tìm cách sản xuất, cả cho bản thân mình cũng như cho nước kia, những của cải mà nhân công sản xuất của mính thành thạo hơn. Số

17

của cải sản xuất trội ra của hai nước kết hợp với nhau tạo thành cái lợi của thương mại.

Dựa trên lí thuyết về lợi thế so sánh, ngày nay trên thế giới đã và đang hình thành rất nhiều tổ chức liên kết về kinh tế nhằm phát huy lợi thế tối đa của mình. Bắt nguồn từ lí thuyết này liên kết khu vực trở thành xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập, xu thế khu vực hóa là một phần của xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động trên thế giới.

Theo quan điểm kinh tế - chính trị, xét trên quan hệ cung - cầu, thì hội nhập khu vực có thể được xem như là một tiến trình tác động qua lại giữa cung và cầu ở hai cấp: cấp quốc gia và cấp khu vực. Nói cách khác, ban đầu các quốc gia có ước vọng thu được lợi ích thông qua hợp tác với nhau, tiếp đến họ tiến hành thương lượng với nhau để làm sao biến các ước vọng đó thành hiện thực.

Như vậy là nhu cầu hợp tác của các quốc gia trong khu vực chính là yếu tố gắn kết họ lại với nhau trong quá trình hợp tác. Nhu cầu này được hình thành trên cơ sở là sự tổng hợp của nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, an ninh, lịch sử, văn hóa,… Tùy từng trường hợp mà nhân tố này hay nhân tố khác có ý nghĩa quyết định tuyệt đối hay tương đối đối với quá trình hợp tác khu vực. Ngày nay, các chủ thể của tiến trình liên kết khu vực do những đòi hỏi cần tôn trọng bản sắc và tính đặc thù của nhau nên cần phải tiến hành thương lượng với nhau. Quá trình thương lượng này được quyết định bởi các yếu tố sau:

Thứ nhất là sự phân bố quyền lực giữa các bên tham gia thương lượng: khi sự phân bố quyền lực giữa các bên tham gia là cân bằng hoặc tương đối cân bằng thì quá trình thương lượng sẽ gặp nhiều thuận lợi, nhưng trên thực tế thì trường hợp này ít khi xảy ra. Thông thường thì sự phân bố quyền lực giữa các bên tham gia thương lượng là không cân nhau, có bên mạnh hơn, bên yếu hơn, và điều này thường dẫn đến tình thế là bên mạnh hơn tìm cách gây áp lực với bên yếu hơn để giành thêm lợi thế, và khi đó thường dẫn đến tranh chấp giữa các bên, gây cản trở cho quá trình hợp tác.

Thứ hai là cơ chế tiến hành thương lượng: bao gồm các thể chế và thể lệ ra quyết định. Sự dàn xếp giữa các chủ thể về mặt thể chế sẽ tạo điều kiện cho các bên được tiếp cận thông tin một cách tốt nhất, quá trình thương lượng diễn ra tốt hơn và các bên có điều kiện giám sát việc thực hiện các thỏa thuận của các thành viên khác.

Thứ ba là nội dung thương lượng (còn gọi là chương trình nghị sự): đây là nhân tố quan trọng của quá trình thương lượng. Chương trình nghị sự mà mỗi nước đưa ra thể hiện lợi ích quốc gia và thương lượng là một tiến trình hoà giải

18

các lợi ích đó. Sự đồng nhất lợi ích giữa các quốc gia càng lớn thì nội dung hợp tác giữa hai khu vực mở rộng hơn

Thứ tư là vấn đề thành viên: đây là một vấn đề nan giải trong các cuộc thương lượng, bởi vì số lượng thành viên tăng lên đồng nghĩa với việc tính đa dạng của các quốc gia thành viên và lợi ích quốc gia tăng lên, và điều đó gây cản trở cho việc tìm ra giải pháp chung thỏa mãn lợi ích của các bên trong các vến đề liên quan.

1.3. Lý thuyết “về sự phụ thuộc" trong liên kết kinh tế khu vực Liên kết kinh tế khu vực là quá trình gắn kết nền kinh tế thị trường của một quốc gia với nền kinh tế thị trường khu vực thông qua các biện pháp tự do hóa và mở rộng thị trường ở các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Quá trình liên kết khu vực là quá trình hội nhập từ hai quốc gia riêng biệt trở lên cùng nhau hình thành các khối kinh tế khu vực rộng lớn.

Về hình thức, liên kết kinh tế khu vực được diễn ra theo hai hình thức: liên kết thể chế và liên kết phi thể chế. Hình thức liên kết thể chế là một hình thức liên kết chặt chẽ nhất trong một tổ chức mà ở đó buộc các nền kinh tế thành viên phải cam kết thực hiện theo đúng quy định của tổ chức. Hình thức phi thể chế là hình thức tham gia của các nền kinh tế trên cơ sở tự nguyện và không có tính pháp lí chặt chẽ như hình thức theo thể chế. Hình thức này thường phổ biến nhất theo hình thức diễn đàn.

Về các cấp độ liên kết, theo nhà kinh tế học người Anh Balassa, thì có 5 cấp độ liên kết kinh tế từ thấp đến cao như sau : khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế và liên minh toàn diện. theo 5 cấp độ này, liên kết trong khu vực hiện nay chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc hình thành khu vực thương mại tự do. Các cấp độ khác cũng đang được các nước trong khu vực quan tâm hướng tới.

Nội dung liên kết kinh tế khu vực hiện nay được thể hiện rõ qua các lĩnh

vực chủ yếu như thương mại, đầu tư, tài chính tiền tệ. Trong lĩnh vực thương mại: Tự do hóa thương mại khu vực là nội dung đầu tiên và quan trọng nhất trong tất cả các liên kết kinh tế của khu vực. Mức đầu tiên và thấp nhất của liên kết trong lĩnh vực thương mại là việc hình thành các khu vực thương mại tự do (FTA) trong đó loại bỏ các hàng rào thuế quan giữa các đối tác mà không cần đến một chính sách chung hoặc sự di chuyển tự do các yếu tố tài chính, lao động. Hầu hết tất cả các quốc gia có nền kinh tế tương đối phát triển trong khu vực đều đã chủ động tham gia vào các FTA này. Liên kết trong lĩnh vực thương mại không chỉ là tham gia vào các FTA, các nền

19

kinh tế trong khu vực cũng ngày càng ký kết nhiều các hiệp định thương mại song phương. Hiệp định thương mại thường mang ý nghĩa chính trị giữa hai bên ký kết và là công cụ để mặc cả, vì vậy nó không chỉ được kí kết giữa hai đối tác thương mại ở gần nhau mà có thể cách xa nhau về địa lí, trên nguyên tắc dành cho nhau những ưu đãi hơn hẳn so với liên kết khu vực và đa phương.

Trong lĩnh vực đầu tư: Liên kết đầu tư cũng ngày càng được chú ý trong khu vực. Mục tiêu liên kết đầu tư của các nền kinh tế là xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng và hấp dẫn, thu hút được ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài và tăng cường dòng lưu chuyển vốn đầu tư lẫn nhau trong khu vực.

Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ: Đây là hình thức thiết lập các thỏa thuận tài chính khu vực dần hướng tới xây dựng các chính sách tỉ giá thống nhất giữa các nước. Tổ chức liên kết khu vực có sự liên kết về tài chính tiền tệ sớm nhất là EU. Kể từ ngày 1/1/2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc gia thành viên (khu vực đồng Euro).

Những thay đổi về kinh tế, xã hội và kĩ thuật cùng với sự gia tăng của toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng làm cho những kết cấu của trật tự thế giới trở nên phức tạp hơn và phần nào đã làm suy yếu (mặc dù có thể không chủ định) quyền tự trị của mỗi quốc gia.

Trong trường hợp hình thành các khu vực tự do trao đổi, các rào cản thương mại bị hủy bỏ giữa các nước có liên quan đối với toàn bộ sự lưu thông hàng hóa, và không tồn tại chính sách thương mại chung đối với các nước thứ ba. Điều này diễn ra trong trường hợp một liên minh thuế quan mà ở đó các biểu thuế hải quan chung đối với các nước thứ ba được thỏa thuận trong khi đối với các quốc gia ở bên trong nội khối, thuế hải quan và các rào cản thương mại phi quan thuế (hạn ngạch nhập khẩu, những hạn chế xuất khẩu tự nguyện) đã bị hủy bỏ. Một thị trường chung thể hiện một liên minh quan thuế trong đó các dịch chuyển của các nhân tố sản xuất như là lao động và vốn giữa các nhà nước thành viên hoàn toàn được tự do hóa.

1.4. Liên kết ASEAN xét từ góc độ lý thuyết khu vực hoá, so sánh liên kết ASEAN với các loại hình liên kết khu vực khác (EU, Mỹ La-tinh, châu Phi, Nam Á)

* Liên kết ASEAN xét từ góc độ lý thuyết khu vực hoá Như đã đề cập ở trên, nền tảng của lý thuyết khu vực hóa bắt nguồn từ thuyết “Lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế” với các bước tạo lợi thế so sánh đó là:

- Ký kết và thực thi các Hiệp định ưu đãi mậu dịch song phương

20

- Lập nên khu vực thương mại tự do - Lập nên liên minh thuế quan - Lập nên thị trường chung, thị trường thống nhất

Tiến trình liên kết, hội nhập kinh tế khu vực Đông Nam Á cũng được xúc

tiến trên cơ sở các bước như vậy.

Ngày 8/8/1967, ASEAN được thành lập trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc với mục tiêu là tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoá-xã hội giữa các nước thành viên, tạo điều kiện cho các nước hội nhập sâu hơn với khu vực và thế giới. Các quốc gia thành viên đã tiến hành thỏa thuận và ký kết các hiệp định ưu đãi song phương trên nhiều lĩnh vực như thương mại, hàng hải, đầu tư, du lịch,…

Vào đầu thập niên 1990, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội. Trước tình hình đó, theo sáng kiến của Thái lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xin-ga- po đã quyết định thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.

Sự ra đời của AFTA nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau: Thứ nhất, tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải tăng cường tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, và điều này dẫn đến sự gia tăng của thương mại nội khối;

Thứ hai, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra

một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn;

Thứ ba, làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.

Để thực hiện thành công AFTA, các nước ASEAN đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003

21

(thời hạn này đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu: từ 15 năm xuống còn 10 năm).

Nói đến vấn đề xây dựng AFTA là nói tới việc thực hiện hiệp định chung về thuế quan, tiến tới thành lập liên minh thuế quan. Ý tưởng thành lập liên minh thuế quan ASEAN được đưa ra tại cuộc họp của một nhóm các quan chức kinh tế ASEAN tại Xin-ga-po (7/2009). Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-15 (Hua Hin- Thái Lan) Bộ trưởng kinh tế 10 nước ASEAN đã xem xét khả năng thành lập liên minh thuế quan trong khu vực sau năm 2015, khi hầu hết thuế nhập khẩu hàng hoá của tất cả các nước thành viên của khối được dỡ bỏ. Như vậy, cho đến nay ASEAN chưa thành lập được liên minh thuế quan.

Vấn đề thành lập thị trường chung thống nhất ASEAN đã được đề cập trong chương trình nghị sự của Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN diễn ra từ ngày 13 - 16/8/2009 tại thủ đô Băng Cốc (Thái Lan) với chủ đề "Cùng tiến bước và làm việc hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN". Mặc dù đến thời điểm hiện nay, ASEAN chưa thành lập được thị trường chung của khối song đã đưa ra mục tiêu thành lập thị trường chung thống nhất theo khuôn khổ thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.

Trải qua hơn 40 năm tồn tại và phát triển, ASEAN đã chứng tỏ là một tổ chức khu vực năng động, có khả năng thích ứng cao với những biến đổi trong tình hình thế giới và khu vực. Mặc dù nếu xét từ góc độ lý thuyết khu vực hóa thì liên kết ASEAN là một liên kết chưa thực sự hoàn chỉnh, song các thành viên trong khối đã, đang và sẽ nỗ lực xây dựng một liên kết bền chặt, hùng mạnh để có thể đứng vững trên trường quốc tế.

* So sánh liên kết ASEAN với các loại hình liên kết khu vực khác (EU, Mỹ

La-tinh, châu Phi, Nam Á)

+ So sánh với Liên minh châu Âu – EU: Tiến trình khu vực hoá ở Tây Âu được hình thành và phát triển trên cơ sở gần gũi các lợi ích về an ninh và kinh tế, các giá trị chung về văn hoá, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền của các nước thành viên. Hiệp ước Roma (1957) đưa dến việc thành lập Cộng đồng Nguyên tử lượng (Euratom) và thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC). Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, EEC đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ đầu những năm 70, Tây Âu cùng với Nhật Bản đã trở thành hai trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ. Năm 1987, EU bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng "Thị trường nội địa thống nhất Châu Âu". Hiệp ước Maastricht ký ngày 7/2/1992 có hiệu lực từ ngày 1/11/1993, quyết định xây dựng EU trên cơ sở ba trụ cột: Thành lập liên minh kinh tế và

22

tiền tệ vào cuối thập niên 1990 với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập; Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ chung; Tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp. Có thể nói Hiệp ước Maastricht đã đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu.

Kể từ giữa thập niên 1990, các nước EU xúc tiến việc thiết lập Liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU) mà việc ra đời đồng tiền chung Euro (1/1999) được coi là một sự kiện trọng đại của tổ chức này. Việc ra đời liên minh tiền tệ đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ về chiều sâu của tiến trình hội nhập châu Âu.

Có thể nói EU là tổ chức khu vực có trình độ phát triển cao nhất hiện nay và việc nghiên cứu quá trình hình thành cũng như các vấn đề đặt ra đối với EU hiện nay là hết sức quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách ASEAN.

Nếu so sánh hai tổ chức này, có thể thấy rất nhiều điểm khác biệt ngay từ xuất phát điểm: ASEAN thành lập ban đầu với mục tiêu chính trị chi phối trong khi EU là mục tiêu kinh tế. Trong quá trình phát triển, ASEAN có chiều hướng tăng cường hợp tác kinh tế (tiến tới thành lập thị trường chung trong khuôn khổ thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015), còn EU theo chiều hướng tăng cường liên minh chính trị (12/2009, Hiệp ước Lisbon về nhất thể hóa châu Âu đã chính thức có hiệu lực).

Xét về trình độ hội nhập khu vực thì EU ở trình độ cao hơn rất nhiều so với ASEAN. Trong khi ASEAN hiện còn đang nỗ lực thiết lập thị trường chung, chưa có liên minh thuế quan và liên minh kinh tế thì EU đã thiết lập liên minh kinh tế và tiền tệ và đồng tiền chung Euro hiện đã chứng tỏ được vị thế của mình trên trường quốc tế. Về cơ cấu tổ chức, EU khá tinh gọn với 4 cơ quan chính. Đặc biệt tháng 12/2009, Hiệp ước Lisbon về nhất thể hóa châu Âu chính thức có hiệu lực tạo nên sự thống nhất nội khối khá chặt chẽ. Điều này tới nay ASEAN vẫn còn chưa thực hiện được.

+ So sánh với Cộng đồng các nước Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê: Kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh đoàn kết Mỹ La-tinh - Ca-ri-bê (2/2010), Tổng thống nước chủ nhà P.Canderon đã đọc bản Tuyên bố thành lập "Cộng đồng các nhà nước Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê" - một liên minh mới tại khu vực không bao gồm Mỹ và Ca-na-đa. Liên minh này được kỳ vọng sẽ là sự thay thế cho Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OAS) - thể chế lớn nhất khu vực bao gồm cả Mỹ và Ca-na-đa, đây vốn được coi diễn đàn chính cho các vấn đề khu vực trong nửa thế kỷ qua song chịu nhiều ảnh hưởng của Mỹ. Sự kiện này thể hiện quyết tâm lớn của các nước Mỹ La-tinh muốn tách khỏi sự can thiệp và ảnh

23

hưởng của Mỹ, tự giải quyết các vấn đề khu vực, đồng thời thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ và thịnh vượng trong nội khối theo mô hình EU. Liên minh mới sẽ tập hợp số lượng thành viên đông đảo nhất của khu vực Nam Mỹ từ trước tới nay với 32 thành viên là các nước Mỹ La-tinh và các nước ở vùng Ca-ri-bê.

Ý tưởng thành lập một liên minh rộng lớn hay thực chất là gộp hai thể chế đã có sẵn là Nhóm Rio (gồm 9 nước Mỹ La-tinh) và Cộng đồng các nước vùng Ca-ri-bê làm một, đã được nêu ra tại Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên Mỹ La-tinh - Ca-ri-bê vào năm 2008 và sau hai năm thì ý tưởng đó đã đã bước đầu được hiện thực hóa. Tiến trình tìm kiếm tên gọi chính thức và việc xác định cơ cấu tổ chức cho liên minh này sẽ được quyết định tại Hội nghị Thượng đỉnh tiếp theo của khu vực tại Vê-nê-du-ê-la vào năm 2011. Đây là bước ngoặt lớn, mở ra một chương mới trong quan hệ hợp tác và liên kết khu vực.

Song câu hỏi đặt ra lúc này là liên minh mới phải làm sao để “thực sự mới” so với những cơ chế khu vực đã tồn tại và đang chồng chéo tại Mỹ La- tinh. Bởi vì xét một cách tổng thể tình hình khu vực Nam Mỹ hiện nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi phải có một tổ chức khu vực đủ mạnh để tự định đoạt các vấn đề của riêng khu vực cũng như thể hiện một quan điểm thống nhất với bên ngoài. Song, điều quan trọng là phải tạo một liên minh thực sự đáp ứng yêu cầu mới, bởi Mỹ La-tinh đã có quá nhiều tổ chức tương tự, mà hiện thành viên, cơ cấu tổ chức, hoạt động đang chồng chéo lên nhau. Như trường hợp Liên minh Nam Mỹ (UNASUR) được thành lập năm 2008 từng gây tiếng vang ở khu vực, cũng chủ trương tách khỏi vòng ảnh hưởng của Mỹ và theo mô hình EU, nhưng thực tế cho thấy tổ chức này cho đến nay không thể đem lại kết quả như kỳ vọng ban đầu. Để liên minh mới này thực sự trở thành vũ đài chính trị của các nước thành viên thì nó phải vượt qua rất nhiều khó khăn, mà trước hết vẫn là vấn đề phải làm sao để tạo sự đồng thuận trong nội bộ bởi vì những bất đồng gay gắt giữa một số nước thành viên là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thất bại của các liên minh được hình thành trước đây tại khu vực này.

Cũng như ASEAN, Cộng đồng các nước Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê được thành lập với mục đích trước tiên là chính trị, tuy nhiên, liên minh này còn chưa chắc chắn (chưa có tên gọi chính thức, quy chế, nguyên tắc hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức chưa được thông qua) và còn khá lỏng lẻo so với liên kết ASEAN.

+ So sánh với Hiệp hội Hợp tác các nước khu vực Nam Á (SAARC): SAARC được thành lập ngày 8/12/1985, với mục đích là: xây dựng tình hữu nghị, sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau, thông qua đó, thúc đẩy phát triển

24

kinh tế - xã hội của các nước thành viên. Hiện nay, SAARC gồm các nước: Áp- ga-ni-xtan, Băng-la-đét, Bu-tan, Ấn Độ, Man-đi-vơ, Nê-pan, Pa-ki-xtan, Xri- lan-ca. Từ khi thành lập đến nay, SAARC đã tiến hành 16 Hội nghị thượng đỉnh. Tại Hội nghị thượng đỉnh 16 (28-29/4/2010), các nhà lãnh đạo của 8 quốc gia Nam Á đã nhất trí đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu và cam kết mở ra một kỷ nguyên phát triển mới của khu vực.

SAARC được thành lập trước hết là nhằm mục đích tăng cường khả năng giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước thành viên, để từ đó có thể hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cụ thể là:

- Cam kết xây dựng một hệ thống thương mại tự do, thống nhất để tạo ra

cơ hội mới và tăng trưởng kinh tế cho các nước thành viên.

- Thúc đẩy sự hoạt động của Khu vực mậu dịch tự do Nam Á (SAFTA). - Thực hiện các giải pháp thuận lợi hoá thương mại. - Mở rộng hợp tác kinh tế sang cả lĩnh vực đầu tư - Nhấn mạnh sự cần thiết phải triển khai và sớm đưa vào thực hiện một

liên minh thuế quan và tiếp theo là một liên minh kinh tế tại Nam Á.

Sau 25 năm hoạt động, SAARC đã có những bước tiến không nhỏ như: thành lập Hội đồng Bộ trưởng (năm 1995) gồm các Bộ trưởng Ngoại giao các nước thành viên, Ủy ban thường trực SAARC (1995) và các ủy ban hợp tác chuyên ngành; ký Hiệp định về ưu đãi buôn bán trong khu vực (1993), Hiệp định về Thiết lập dự trữ an ninh lương thực (1987), Thỏa thuận về Khu vực tự do thương mại (SAFTA) năm 2004; thông qua và thực hiện 12 chương trình hành động chung (IPA) trên các lĩnh vực nông nghiệp, bưu chính viễn thông, giáo dục, văn hóa và thể thao, bảo vệ môi trường, phòng, chống ma túy, khoa học - công nghệ...

Như vậy, khác với liên kết ASEAN, SAARC ra đời với mục đích ban đầu là vì sự hợp tác, phát triển kinh tế của các thành viên trong khu vực. Về cơ cấu tổ chức, có thể xem SAARC có cơ cấu tổ chức gần giống với khối ASEAN. Tuy nhiên, trong nội bộ các quốc gia thành viên cũng như giữa các quốc gia còn tồn tại khá nhiểu mâu thuẫn, do đó làm cho liên kết SAARC còn lỏng lẻo và không đạt được kết quả như mong đợi.

+ So sánh với Liên minh châu Phi (AU): Liên minh châu Phi có tổ chức tiền thân là Tổ chức Thống nhất châu Phi (OAU). Đây là một tổ chức toàn châu Phi, thành lập ngày 25/5/1963 theo quyết định của 32 quốc gia tham dự Hội nghị cấp cao các nước châu Phi tại Ađi Abêba (Êtiôpia) với mục tiêu tăng cường đoàn kết thống nhất giữa các quốc gia

25

châu Phi, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chống phân biệt chủng tộc, xoá bỏ chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức.

Ngày 9/7/2002, tại Hội nghị cấp cao ở Nam Phi, nguyên thủ quốc gia của các nước thành viên OAU đã thống nhất thông qua một quyết định quan trọng: thay thế OAU bằng Liên minh châu Phi (AU). AU đã thông qua Kế hoạch Đối tác mới vì sự phát triển của châu Phi.

So với OAU, AU có những đổi mới về cơ cấu và phương thức hoạt động. AU hiện có 53 nước thành viên và được tổ chức phỏng theo mô hình của EU: Cơ quan cao nhất là Hội đồng (gồm những người đứng đầu nhà nước và chính phủ); các cơ quan khác gồm: Hội đồng Chấp hành, Uỷ ban Đại diện thường trực, Quốc hội toàn châu Phi, Hội đồng Kinh tế - xã hội và văn hoá; các thể chế tài chính (Ngân hàng Trung ương châu Phi, Ngân hàng Đầu tư châu Phi, Quỹ tiền tệ châu Phi.),…

AU hoạt động dựa trên những nguyên tắc bình đẳng, gắn bó giữa các quốc gia thành viên, đưa ra chính sách quốc phòng chung, giải quyết bất đồng giữa các nước thành viên, cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực giữa các nước thành viên, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Cũng như liên kết ASEAN, AU được thành lập với mục đích ban đầu chủ yếu là về chính trị. Trong quá trình phát triển, AU mở rộng hợp tác, liên minh, liên kết trên nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.

Về cơ cấu tổ chức, cũng như ASEAN, có thể nói hầu hết các hình thức liên kết trên thế giới đều học hỏi ít nhiều theo mô hình cơ cấu tổ chức của Liên minh châu Âu. Nếu so sánh giữa ASEAN và AU thì AU có cơ cấu tổ chức tinh gọn với chức năng nhiệm vụ rõ ràng hơn ASEAN. Trong khi ASEAN đang nỗ lực và có những lộ trình cụ thể nhằm tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAn vào năm 2015 thì AU cũng đã có ý tưởng và những nỗ lực bước đầu trong việc thành lập một chính phủ liên Phi.

1.5. Sự tham gia của Việt Nam vào liên kết ASEAN - tiếp cận theo

quan điểm mác-xít và các lý thuyết liên kết đương đại

Liên kết, hội nhập và hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc là một hiện tượng mang tính quy luật trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Quan điểm mác-xít cũng như các lý thuyết liên kết quốc tế đều khẳng định, giữa các quốc gia, dân tộc luôn có sự giao lưu, quan hệ với nhau, đây là một xu thế khách quan tất yếu. Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng KHCN và xu thế toàn cầu hóa, đã hình thành nên một nền kinh tế thế giới, một

26

xã hội mang tính toàn cầu - mà đặc trưng của nó là các quốc gia, dân tộc vừa độc lập lại vừa phụ thuộc lẫn nhau.

Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia, dân tộc nào có thể tồn tại hoàn toàn tách biệt với các quốc gia, dân tộc khác bởi có nhiều vấn đề mang tính quốc tế có liên quan đến sự tồn vong của mỗi quốc gia, dân tộc (như chiến tranh và hòa bình, môi trường, dịch bệnh,…) mà không một nước nào, dù là nước lớn, có thể tự mình giải quyết được. Con đường hiệu quả nhất là phải hợp sức lại cùng nhau tìm ra giải pháp.

Sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ cũng khiến cho lực lượng sản xuất thế giới có bước phát triển nhảy vọt và mang tính xã hội hóa ngày càng cao; một thị trường thế giới hình thành trong đó các hệ thống kinh tế hạt nhân tác động qua lại với nhau một cách mạnh mẽ, vừa hợp tác song cũng vừa cạnh tranh gay gắt. Điều này khiến cho tất cả các quốc gia, dù khác nhau về thể chế chính trị, hệ tư tưởng thì cũng đều phải quan hệ, tiếp xúc với nhau nhằm mục tiêu phát triển đất nước.

Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nhận định cách mạng Việt Nam cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta luôn đặt cách mạng Việt Nam trong sự vận động, phát triển của các trào lưu cách mạng của thời đại, kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: "Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội".

Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng và Nhà nước ta coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với ASEAN. Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, Việt Nam ngày càng dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực nhằm phá vỡ thế bao vây cấm vận, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp để khai thông quan hệ đa phương với ASEAN và song phương với từng nước Đông Nam Á. Việc gia nhập ASEAN trở thành một bước đột phá trong chính sách đối ngoại

27

của nước ta và điều đó cho thấy rõ ưu tiên của Đảng ta đối với việc tham gia vào tiến trình liên kết, hội nhập khu vực và thế giới. Đây là một bước tiến của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu hơn nữa vào tiến trình phát triển của thế giới nhằm tranh thủ cơ hội, tận dụng thời cơ, phát huy những lợi thế so sánh của mình để phát triển kinh tế.

Kể từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ mọi hoạt động của ASEAN, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác ASEAN, xử lý khéo léo một số vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong khu vực, hạn chế sức ép và tác động từ bên ngoài. Việc Việt Nam từng bước hội nhập ngày càng sâu rộng và hiệu quả với khu vực đã góp phần quan trọng tạo môi trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự tham gia và đóng góp của Việt Nam đối với quá trình hợp tác, liên kết ASEAN đã tạo đà thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Sự tham gia của Việt Nam vào liên kết ASEAN phù hợp với xu thế thời đại. Những thành tựu đạt được trong tham gia hợp tác, liên kết ASEAN đã góp phần củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

2. VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN - SỰ MỞ ĐẦU TIẾN TRÌNH LIÊN KẾT

CỦA VIỆT NAM VỚI KHU VỰC

2.1. Quan hệ Việt Nam - ASEAN trước 1991 Quan hệ Việt Nam - ASEAN trước năm 1991 có nhiều diễn biến thăng

trầm. Tuy nhiên có thể khái quát mối quan hệ này với 2 giai đoạn chủ yếu sau:

* Giai đoạn 1967 - 1975 Trong tuyên bố thành lập, ASEAN đã nêu rõ mục đích của mình là: Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và phát triển trong văn hóa khu vực và thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng. Theo đó, ASEAN chủ trương:

(1) Thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực bằng việc tôn trọng công lý và luật pháp trong quan hệ giữa các quốc gia trong vùng, tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp quốc.

(2) Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật và hành chính…

(3) Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương

tiện nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục chuyên môn và hành chính.

28

(4) Cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt nền công nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch, kể cả các vấn đề buôn bán hàng hóa quốc tế, cải thiện các vấn đề buôn bán hàng hóa quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên lạc nâng cao mức sống của nhân dân. (5) Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á. (6) Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này.

Với những mục đích như vậy, ASEAN là một tổ chức được lập ra nhằm thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các nước thành viên. Hợp tác ASEAN hướng tới việc tăng cường sức mạnh của mỗi nước cũng như của toàn hiệp hội nhằm đối phó một cách có hiệu quả trước các mối đe dọa từ bên ngoài. ASEAN tuyên bố mở rộng cửa cho tất cả các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á tham gia khi họ tán thành tôn chỉ, nguyên tắc và mục đích của Hiệp hội.

Sự ra đời của ASEAN đánh dấu sự trưởng thành về mặt chính trị của các quốc gia trẻ tuổi ở Đông Nam Á và thắng lợi của tinh thần hòa giải, hòa hợp giữa các nước trong khu vực. Nó báo hiệu một bước tiến theo xu thế liên kết hợp tác quốc tế của thời đại. Tuy nhiên, xu thế đối đầu giữa hai phe còn chi phối, kiềm chế cả ASEAN và Việt Nam trong phát triển mối quan hệ. Mỹ lôi kéo các nước ASEAN để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của họ ở Đông Dương. Tổ chức quân sự SEATO do Mỹ lập ra và thao túng càng thúc đẩy ý thức hệ đối lập giữa ASEAN với các nước Đông Dương. Năm 1971, tại Cu-a-la Lăm-pơ, ASEAN ra tuyên bố chung về việc đưa Đông Nam Á thành Khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN). Tuyên bố này thúc đẩy giải tỏa những mâu thuẫn nội bộ, tạo tiền đề cho cho xu hướng liên kết hợp tác để phát triển không chỉ trong nội khối, mà còn theo hướng rộng hơn. Năm 1972, ASEAN thiết lập quan hệ với Cộng đồng châu Âu và năm 1973 với Nhật Bản.

Việt Nam và các nước Đông Dương đều đặt mục tiêu độc lập dân tộc lên hàng đầu, vì vậy vừa ra sức tranh thủ các nước trong ASEAN vừa đấu tranh chỉ trích, lên án những hoạt động ngả theo Mỹ của họ.

Nói tóm lại, do chưa hiểu biết lẫn nhau, cũng như những tác động của các nước lớn là Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc trong bối cảnh cuộc đối đầu Đông - Tây cho nên giai đoạn 1967 - 1975, quan hệ Việt Nam - ASEAN chủ yếu là đối đầu, tiêu cực. Một số nước trong ASEAN như Thái Lan, Xin-ga-po, Phi-lip-pin còn đứng hẳn về phía Mỹ, đưa quân đội tham chiến giúp Mỹ thực hiện ý đồ xâm

29

lược Việt Nam. Chính thực tế này đã củng cố thêm mối nghi kỵ giữa Việt Nam với ASEAN.

* Giai đoạn 1975 - 1991 Trong 10 năm đầu sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa chiến lược: thống nhất đất nước, tập trung mọi nỗ lực khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh chống Mỹ, thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời giành thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh biên giới ở Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế đã đặt đất nước ta phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng ngày thêm gay gắt, an ninh quốc gia đứng trước nhiều nguy cơ lớn, các thế lực đế quốc thù địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ quốc tế bị thu hẹp.

Sau năm 1975, quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN đã có bước cải thiện nhất định theo hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Nhưng khi vấn đề Cam-pu-chia nổ ra, các nước ASEAN do lo ngại bị lôi kéo vào một cuộc chiến tranh, đồng thời do phải chịu sức ép của Mỹ, phương Tây và một số thế lực khác, nên đã ngả theo chính sách gia bao vây cấm vận chống Việt Nam, làm cho quan hệ giữa hai bên trở nên căng thẳng kéo dài hơn một thập niên. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn cố gắng duy trì đối thoại với một vài nước ASEAN như In- đô-nê-xia, Ma-lai-xia nhằm tạo dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu- chia cũng như giảm căng thẳng tình hình an ninh khu vực.

Trong bối cảnh nêu trên, giải quyết chính trị vấn đề Cam-pu-chia được Đảng và Nhà nước Việt Nam coi là một điểm đột phá để phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, trong đó có các nước ASEAN, tạo môi trường quốc tế hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước. Từ nhận thức đó, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện cả về đối nội và đối ngoại, đã nêu rõ lập trường quan điểm đối với vấn đề Cam-pu-chia là "chủ trương tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Cam-pu-chia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên để đi tới một giải pháp chính trị đúng đắn về Cam-pu-chia"3. Kiên trì lập trường mang tính nguyên tắc này, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) nhấn mạnh chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn 3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.1987, tr.108 30

trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi, đã chỉ ra một trong những nhiệm vụ đối ngoại trước mắt lúc đó là góp phần giải quyết chính trị vấn đề Cam-pu- chia. Đến Hội nghị Trung ương sáu, khóa VI (3/1989), Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định cần thực hiện tốt việc rút quân tình nguyện khỏi Cam-pu-chia dù chưa có giải pháp, đồng thời xây dựng quan hệ mới với các nước ASEAN, tham gia tích cực vào việc đưa Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề Cam-pu-chia như đã nêu trên là xuất phát từ thực tế vấn đề đó chỉ có thể giải quyết bằng một giải pháp chính trị do tương quan lực lượng trên chiến trường và sự dính líu của các thế lực quốc tế ở Cam-pu-chia. Từ sau Đại hội VI, Việt Nam đã trao đổi ý kiến với các nước bạn Cam-pu-chia và Lào, đi đến thống nhất mục tiêu giải quyết chính trị vấn đề Cam-pu-chia là phải bảo đảm giữ vững về cơ bản thành quả cách mạng Cam-pu-chia, hồi sinh nước Cam-pu-chia sau nạn diệt chủng, giữ vững quan hệ hữu nghị giữa ba nước Việt Nam - Cam-pu-chia - Lào, ngăn chặn chế độ diệt chủng trở lại và chấm dứt sự can thiệp của bên ngoài đối với Cam-pu-chia. Việt Nam cũng xác định đúng và rõ giải pháp Cam-pu-chia bao gồm hai mặt: mặt nội bộ phải do các bên Cam-pu-chia tự giải quyết và mặt quốc tế bao gồm việc Việt Nam rút quân và nước ngoài chấm dứt can thiệp vào Cam-pu-chia.

Để thúc đẩy giải quyết dứt điểm vấn đề Cam-pu-chia, trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam đã tập trung giúp đỡ CHND Cam-pu-chia củng cố lực lượng trên các mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, tạo thuận lợi cho việc thực hiện một giải pháp chính trị. Đến cuối tháng 9/1989, Việt Nam đã hoàn thành rút quân toàn bộ quân tình nguyện khỏi Cam-pu-chia mặc dù chưa có một giải pháp chính trị. Việc Việt Nam đơn phương rút hết quân và rút sớm hơn dự kiến đã tác động tích cực, làm chuyển biến thái độ của các nước liên quan, trước hết là Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác. Đồng thời, điều đó đã tạo đà thúc đẩy nhanh xu thế đối thoại, tăng sức ép đối phương đi vào giải pháp, vô hiệu hoá con bài đòi "rút quân Việt Nam" được dùng để chống phá Việt Nam, làm thay đổi cơ bản tính chất cuộc đấu tranh ở Cam-pu-chia thành cuộc đấu tranh nội bộ giữa các thế lực liên quan của Cam-pu-chia.

Có thể thấy, trong tiến trình tìm kiếm giải pháp chính trị toàn bộ, công bằng hợp lý cho vấn đề Cam-pu-chia, Việt Nam đã có những bước đi ngày càng chủ động và tích cực. Việt Nam đã cố gắng thúc đẩy đối thoại giữa các bên Cam-pu-chia và thúc đẩy đối thoại quốc tế với ASEAN, Trung Quốc, Mỹ... Thật vậy, ngay từ tháng 7/1987, tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Ngoại

31

giao Việt Nam với tư cách đại diện cho nhóm nước Đông Dương và Bộ trưởng Ngoại giao In-đô-nê-xia đại diện cho nhóm nước ASEAN đã ký Thông cáo chung, mở đầu cho quá trình đối thoại giữa hai nhóm nước và các bên hữu quan nhằm tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu-chia.

Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Việt Nam tuyên bố rút Bộ Tư lệnh quân tình nguyện và 5 vạn quân tại Cam-pu-chia về nước (26/5/1988). Đây là hành động thực tế của Việt Nam nhằm giải quyết thực chất vấn đề Cam-pu- chia. Tiếp đó, từ ngày 25 đến 28/7/1988, tại Bôgo (In-đô-nê-xia) đã diễn ra cuộc gặp không chính thức đầu tiên giữa đại diện các nước ASEAN và đại diện các nước Đông Dương với các bên Cam-pu-chia (JIM1-Jarkarta Informal Meeting). Tại Hội nghị này, các bên đã đi đến nhất trí về giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu-chia với các nội dung then chốt là: quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Cam-pu-chia, ngăn chặn sự trở lại của chế độ diệt chủng và chấm dứt sự can thiệp của nước ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tích cực thúc đẩy việc tạo dựng diễn đàn cho các cuộc gặp riêng giữa Chủ tịch Hun-xen và Hoàng thân Xi-ha-núc nhằm tìm kiếm giải pháp cho vấn đề nội bộ Cam-pu-chia.

Nhân dịp sang thăm và dự lễ kỷ niệm chiến thắng của cách mạng Cam- pu-chia (6/01/1989), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố sẽ rút hết quân tình nguyện Việt Nam về nước sớm hơn dự kiến nếu có một giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu-chia. Từ ngày 19 đến 21/02/1989, tại Hội nghị JIM-2 họp tại Gia-các-ta, nhờ sự phối hợp vận động và đấu tranh của Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia, các bên tham gia hội nghị đã nhất trí với những nguyên tắc của giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia được nêu tại JIM-1. Thực hiện những điều đã cam kết tại JIM-2, ngày 5/5/1989, Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân tình nguyện khỏi Cam-pu-chia dù có hay không có giải pháp chính trị về Cam- pu-chia. Tuyên bố này thể hiện bước đột phá trong lập trường của Việt Nam quyết tâm giải quyết dứt điểm vấn đề Cam-pu-chia.

Mặt khác, Việt Nam đã phối hợp với Liên Xô để tác động vào diễn đàn P- 5 (5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc), ủng hộ sáng kiến của Ôxtrâylia về việc triệu tập một Hội nghị quốc tế về Cam-pu-chia, chấp nhận vai trò của Liên hợp quốc, cùng CHND Cam-pu-chia phá vỡ thế bế tắc xung quanh vấn đề phân chia quyền lực tại Hội nghị quốc tế Pa-ri... góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các diễn đàn giải quyết vấn đề Cam-pu-chia.

Tiếp sau những thoả thuận của Hội đồng dân tộc tối cao Cam-pu-chia (SNC) tại Bắc Kinh và Băng Cốc (tháng 7 và tháng 8/1991), Hội nghị quốc tế Pari về Cam-pu-chia vòng hai được tổ chức tại Trung tâm Hội nghị quốc tế

32

Kléber (từ 21 đến 23/10/1991) đã chính thức ký kết các văn kiện về giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề Cam-pu-chia. Tham gia Hội nghị có đại diện Ốt- xtrây-lia, Ca-na-đa, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Anh, Bắc Ailen, Mỹ, Liên Xô, các nước ASEAN, Việt Nam, Lào, các bên Cam-pu-chia, Tổng thư ký Liên hợp quốc và Chủ tịch Phong trào Không liên kết.

Hiệp định là một văn bản có giá trị pháp lý quốc tế cao, phù hợp với lợi ích chính đáng của nhân dân Cam-pu-chia, với hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á. Nó đánh dấu sự kết thúc vấn đề Cam-pu-chia vốn tồn tại hơn 10 năm, chấm dứt tình trạng căng thẳng, đối đầu giữa các nước Đông Dương và các nước ASEAN, cũng như việc các thế lực nước ngoài muốn lợi dụng vấn đề Cam-pu-chia để thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, chống phá nhiều mặt nhằm làm suy yếu Việt Nam. Việc ký kết Hiệp định Pari về Cam-pu-chia còn là sự ghi nhận những đóng góp lớn của Việt Nam và cũng là kết quả quan trọng trong triển khai chính sách đối ngoại đổi mới, tạo điều kiện đưa Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Đánh giá ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng, Hiệp định đã "giải toả những cản trở cuối cùng trên con đường triển khai chính sách đối ngoại của chúng ta là bình thường hoá, đa dạng hoá và sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước, trước hết là các nước Đông Nam Á và rộng hơn ở châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi"4.

2.2. Việt Nam cải thiện quan hệ với các nước ASEAN và chính thức

gia nhập ASEAN

Bước vào thập niên 1990, trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, Việt Nam ngày càng dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực nhằm phá vỡ thế bị bao vây cấm vận, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Chính sách khu vực sở dĩ cần đặc biệt coi trọng vì tính chất địa lý - chính trị của nó, đồng thời vì nó là sự "bắc cầu vào thế giới"5.

Theo đà tiến triển thuận lợi của tiến trình giải quyết chính trị vấn đề Cam- pu-chia, ngày 16/9/1991, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam chính thức gửi thư cho các ngoại trưởng các nước ASEAN xin gia nhập Hiệp ước Ba-li và đây được coi là bước đi đầu tiên tiến tới gia nhập ASEAN. Khi vấn đề Cam-pu-chia được giải quyết, quan hệ Việt Nam - ASEAN bước vào thời kỳ phát triển theo

4 Bộ Ngoại giao, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.1995, tr.79-80 5 Nguyễn Mạnh Cầm, Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới, Tạp chí Cộng sản, số 4/1992, tr. 11 - 15 33

chiều hướng gia tăng đối thoại và hợp tác nhằm gạt bỏ những trở ngại trên đường tiến dần tới sự gia nhập chính thức của Việt Nam vào ASEAN.

Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp để khai thông quan hệ đa phương với ASEAN và song phương với từng nước Đông Nam Á. Một mặt, Việt Nam nêu rõ lập trường của mình về xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác; mặt khác Việt Nam tích cực tham gia giải quyết các vấn đề chung của khu vực, đẩy mạnh triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ đối với tất cả các nước Đông Nam Á. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố chính sách mới về Đông Nam Á, trong đó khẳng định rõ: "với các nước Đông Nam Á, chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ nhiều mặt theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi"6. Từ tháng 10/1991 đến tháng 3/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt lần lượt đi thăm 6 nước thành viên ASEAN nhằm cải thiện quan hệ với các nước này và xúc tiến việc Việt Nam tham gia Hiệp ước Ba-li. Về phía ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tư (Xin-ga-po, 1/1992) đã chính thức hoan nghênh Việt Nam tham gia Hiệp ước Ba-li. Tiếp đó, ngày 20/5/1992, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gửi thư cho ngoại trưởng các nước ASEAN bày tỏ mong muốn của Việt Nam trở thành quan sát viên của ASEAN sau khi ký Hiệp ước Ba-li.

Hội nghị Trung ương ba, khoá VII (6/1992), xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại của đất nước, đã xác định phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực, nhằm tạo lập môi trường hòa bình, ổn định chung quanh nước ta là hướng ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vì, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc rất cần thiết phải có môi trường hòa bình, mà trước tiên là phải xây dựng được mối quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới và các nước khu vực Đông Nam Á. Hội nghị đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là: "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ". Đây là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến” vừa kiên định nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong

6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1991, tr.40 34

tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế và quan hệ đối ngoại của nước ta trong tình hình mới.

Hội nghị Trung ương ba (khóa VII) cũng nêu ra 4 phương châm xử lý các vấn đề quốc tế: Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Bốn phương châm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xử lý các mối quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, trong đó có quan hệ với các nước ASEAN. Rõ ràng việc tạo lập được mối quan hệ hợp tác, trên cơ sở tùy thuộc lẫn nhau về an ninh cũng như về phát triển với các nước trong khu vực, sẽ là một bảo đảm hết sức quan trọng đối với Việt Nam nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc tế.

Sau một thời gian vận động tích cực, ngày 22/7/1992, tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 25 (AMM-25, Ma-ni-la, Phi-lip-pin), Việt Nam cùng với Lào đã chính thức tham gia Hiệp ước Ba-li và trở thành quan sát viên (observer) của ASEAN. Sự kiện này chính thức mở ra thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, thời kì Việt Nam hội nhập khu vực Đông Nam Á và tiến tới hội nhập quốc tế.

Để mở rộng quan hệ hợp tác với các nước ASEAN và xúc tiến việc gia nhập ASEAN, nhiều đoàn cấp cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đến thăm các nước ASEAN. Đáng chú ý là cuộc đi thăm chính thức Xin-ga-po và Thái Lan của Tổng Bí thư Đỗ Mười (10/1993). Ngày 15/10/1993, khi đang ở thăm Thái Lan, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã công bố chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối với Đông Nam Á, thể hiện rõ mong muốn xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, hợp tác và phát triển:

1) Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, khồng dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, không hình thành các liên minh chống lại nhau, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, vì hoà bình và phát triển của mỗi nước.

35

2) Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách là một tổ chức khu vực, sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời điểm thích hợp.

3) Việt Nam sẵn sàng tham gia các cuộc đối thoại song phương và đa phương, trước hết giữa các nước trong khu vực, để tìm ra những biện pháp hữu hiệu đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh trong khu vực. Với tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng tham gia tích cực vào diễn đàn về chính trị và an ninh khu vực trên cơ sở bảo đảm an ninh của mỗi nước; phát triển quan hệ bình đẳng với từng nước tham gia diễn dàn, không làm gì ảnh hưởng đến nước thứ ba.

Việt Nam chủ trương biến Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, hợp tác

và phát triển, không có vũ khí hạt nhân và căn cứ quân sự nước ngoài.

4) Việt Nam chủ trương thông qua thương lượng hoà bình để giải quyết các tranh chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về vùng biển và hải đảo trên Biển Đông theo tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước luật Biển năm 1982; tôn trọng chủ quyền của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi tích cực xúc tiến thương lượng để tìm ra giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, tự kiềm chế, không làm gì gây phức tạp thêm tình hình, không dùng vũ lực, cùng nhau tìm kiếm sự hợp tác thích hợp, kể cả hợp tác và phát triển ở những nơi và với hình thức mà các bên liên quan chấp nhận được, trước mắt có thể các lĩnh vực khí tượng thuỷ văn, hàng hải, bảo vệ môi trường, cứu nạn, chống cướp biển và buôn lậu ma tuý7.

So với chính sách bốn điểm được nêu ra năm 1976, chính sách bốn điểm mới của Việt Nam về Đông Nam Á có những điểm mới, nó thể hiện cụ thể đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam, do đó được các nước ASEAN và dư luận quốc tế hoan nghênh, đánh giá cao. Như vậy, kể từ sau khi gia nhập Hiệp ước Ba-li và trở thành quan sát viên của ASEAN, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam không phải là có gia nhập ASEAN hay không, mà vấn đề chính yếu và nhạy cảm là về thời điểm và cách thức Việt Nam gia nhập ASEAN. Tháng 4/1994, trong chuyến đi thăm chính thức In-đô-nê-xia, Chủ tịch Lê Đức Anh tuyên bố, Việt Nam đang xúc tiến các công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN.

Tại Hội nghị AMM-27 (7/1994), các nước ASEAN nhất trí tuyên bố đón nhận Việt Nam làm thành viên ASEAN, tốt nhất là trước Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN cuối năm 1995. Ngày 17/10/1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin 7 Đào Huy Ngọc (Chủ biên), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.1997, tr. 199-200 36

gia nhập ASEAN và ngày 28/7/1995 tại Banda Seri Begawan, thủ đô Bru-nây Darusslam đã diễn ra Lễ kết nạp Việt Nam làm thành viên chính thức thứ bảy của ASEAN.

Gia nhập ASEAN trở thành một đột phá khẩu trong chính sách đối ngoại của nước ta và điều đó cho thấy rõ ưu tiên của ta đối với khu vực. Quá trình gia nhập ASEAN đã tác động tích cực đối với quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Mỹ đã bình thường hoá quan hệ với Việt Nam (11/7/1995) trước khi Lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN, đồng thời công khai đề cập khả năng ký hiệp định thương mại với Việt Nam để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc có bước phát triển mới. Tháng 11/1995, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sang thăm Việt Nam, hai nước đã ra Tuyên bố chung tăng cường hợp tác nhiều mặt và xử lý tranh chấp theo phương châm "lấy đại cục làm trọng, thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng, hợp lý, hiệp thương hữu nghị, và căn cứ vào luật pháp quốc tế, tham khảo thực tiễn quốc tế, thông qua đàm phán hoà bình giải quyết thoả đáng những vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước không để ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ giữa hai nước". Đến tháng 2/1999, hai nước thiết lập khung khổ quan hệ 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".

Quan hệ Việt Nam với Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU) cũng có những tiến triển tích cực. Trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Đỗ Mười sang Nhật Bản (4/1995), hầu như tất cả các chính giới của nước này đều biểu thị thái độ ủng hộ và đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam chuẩn bị gia nhập ASEAN, bày tỏ mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị, đẩy nhanh quan hệ hợp tác nhiều mặt, ổn định và lâu dài với Việt Nam. Hiệp định khung hợp tác giữa Việt Nam - EU cũng đã được hoàn thành trong tháng 7/1995 là thời điểm Việt Nam gia nhập ASEAN. Những sự kiện trên cho thấy, việc cải thiện và bình thường hóa quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể là ngẫu nhiên, mà không có sự liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN. Từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng bị các nước láng giềng bao vây, cô lập để bước vào một giai đoạn phát triển theo hướng hội nhập khu vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn8. Nói một cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra.

8 Xem: Báo cáo Tổng kết tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Chính phủ trình Quốc hội tháng 11/1996, tr. 12 37

Cùng với quá trình gia nhập ASEAN, quan hệ song phương giữa Việt Nam và từng nước ASEAN không ngừng phát triển. Đến năm 1994, buôn bán với ASEAN chiếm khoảng 30% tổng ngoại thương của Việt Nam và đầu tư của ASEAN vào Việt Nam chiếm gần 30% tổng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Theo thống kê của Vụ ASEAN Bộ Ngoại giao nhân 5 năm Việt Nam Nam gia nhập ASEAN (2000), tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với các nước ASEAN tăng từ 2,583 tỷ USD năm 1994 lên 3,490 tỷ năm 1995 và đạt 4,152 tỷ USD năm 1996. Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN từng bước giải quyết những vấn đề bất đồng trên cơ sở hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và các bên cùng có lợi, tạo điều kiện thúc đẩy sự ổn định trong quan hệ và hợp tác. Để giải quyết những tranh chấp trên bộ và trên biển, Việt Nam đã ký với Ma-lai-xia (5/6/1992) thoả thuận hợp tác cùng khai thác nguồn tài nguyên vùng chồng lấn giữa hai nước trong khi chờ đợi phân định. Việt Nam cùng với Thái Lan và Ma- lai-xia đã thoả thuận hợp tác cùng khai thác dầu khí ở vùng chồng lấn giữa ba nước trên thềm lục địa. Sau bốn vòng đàm phán, ngày 7/11/1995, Việt Nam và Phi-lip-pin đã ký bản thoả thuận 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản giữa hai nước ở vùng biển Đông.

Tóm lại, với chính sách ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam đã từng bước cải thiện và phát triển quan hệ với từng nước ở khu vực Đông Nam Á, tiến tới gia nhập ASEAN, tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và phát triển. Quan hệ Việt Nam với tổ chức ASEAN và các quốc gia trong ASEAN giai đoạn 1991 - 1995 phát triển mạnh là cơ sở và điều kiện quan trọng cho Việt Nam hội nhập khu vực, triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM -

ASEAN SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN

3.1. Tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh 3.1.1. Những đặc điểm chủ yếu * Những thay đổi về so sánh lực lượng của cục diện thế giới. Chiến tranh lạnh và trật tự thế giới hai cực trong vai trò là hình thái biểu hiện của cuộc đối đầu Đông - Tây khốc liệt đã đi đến điểm kết khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Những sự kiện này làm thay đổi sâu sắc cục diện thế giới, khiến cho cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn. CNXH hiện thực lâm vào thoái trào đẩy cuộc khủng hoảng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (PTCSQT-CNQT) càng trở nên trầm trọng. Tương

38

quan lực lượng thế giới nghiêng về phía có lợi cho CNTB, CNĐQ; bất lợi với CNXH và các lực lượng cách mạng tiến bộ. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định.

Trong bối cảnh đó, trên thế giới đã diễn ra những thay đổi sâu sắc, có tính đan xen, phức tạp, thậm chí trái chiều nhau. Xu thế hoà dịu - hoà hoãn tỏ ra chiếm ưu thế trong quan hệ quốc tế. Với nhiều cấp độ khác nhau, tiến trình cải thiện quan hệ giữa các nước, các đối thủ cũ vốn từng đứng trên hai trận tuyến đối lập nhau được thúc đẩy, hình thành nhiều mối quan hệ hợp tác, liên kết mới trên các lĩnh vực theo xu hướng chú trọng lợi ích dân tộc và mục tiêu phát triển. Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi nhanh chóng, từ chỗ mất cân bằng chuyển sang tìm kiếm sự cân bằng mới, kiềm chế bất đồng, tránh xung đột mang tính chất đối kháng. Tuy vậy, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh gay gắt với nhau; vừa thoả hiệp và xung đột, mâu thuẫn với nhau vẫn luôn hiện diện như hình thái đặc trưng của quan hệ giữa các nước lớn.

Mặt khác, nếu trật tự thế giới hai cực mất đi làm giảm các cuộc xung đột bắt nguồn từ cuộc đối đầu Xô - Mỹ trước đó, thì đồng thời nó cũng làm mất đi cái giới hạn kiềm chế đối với các xung đột khác, hoặc làm bộc lộ rõ nét và ngày càng gay gắt thêm một số mâu thuẫn vốn tiềm ẩn. Điều đó lý giải vì sao trong lúc không ít cuộc nội chiến, xung đột kéo dài đã từng bước đi đến giải pháp chính trị, thì tại nhiều khu vực, hàng loạt cuộc xung đột mới lại bùng lên dữ dội. Môi trường an ninh toàn cầu sau chiến tranh lạnh vẫn tiếp tục trở nên không chắc chắn. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, nhất là tại khu vực các nước đang phát triển.

Với ưu thế trong so sánh lực lượng, Mỹ tỏ rõ tham vọng độc quyền “lãnh đạo” thế giới. Đặc biệt từ khi G.W Bus trở thành tổng thống, chính quyền Mỹ càng ráo riết thi hành một chính sách đơn phương mang nặng tính vị kỷ, bất chấp sự phản đối của nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Chỉ từ sau sự kiện ngày 11/9/2001, chính sách này mới được điều chỉnh đôi chút theo hướng chú ý hơn đến hành động hợp tác đa phương nhằm giành sự ủng hộ quốc tế để phát động cuộc chiến nhân danh chống khủng bố ở Áp-ga-ni-xtan. Dưới thời Tổng thống B. Ô-ba-ma (từ 2009 đến nay), chính sách đối ngoại Mỹ có những thay đổi rõ nét và thường được gọi với cái tên "chính sách ngoại giao thông minh" với việc nhấn mạnh hơn chủ trương đối thoại với thế giới. Điều này cũng được thể hiện trong Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ được thông qua đầu năm 2010, tuy nhiên Mỹ vẫn không từ bỏ tham vọng bá chủ thế giới.

39

* Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có bước phát triển nhảy vọt đạt được những thành tựu to lớn. Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế đương đại. Đặc điểm nổi bật của cách mạng khoa học và công nghệ (KHCN) hiện đại là ở chỗ khoa học, công nghệ và sản xuất không còn là ba lĩnh vực tách rời nhau. Trái lại, phát minh khoa học, chuyển hóa thành công nghệ và đưa vào sản xuất đại trà ngày càng thống nhất trong một quá trình; khoảng cách giữa các khâu nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn.

Cách mạng KHCN là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt, đồng thời bản thân nó là lực lượng sản xuất mới, hiện đại. Cách mạng KHCN trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến những biến đổi khó lường về kinh tế - xã hội, văn hoá, tư tưởng, lối sống và cả kiến trúc thượng tầng chính trị của xã hội. Nó buộc các quốc gia thuộc các hệ thống xã hội khác nhau và cả cộng đồng thế giới phải thay đổi cơ chế quản lý, phải cải cách hành chính, từ bỏ cơ chế, mô hình quản lý không thích hợp.

Khoa học, công nghệ, tri thức là tài sản của cả loài người không của riêng giai cấp, dân tộc nào, song những thành tựu của cách mạng KHCN lại do các tập đoàn tư bản lớn và các nước tư bản phát triển chi phối. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng những thành tựu ấy để củng cố, tăng cường địa vị thống trị của mình trong đời sống quốc tế.

* Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Quá trình toàn cầu hóa được đẩy mạnh trong hai thập niên cuối thế kỷ XX và chắc chắn sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ XXI. Toàn cầu hóa là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau.

Toàn cầu hóa là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đặc biệt là của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa trước hết là biểu hiện của sự xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa đồng thời là sự phát triển tất yếu theo chiều rộng và chiều sâu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mặc dầu không phải tất cả các nước tham gia toàn cầu hóa đều là những nước tư bản. Là một quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn, toàn cầu hóa chứa đựng cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc gia,

40

trong đó có các nước đang phát triển, chậm phát triển chịu nhiều thách thức gay gắt hơn cả. Toàn cầu hóa thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển. Toàn cầu hóa tháo dỡ các rào cản đối với tự do thương mại, làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhanh chóng. Môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt buộc các nước phải có tư duy năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả. Toàn cầu hóa và cách mạng thông tin tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hóa, khoa học của loài người, đồng thời có điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn minh nhân loại.

Bên cạnh tác động tích cực nói trên, toàn cầu hóa tạo ra cả thách thức và nguy cơ không nhỏ đối với các nước, nhất là các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc của các nước đang phát triển vào bên ngoài về vốn, công nghệ và thị trường. Toàn cầu hóa kinh tế tác động trực tiếp lĩnh vực chính trị, an ninh quốc gia, tạo ra nguy cơ các nước đang phát triển bị lệ thuộc về kinh tế, từ đó sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại chủ quyền và an ninh quốc gia.

* Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn tiếp diễn và có những biểu hiện mới. Xung đột dân tộc, tôn giáo tiếp tục bùng phát với những nguy cơ khó lường. Sau sự kiện Liên Xô tan rã, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc càng phức tạp, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trên thế giới không dịu đi mà tiếp tục diễn ra gay gắt dưới những hình thức mới. Xét trên nhiều góc độ, cuộc đấu tranh đó vẫn là động lực cho việc loại bỏ trật tự xã hội lỗi thời, bất công, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Ở các nước tư bản phát triển cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, xung đột tôn giáo vẫn tiếp diễn, song đấu tranh giai cấp, xung đột sắc tộc, tôn giáo vẫn nổi trội và gay gắt hơn đấu tranh dân tộc. Nội dung chính của đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản là phong trào công nhân lao động chống các chính sách tăng cường áp bức bóc lột, xâm phạm lợi ích người lao động của chính quyền đại diện lợi ích các công ty tư bản kếch xù. Phong trào "chống toàn cầu hóa" lan mạnh khắp các nước tư bản phát triển. Phong trào này về thực chất không phải là chống giao lưu quốc tế, tự do thương mại... mà là đấu tranh bảo vệ lợi ích sống còn của người lao động trước sự tấn công, sự lấn tới của tư bản độc quyền.

Tại các nước vốn trước đây là các nước xã hội chủ nghĩa, quan hệ giai cấp đã thay đổi căn bản. Người lao động bị bóc lột nặng nề, hàng triệu người

41

thất nghiệp, đời sống khó khăn. Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức, chủ yếu là các hình thức đấu tranh hợp pháp như: biểu tình, bãi công, đấu tranh trên báo chí, trên các diễn đàn khác... Đấu tranh nghị trường là hình thức rất quan trọng và phổ biến của đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Trong vài ba thập niên tới, chưa thể nói đến triển vọng nhân dân giành lại chính quyền, khôi phục chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ở các nước đang phát triển, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc đều sâu sắc, song đấu tranh dân tộc và đấu tranh chống tư bản nước ngoài phát triển hơn so với đấu tranh giữa lao động và tư bản trong nội bộ quốc gia dân tộc. Đa số các nước đang phát triển đứng trước hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội chính trị phức tạp như đói nghèo, bệnh tật, thất học, ô nhiễm môi trường,... Vấn đề cơ bản và bức xúc nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc trước chủ nghĩa đế quốc bá quyền, chủ nghĩa thực dân mới, trước những mặt tiêu cực của toàn cầu hóa.

Độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc là vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất của thời đại hiện nay. Bóc lột các dân tộc tiếp tục là điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Hố ngăn cách giữa "khu vực trung tâm" và "khu vực ngoại vi" của thế giới tư bản ngày càng sâu rộng thêm. Các chính sách đế quốc tiếp tục được áp dụng đối với các nước đang phát triển, trong đó nguy hiểm nhất là chính sách áp đặt, can thiệp trắng trợn vào nội bộ các nước này. * Nhân loại đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức bức xúc, đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Chưa bao giờ nhân loại đang phải đối phó với rất nhiều vấn nạn như hiện nay. Những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, đẩy lùi những bệnh dịch hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế... Những vấn đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của các quốc gia, đến tương lai của cả loài người. Sự nóng lên của trái đất với hiệu ứng nhà kính; vấn đề ô nhiễm môi trường với việc xử lý rác thải; vấn đề khủng hoảng sinh thái, biến đổi khí hậu; vấn đề bệnh dịch bùng phát như lây nhiễm HIV-AIDS-SARS, dịch cúm gia cầm; vấn đề đói nghèo... đang là những nghị sự nóng bỏng trên các diễn đàn quốc gia và quốc tế. Phong trào quần chúng đòi giải quyết các vấn đề toàn cầu là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì tiến bộ xã hội.

* Quan hệ giữa các nước lớn - nhân tố rất quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới. Trong số hơn 200 quốc gia, một số cường quốc có sức

42

chi phối lớn đối với chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đương đại. Căn cứ vào sức mạnh tổng hợp, ảnh hưởng thực tế, những quốc gia sau đây được cộng đồng thế giới xem là nước lớn: Hoa Kỳ, Ca-na-đa, B-ra-xin, Nga, Anh, Pháp, Đức, I-ta-lia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ.

Tập hợp các nước lớn có thể chia hai loại: các nước lớn tư bản phát triển (G7) đứng đầu là siêu cường Mỹ, và các nước lớn còn lại (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Bra-xin). Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển thế giới. 11 nước lớn nêu trên chiếm 1/3 lãnh thổ và quá nửa dân số và hơn 70% GDP của cả thế giới. Đa số nước lớn là những cường quốc hàng đầu về kinh tế, khoa học, công nghệ, sức mạnh quân sự. Có 5 nước lớn là uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nhóm G7 là những nước tư bản phát triển nhất. Tuy nhiên, các nước lớn không phải một khối thống nhất, mà là một tập hợp đầy mâu thuẫn. Quan hệ giữa các nước lớn gồm nhiều loại: đồng minh, liên kết, không liên kết, đối tác, đối thủ, đối thủ trực tiếp, đối thủ tiềm tàng... hết sức phức tạp. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, quan hệ giữa các nước lớn có nhiều biến động, các nước đều điều chỉnh chiến lược để mở rộng ảnh hưởng, giành giật lợi ích về nhiều mặt. Quan hệ giữa họ diễn ra theo chiều hướng vừa đấu tranh vừa thỏa hiệp và vì lợi ích của mình, nhìn chung các nước lớn đều tránh đối đầu với Mỹ. Vấn đề đặt ra trong chính sách đối ngoại của các nước đang phát triển là làm sao vừa tranh thủ được quan hệ với các nước lớn để phát triển, vừa không để các nước này thâu tóm, áp đặt hoặc gây bất lợi trong quan hệ quốc tế.

* Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á có sự phát triển năng động, được cả thế giới quan tâm, đánh giá cao. Song tại đây cũng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước...

Cùng với những đặc điểm chủ yếu nêu trên, thế giới vận động theo nhiều

xu thế đan xen nhau phức tạp, trong đó nổi lên các xu thế cơ bản sau:

3.1.2. Xu thế vận động của thế giới hiện nay Hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo sự ổn định chính trị, mở rộng hợp tác quốc tế. Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch định và

43

triển khai thực hiện nhằm tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước, trước hết về kinh tế.

Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Trong điều kiện cách mạng KHCN và toàn cầu hóa, mỗi nước không thể biệt lập, mà cần phải có chính sách liên kết, hợp tác để phát triển. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để liên kết tốt hơn, giúp các nước đứng vững trong cạnh tranh và phát triển.

Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc. Đối với các nước đang phát triển, do sự phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển về khoa học, công nghệ và vốn, nên họ đang đứng trước những thách thức lớn. Việc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Cùng với việc khắc phục khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội, nhiều nước đang cố gắng giữ ổn định về chính trị, tạo môi trường hoà bình, thực hiện chính sách hoà giải, hoà hợp dân tộc, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, bình đẳng và hợp lý.

Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào cộng sản quốc tế có những dấu hiệu phục hồi rõ nét và vẫn là một lực lượng chính trị to lớn trong thời đại ngày nay. Các đảng cộng sản cầm quyền đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt nhất, tiếp tục lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cải cách và đổi mới. Các đảng cộng sản chưa cầm quyền có những điều chỉnh đường lối chiến lược và sách lược, đấu tranh bằng nhiều hình thức đa dạng, đổi mới tập hợp lực lượng, cải thiện vai trò, vị trí trong đời sống chính trị đất nước. Sự củng cố, lớn mạnh của các đảng cộng sản cầm quyền và sự phục hồi nhất định của các đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển, đặc biệt là sự phát triển của trào lưu cánh tả Mỹ La-tinh đang mở ra triển vọng mới cho phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trong thế kỷ XXI.

Các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức quan hệ giữa các nước. Đấu tranh và hợp tác

44

trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau là nguyên tắc, là phương pháp xử lý các quan hệ quốc tế hiện nay.

Tình hình thế giới và khu vực với những đặc điểm và xu thế nêu trên quy định tính đa dạng hoá, đa phương trong chính sách đối ngoại của các nước, trong đó có Việt Nam. Các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại, tìm cách hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển.

3.2. Chính sách của nước lớn đối với khu vực Đông Nam Á và một số điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước ASEAN thời kỳ sau chiến tranh lạnh.

3.2.1. Chính sách của các nước lớn đối với khu vực Đông Nam Á sau

chiến tranh lạnh

* Đối với Mỹ: Sau chiến tranh lạnh, mặc dù vị trí của Đông Nam Á có phần suy giảm không còn như trước đây trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Mỹ vẫn có lợi ích chiến lược quan trọng ở khu vực. Mục tiêu mà Mỹ theo đuổi trong chính sách với khu vực là ngăn chặn không cho các nước lớn khác xác lập ưu thế tuyệt đối ở khu vực, đồng thời duy trì ảnh hưởng và quyền lợi của Mỹ tại đây. Để đạt được mục tiêu đó, chính quyền Mỹ đã tiến hành các biện pháp: 1) Củng cố và tăng cường các quan hệ đồng minh trong khu vực, tìm mọi cách lôi kéo các nước Đông Nam Á tham gia "Mặt trận thứ hai trong cuộc chiến chống khủng bố" của Mỹ. 2) Tăng cường các quan hệ kinh tế với các nước ASEAN làm cho ASEAN ngày càng phụ thuộc kinh tế vào Mỹ. 3) Phản đối tham vọng độc chiếm biển Đông của bất cứ nước nào nhằm đảm bảo quyền tự do đi lại trên các con đường giao qua biển Đông. 4) Tạo điều kiện chi viện cho Nhật Bản, Hàn Quốc khi cần thiết và tăng cường kiềm chế Trung Quốc.

Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ gia tăng sự hiện diện và tái can dự ở Đông Nam Á phù hợp với Chiến lược toàn cầu mới (2002). Mỹ đã ký hàng loạt thoả thuận quân sự mới với các nước đồng minh truyền thống, cho họ hưởng quy chế "Đồng minh chiến lược ngoài NATO" như: ký với Phi-lip-pin "Thoả thuận về các lực lượng viếng thăm" (VFA) năm 1999 và "Hiệp định cùng nhau chi viện hậu cần" năm 2002; ký với Thái Lan thoả thuận thiết lập căn cứ hải quân mới gần Satahip và Utapao, lập Trung tâm chống khủng bố (CTIC) năm 2003; ký với Xin-ga-po "Thoả thuận khung về hợp tác đối tác chiến lược trong phòng thủ và an ninh" năm 2003. Ngoài ra, Mỹ còn chủ trương cải thiện và mở rộng hợp tác an ninh quốc phòng với những đối tác ít thân thiện hơn như In-đô-nê-xia và cả với địch thủ trước đây là Việt Nam. Từ năm 2002, Mỹ đã nối lại đối thoại an ninh với In-đô-nê- xia và đến cuối 2005, lệnh cấm vận vũ khí và hợp tác quân sự của Mỹ với nước

45

này thi hành từ 1994 được chính thức bãi bỏ. Cùng với việc cải thiện quan hệ với Việt Nam, Mỹ cũng tìm mọi cách lôi kéo các nước khác như Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma hợp tác với họ nhằm tạo ra một "mặt trận" thực hiện chiến lược toàn cầu mới, trong đó có việc kìm chế Trung Quốc, kiểm soát nguồn năng lượng và truyền bá dân chủ kiểu Mỹ. Mặt khác, Mỹ gia tăng sự can dự và kiểm soát trên biển, trong đó có eo biển Malacca và Biển Đông với việc đưa ra hàng loạt sáng kiến mới như: "Sáng kiến an ninh Contenno” (CSI), "Sáng kiến an ninh hàng hải khu vực" (RMSI), "Hiệp ước trợ giúp hậu cần” (ACSA) cho Ma-lai-xia để giúp nước này đối phó với nạn cướp biển...9 Chính quyền của Tổng thống B Ô-ba-ma đã ký TAC, tăng cường quan hệ với ASEAN một cách toàn diện.

* Đối với Trung Quốc: Đông Nam Á luôn luôn giữ vị trí cực kỳ quan trọng đối với an ninh và phát triển của Trung Quốc. Đông Nam Á còn là khu vực thuận lợi nhất để Trung Quốc thiết lập khu vực ảnh hưởng riêng của họ, trong quá trình vươn tới vị trí cường quốc hàng đầu mà họ đang ấp ủ. Chiến tranh lạnh kết thúc tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc khuyếch trương ảnh hưởng tại khu vực. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng gặp một số khó khăn trong quan hệ với các nước Đông Nam Á do tham vọng độc chiếm biển Đông và những cố gắng hiện đại hoá quân đội của họ làm các nước ở khu vực tiếp tục nghi ngờ, quan ngại.

Nhằm mục đích tăng cường ảnh hưởng đối với Đông Nam Á, Trung Quốc đã tiến hành đồng thời nhiều biện pháp khác nhau. Về chính trị-an ninh và ngoại giao, Trung Quốc ủng hộ tích cực nỗ lực của ASEAN nhằm thiết lập các cơ chế hợp tác khu vực và liên khu vực mới (ARF, ASEM, ASEAN+3). Điều chỉnh lập trường về vấn đề biển Đông, cùng ASEAN xây dựng Bộ Quy tắc ửng xử ở biển Đông, tuy nhiên khi có điều kiện vẫn thực hiện chiến thuật gặm nhấm. Tích cực giải quyết các vấn đề biên giới với các nước láng giềng, từng bước cải thiện nhận thức của các nước láng giềng về Trung Quốc. Đẩy mạnh quan hệ ngoại giao trên cả hai cấp độ: nhà nước và nhân dân. Về kinh tế, Trung Quốc tích cực giúp đỡ ASEAN khắc phục khủng hoảng tài chính tiền tệ; tăng cường buôn bán, đầu tư vào ASEAN, tạo điều kiện cho ASEAN đầu tư ngày càng nhiều vào Trung Quốc nhằm tạo ràng buộc hơn nữa các nền kinh tế ASEAN vào lục địa Trung Hoa; cùng ASEAN xây dựng Khu mậu dịch tự do (CAFTA), phát triển hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, v.v...

Trong những năm qua, Trung Quốc tỏ rõ sự chủ động trong hợp tác với các nước Đông Nam Á. Điều này được thể hiện rõ nét qua các thoả thuận, hiệp

9 Chiến lược an ninh qốc gia của Mỹ với Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007, tr.179-184 46

định hợp tác song phương: "Kế hoạch hành động Trung Quốc - Thái Lan cho thế kỷ XXI" (năm 1999), Khuôn khổ quan hệ 16 với Việt Nam "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" (1999); "Hiệp định khung về hợp tác song phương Trung Quốc-Phi-lip-pin trong thế kỷ XXI" (2000), Hiệp định khung Trung Quốc - Xin-ga-po về Hợp tác song phương" (2000), tham gia Hiệp ước Bali - TAC (2003)... Trung Quốc tham gia hợp tác với Việt Nam và Phi-lip-pin cùng nhau thăm dò địa chấn ở biển Đông, đồng thời cũng gia tăng các hoạt động đơn phương khẳng định chủ quyền tại đây.

* Đối với Nhật Bản: Đông Nam Á có vị trí đặc biệt quan trọng, không chỉ là thị trường đầu tư, thị trường tiêu thụ mà còn là cơ sở sản xuất của các công ty Nhật Bản. Sau chiến tranh lạnh, chính sách của Nhật Bản không chỉ nhằm vào các lợi ích kinh tế, mà còn nhằm nâng cao vai trò và ảnh hưởng chính trị của họ trong khu vực và kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Để đạt được các mục tiêu trên, về chính trị - an ninh, Nhật Bản đã tích cực tham gia vào các hoạt động của Liên hiệp quốc tại Cam-pu-chia và Đông Ti-mo; ủng hộ các sáng kiến chính trị của ASEAN (thành lập ARF, ASEM, ASEAN+3); ủng hộ mở rộng ASEAN, tích cực giúp đỡ quá trình hội nhập khu vực Đông Nam Á, tham gia TAC và ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau với ASEAN. Về kinh tế, Nhật Bản tích cực giúp đỡ các nước ASEAN khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng hoá ASEAN thâm nhập thị trường Nhật; tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, lập khu vực mậu dịch tự do Nhật Bản - ASEAN; đẩy mạnh hợp tác với ASEAN trong phát triển kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực, nêu chủ trương và tích cực thúc đẩy xây dựng Cộng đồng Đông Á.

Chính sách của Nhật Bản đối với Đông Nam Á nhận được phản ứng tích cực của các nước khu vực, bởi vì, ASEAN không chỉ cần vốn đầu tư, công nghệ và thị trường Nhật Bản, mà còn muốn sử dụng nước này như một nhân tố cân bằng ảnh hưởng với các nước lớn khác trong khu vực.

* Đối với Liên bang Nga: Đông Nam Á có vị trí quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô trước đây cũng như Liên bang Nga hiện nay. Mặc dù sau chiến tranh lạnh, Đông Nam Á không còn nằm trong các ưu tiên chiến lược của Nga, song khu vực này vẫn được xem là một nhân tố cân bằng quan hệ Đông - Tây và để nâng cao vị thế của Nga ở CA-TBD và trên thế giới. Nga tích cực tham gia vào các cuộc đối thoại chính trị với ASEAN thông qua các diễn đàn như PMC và ARF, tham gia TAC, ký Nghị định thư của SEANFWZ. Về kinh tế, Nga khôi phục và phát triển quan hệ với Việt Nam, đối tác truyền thống

47

của Nga tại khu vực; khuyến khích ASEAN-6 đầu tư vào Viễn Đông và phát triển mậu dịch với Nga.

Lần đầu tiên, vào tháng 12/2005 Hội nghị Thượng đỉnh Nga - ASEAN được tổ chức. Hai bên đã ký Tuyên bố chung và Chương trình Hành động hợp tác giai đoạn 2005-2015, khẳng định thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế - thương mại. Đối với ASEAN, Nga chưa phải là đối tác kinh tế lớn ở tầm ngắn hạn. Nhưng sự có mặt về chính trị và kinh tế của Nga sẽ giúp ASEAN thực hiện chính sách cân bằng ảnh hưởng và quyền lợi giữa các nước lớn ở Đông Nam Á, có lợi cho hoà bình và ổn định trong khu vực.

Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Đông Nam Á tác động đến cân bằng chiến lược giữa các nước này, nhất là cân bằng Mỹ - Trung và môi trường cạnh tranh ở Đông Nam Á. Trong thời gian gần đây, sự can dự của Mỹ, nhất là về an ninh - quốc phòng tăng lên, ưu thế quân sự và chính trị tại khu vực vẫn nghiêng về phía Mỹ. Thế nhưng, "quyền lực mềm" của Trung Quốc ở đây đang tăng nhanh. Xu hướng gia tăng vai trò vượt trội của Trung Quốc trong quan hệ kinh tế với khu vực thách thức ưu thế về quân sự và chính trị của Mỹ. Hơn nữa, những thay đổi đó cũng đụng chạm đến quyền lợi của các nước lớn khác, trong đó có Nhật Bản, Nga và Ấn Độ - những nước đang muốn duy trì hay xác lập vị thế hàng đầu ở CA-TBD. Điều này được biểu hiện khá rõ nét bằng sự khởi động các cơ chế hợp tác mới giữa Nhật Bản - ASEAN, Ấn Độ - ASEAN, Nga - ASEAN trong những năm gần đây, đồng thời bằng sự gia tăng tranh chấp và mâu thuẫn của các cặp quan hệ song phương Mỹ - Trung, Trung - Nhật và hình thành Tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Nhật ở CA-TBD. Những xu hướng trên có khả năng tạo ra nhiều vấn đề mới, cả cơ hội lẫn thách thức đối với các bên liên quan trong cuộc chạy đua tìm kiếm và bảo vệ lợi ích của mình. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là Mỹ - Trung đạt đến độ cân bằng tương đối ở Đông Nam Á có tác động trực tiếp đối với hòa bình, ổn định của khu vực.

Việc các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc tăng cường quan hệ với ASEAN đã và đang tạo ra những "cú hích" mới thúc đẩy cạnh tranh và hợp tác kinh tế cũng như an ninh khu vực, góp phần tạo thêm "không gian tự do", bổ sung "phương tiện mặc cả" cho việc theo đuổi chính sách "cân bằng thế lực", đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế của ASEAN và các nước thành viên, làm cho Hiệp hội này trở nên quan trọng hơn trong bàn cờ địa chính trị của các nước lớn. Tuy nhiên, các quá trình trên cũng đang tạo ra không ít thách thức. Trước hết, sự gia tăng hiện diện quân sự của Mỹ và tăng nhanh vai trò

48

của Trung Quốc ở khu vực có thể tạo ra những điều khó xử đối với ASEAN và các nước thành viên trong quan hệ với các đối tác chính, trong đó có Nhật Bản, Ấn Độ, Nga, EU... Hơn nữa, sự gia tăng sức ép của toàn cầu hoá, sự nổi lên của Trung Quốc, Ấn Độ và tăng cường hợp tác Đông Á có thể làm giảm đi sức hấp dẫn của ASEAN với tư cách là một khu vực kinh tế năng động, đoàn kết chính trị và giữ vai trò chủ đạo trong các nỗ lực hợp tác khu vực. Điều này có thể xẩy ra, khi mà trong ASEAN còn tồn tại sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế và năng lực cạnh tranh, quy chế hợp tác lỏng lẻo, phi tập trung và những khác biệt về thể chế - pháp lý, lợi ích quốc gia - dân tộc cùng với bất ổn do xung đột tôn giáo - sắc tộc, ly khai, khủng bố bạo lực, tranh chấp lãnh thổ, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các thảm hoạ thiên tai và rủi ro bệnh tật đang gia tăng ở Đông Nam Á cũng như CA-TBD và trên thế giới.

3.2.2. Một số xu hướng kinh tế - xã hội và sự điều chỉnh chính sách đối

ngoại của các nước Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh

Bước vào thập niên 1990, kinh tế của các nước Đông Nam Á, nhất là ASEAN tiếp tục phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ nửa cuối thập niên 1990, do nhiều nguyên nhân nên kinh tế khu vực ngày càng bộc lộ rõ dấu hiệu khó khăn. Năm 1997, các nước Đông Nam Á trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính - tiến tệ gay gắt, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực. Cùng với sự sa sút kinh tế kéo dài do khủng hoảng tài chính, tiền tệ 1997 - 1998 gây ra và sự tích tụ lâu ngày các mâu thuận hay khác biệt về quyền lợi giữa các thành viên, nhóm cộng đồng trong xã hội, sự can thiệp của các thế lực bên ngoài và ảnh hưởng mặt trái của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu do Mỹ phát động đã làm tăng xu hướng ly khai dân tộc, khủng bố bạo lực ở nhiều nước khu vực, nhất là ở In-đô-nê-xia, Phi-lip-pin và Thái Lan. Những nguyên nhân trên đẩy một bộ phận dân cư, nhóm tộc người lâm vào cảnh bần cùng hoá, trở thành "công cụ", "đội quân gây rối” của các thế lực chính trị cực đoan. Tình trạng nghèo đói, sự chênh lệch phát triển trong các vùng miền, thiếu dân chủ và tham nhũng ít được cải thiện khiến cho xung đột xã hội, trong đó có sắc tộc và ly khai dân tộc trở nên diễn biến phức tạp, làm bất ổn chính trị - xã hội, cản trở phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nhiều nước ASEAN.

Ngoài ra, tại Đông Nam Á còn nổi lên vấn đề tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, biển Sulavesi, nơi chứa đựng nguồn dữ trữ lớn về dầu khí và tài nguyên biển, lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng về hàng hải và phòng thủ quốc tế, do đó tình hình có khả năng trở nên phức tạp. Hơn nữa, sự tranh chấp các nguồn nước sạch dành cho thuỷ điện và sinh hoạt trên các con sông, nhất là

49

trên sông Mê Công cũng có chiều hướng gia tăng. Thêm vào đó sự gia tăng ngân sách quốc phòng, mua sắm vũ khí hiện đại, tiến hành nhiều cuộc tập trận với quy mô lớn trong bối cảnh kinh tế khó khăn cũng là một đặc điểm khá nổi bật ở nhiều nước ASEAN thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Những biểu hiện mới này làm cho tình hình chính trị - an ninh Đông Nam Á chứa đựng nhiều biến số phức tạp, dễ thay đổi và ngày càng trở nên khó dự đoán, tác động mạnh đến hợp tác, liên kết trong ASEAN và giữa ASEAN với bên ngoài.

Trong lĩnh vực kinh tế, ở Đông Nam Á nổi lên một số xu hướng mới và

được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu sau: Điều chỉnh cơ cấu kinh tế: Các nước ASEAN, nhất là Xin-ga-po và Ma- lai-xia rất chú trọng phát triển các ngành công nghệ, kỹ thuật cao. Xin-ga-po đưa ra kế hoạch xây dựng lại nước "Xin-ga-po mới" với kỳ vọng "ưu việt hoá ngành chế tạo và dịch vụ" mà trọng tâm là phát triển các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ tinh xảo làm động lực cho tăng trưởng như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Ma-lai-xia cũng đã có những điều chỉnh chính sách theo hướng phát triển các ngành công nghệ kỹ thuật cao, các ngành tạo ra giá trị gia tăng lớn ở trong nước, nâng cao tính cạnh tranh bằng cách tăng năng suất lao động và giảm chi phí. Các nước Thái Lan, In-đô-nê-xia và Phi-lip-pin ít nhiều đều có những điều chỉnh cơ cấu theo hướng thích ứng với những thay đổi của môi trường cạnh tranh khốc liệt toàn cầu. Những chuyển biến trong thể chế kinh tế, về cơ bản "mô hình chính phủ chủ đạo" ít có những thay đổi ở hầu hết các nước ASEAN trừ Xin-ga-po. Tuy nhiên, các nước ASEAN lại có những thay đổi cơ bản theo hướng tự do hoá hơn nữa nhằm thích ứng với những thay đổi của quá trình toàn cầu hoá. Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, hầu hết các nước ASEAN đều xúc tiến các chương trình cải cách thị trường vốn, thị trường tiền tệ theo hướng khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, đóng cửa các tổ chức yếu kém và sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, các công ty tài chính... Về chiến lược phát triển kinh tế, hầu hết các nước ASEAN đều có những điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế thế giới tuỳ theo điều kiện kinh tế của từng nước. Tất cả các nước ASEAN vẫn tiếp tục duy trì chiến lược mở cửa, thúc đẩy xuất khẩu bằng các biện pháp khác nhau. Bên cạnh đó, một số nước thực hiện các chủ trương kích thích nhu cầu nội địa tuỳ theo điều kiện của mỗi nước nhằm khắc phục những ảnh hưởng xấu từ kinh tế của Mỹ và Nhật. Đồng thời, các nước ASEAN cũng chuyển hướng tăng cường xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Ấn Độ để khắc phục sự phụ

50

thuộc vào thị trường xuất khẩu Mỹ, Nhật, Tây Âu. Trong chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật, các nước đều chú trọng tăng tỉ lệ đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ coi đây là một động lực phát triển kinh tế - xã hội.

Những xu hướng phát triển mới của các nền kinh tế ASEAN còn được thể hiện nổi bật ở các chính sách phát triển tổng hợp, khai thác các tiềm năng tăng trưởng mới, kết hợp với chiến lược thúc đẩy xuất khẩu đa dạng. Việc ký kết các FTA cùng với việc đẩy mạnh các chương trình “hợp tác ASEAN +” sẽ góp phần khai thông thị trường, tăng kim ngạch thương mại của các nước.

Trong lĩnh vực đối ngoại, các nước ASEAN sau chiến tranh lạnh đều có sự điều chính chính sách rõ nét trên hai hướng chủ yếu. Hướng thứ nhất là những điều chỉnh trong quan hệ giữa các nước Đông Nam Á với nhau. Hướng thứ hai, trong quan hệ với các nước ngoài khu vực vốn trước đây là đồng minh hoặc đối đầu. Đặc điểm bao trùm và xuyên suốt trong sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước Đông Nam Á là đều nhấn mạnh chủ trương đa dạng - đa phương hóa quan hệ quốc tế và chú trọng hợp tác - liên kết khu vực. Đây được coi như phản ứng chung của khu vực trước động thái tiến triển của cục diện thế giơi, của xu thế toàn cầu hóa, nhất thể hóa trên thế giới.

So với các nước Đông Nam Á khác, các nước Đông Dương điều chỉnh định hướng đối ngoại mạnh mẽ hơn. Bởi vì, ở vào thời điểm kết thúc chiến tranh lạnh, hệ thống quan hệ quốc tế của họ bị xáo trộn lớn do các đồng minh truyền thống là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ. Nhu cầu đặt ra một cách cấp bách là phải cơ cấu lại hệ thống định hướng cũng như cơ sở nguyên tắc đối ngoại phù hợp. Với kết quả ký kết Hiệp định Pa-ri (1991) và cuộc tổng tuyển cử đa đảng (1993), Cam-pu-chia quay trở lại chế độ quân chủ lập hiến. Sự phức tạp của các vấn đề nội bộ khiến cho việc thực thi đường lối đối ngoại hòa bình, tự do, trung lập và không liên kết đã từng được Camphuchia tuyên bố trở nên không dễ dàng. Tuy vậy, nhìn một cách tổng quát, chính sách đối ngoại của Cam-pu-chia thể hiện khuynh hướng đa dạng hóa rõ rệt, có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn và các nước khu vực. Do vậy, họ tranh thủ được sự trợ giúp quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước.

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa - đa dạng hóa và ưu tiên hợp tác khu vực được Việt Nam cũng như Lào đặc biệt chú trọng. Việt Nam - một nước ở Đông Nam Á chịu tác động nặng nề nhất do sự kiện Liên Xô tan rã - đã có những bước chuyển hướng đối ngoại kịp thời. Nhờ vậy, quan hệ ngoại giao không ngừng mở rộng, góp phần từng bước vượt ra khỏi cuộc bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch. Sau Đại hội VI của

51

Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 13 (5/1998) với chủ đề “Hòa bình và phát triển kinh tế”, chủ trương thực hiện “thêm bạn bớt thù”, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 6, khóa VI nhấn mạnh, để đảm bảo lợi ích cao nhất là hòa bình và phát triển, phải chuyển từ chỗ quan hệ chính trị - quân sự sang quan hệ chính trị - kinh tế, giữ vững hòa bình và độc lập, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, xây dựng quan hệ với các nước ASEAN, bình thường hóa quan hệ với Mỹ... Hai nghị quyết trên có thể coi là bước chuyển biến cơ bản chiến lược đối ngoại Việt Nam. Sự chuyển biến này tiếp tục được khẳng định trong các nghị quyết của các Đại hội VII và các Đại hội sau này. Quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN tiến triển tích cực, vững chắc đưa đến việc Việt Nam gia nhập ASEAN, mở ra một trang mới trong quan hệ hai bên.

Có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, chính sách đối ngoại của Lào sau chiến tranh lạnh cũng được điều chỉnh rất đáng kể. Đại hội V (1991) và sau đó Đại hội VI (1995) của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã liên tiếp nêu ra các biện pháp nhằm đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Cùng với việc củng cố quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợ tác toàn diện với Việt Nam, Lào chuyển mạnh sang phát triển quan hệ với Trung Quốc, tích cực mở rộng quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á.

Đối với các nước Đông Nam Á khác, chiến tranh lạnh kết thúc cũng là thời điểm có những điều chỉnh khá mạnh mẽ về đối ngoại. Sự điều chỉnh quan trọng và dễ nhận thấy nhất là sự cải thiện quan hệ của các nước ASEAN với các nước Đông Dương trong và sau tiến trình giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Nhằm tăng cường tiềm lực cạnh tranh cho ASEAN trước trào lưu khu vực hóa đang phát triển trên thế giới, các nước ASEAN chú trọng mở rộng tổ chức sang Đông Dương. Đây thực sự trở thành một khuynh hướng có ý nghĩa chủ đạo chi phối đời sống chính trị khu vực từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước trở lại đây.

Song song với xu hướng tăng cường hợp tác khu vực, các nước ASEAN điều chỉnh lại quan hệ của họ với các đối tác truyền thống Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Tiếp tục khẳng định ưu tiên phát triển quan hệ với các nước kể trên, song các nước ASEAN tích cực giành thế chủ động và độc lập hơn trong các quyết sách của mình. Sự chuyển biến này phản ánh những thay đổi về so sánh lực lượng của Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu ở Đông Nam Á. Mặt khác, bản thân các nước ASEAN cũng đang trở thành một lực lượng có uy tín ở CA-TBD và trên thế giới. Một số nước ASEAN có tiếng nói khá thống nhất phản đối sự can thiệp, áp đặt của Mỹ và phương Tây về dân chủ, nhân quyền. Về kinh tế - thương mại,

52

không phải tất cả các nước ASEAN đều tán thành thể chế hóa cơ cấu APEC theo quan điểm Mỹ. Với Trung Quốc, hướng điều chỉnh của ASEAN là tăng cường hợp tác kinh tế và đối thoại chính trị - an ninh. Các nước ASEAN hy vọng thâm nhập vào thị trường khổng lồ hơn 1,3 tỷ dân để giành giật lợi ích kinh tế. Đồng thời, họ có thể hạn chế những tác động tiêu cực trước thực tế Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng ảnh hưởng xuống phía Nam và biển Đông.

Tuy có những điểm chung, song bước đi và hình thức điều chỉnh chính sách đối ngoại ở mỗi nước ASEAN lại đa dạng và phong phú. Thái Lan là một nước có truyền thống ngoại giao "lựa chiều" mềm dẻo. Trong khi chú trọng quan hệ với các nước khu vực, Thái Lan vẫn xác định hướng ưu tiên chiến lược trong quan hệ với các nước lớn - đồng minh truyền thống, đặc biệt với Mỹ. Thái Lan nhìn chung ít khi chỉ trích các quan điểm chính trị của Mỹ. Với các nước khu vực, Thái Lan tỏ rõ tham vọng nắm giữ vai trò ngọn cờ, trước hết ở Đông Nam Á lục địa. Cho nên, Thái Lan trở thành tác giả của nhiều kế hoạch hợp tác khu vực và tiểu khu vực. Với thực lực kinh tế và vị trí địa lý khá thuận lợi, Thái Lan muốn đóng vai trò cầu nối giữa các nước ASEAN khác với Đông Dương và giữa ASEAN với Mi-an-ma.

Sự điều chỉnh định hướng đối ngoại của In-đô-nê-xia sau chiến tranh lạnh diễn ra với sắc thái riêng. Đề cao Học thuyết tự cường quốc gia, tự cường khu vực và đa dạng hóa quan hệ trong hoàn cảnh mới, In-đô-nê-xia chủ trương đoàn kết khu vực, nhanh chóng mở rộng ASEAN, dựa vào ASEAN để nâng cao địa vị quốc tế của mình. Tuy có bất đồng với Mỹ xung quanh vấn đề dân chủ và nhân quyền, song In-đô-nê-xia vẫn kiên trì theo đuổi phát triển quan hệ với nước này, mong muốn Mỹ tiếp tục duy trì sự hiện diện về mọi mặt ở Đông Nam Á nhằm tạo sự đối trọng, kiềm chế với Trung Quốc và Nhật Bản. Xuất phát từ quan điểm cân bằng lực lượng giữa các nước lớn ở Đông Nam Á, chính quyền Gia-các-ta ủng hộ sự tham gia tích cực của Nga vào các công việc khu vực, phát triển hợp tác kinh tế, đồng thời cố gắng xử lý khôn khéo để không xảy ra xung đột với Trung Quốc xung quanh việc tranh chấp đảo Natura và vấn đề người Hoa...

Đối với Ma-lai-xia, một trong những nét điều chỉnh nổi bật về định hướng đối ngoại sau chiến tranh lạnh là việc đề cao hợp tác khu vực Đông Á theo đường lối "Nhìn về phía Đông" (Look East). Đây có thể xem như một phản ứng của nước này trước sự bành trước thế lực kinh tế của Mỹ và phương Tây ở Đông Nam Á và CA-TBD. Mặt khác, đường lối này xét dưới góc độ nào đó còn mang ý nghĩa là sự tập hợp lực lượng ở Đông Á nhằm đối phó với trào lưu khu vực hóa và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang trên đà phát triển. Sau chiến tranh

53

lạnh, Ma-lai-xia giành ưu tiên hơn cho việc phát triển quan hệ với các nước Đông Á. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN trở thành những đối tác chủ chốt của họ hiện nay. Với Mỹ và các cường quốc khác, Ma-lai-xia luôn giữ vững và đề cao lập trường độc lập tự chủ, kiên quyết phản đối chủ nghĩa áp đặt của Mỹ và phương Tây vào công việc của Đông Nam Á. Tuy nhiên, Ma-lai-xia vẫn tiếp tục duy trì quan hệ toàn diện với Mỹ và phương Tây, thừa nhận vai trò của Mỹ trong việc duy trì ổn định nền an ninh khu vực. Tóm lại: Chiến tranh lạnh kết thúc đã đưa ASEAN bước vào một giai đoạn phát triển mới của quá trình hợp tác và liên kết khu vực. Quá trình này diễn ra dưới tác động của hàng loạt các nhân tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài. Trong số những nhân tố quốc tế, nổi bật lên hàng đầu đó là những thay đổi của cục diện chính trị thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học-công nghệ và toàn cầu hóa, sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với khu vực. Bên cạnh đó, những chuyển biến từ bên trong ASEAN và khu vực Đông Nam Á, như vị trí chiến lược của khu vực, những nền tảng hợp tác liên kết mà ASEAN đã tạo dựng trong thời kỳ 1967-1991 có ảnh hưởng rất lớn đối với viễn cảnh hợp tác, liên kết sau chiến tranh lạnh. Sự điều chỉnh linh hoạt chính sách đối ngoại của các nước khu vực trên hai phương diện chủ yếu liên quan chặt chẽ và bổ sung lẫn nhau: tăng cường hợp tác khu vực và mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hóa - đa phương hóa với bên ngoài khu vực đã thực sự góp phần thúc đẩy quan trọng đối với tiến trình hợp tác liên kết ASEAN. Sự tác động của các nhân tố chủ yếu nêu trên mang tính đan xen, đa chiều và phức tạp đối với chiều hướng vận động của hợp tác liên kết khu vực.

3.3. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và vị trí của

ASEAN trong chính sách đối ngoại của Việt Nam

3.3.1. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định rõ: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Trong đó, những nhiệm vụ kinh tế - xã hội có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa trước mắt là đẩy mạnh giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh tế xã hội để nhanh chóng vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế, phá thế bị bao vây cấm vận của các thế lực thù địch và mở rộng quan hệ đối ngoại.

54

Triển khai đường lối đổi mới về kinh tế, Việt Nam đã từng bước xây dựng nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, dưới sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh giải phóng mọi năng lực của sức sản xuất trong nước, khuyến khích sự đóng góp của mọi thành phần kinh tế để tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa cho xã hội. Những thành tựu bước đầu đạt được trong phát triển kinh tế đã góp phần tích cực làm dịu bớt những căng thẳng kinh tế-xã hội, khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới.

Bước vào thập niên 90 thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam chuyển mạnh từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, hình thành ngày càng đồng bộ các yếu tố thị trường. Việt Nam xác định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ có sự nỗ lực vượt bậc với những bước đổi mới mang tính đột phá, nền kinh tế Việt Nam đến giữa thập niên 90 của thế kỷ XX đã vượt qua thời kỳ khủng hoảng và bắt đầu phát triển khá nhanh chóng. Điều đó góp phần tích cực đối với việc giữ vững ổn định chính trị xã hội đất nước, phá được thế bị bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc thù địch, mở rộng quan hệ quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam xác định rõ một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tổng kết quá trình 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006) một mặt khẳng định những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đổi mới, mặt khác nhấn mạnh nhiệm vụ sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới là cơ sở hiện thực vững chắc để Việt Nam tiếp tục kiên định mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam, phấn đấu vì “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Những năm gần đây, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu, toàn diện. Nền kinh tế phát triển năng động và đạt tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, đất nước thoát ra khỏi tình trạng nước có thu nhập thấp. Văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện một bước quan trọng. Chính trị - xã hội tiếp tục ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh với tinh thần chủ động và tích cực. Việc xây dựng Nhà nước

55

pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ rõ nét trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Dân chủ trong xã hội không ngừng được mở rộng, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy… Mặc dù vậy, Việt Nam hiện nay vẫn đứng trước một số nguy cơ lớn đòi hỏi phải vượt qua như: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu vẫn gay gắt; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối và chính sách đối ngoại phải góp phần đưa đất nước vượt qua những nguy cơ, thách thức đang đặt ra nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối và chính sách đối ngoại đổi mới được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp một cách hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3.3.2. Vị trí của ASEAN chính sách đối ngoại Việt Nam Cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á với vị trí chiến lược quan trọng, Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng và khu vực, có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó lâu đời. Mặc dù ở một vài thời điểm, đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh lạnh, do nhiều nguyên nhân khác nhau, quan hệ Việt Nam với một số nước ASEAN diễn biến phức tạp, thậm chí đối đầu, song nhìn chung hai bên thường dành ưu tiên cao cho nhau trong chính sách đối ngoại.

Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam nhận thức một cách sâu sắc ràng, để có môi trường quốc tế hoà bình và ổn định đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, thì vấn đề đặt ra trước tiên là phải xây dựng được mối quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng và khu vực. Bởi vậy, Việt Nam đã ngày càng chủ động đổi mới tư duy đối ngoại, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”, từng bước hình thành và triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, dành ưu tiên xứng đáng cho việc cải thiện, củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, trong đó có các nước ASEAN. Có thể nói, một trong những thành công nổi bật nhất của đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là đã nhận thức đúng vị trí và xử lý thích đáng mối quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới (Lào, Cam-pu- chia, Trung Quốc) và với các nước ASEAN.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) cùng với việc khẳng định quan điểm phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước trên bán đảo Đông Dương, đã nêu rõ chủ trương cải thiện quan hệ với các nước ASEAN,

56

thực hiện chính sách cùng tồn tại hòa bình với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau ở Đông Nam Á. Ngay từ những năm cuối thập niên 1980, Việt Nam đã đưa ra một số điều chỉnh quan trọng chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam nhấn mạnh quan điểm tích cực góp phần giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.

Việt Nam xác định rõ, việc tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu- chia là một điểm đột phá để cải thiện quan hệ với ASEAN, góp phần từng bước thoát vòng bao vây cô lập về đối ngoại, đồng thời đóng góp vào việc tạo lập môi trường quốc tế hoà bình, ổn định ở khu vực. Do tương quan lực lượng ở Cam- pu-chia và sự dính líu của các thế lực quốc tế cho nên vấn đề Cam-pu-chia chỉ có thể giải quyết bằng một giải pháp chính trị. Từ nhận thức này, cùng với việc đơn phương rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi Cam-pu-chia, Việt Nam chủ động và tích cực đẩy mạnh đối thoại với ASEAN và các nước hữu quan, nhằm nhanh chóng đạt được giải pháp chính trị toàn bộ, công bằng hợp lý cho vấn đề Cam-pu-chia. Việc ký Hiệp định Pari ngày 23/10/1991 đánh dấu sự kết thúc quá trình tìm kiếm và đi đến giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu-chia là sự ghi nhận những đóng góp của Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi trong triển khai đường lối đối ngoại đổi mới nói chung, chính sách với ASEAN nói riêng.

Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình quốc tế, đặc biệt từ sau khi Liên Xô tan rã, chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN được điều chỉnh mạnh. Theo đó, vấn đề cải thiện và phát triển quan hệ với các nước ASEAN, về cơ bản, luôn được đặt cao như một trong những ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại Việt Nam. Sự điều chỉnh này được thể hiện rõ nét nhất trong quan điểm của Hội nghị Trung ương 3, khóa VII năm 1992 và tiếp tục được bổ sung, phát triển trong văn kiện Đảng sau này. Một trong bốn phương châm chỉ đạo đối ngoại của Việt Nam được nêu ra từ năm 1992 là tích cực tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Phương châm này, một mặt thể hiện chính sách nhất quán của Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế; mặt khác, cũng cho thấy Việt Nam coi trọng phát triển hợp tác khu vực, trước hết là khu vực Đông Nam Á với vai trò nòng cốt của một ASEAN đang phát triển năng động và mở rộng quy mô ra toàn khu vực.

Việc Việt Nam đặt cao vị trí quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước ASEAN trong chính sách đối ngoại là vì sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam rất cần thiết phải có môi trường hòa bình, mà trước tiên là môi trường hòa bình xung quanh đất nước. Do

57

đó, phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á không chỉ đáp ứng yêu cầu tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết thân của Việt Nam. Trên hướng đối ngoại này, Việt Nam chú trọng việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt với Lào, quan hệ láng giềng hữu nghị với Cam-pu-chia và xây dựng quan hệ hợp tác mới với ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN.

Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN (7/1995), trên cơ sở tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá theo tinh thần “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới”, Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng, nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác toàn diện với các nước ASEAN10. Quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện những quan điểm đúng đắn trong chính sách đối ngoại với ASEAN đã góp phần giúp Việt Nam từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc và thù địch, hóa giải tương đối thành công những khó khăn, bất cập trong quan hệ với một số nước láng giềng có chung biên giới cũng như với ASEAN, hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế và quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Thành công đạt được trong chính sách khu vực trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng nhất thúc đẩy quan hệ đối ngoại của Việt Nam không ngừng được mở rộng, vị thế đất nước được nâng cao ở khu vực và trên trường quốc tế trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua.

Trong giai đoạn hiện nay, với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của ASEAN, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác vì phát triển ở Đông Nam Á; hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của từng nước thành viên cũng như cả Hiệp hội11. Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn và coi trọng đúng mức tầm quan trọng chiến lược của ASEAN đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đánh giá cao ý nghĩa của việc gia nhập và tham gia hợp tác ASEAN, vì điều đó đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng, thiết thực về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa- xã hội và đối ngoại.

10 Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS Việt Nam, Nxb CTQG, H 2001, tr. 119-121 11 Phạm Gia Khiêm, ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới và phương hướng tham gia của Việt Nam, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 8/8/2008 58

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong Thông điệp nhân kỷ niệm 41 năm ngày thành lập ASEAN (8/8/2008) một lần nữa tái khẳng định: Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của ASEAN và là một thành viên có trách nhiệm của gia đình ASEAN. Khu vực Đông Nam Á và ASEAN có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam vì nó liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam.

Thông điệp cũng nêu rõ, các nước thành viên ASEAN cần tiếp tục làm hết sức mình để củng cố sự đoàn kết và thống nhất của Hiệp hội, tăng cường tình hữu nghị anh em và ý thức cộng đồng, đẩy mạnh hợp tác và giải quyết mọi khác biệt bằng biện pháp hòa bình. Đồng thời, ASEAN cần tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo trong các vấn đề khu vực, chủ động thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hợp tác ở khu vực, tạo điều kiện cho các đối tác bên ngoài tham gia và đóng góp tích cực cho việc xử lý các thách thức đối với hòa bình, an ninh và phát triển khu vực Đông Nam Á và CA - TBD. Việt Nam tiếp tục dành ưu tiên cao đối với việc tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm, góp phần cùng các nước thành viên xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN. Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục góp phần thiết thực và quan trọng vào sự phát triển của Hiệp hội, vì lợi ích to lớn của các thế hệ người dân ASEAN hiện nay cũng như trong tương lai.

Trong chính sách với ASEAN hiện nay, cùng với việc coi trọng quan hệ với tất cả các nước của Hiệp hội cả đa phương và song phương, Việt Nam đánh giá cao việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông Dương. Với Lào, Việt Nam nhấn mạnh chủ trương phát triển tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện. Sự ổn định trong hoà bình và phát triển của nước bạn Lào và việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào là một trong những yếu tố cấu thành lợi ích thiết thân, chính đáng của Việt Nam. Đây đồng thời cũng là lôgíc tự nhiên quy định nghĩa vụ quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với nước bạn, là chất keo bền chắc cố kết sự trường tồn của quan hệ hai nước, bất chấp những thử thách trong điều kiện lịch sử mới. Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Việt Nam một mặt lấy mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng làm nòng cốt, mặt khác không ngừng mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết hai nước trên cơ sở lâu dài, bền vững. Việt Nam chú trọng đổi mới thường xuyên và thúc đẩy hợp tác Việt - Lào theo hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của mỗi nước, bình

59

đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của quan hệ đặc biệt giữa hai nước.

Việt Nam kịp thời điều chỉnh quan hệ với Cam-pu-chia trên cơ sở mới phù hợp với tình hình đã thay đổi sau khi có giải pháp cho vấn đề Cam-pu-chia, thông qua thương lượng giải quyết những vấn đề còn tồn tại, phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện. Đến nay, hai nước đã xác lập khuôn khổ quan hệ “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Hai bên đã ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc hai nước cam kết công nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký trong những năm 80 của thế kỷ XX. Đánh giá cao vị trí của Cam-pu-chia trong chính sách khu vực, Việt Nam luôn khẳng định rõ quan điểm tăng cường phát triển quan hệ toàn diện giữa hai nước theo khuôn khổ đã thỏa thuận, đồng thời làm thất bại âm mưu của các lực lượng nước ngoài lợi dụng những vấn đề lịch sử giữa hai nước tác động vào nội bộ Cam-pu-chia theo hướng chia rẽ quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia.

Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam tiếp tục coi trọng việc xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với các nước ASEAN khác. Việt Nam nhận thức rõ, chính sách khu vực "sở dĩ cần đặc biệt coi trọng vì tính chất địa lý - chính trị của nó, đồng thời vì nó là sự bắc cầu vào thế giới"12. Với thế và lực của đất nước đang tăng lên, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát huy vai trò trong hợp tác, liên kết ASEAN; chủ động đề xuất nhiều sáng kiến và biện pháp phù hợp để tăng cường đoàn kết và hợp tác trong ASEAN, thúc đẩy giải quyết những vấn đề lớn và phức tạp của Hiệp hội, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận của ASEAN và tương lai phát triển của Hiệp hội.

Tóm lại: Trong giai đoạn hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới, đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam đang năng động đẩy mạnh triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, song vẫn dành ưu tiên cao đối với việc phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN. Với tư cách một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết và năng động, có vai trò ngày càng quan trọng, ASEAN đã và sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh, hợp tác vì phát triển ở Đông Nam Á.

12 Nguyễn Mạnh Cầm, Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới, T/c Cộng Sản, 8/1992, tr. 12 60

Phần thứ hai NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY

1. QUÁ TRÌNH VIỆT NAM THAM GIA HỢP TÁC, LIÊN KẾT ASEAN 1.1. Quan điểm chính sách của Việt Nam về thúc đẩy hợp tác, liên kết

với ASEAN

1.1.1.Ưu tiên cao trong quan hệ với các nước ASEAN, chủ động và tích

cực tham gia hợp tác, liên kết ASEAN cả song phương và đa phương

Trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, tổ chức này được thế giới coi là một tổ chức quân sự thân Mỹ. Quan điểm này cũng không khác biệt nhiều so với quan điểm của Chính phủ Việt Nam trong thời gian trước và sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước vào năm 1975. Việt Nam cũng từng coi ASEAN là một tổ chức được Mỹ lập ra để chống chủ nghĩa cộng sản, là “tay sai”, “sân sau” của Mỹ để cô lập Việt Nam. Sự chuyển biến, thay đổi lập trường ngoại giao của Việt Nam với ASEAN dựa trên những động thái từ cả hai phía.

Trước hết, từ phía ASEAN, vào tháng 11/1971 các nước ASEAN đã ký Tuyên bố về Khu vực hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN), không có sự can thiệp dưới bất cứ hình thức và phương cách nào của các nước ngoài khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất (2/1976) tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a) không chỉ chính thức thông qua ZOPFAN, được coi là phác thảo cơ bản đầu tiên cho sự hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN, mà quan trọng hơn, mà còn ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) - Hiệp ước Bali. TAC bao gồm các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quan hệ giữa các nước Đông Nam Á, phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp quốc, là Bộ luật ứng xử giữa các nước trong khối với nhau. Tiếp đó, ASEAN đã thúc đẩy Hiệp ước này thành Bộ luật ứng xử giữa các nước Đông Nam Á với các nước ngoài khu vực tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 3 (Manila - 12/1987), cụ thể là đã sửa đổi điều 14 và điều 18 để các quốc gia ngoài khu vực có thể tham gia. Thực tế đã chứng minh, tất cả các nước còn lại ở khu vực muốn gia nhập ASEAN hay các nước ngoài khu vực muốn hợp tác, đối thoại với ASEAN để giải quyết những vấn đề đa phương, đều phải ký Hiệp ước Bali. Tính đến nay, đã có 23 quốc gia tham gia ký TAC, gần đây nhất là Hoa Kỳ (2009). Đây là văn kiện có tính pháp lý

61

cao và là cơ sở, phương châm hành động của ASEAN. Điều này làm cho ASEAN vừa thoát khỏi cái bóng và “tiếng” là tổ chức đồng minh của Mỹ chống lại một số nước trong khu vực, vừa thể hiện tính đoàn kết, nỗ lực xây dựng môi trường khu vực hòa bình.

Về phía Việt Nam, nỗ lực thiết lập quan hệ với các nước ASEAN sau khi kết thúc chiến tranh (sau 30/4/1975) được thúc đẩy, nhưng trong khoảng thời gian đầu, vẫn chỉ dừng lại ở những cam kết hình thức, ghi nhận những ý kiến đề xuất của nhau, chứ chưa triển khai cụ thể, vì nhiều lý do, chẳng hạn: sự e ngại, “sợ” Việt Nam - một nước theo định hướng XHCN vừa giành được chiến thắng trước cường quốc Mỹ. Tiếp đó, với tinh thần giúp đỡ nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, chỉ trong vòng một tuần, quân tình nguyện Việt Nam đã tiến vào thủ đô Phnôm Pênh, đẩy lui quân Khme Đỏ về phía biên giới Cam- pu-chia – Thái Lan. Trong quá trình đó, Mỹ vẫn tiếp tục siết chặt bao vây cấm vận Việt Nam. Việc tìm kiếm giải pháp hòa bình và hòa hợp dân tộc cho nhân dân Cam-pu-chia cũng trở thành cái cớ dẫn tới sự chậm chạp trong tiến trình thiết lập mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và ASEAN.

Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam nỗ lực chuẩn bị gia nhập ASEAN nhằm phá vỡ thế bao vây, cô lập của các thế lực thù địch do Mỹ đứng đầu. Tháng 7/1992, Việt Nam tham gia ký Hiệp ước Bali, trở thành quan sát viên của ASEAN, để 3 năm sau đó, chính thức trở thành thành viên dưới mái nhà chung ASEAN vào tháng 7/1995.

Việt Nam gia nhập ASEAN nhằm thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hữu nghị với các nước trong và ngoài khu vực. Sự kiện này mở ra một thời kỳ hợp tác, mở cửa và hội nhập khu vực và quốc tế mới cho Việt Nam. Quan trọng hơn cả, khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam có điều kiện củng cố và phát triển quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước trong khu vực cũng như mở rộng quan hệ đối ngoại với các đối tác bên ngoài, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao vị thế đất nước trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.

Việt Nam gia nhập ASEAN đã thúc đẩy hợp tác nội khối và giữa ASEAN với các nước đối tác. Mặc dù không có đủ dữ liệu để phân tích động cơ, toan tính chiến lược của tổ chức ASEAN đưa tới hệ quả của việc kết nạp Việt Nam làm thành viên chính thức, nhưng thực tiễn đã chứng minh rõ ràng, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức, đã mở ra một kỷ nguyên mới cho ASEAN, tạo cho ASEAN một hình ảnh mới, sức sống mới. Chấm dứt sự đối đầu giữa hai nhóm nước: ASEAN và Đông Dương. Nhận định này không hề là

62

những lời lẽ ngoại giao dành cho nhau mà có căn cứ cụ thể. Việt Nam không chỉ trở thành nhân tố mở đường cho việc hình thành một ASEAN bao gồm 10 nước, qua đó cho thấy nỗ lực phấn đấu, đấu tranh cho một khu vực hòa bình, thế giới hòa bình của Việt Nam, mà còn trở thành tấm gương, là động lực cho các nước còn lại như Lào, Myanma, Cam-pu-chia lần lượt gia nhập ASEAN. Một cách ngẫu nhiên, trong khối ASEAN hình thành hai nhóm nước, nhóm 6 nước cũ là những nước có nền kinh tế phát triển hơn, trong khi nhóm bốn nước thành viên mới hầu như vẫn là những nước nghèo, vô hình chung, Việt Nam trở thành cầu nối tăng cường mối quan hệ giữa hai nhóm nước trong khối dù không được quy định trong một văn bản thỏa thuận nào.

Hơn nữa, trên cơ sở mối quan hệ truyền thống của mình, Việt Nam càng phát huy vai trò, lợi thế của mình trong việc điều phối, đối thoại giữa ASEAN với một số đối tác của khối. Điều đó càng làm tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như làm tăng tính hiệu quả trong đối thoại giữa ASEAN với các bên đối thoại. Chẳng hạn, trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ giữa Hiệp hội với Trung Quốc có nhiều khó khăn. Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, bản chất quan hệ ASEAN – Trung Quốc đã có nhiều thay đổi, ASEAN không chỉ trở thành một đối tác về quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh với Trung Quốc, mà cả với các nước lớn khác trong và ngoài khu vực. Đối với vấn đề tranh chấp biển Đông, các nước ASEAN nhất trí cùng Trung Quốc tìm ra giải pháp thích hợp cho các tranh chấp trên biển nhằm làm cho biển Đông trở thành vùng biển hợp tác và hòa bình.

1.1.2. Tham gia hợp tác, liên kết ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi

Theo quan điểm của của Việt Nam, quan hệ hợp tác với ASEAN là một bộ phận rất quan trọng trong chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Nguyên tắc quan hệ của Việt Nam với ASEAN, về cơ bản, phù hợp với các nguyê tắc đối ngoại của ASEAN. Trong quá trình phát triển, các quốc gia thành viên ASEAN đã dần cùng nhau xây dựng và khẳng định các nguyên tắc chính làm cơ sở cho quan hệ trong nội bộ và với các đối tác nước ngoài. Những nguyên tắc này được phản ánh trong nhiều văn kiện của ASEAN với một số nội dung chủ yếu sau:

- Các nguyên tắc là nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên và với bên ngoài: Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc chính đã được nêu trong Hiệp ước Bali, bao gồm: Tôn trọng độc lập,

63

chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc; quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thân thiện; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.

- Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội: Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh vực quan trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus) - còn được gọi là nguyên tắc đồng thuận, tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo đảm được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của ASEAN.

Nếu các nguyên tắc nền tảng có tính ổn định cao, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc và bảo đảm sự tôn trọng của các bên khi hợp tác và giải quyết các vấn đề quốc tế nói chung, thì nguyên tắc đồng thuận trong điều phối hoạt động của ASEAN lại bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia, nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những bất đồng, nó cản trở hay làm trì trệ việc thực thi các chính sách, không có chế tài để răn đe hay buộc các bên tham gia thực hiện cam kết. Mặt tích cực của nguyên tắc này là: thể hiện sự đoàn kết, thống nhất trong đa dạng của ASEAN, bảo đảm lợi ích của các nước nhỏ trước các nước lớn, đồng thời làm nên bản sắc của ASEAN. Nhưng trái lại, nó cũng có những điểm tiêu cực như vừa kể trên, đồng thời cũng dễ làm tổn hại hình ảnh của ASEAN trước các bên tham gia đối thoại, thể hiện sự kém năng động và kém hiệu quả trong thực thi chính sách, các mục tiêu cam kết.

Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc bình đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt: Thứ nhất, các nước ASEAN, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ tọa các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cuộc họp, được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần A, B, C của tiếng Anh.

Trong quan hệ giữa các nước ASEAN dần hình thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu, tôn trọng

64

và tự giác áp dụng như: Nguyên tắc “cho và nhận”, có đi có lại (give and take). Theo nguyên tắc này, trong quá trình hợp tác giữa các nước ASEAN, nếu một nước nhân nhượng một nước khác về một vấn đề, thì đến lượt mình, nước kia trong một dịp khác sẽ đáp lại bằng một nhân nhượng khác; Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, không gây đối đầu, có thái độ hữu nghị, thân thiện; Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân, không tuyên truyền tố cáo qua báo chí; Nguyên tắc giữ gìn đoàn kết ASEAN, giữ bản sắc chung của Hiệp hội.

Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tuân thủ một cách hết sức nghiêm túc các nguyên tắc nói trên, vừa đảm bảo giữ vững lợi ích quốc gia, chủ quyền, vừa tranh thủ tạo mối quan hệ bền chặt giữa các nước, gia tăng sức mạnh đoàn kết thống nhất của Hiệp hội trước sức ép quốc tế và các nước lớn.

1.1.3. Phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước ASEAN nhằm tạo lập môi trường hòa bình, ổn định xung quanh đất nước đáp ứng lợi ích chiến lược an ninh và phát triển.

Với cam kết là thành viên tích cực, có trách nhiệm của ASEAN, Việt Nam ngày càng chủ động, tích cực tham gia vào tất cả các hoạt động hợp tác từ chính trị - an ninh, kinh tế - thương mại cho đến hợp tác chuyên ngành.

Một trong những đóng góp đầu tiên của Việt Nam trong ASEAN là nỗ lực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia, hình thành một ASEAN-10, hoàn thành mục tiêu mà ASEAN đã đề ra từ lâu. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của ASEAN. Mở ra một thời kỳ mới, khác hẳn về chất trong quan hệ giữa các nước trong khu vực.

Tiếp đó, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội đã thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) – một đóng góp quan trọng của Việt Nam, trong đó đề ra nhiều biện pháp cụ thể, định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp hội để thực hiện Tầm nhìn 2020. Trong vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN (ASC), Việt Nam đã đề xuất và được thông qua Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển tại Hội nghị AMM-34 năm 2001 vừa đáp ứng nhu cầu của ASEAN muốn tăng cường liên kết nội khối, vừa thiết thực cho nhu cầu vươn lên của 4 thành viên mới Cam-pu-chia, Lào, Mi-an- ma và Việt Nam.

Với tư cách nước đồng sáng lập Diễn đàn An ninh ARF, Việt Nam chủ động tham gia và có nhiều đóng góp vào tiến trình ARF, góp phần xây dựng ARF trở thành một diễn đàn đối thoại về an ninh có vị thế ở khu vực, đồng thời Việt Nam cũng kiên trì đấu tranh giữ vững tính chất và các nguyên tắc cơ bản

65

đã trở thành bản sắc của ASEAN, góp phần duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong diễn đàn này. Việt Nam tăng cường phối hợp lập trường với các nước ASEAN trong việc xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế, nhất là đối với các vấn đề phức tạp, có liên quan đến lợi ích quốc gia của chúng ta.

Việt Nam tham gia tổ chức nhiều hoạt động tăng cường quan hệ với các nước đối thoại, đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng chủ trương tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác ASEAN + 3 (với 3 nước Đông Bắc Á) để tiến tới hình thành một khuôn khổ hợp tác mới trên quy mô toàn khu vực Đông Á: Diễn đàn Đông Á (EAS).

Việt Nam khẳng định rõ quan điểm nghiêm túc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế khu vực của mình và luôn nỗ lực đảm bảo tiến độ thực hiện các cam kết. Mặc dù xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn các nước ASEAN cũ rất nhiều, nhưng sự tham gia của chúng ta vào các chương trình liên kết kinh tế như AFTA, AIA, AICO, IAI, việc triển khai từng bước chương trình hợp tác Mê Công, nhất là thực hiện sáng kiến quan trọng về phát triển kinh tế các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông - Tây (WEC) đã tạo thế chủ động hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực, phù hợp với các ưu tiên phát triển của Việt Nam.

1.1.4. Phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước và khu vực, hỗ trợ phối hợp lẫn nhau với các nước ASEAN trong quan hệ quốc tế để đối phó với những thách thức trong một thế giới đang toàn cầu hóa mạnh mẽ cùng với sự phát triển của trào lưu hợp tác, liên kết khu vực.

Việc tham gia ASEAN giúp Việt Nam tranh thủ được những lợi ích thiết thực từ những hoạt động kinh tế - thương mại và chuyên ngành của ASEAN, Chúng ta có điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế, tiếp cận được thông tin và các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại, học tập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển và quản lý với các quốc gia thành viên ASEAN vốn được coi là những nền kinh tế trẻ đầy năng động trong khu vực. Trong hợp tác liên kết ASEAN, Việt Nam xác định rõ một số quan điểm sau:

- Hỗ trợ nhau phát huy những ngành, lĩnh vực còn non yếu. Các nước mạnh hơn hỗ trợ các nước yếu hơn, nghèo hơn, kém văn minh hơn để tiến kịp các nước trong nhóm dẫn đầu. Tham gia ASEAN giúp Việt Nam nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành trong các hoạt động quốc tế và đa phương; thúc đẩy việc điều chỉnh dần các thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đồng thời,

66

Việt Nam nhận thức rõ, sự “đoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển đồng đều” sẽ góp phần giảm thiểu sự phân biệt giữa 2 nhóm nước, nhất là hỗ trợ lẫn nhau cũng như kêu gọi sự trợ giúp của các nước đối thoại trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước.

- Kết hợp hài hòa các định hướng phát triển của mỗi quốc gia. Tăng cường trao đổi thông tin giữa các chính phủ. Các Hội nghị cấp cao, hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao và chuyên ngành là kênh chia sẻ quan trọng nhất các định hướng phát triển của mỗi quốc gia để tạo sự hài hòa, cùng tiến lên và dần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa hai nhóm nước. Ngoài ra, kênh thông tin thường xuyên tại các cuộc viếng thăm chính thức lẫn nhau của các nhà lãnh đạo trong ASEAN cũng giúp mang lại sự thống nhất mục tiêu, tương trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng Chính phủ điện tử ASEAN (e-ASEAN) được xúc tiến mạnh mẽ để có thể thường xuyên giao lưu, cập nhật thông tin của nhau một cách nhanh chóng, chính xác và thuận lợi.

- Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, các hệ tiêu chuẩn đo lường thống nhất, tạo sự thông thoáng, liên kết cùng phát triển mạng lưới kinh tế khu vực. Một thách thức tế nhị đặt ra cho các nước ASEAN trong quá trình xây dựng các chiến lược phát triển quốc gia, đó là: nền kinh tế, các mặt hàng xuất khẩu tương đối giống nhau, đưa đến sự cạnh tranh giữa các nước trong việc cung cấp sản phẩm cho thị trường quốc tế, nhất là cạnh tranh về giá cả, chất lượng và đối tác. Việc các nước có sự tương đồng về phát triển kinh tế, thương mại cần có cơ chế đối thoại với nhau trên tinh thần tương trợ và chia sẻ theo thỏa thuận trong khối ASEAN về việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng bạn hàng, xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn thống nhất, biểu giá xuất khẩu…để cùng đạt được lợi nhuận tốt.

1.2. Các giai đoạn phát triển hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN 1.2.1. Giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ XX * Bước đầu tham gia các cơ chế hợp tác của ASEAN Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã từng bước chủ động tham gia các hoạt động của ASEAN như: ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, 1992), tham gia ngay từ đầu vào Diễn dàn An ninh khu vực (ARF, 1994). Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức (tháng 7-1995), Việt Nam thực hiện tương đối tốt các chương trình, cơ chế hợp tác của ASEAN: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (AFSA), Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định khung về Hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), Sáng kiến Hội nhập

67

(IAI),… Điều quan trọng hơn là, Việt Nam cùng với các nước đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, yếu kém trong ASEAN. Cụ thể, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao lần thứ 6 (tháng 12-1998) trong khi cả khu vực đang phải đối phó với khủng hoảng tài chính – kinh tế, Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức, nhân lực còn yếu. “Tuyên bố Hà Nội” - 1998 và “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN” - 2001 thể hiện nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển nội khối.

Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) được Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 thông qua tháng 12/1998 đã xác định rõ phương hướng và các biện pháp cụ thể cho hợp tác và phát triển của ASEAN trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới. Việt Nam bắt đầu nhận trọng trách và đã hoàn thành tốt vai trò điều phối viên quan hệ ASEAN với các nước lớn như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôt-xtơ-rây-lia, Canađa, được các nước đối thoại đánh giá cao. * Từng bước xây dựng bộ máy và cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực,

cùng nhau đối phó với khủng hoảng

Về kinh tế: từ năm 1995 đến năm 2000, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4.233 mặt hàng, chiếm 67% trong tổng số 6.332 mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi MFN. Trong quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước ASEAN giai đoạn này có tốc độ tăng trưởng trung bình 20% hàng năm. Năm 1994, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN chiếm tỉ trọng 21%, đến đầu những năm 2000 chiếm trên 25%. Về đầu tư, đến 1995, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào Việt Nam. Đến 2004, đã có trên 600 dự án với trên 10 tỉ USD đầu tư vào Việt Nam đến từ các nước ASEAN, tập trung nhất là Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan. Tuy vẫn còn là một nước nghèo, nhưng Việt Nam luôn cố gắng thu hẹp khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước ASEAN 6 (Bru-nây, Thái Lan, Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Philipin). Từ năm 1994 đến năm 2000, Việt Nam đã rút ngắn khoảng cách GDP/đầu người so với các nước trong khu vực (so với Xin-ga-po từ 17,1 lần xuống còn 15 lần, với Ma-lai-xi-a từ 5 lần xuống còn 4,2 lần, với Thái Lan từ 4,4 lần xuống còn 3,4 lần, với In-đô-nê-xi-a từ 2,3 lần xuống còn 1,7 lần, với Philipin từ 2,5 lần xuống còn 1,9 lần).

1.2.2. Giai đoạn thập niên đầu của thế kỷ XXI Bước vào thiên niên kỷ mới, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN được 5 năm, đó chưa phải là một khoảng thời gian dài, nhưng quá trình hợp tác Việt Nam – ASEAN ngày càng khăng khít, không chỉ phủ đều trên tất

68

cả các lĩnh vực, mà một số đã đi vào chiều sâu, tìm kiếm sự đồng thuận và các biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng các chương trình, chính sách phát triển nội khối. Ngay trong năm đầu tiên của thiên niên kỷ XXI, khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN khóa 34, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã nhận định rằng: ASEAN đang đứng trước những thách thức như: tình trạng nghèo đói, sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển giữa các nước, giữa các vùng trong một nước và trong khu vực, trong đó các vùng dọc Hành lang Đông – Tây của Tiểu vùng sông Mê Công là một ví dụ điển hình. Do đó, trong chính sách phát triển, ASEAN không chỉ chạy theo tốc độ nhanh mà chính là phải coi trọng phát triển đồng đều và công bằng, đặc biệt là hỗ trợ các nước, các vùng tụt hậu. Dưới tác động của toàn cầu hóa, nếu không có những biện pháp hợp tác hữu hiệu, sự chênh lệch phát triển sẽ ngày càng lớn và nguy cơ hình thành hai nhóm nước giàu, nghèo trong ASEAN sẽ là thực tế khó tránh khỏi, và điều đó cản trở sự hợp tác hiệu quả của các nước thành viên ASEAN. Chính vì vậy, Việt Nam đã đề xuất chủ đề của Hội nghị này là “Ổn định, đoàn kết, tăng cường liên kết kinh tế và mở rộng hợp tác” được các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN nhất trí tán thành.

Việt Nam cũng chủ động đề xuất và đưa ra nhiều sáng kiến, ý tưởng thúc đẩy việc thực hiện các thỏa thuận của ASEAN tập trung trong lĩnh vực phát triển, giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách của ASEAN như: vấn đề ma túy trong thanh niên ASEAN, sáng kiến Hợp tác du lịch Đông Á, Tuần Văn hóa ASEAN. Đặc biệt, nhận thức rõ thách thức về khoảng cách phát triển, Hội nghị AMM-34 theo đề nghị của Việt Nam, đã ra “Tuyên bố Hà Nội về nỗ lực chung của ASEAN thu hẹp khoảng cách phát triển vì sự tăng trưởng năng động và bền vững”. Có thể nói, đây là một đề xuất “đúng thời điểm”, “đúng nhu cầu, mong muốn” của tất cả các nước, tạo sự nhất trí cao.

* Triển khai đồng bộ trên diện rộng các chương trình, dự án hợp tác Việt

Nam - ASEAN.

Việt Nam có những đóng góp thiết thực, xác đáng nhằm đẩy mạnh các Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch công tác IAI giai đoạn hai về Thu hẹp khoảng cách phát triển trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Việt Nam nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy của ASEAN, xác định rõ những ưu tiên và trọng tâm thực hiện cho từng giai đoạn cụ thể. Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy việc thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN. Đặc biệt, trong giai đoạn này, triển khai Hiến chương vào thực tiễn có những vấn đề phức tạp, nhưng với tiếng nói cân bằng, xây dựng, Việt Nam đã

69

tích cực cùng các nước ASEAN xử lý những khác biệt trong soạn thảo Quy chế hoạt động của cơ quan Nhân quyền ASEAN. Việt Nam cũng thúc đẩy thực hiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC), được ký từ năm 2002, được thực hiện một cách “hờ hững”, nhất là thái độ của Trung Quốc, nếu không muốn nói là không được thực hiện một cách nghiêm túc.

Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 tại Bali (In-đô-nê-xi-a, 11/2003), ASEAN quyết định xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 trên ba trụ cột chính là: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) do Thái Lan đề xuất, Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC) do In-đô-nê-xi-a đề xuất và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội (ASCC) do Việt Nam đề xuất. Đây là những quyết định đúng hướng, kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Việc hình thành và tăng cường các cơ chế hình thức hợp tác và liên kết mới này đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của ASEAN, trong đó có Việt Nam:

Thứ nhất, thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ đưa ASEAN trở thành một khối có sự liên kết vững chắc, một thị trường duy nhất có cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó lưu thông tự do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư vốn và nhân công có tay nghề sẽ thúc đẩy cải cách hệ thống pháp luật và nền hành chính quốc gia trong nước, tiếp cận được nhiều hơn các yếu tố bên ngoài, nhất là vốn, thị trường và công nghệ hiện đại, làm tăng cơ hội việc làm và nâng nhanh mức sống của người dân.

Thứ hai, thiết lập Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) sẽ làm tăng nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị - an ninh nội khối lên tầm cao mới cả trong lĩnh vực an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Góp phần tạo ra sự cân bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, gia tăng sức “mặc cả” của ASEAN trong các vấn đề quốc tế, khu vực, giúp ASEAN vừa tăng tính mở, vừa duy trì bản sắc, phong cách ứng xử truyền thống của mình, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai. Điều này phù hợp với chính sách và lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của Việt Nam.

Thứ ba, thiết lập Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) nhằm tạo dựng cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á gắn bó, các xã hội quan tâm và tương trợ lẫn nhau dựa trên những bản sắc chung của khu vực, giải quyết tác động xã hội của hội nhập kinh tế, thúc đẩy môi trường bền vững, thúc đẩy bản sắc ASEAN trên cơ sở phát triển nhận thức và bản sắc khu vực ASEAN; bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hóa ASEAN, thúc đẩy đối thoại nhằm nâng cao hiểu biết về văn minh, văn hóa và tôn giáo trong ASEAN.

70

Tiếp tục triển khai các tuyên bố trên, Hội nghị cấp cao 10 tại Viên Chăn tháng 11-2004, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua các Kế hoạch Hành động An ninh và Văn hóa – Xã hội. Cũng tại Hội nghị cấp cao 10, các nhà lãnh đạo ASEAN đồng ý chuyển Hội nghị cấp cao ASEAN+3 thành Hội nghị cấp cao Đông Á và nhất trí tổ chức Hội nghị cấp cao Đông Á lần thứ nhất tại Ma- lai-xi-a vào năm 2005. Đây là một động thái ngoại giao hết sức khôn khéo của các nước ASEAN nhằm duy trì vai trò chủ đạo của mình trong các diễn đàn khu vực khi xuất hiện những ý tưởng làm dịch chuyển vai trò trung tâm các diễn đàn khu vực lên Đông Bắc Á.

Trên cơ sở quy chế hoạt động của hai cơ quan chủ chốt trong bộ máy tổ chức mới của ASEAN là Hội đồng Cộng đồng Chính trị - An ninh và Ủy ban các đại diện Thường trực ASEAN được thông qua tại Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 42, tháng 7/2009 tại Phuket (Thái Lan), Việt Nam đã chính thức thành lập Phái đoàn thường trực tại ASEAN, đây là một bước phát triển mới trong quan hệ đối ngoại nói chung, Việt Nam – ASEAN nói riêng.

Nằm trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) và Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), từ năm 2004, tại Hội nghị cấp cao 10, trong Kế hoạch Hành động Viên chăn ghi nhận xúc tiến việc thành lập Ủy ban Thúc đẩy và Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em, đến tháng 10-2009, Quy chế hoạt động của Ủy ban này đã được các nước thông qua và nhân dịp Hội nghị cấp cao 16, trong khuôn khổ Hội nghị Cộng đồng Văn hóa – Xã hội lần thứ 3 tại Hà Nội đã chính thức tuyên bố thành lập Ủy ban Thúc đẩy và Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu một bước tiến mới trong việc đảm bảo sự phát triển công bằng cho phụ nữ và trẻ em, là đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển, tăng cường phúc lợi và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em vào quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN.

Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại: Ngày 3-5-2007, Ban Thư ký ASEAN đã ra Tuyên bố nhất trí công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đầy đủ sau cuộc họp Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 13 diễn ra tại Bru-nây. Hội nghị này cũng kêu gọi các nước và tổ chức khác trên thế giới sớm công nhận địa vị kinh tế thị trường đầy đủ của Việt Nam. Đây là một biểu hiện sống động cho sự hợp tác chặt chẽ Việt Nam – ASEAN trong lĩnh vực kinh tế, tiến tới xây dựng một môi trường kinh tế ASEAN thống nhất.

Hội nghị lần thứ 3 Hội đồng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) đã khẳng định năm 2010 là năm bản lề để tiếp tục thực hiện tự do hóa thương mại, Các

71

nước đã thảo luận sâu sắc về việc làm thế nào để thực thi có hiệu quả các cam kết như cơ quan hải quan một cửa, số lượng các phương tiện giao thông được phép quá cảnh, tiến trình thông quan hàng hóa. Bắt đầu từ năm 2010, các nước ASEAN-6 đã hoàn thành mục tiêu xóa bỏ thuế quan đối với 99,65% số dòng thuế, ASEAN-4 (gồm Lào, Mi-an-ma, Cam-pu-chia, Việt Nam) đã đưa 98,86% số dòng thuế tham gia Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung để xây dựng Khu vực Thương mại tự do ASEAN (CEPT-AFTA) về mức 0-5% (tính đến tháng 3-2005, Việt Nam đã cắt giảm 10.277 dòng thuế, tương đương 96,15% tổng số dòng thuế phải cắt giảm). Ngày 01/01/2010 cũng là thời điểm hoàn thành thực hiện Hiệp định Khu vực Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc, ASEAN- Hàn Quốc, và là ngày các Hiệp định Khu vực Thương mại tự do ASEAN – Ôt-xtơ-rây-lia – Niu Di-lân và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN - Ấn Độ có hiệu lực. Trong lĩnh vực dịch vụ - thương mại, 9/10 nước thành viên (trừ Phi-lip-pin) đã hoàn thành gói 7 về cam kết dịch vụ theo Hiệp định khung về Thương mại dịch vụ ASEAN (AFAS) bao trùm hơn 65 phân ngành dịch vụ. Trong quan hệ hợp tác đầu tư, ASEAN tiếp tục duy trì mức tăng trưởng FDI nội khối ổn định. Năm 2008, FDI nội khối đạt 10,8 tỉ USD, chiếm 18,2% tổng mức FDI (59,7 tỉ USD). Trong lĩnh vực tài chính, các nước đã thống nhất thiết lập Quỹ bảo lãnh tín dụng và đầu tư (CGIF) và sẽ sớm đưa vào thực hiện nhằm tăng cường tính thanh khoản của đồng nội tệ và phát triển thị trường trái phiếu khu vực.

* Chủ động, tích cực tham gia trong tất cả các lĩnh vực hợp tác, đề xuất

sáng kiến nhằm tăng cường hiệu quả hợp tác liên kết giữa các nước.

Xây dựng không gian e-ASEAN liên kết, sống động và an toàn là sáng kiến do đại diện Việt Nam khởi xướng và được sự đồng thuận của các thành viên Hội đồng Kinh doanh e-ASEAN (e-ABC). Mục tiêu của sáng kiến là nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của công nghệ thông tin trong việc trao đổi thông tin, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trong khối và tiếng nói chung của ASEAN trên thế giới.

Hội nghị cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội nhất trí về các trọng tâm ưu tiên do Việt Nam đề xuất như: đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng và triển khai Hiến chương ASEAN. Thảo luận về vai trò của ASEAN trong các cấu trúc khu vực. Thông qua 2 tuyên bố: Tuyên bố về Phục hồi và phát triển bền vững và Tuyên bố về Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu.

* Tham gia cải cách cơ cấu và cơ chế hoạt động của ASEAN, xây dựng chương trình hành động đáp ứng yêu cầu tình hình mớ, tham gia xây dựng và

72

hoàn thiện chương trình hành động thành lập các Cộng đồng ASEAN, Hiến chương ASEAN

Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN năm 2000 quyết định thiết lập đường dây nóng ở các cấp lãnh đạo của ASEAN, cải cách hình thức, lề lối làm việc để ASEAN hoạt động thực chất và có hiệu quả hơn như: rút ngắn thời gian họp AMM, tiến hành cơ chế họp thường xuyên giữa Chủ tịch ASEAN hàng năm với Tổng Thư ký Liên Hợp quốc, UNDP, Chủ tịch Phong trào Không liên kết và với lãnh đạo một số tổ chức quốc tế và khu vực khác.

Việt Nam cùng các nước nỗ lực xây dựng bản Hiến chương ASEAN – một văn kiện quan trọng nhằm tạo khuôn khổ pháp lý và khung thể chế cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN. Sau hơn 3 năm chuẩn bị dự thảo, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 13 tại Xin-ga-po (tháng 11/2007), các nhà lãnh đạo ASEAN đã chính thức thông qua Hiến chương ASEAN. Đây là bước ngoặt trong quá trình phát triển ASEAN hơn 40 năm qua, từ một tổ chức “lỏng lẻo” thành tổ chức hợp tác liên chính phủ chặt chẽ, ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu quả hơn, có tư cách pháp nhân, nhưng không trở thành tổ chức siêu quốc gia, mà là một cộng đồng “thống nhất trong đa dạng”.

Ngày 6/3/2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký phê chuẩn Hiến chương và Việt Nam, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình Việt Nam tham gia ASEAN cũng như quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nói chung. Kể từ đây, Việt Nam đã chính thức cam kết thực hiện một văn kiện pháp lý quan trọng nhất và toàn diện nhất của ASEAN, làm cơ sở cho mọi hoạt động và ứng xử trong ASEAN. Sự kiện Việt Nam là một trong 5 nước (4 nước đầu tiên là Xin-ga-po, Bru-nây, Lào, Ma-lai-xi-a)) sớm phê chuẩn Hiến chương ASEAN thể hiện cam kết mạnh mẽ và tích cực của Việt Nam đối với ASEAN và một minh chứng quan trọng về chính sách tích cực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.

Hiến chương đánh dấu một bước tiến về khuôn khổ thể chế và bộ máy hoạt động của ASEAN theo hướng rõ ràng và khoa học hơn, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của Tổng Thư ký và Ban Thư ký ASEAN. Khuôn khổ thể chế đầy đủ và chặt chẽ hơn với quy chế phân công, phân nhiệm rõ ràng sẽ góp phần tăng hiệu lực, hiệu quả các chương trình hợp tác trong thời gian tới của ASEAN.

Năm 2009 được coi là năm quá độ để ASEAN chuyển sang hoạt động theo bộ máy tổ chức và phương thức hoạt động mới được quy định tại Hiến chương. Năm 2010 là năm ASEAN chính thức vận hành theo các quy chuẩn

73

mới của Hiến chương, tạo tiền đề và góp phần hình thành thông lệ mới cho hoạt động của ASEAN những năm tiếp theo. Hội nghị cấp cao ASEAN đầu tiên trong năm 2010 cũng được tổ chức theo hướng đó. Đây là Hội nghị giữa các nhà lãnh đạo ASEAN, không có sự tham gia của các bên đối tác, là dịp để ASEAN tập trung bàn về các vấn đề hợp tác nội khối. Hội nghị cấp cao 17 được tiến hành vào thàng 11 năm 2010 là Hội nghị cấp cao mở rộng với sự tham dự của các đối tác của ASEAN. Đây là một điểm mới so với trước khi có Hiến chương và thực hiện Hiến chương.

Với cương vị là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam chủ động đề ra chủ đề cho năm ASEAN 2010 là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. Mục tiêu là triển khai hiệu quả Hiến chương và các lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đồng thời mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các bên đối tác, cụ thể là Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức và chủ trì nhiều hội nghị lớn, trong đó có 2 hội nghị cấp cao là Cấp cao ASEAN và Cấp cao giữa ASEAN với các bên đối tác, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN với các nước đối thoại và Hội nghị Bộ trưởng của Diễn đàn khu vực ASEAN (AMM 43/PMC/ARF 17), gần 10 hội nghị cấp Bộ trưởng khác. Đồng thời, Việt Nam cũng đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Đại hội đồng Liên Nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA) và đăng cai tổ chức Đại hội đồng AIPA-31. Việt Nam đã thay mặt Hiệp hội tham dự một số diễn đàn quốc tế và khu vực khác như: Hội nghị ASEAN – Mỹ, Hội nghị G-20, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF 2010 tại Đa-vốt), triển khai ngoại giao con thoi để xử lý những vấn đề phức tạp nảy sinh, qua đó giữ vững vai trò và vị thế của ASEAN ở khu vực cũng như trên thế giới.

Năm 2010 cũng đánh dấu việc triển khai thành công đề xuất của Việt Nam về cấu trúc hợp tác ASEAN + 8 trong lĩnh vực quốc phòng (AMMD +), bao gồm 10 nước thành viên cộng với Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ôt-xtơ-rây-lia và Niu Di-lân trong việc đối phó với nhiều thách thức và mối đe dọa truyền thống cũng như phi truyền thống như cướp biển, an ninh hàng hải, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, khủng bố và tội phạm xuyên biên giới. Việt Nam cho rằng, đây là những vấn đề không một quốc gia nào có thể đơn phương giải quyết hiệu quả, vì thế đòi hỏi phải tăng cường hợp tác giữa các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á. Sự hợp tác đó không vì mục đích tạo thành khối quân sự hay liên minh quân sự hoặc nhằm vào nước thứ ba. Quan điểm giải quyết những vấn đề nêu trên bằng song phương hay đơn phương của một vài quốc gia đã trở nên thiểu số và buộc phải nhượng bộ xu thế

74

đa phương trong hợp tác giải quyết, giảm thiếu nguy cơ bùng nổ xung đột, giữ nguyên trạng thái hòa bình để không làm phức tạp thêm tình hình. Việt Nam cũng đề nghị các nước không dùng vũ lực, đánh đập hay đốt tàu cá ngư dân khi họ vì lý do khách quan vô tình đi vào hải phận của nước khác, đề xuất này được các nước ghi nhận và chỉ đạo hải quân các nước thực hiện việc xử lý vấn đề một cách nhân đạo với ngư dân.

Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, Việt Nam đề nghị ASEAN nói riêng và các nước Đông Á nói chung cần đi đầu trong các nỗ lực khu vực và toàn cầu đối phó với biến đổi khí hậu, kiến nghị thành lập một Diễn đàn Đông Á về Biến đổi khí hậu để đưa ra các biện pháp phối hợp hành động chung tại khu vực và đóng góp vào việc hình thành một khuôn khổ hợp tác toàn cầu xử lý thách thức to lớn này của nhân loại.

Về kinh tế, cũng tại các diễn đàn của năm 2010, Việt Nam thống nhất với các nước về một mạng lưới các thỏa thuận mậu dịch tự do (FTA) song phương và đa phương ngày càng sâu sắc. Cho nên có thể tiến tới thành lập Khu vực Mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong khuôn khổ ASEAN + 3 và Đối tác Kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA) giữa 16 nước tham gia Cấp cao Đông Á trong thời gian tới.

Theo đánh giá của cựu Tổng Thư ký ASEAN Ong Keng Yong, vai trò của Việt Nam, những đóng góp của Việt Nam kể từ khi gia nhập ASEAN là rất lớn và có ý nghĩa. Trước hết, nhìn vào bản đồ của Hiệp hội, Việt Nam đã thực sự gắn kết vùng phía bắc với phía nam của khu vực Đông Nam Á. Do đó, quốc gia này có một vai trò rất quan trọng. Xét về mặt địa lý và nhân khẩu học, đóng góp chính của Việt nam là đã kết hợp mọi vùng của Đông Nam Á thành một khối thống nhất. Quan trọng hơn, Việt Nam có một đặc tính riêng, đó là sự tôn trọng và tính nguyên tắc. Việt Nam luôn lắng nghe quan điểm của các nước khác trong các cuộc họp và luôn theo đổi nguyên tắc công bằng cho mọi người, cùng những phân tích sâu sắc về nguyên nhân và giải pháp hữu hiệu cho từng vấn đề. Trong xử lý quan hệ với các nước lớn, các nước đối thoại, Việt Nam có kinh nghiệm lịch sử giúp ASEAN thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, hay những đề xuất để Ấn Độ tham gia diễn đàn Đông Á, đều là những đóng góp rất có ý nghĩa, bổ sung thêm chất lượng cho những quyết sách của Hiệp hội.

Quan hệ Việt Nam - ASEAN tiếp tục được củng cố và hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực để tiến tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức đòi hỏi phải giải quyết, ví dụ như: việc phân định biên giới trên biển, vùng chồng lấn, giải quyết việc ngư dân đánh bắt

75

cá trong vùng biển của nhau, thống nhất cách giải quyết vi phạm, sửa đổi luật. Quan trọng hơn, các nước thống nhất, đoàn kết tạo thành sức mạnh tập thể khi đàm phán với Trung Quốc để xây dựng, nâng cấp Tuyên bố về ứng xử trên biển Đông (DOC) thành Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) trong thời gian tới, gần nhất là vào tháng 12-2010 ở cấp chuyên viên. Các hoạt động ngoại giao, các tuyên bố gần đây cho thấy, 4 nước có quyền lợi đang tranh chấp tại khu vực biển Đông là Việt Nam, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Phi-lip-pin đã có tiếng nói chung trong việc đấu tranh, đối thoại với Trung Quốc để tuân thủ nghiêm DOC và phải tiến hành nâng cấp thành COC, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh cũng như thực thi.

2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM

TRONG HỢP TÁC, LIÊN KẾT ASEAN

Sau 15 năm sống dưới mái nhà chung ASEAN, Việt Nam vừa đem đến cho tổ chức này một sức mạnh mới, một vị thế mới trên trường quốc tế, đồng thời cũng mang lại cho Việt Nam những cơ hội và môi trường quốc tế rất quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Năm 2010 là năm có nhiều ý nghĩa trong mối quan hệ Việt Nam - ASEAN - năm đánh dấu 15 năm Việt Nam hội nhập vào đại gia đình ASEAN và là năm Việt Nam đảm đương trọng trách Chủ tịch của Hiệp hội. Đây là dịp để Việt Nam nhìn lại quá trình hội nhập và thích ứng với khu vực, đánh giá kết quả và ý nghĩa của 15 năm hợp tác, liên kết với khu vực, điểm lại những đóng góp của mình cho sự trưởng thành và lớn mạnh của ASEAN, rút ra những kinh nghiệm và bài học trong tiến trình hợp tác đó và từ đó xây dựng cho mình chiến lược và phương hướng hội nhập khu vực một cách hiệu quả trong thời gian tới.

2.1. Trong hợp tác, liên kết nội khối ASEAN 2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị, an ninh Có thể khẳng định rằng từ khi gia nhập ASEAN, mối quan tâm lớn nhất và là mục tiêu quan trọng hàng đầu của Việt Nam là đoàn kết với các nước thành viên ASEAN để cùng nhau xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị phát triển thịnh vượng, có vai trò và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Đó cũng là mong muốn chung của các nước trong khu vực sau nhiều thập kỷ bất ổn, nghi kỵ và chia rẽ. Chính việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một đóng góp lớn cho hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác trong khu vực, làm nhân lên sức mạnh và vị thế của Hiệp hội và mở ra một trang mới trong lịch sử khu vực như chính các nhà lãnh đạo các nước thành viên ASEAN đã từng nhận xét nhân sự kiện này.

76

Một trong những đóng góp nổi bật của Việt Nam là đã tích cực ủng hộ, vận động, thuyết phục và thúc đẩy việc nhanh chóng kết nạp ba nước Lào, Mi-an- ma và Cam-pu-chia vào gia đình ASEAN, hoàn tất việc đưa ASEAN thành một tổ chức khu vực bao gồm toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á. Thắng lợi chính trị này mang một ý nghĩa lịch sử trọng đại của Hiệp hội, nó đánh dấu sự kết thúc một thời kỳ chia rẽ và đối đầu giữa các nhóm nước trong khu vực, mở ra một kỷ nguyên hòa bình, hợp tác cho toàn khu vực Đông Nam Á, tạo nền tảng thiết yếu cho ASEAN trở thành một tổ chức khu vực toàn diện, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương như ngày nay.

15 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam đã luôn tích cực, chủ động có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho việc xây dựng Hiệp hội ngày càng lớn mạnh. Đóng góp có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực an ninh, chính trị đối với Hiệp hội là Việt Nam luôn nỗ lực không mệt mỏi và trở thành một nhân tố thúc đẩy đoàn kết hợp tác trong ASEAN, kiên trì bảo vệ những nguyên tắc và giá trị truyền thống đã làm nên bản sắc và tính hấp dẫn của Hiệp hội, đó là tính cởi mở, mềm dẻo, nguyên tắc đồng thuận, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp. Trên tinh thần và nguyên tắc đó, Việt Nam đã năng động thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các nước thành viên ASEAN trên cơ sở hữu nghị, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, hướng tới một mục đích là xây dựng một ASEAN đoàn kết, đùm bọc, chia sẻ trách nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau. Việt Nam cũng đã khéo léo phối hợp cùng các nước thành viên tìm ra những phương cách linh hoạt, mềm dẻo để dàn xếp, xử lý những vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong nội bộ khu vực cũng như trong quan hệ đối ngoại của Hiệp hội góp phần duy trì đoàn kết nhất trí nội bộ ASEAN, hạn chế những tác động và sức ép từ các cường quốc bên ngoài mà vẫn thúc đẩy được quan hệ đối ngoại và nâng cao uy tín của Hiệp hội, ví dụ như vấn đề kết nạp Mi-an-ma, Cam-pu-chia, vấn đề dân chủ và hòa giải ở Mi-an-ma cũng như việc nước này tham gia ASEM, bất ổn ở Thái Lan hay vấn đề tham gia cấp cao Đông Á của Nga và Mỹ…

Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và xác định các phương hướng và khuôn khổ thể chế hợp tác ASEAN nhằm thúc đẩy hợp tác, liên kết khu vực, gắn kết nội khối cũng như thúc đẩy đối thoại hợp tác giữa ASEAN với các đối tác ngoài khu vực. Đáng chú ý là sự đóng góp của Việt Nam trong việc xây dựng Tầm nhìn 2020 và sau đó là đề nghị mở rộng Tầm nhìn 2020 không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực chính trị, chuyên ngành và đối ngoại. Năm 1998, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng của khu vực, Việt Nam đã chủ trì thành công Hội nghị Cấp

77

cao ASEAN 6 với việc thông qua Chương trình hành động Hà Nội nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020. Những cố gắng đó đã giúp tăng cường sự liên kết hợp tác trong Hiệp hội, củng cố niềm tin vào sự phát triển của Hiệp hội và góp phần giúp ASEAN vượt qua bối cảnh khó khăn đó. Tiếp đó, từ tháng 7-2000 đến tháng 7-2001, Việt Nam hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Việt Nam đã tổ chức và chủ trì thành công Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM- 34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 8 (ARF-8), v.v…

Với vai trò Chủ tịch của Việt Nam, ASEAN đã phê chuẩn Nghị định thư thứ hai của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, thông qua Quy chế của Hội đồng Tối cao TAC và tổ chức cuộc họp đầu tiên của Hội đồng trong dịp AMM 34; lần đầu tiên ASEAN đã tiến hành tham khảo trực tiếp với năm cường quốc hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp định SEANWFZ. Trong thời gian đó, tiến trình ARF tiếp tục tiến triển với việc thông qua một số tài liệu quan trọng như Tài liệu qui định về chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch ARF, Tài liệu về qui chế đăng ký chuyên gia ARF và Tài liệu về khái niệm và nguyên tắc của ngoại giao phòng ngừa. Dấu ấn trong thời gian Việt Nam đảm dương chức Chủ tịch ASC và ARF cũng được ghi nhận với việc thông qua Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, lập đường dây nóng ở các cấp lãnh đạo ASEAN, cải tiến hình thức, lề lối làm việc để ASEAN hoạt động thực chất và hiệu quả hơn. Việt Nam tỏ rõ sự chủ động, tích cực đóng góp vào sự ra đời của Tuyên bố Bali-II về xây dựng Cộng đồng ASEAN, Chương trình hành động Viên Chăn (VAP), các kế hoạch về xây dựng từng trụ cột của Cộng đồng ASEAN. Việt Nam đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (sớm hơn so với kế hoạch của Tuyên bố Bali-II năm 2003). Việt Nam tham gia tích cực vào việc soạn thảo, ký kết Hiến chương ASEAN 2007. Việt Nam là một trong năm quốc gia thành viên phê chuẩn bản Hiến chương này, đồng thời góp phần đẩy nhanh việc đưa Hiến chương vào thực thi. Việt Nam là nước thứ hai cử đại sứ, đại diện thường trực trong Ủy ban các Đại diện thường trực về ASEAN và sớm lập phái đoàn đại diện bên cạnh Ban thư ký ASEAN.

Năm 2010 với tư cách là chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã xác định đây là năm bản lề cho tiến trình xây dựng Cộng đồng vào năm 2015. Vì vậy, Việt Nam đã triển khai và thúc đẩy mạnh mẽ các sáng kiến và kế hoạch hành động cụ thể hướng tới xây dựng Cộng đồng. Chủ đề của năm chủ tịch ASEAN 2010 là “Cộng đồng ASEAN-từ tầm nhìn tới hành động” đã thể hiện rõ quyết tâm và

78

những nỗ lực của Việt Nam thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN bằng những hành động thực tế. Việt Nam đã thúc đẩy văn hóa thực thi trong ASEAN bằng những biện pháp cụ thể như tăng cường cơ chế giám sát triển khai các thỏa thuận, kế hoạch và lộ trình xây dựng Cộng đồng, cải tiến phương thức làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động và sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy của ASEAN. Theo đề nghị của Việt Nam, tại Hội nghị cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội (4/2010) ASEAN đã lần đầu tiên tổ chức phiên họp toàn thể của lãnh đạo các nước ASEAN với sự tham dự của các bộ trưởng và các quan chức cao cấp phụ trách 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN nhằm thảo luận phương hướng đẩy nhanh thực hiện lộ trình xây dựng Cộng đồng. Cũng theo sáng kiến của Việt Nam, Hội nghị chính thức lần đầu tiên giữa lãnh đạo ASEAN và đại diện Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) đã được tổ chức thành công nhằm thiết lập và thúc đẩy sự phối giữa hai kênh lập pháp và hành pháp trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN.

Dưới sự chủ trì của Việt Nam, Hội nghị cấp cao ASEAN 17 được tổ chức cuối tháng 10 tại Hà Nội thực sự là một dấu mốc trên con đường hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Trong số những Tuyên bố và văn kiện được xây dựng và thông qua trong năm chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam, Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN là dự án lớn nhất mà các nước thành viên ký kết và cùng triển khai thực hiện nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở, sự liên kết giữa các cơ chế trong khu vực cũng như sự giao lưu giữa nhân dân các nước. Đây là văn kiện bản lề cho việc thúc đẩy hội nhập, liên kết khu vực và hình thành Cộng đồng ASEAN vào 2015. Việt Nam đã chủ trì Nhóm đặc trách của ASEAN hoạt động khẩn trương trong vòng một năm qua để hoàn tất xây dựng Bản Kế hoạch tổng thể về Kết nối này. Có thể nói trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2010, tinh thần trách nhiệm, uy tín và sự năng động của Việt Nam đã có những đóng góp nổi bật vào việc thúc đẩy sự đoàn kết hợp chặt chẽ hơn tác trong ASEAN, đồng thời nâng cao uy tín, vị thế và sức hấp dẫn của ASEAN trên trường quốc tế.

Trong lĩnh vực hợp tác an ninh và duy trì hòa bình ổn định khu vực, Việt Nam kiên định và nỗ lực thúc đẩy nguyên tắc giải quyết hòa bình các mâu thuẫn và bất đồng trong khu vực thông qua đối thoại, thúc đẩy hợp tác giải quyết những vấn đề biên giới lãnh thổ và những vấn đề khác có khả năng gây căng thẳng với các nước trong khu vực. Với phương châm đó, Việt Nam đã cơ bản giải quyết xong việc phân định biên giới lãnh thổ trên đất liền cũng như trên biển với tất cả các nước láng giềng ASEAN và ký kết các thỏa thuận hợp tác về

79

biên giới với các nước này. Điều này không những góp phần vào sự ổn định khu vực mà còn củng cố tình hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN.

Trên bình diện an ninh khu vực, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN xây dựng và thúc đẩy phát huy tác dụng của các cơ chế, diễn đàn an ninh khu vực đã có, đồng thời tích cực đưa ra và triển khai các sáng kiến an ninh mới nhằm kiến tạo và hoàn thiện một cấu trúc an ninh khu vực đa tầng nấc ở khu vực, tạo ra nhiều cơ hội hơn cho việc bảo đảm hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương.

Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn ARF, một cơ chế đối thoại quan trọng về an ninh khu vực. Trong quá trình hoạt động của diễn đàn này, Việt Nam đã đề xuất nhiều sáng kiến, tham gia soạn thảo các văn bản và chủ trì thành công nhiều hoạt động của ARF. Cụ thể là Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ARF (2000-2001), Phó Chủ tịch ARF (2008- 2009), chủ trì các hội nghị theo chủ đề của Diễn đàn các năm 2001-2002, 2008- 2009. Việt Nam cũng chủ động đề xuất và phối hợp thực hiện các hội thảo theo chuyên đề trong ARF như Hội thảo thay đổi nhận thức trong chính sách an ninh (Mông Cổ, 2005), Hội thảo về phòng chống cúm gia cầm (Hà Nội, 2006). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã đi đầu trong tiến trình cải cách bộ máy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hợp tác trong ARF. Trong tiến trình ARF, Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các thành viên ASEAN đấu tranh giữ vững các nguyên tắc của ARF, kiên trì vai trò cầm lái tiến trình ARF của ASEAN theo những bước đi và lộ trình phù hợp với tình hình khu vực trên cơ sở đồng thuận và tiệm tiến. Với tư cách Chủ tịch ARF năm 2010, Việt Nam chủ động quan tâm thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa, phối hợp cùng các nước thảo luận và thúc đẩy tiến trình ARF, hướng tới một sự đồng thuận cao trong việc giải quyết những vấn đề chính trị- an ninh phức tạp và nhạy cảm trong khu vực như tiến trình dân chủ ở Mi-an-ma, vấn đề xung đột biên giới Thái Lan-Cam-pu-chia, vấn đề biển Đông. Hội nghị ARF -13 tại Hà Nội cũng đã thông qua Tuyên bố của Chủ tịch ARF. Chủ nhà Việt Nam cũng đã đề xướng và thúc đẩy việc xây dựng Kế hoạch hành động Hà Nội thực hiện Tuyên bố tầm nhìn ARF bao gồm nhiều lĩnh vực hợp tác, trong đó đề ra những bước đi cụ thể cho cả tiến trình phát triển của diễn đàn. Qua đó, đóng góp thiết thực cho việc xây dựng lòng tin giữa các nước trong khu vực, duy trì hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ngoài ASEAN tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC) và cùng các nước ASEAN sửa đổi, bổ

80

sung, thúc đẩy phát huy tác dụng của TAC như một văn kiện nền tảng mang tính chỉ đạo quan hệ giữa các nước trong khu vực cũng như với các đối tác ngoài khu vực, đồng thời có tác dụng như là công cụ ngoại giao phòng ngừa của ASEAN. Bên cạnh đó, Việt Nam đã phối hợp cùng các nước soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao Hiệp ước TAC trên cơ sở đảm bảo cho nó phát huy tác dụng như một cơ chế tư vấn và hòa giải những mâu thuẫn và xung đột có ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định khu vực. Việt Nam tham gia ký kết và phê chuẩn ngay từ đầu Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) năm 1995. Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy phát huy tác dụng của SEANWFZ, chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến của ASEAN với 5 cường quốc có vũ khí hạt nhân về một số nội dung trong Nghị định thư và cùng các nước ASEAN đang tích cực vận động các nước này sớm tham gia vào văn kiện này để nó trở thành cơ sở bảo đảm cho một Đông Nam Á hòa bình và phi hạt nhân.

Để giải quyết những căng thẳng, tranh chấp ở biển Đông, Việt Nam một mặt kiềm chế và kiên định lập trường giải quyết thông qua thương lượng hòa bình, mặt khác đã chủ động phối hợp cùng Phi-lip-pin và các nước ASEAN khác soạn thảo và đệ trình dự thảo COC (7- 1999) và trên cơ sở đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi tới ký kết Tuyên bố về cách ứng xử ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Với sự nỗ lực thúc đẩy của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch ARF 2010, ASEAN và Trung Quốc đã đi tới nhất trí sẽ nhóm họp cùng nhau vào cuối năm 2010 để thảo luận xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) mang tính chất ràng buộc về mặt pháp lý. COC ra đời sẽ là công cụ hữu hiệu để giữ gìn hòa bình cho khu vực và là một bước tiến lớn của hợp tác an ninh khu vực với trách nhiệm cao và sự đóng góp to lớn của Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN 2010 của mình, Việt Nam đã đưa ra và triển khai lần đầu nhiều sáng kiến an ninh quan trọng được các nước thành viên trong và ngoài Hiệp hội đánh giá rất cao và hưởng ứng tích cực. Với sáng kiến và những nỗ lực to lớn của Việt Nam, lần đầu tiên Hội nghị ADMM+ đã được tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 11 và 12/10/2010 với chủ đề "ADMM+: Hợp tác chiến lược vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực". Đây là một kênh đối thoại mới và là diễn đàn mở giữa các bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN với lãnh đạo bộ quốc phòng 8 nước đối tác của ASEAN, trong đó bao gồm hầu hết các cường quốc khu vực như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… để bàn thảo về những vấn đề liên quan tới an ninh khu vực góp phần kiến tạo sự ổn định và hòa bình cho một khu vực đang có những biến động rất nhanh

81

chóng và phức tạp về mặt an ninh. Hội nghị đã thông qua một Tuyên bố chung xác lập sự ra đời và phương hướng hoạt động của một cơ chế hợp tác khu vực thiết thực và cụ thể hơn, đồng thời xác định 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên trong khuôn khổ ADMM+ đó là hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, an ninh biển, quân y, chống khủng bố và các hoạt động gìn giữ hòa bình và bàn thảo nhiều vấn đề an ninh quan trọng khác đang nổi lên trong khu vực.

Tại Hội nghị này, lãnh đạo bộ quốc phòng 18 nước đã thống nhất giải quyết những mâu thuẫn và tranh chấp bằng biện pháp phi bạo lực, cam kết cùng nhau hợp tác, đối thoại giải quyết những khác biệt để xây dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau với một mục tiêu chung là bảo đảm sự ổn định và thịnh vượng chung cho khu vực. Đây được coi là một thắng lợi ngoại giao lớn của Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung bởi lần đầu tiên đã tạo lập được một cơ chế đối thoại và hợp tác quốc phòng cấp cao nhất giữa ASEAN với tất cả các cường quốc ở châu Á - Thái Bình Dương nhằm kiến tạo và duy trì hòa bình cho khu vực. Đó là một đóng góp rất cụ thể và có ý nghĩa của Việt Nam đối với hòa bình và an ninh khu vực.

Theo sáng kiến của Bộ Công an Việt Nam được nêu ra trong cuộc họp Hội nghị Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN lần thứ 3 (14-1-2010), Việt Nam đã lần đầu tiên tổ chức thành công Hội nghị “Những người đứng đầu Cơ quan An ninh các nước ASEAN” (MACOSA) tại Hà Nội từ ngày 28-9 đến 1- 10-2010. MACOSA là cơ chế tham vấn, hợp tác an ninh cấp cao nhằm trao đổi một cách bình đẳng và thực chất về các vấn đề an ninh khu vực và quốc tế quan trọng, bàn về hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực, đồng thời thống nhất những biện pháp nhằm đối phó với những vấn đề an ninh chung trong khu vực, nhất là những thách thức an ninh phi truyền thống, hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN hòa bình và thịnh vượng. Dưới sự chủ trì của Việt Nam, Hội nghị MACOSA lần thứ nhất đã thông qua những mục đích, nguyên tắc và các nội dung lớn về hợp tác an ninh trong ASEAN, tạo nền tảng bền vững cho việc xây dựng một cơ chế hợp tác an ninh chặt chẽ, hiệu quả hơn cho khu vực. Sáng kiến MACOSA và việc tổ chức thành công Hội nghị MACOSA lần thứ nhất đã góp phần tăng cường những nền tảng thiết chế và thực tiễn cho việc bảo đảm an ninh khu vực, làm đậm thêm những đóng góp mang tính dấu ấn của Việt Nam trong năm Chủ tịch ASEAN 2010.

Việt Nam cũng đã đề xuất cơ chế hợp tác cứu trợ thảm họa và hỗ trợ ngư dân trên biển, đồng thời kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa các nước ASEAN nhằm đối phó với những mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang nổi lên đáng

82

lo ngại trong khu vực. Các nước đã nhất trí với đề xuất của Việt Nam về việc tăng cường hợp tác trong hỗ trợ nhân đạo đối với người và tàu thuyền bị nạn trên biển như một biện pháp thiết thực nhằm cụ thể hóa tinh thần giúp đỡ lẫn nhau của ASEAN.

Trong quá trình xây dựng ý tưởng Cộng đồng chính trị an ninh ASEAN (APSC), Việt Nam đã chủ động và tích cực đóng góp quan trọng về nội dung, đưa ra một số sáng kiến trong việc soạn thảo các thể chế APSC. Việt Nam thể hiện rõ vai trò là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ bản, định hướng phát triển đúng của ASEAN, nhất là nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp, thúc đẩy triển khai tiến trình vận hành APSC theo hướng phù hợp với bối cảnh khu vực nhưng vẫn bảo đảm cho APSC phát huy hiệu quả tốt nhất trong việc xây dựng và thúc đẩy môi trường an ninh cho khu vực. Việt Nam đã tích cực tham gia vào việc hoàn thiện chương trình hành động về APSC và đăng cai tổ chức Hội nghị các quan chức cấp cao (SOM) về APSC. Chương trình hành động APSC đã tiếp thu quan điểm an ninh toàn diện do Việt Nam đề xuất, và Việt Nam đã nỗ lực vận động để đưa vào nội dung Chương trình hành động quy định việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự từ bên ngoài vào dưới bất kỳ hình thức nào, đặc biệt là các quốc gia thành viên không được cho phép dùng lãnh thổ của mình để tiến hành các hoạt động chống phá các quốc gia thành viên khác. Điều này thể hiện tinh thần trách nhiệm cao và ý thức đoàn kết cộng đồng của Việt Nam, củng cố sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau và đó là nền tảng cho ổn định khu vực.

2.1.2. Trên lĩnh vực hợp tác và liên kết kinh tế: Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện các cam kết hội nhập và liên kết kinh tế trong ASEAN theo Hiệp định CEPT/AFTA, nỗ lực thúc đẩy sự gắn kết chặt chẽ về kinh tế giữa các quốc gia thành viên, hướng tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.

Chỉ một năm sau khi gia nhập ASEAN, năm 1996, Việt Nam đã công bố đưa 875 mặt hàng và năm 1997 đưa thêm 621 mặt hàng vốn đã có thuế suất bằng 0-5% hoặc nhỏ hơn 20% vào thực hiện CEPT/AFTA. Trong hai năm tiếp theo, Việt Nam tiếp tục đưa 3.582 mặt hàng vào danh mục trên, đồng thời trình danh mục các mặt hàng nhạy cảm của mình bao gồm 10 nhóm mặt hàng chính, xúc tiến đơn giản hóa một bước các biện pháp phi quan thuế. Theo đúng cam kết hội nhập AFTA, đến năm 2003 Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc thực hiện CEPT với 97% tổng số dòng thuế giảm xuống mức thuế suất tối đa là 20%, và đến năm 2006 thì mức thuế suất tiếp tục được cắt giảm xuống 0-5% với hơn

83

5000 dòng thuế17. Tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 39, Việt Nam cũng đã trình Kế hoạch tổng thể hội nhập ngành dịch vụ hậu cần, và để thực hiện Kế hoạch đó, Việt Nam đã ký cam kết mở cửa dịch vụ trong khuôn khổ AFAS trên 6 lĩnh vực.

Đến năm 2010, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho gần 10.000 dòng thuế xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5.488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%18. Việt Nam đã cơ bản hoàn thành cắt giảm thuế quan theo Hiệp định CEPT/AFTA; đạt mục tiêu AFTA đã định sau mười năm (sớm hơn dự kiến 5 năm). Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu vực nhưng với kết quả đó, Việt Nam được đánh giá là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Điều đó góp phần tăng cường liên kết kinh tế nội khối, đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất khu vực có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Việt Nam cũng chú trọng tham gia một cách chủ động, tích cực và toàn diện vào tiến trình tự do hóa và liên kết ASEAN trên các lĩnh vực khác từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, tài chính tiến tệ, công nông nghiệp, giao thông vận tải, năng lượng, viễn thông, đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng.

Tuy Việt Nam đã cố gắng thực hiện tốt lộ trình hội nhập kinh tế khu vực, nhưng do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh còn nhiều hạn chế, đi đôi với chính sách bảo hộ những mặt hàng có sức canh tranh thấp và nhạy cảm nên Việt Nam gặp không ít khó khăn trong hội nhập CEPT/AFTA và phần nào hạn chế tính hiệu quả của sự hội nhập và liên kết kinh tế của Việt Nam trong ASEAN.

Cùng với việc thực hiện đúng cam kết trong khuôn khổ AFTA, Việt Nam cũng đã tích cực đưa ra và thúc đẩy triển khai thực hiện các sáng kiến, các chương trình hợp tác liên kết kinh tế nội khối khác như Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (AFAS), “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN" (AICO) và Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Sáng kiến kết nối ASEAN. Việt Nam cũng đã đưa ra sáng kiến quan trọng về hợp tác phát triển kinh tế các vùng nghèo liên quốc gia dọc hành lang Đông - Tây (WEC) và đóng góp tích cực vào các chương trình dự án lớn của ASEAN như Sáng kiến

17 Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế: Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008, tr.169 18 Bài viết của Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng nhân dịp Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 42 (AEM-42) tại Việt Nam tháng 8/2010. 84

hội nhập ASEAN nhằm hỗ trợ các thành viên mới (IAI- Việt Nam 2001), các sáng kiến hợp tác tiểu vùng như Chương trình hợp tác phát triển tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Ủy hội sông Mê Công (MRC), Hợp tác ASEAN về phát triển lưu vực sông Mê Công (AMBDC), Tam giác phát triển Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác 4 nước Cam-pu-chia, Lào, Việt Nam và Mi-an-ma (CLMV)...

Với sự cố gắng của chủ nhà Việt Nam, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 16 tại Hà Nội (4/2010), các nhà lãnh đạo ASEAN đã ra “Tuyên bố về phục hồi và phát triển bền vững” nêu rõ quyết tâm củng cố và xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Lần đầu tiên, ASEAN đưa ra một mô hình phát triển Cộng đồng Kinh tế ASEAN dựa trên sự hài hòa của nhiều chính sách từ kinh tế đến xã hội, môi trường, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Cũng trong năm Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy việc đưa vào thực hiện nhiều hiệp định quan trọng liên quan đến AEC đang bị chậm tiến độ như Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), Hiệp định Đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận tải hàng không, Hiệp định khung ASEAN về hàng quá cảnh… Trên cương vị Chủ tịch Nhóm đặc trách về Kết nối ASEAN, Việt Nam cũng nỗ lực cùng ASEAN tập trung hoàn tất xây dựng Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN, đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả Kế hoạch công tác IAI giai đoạn II nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự liên kết kinh tế chặt chẽ hơn giữa các quốc gia thành viên, nhất là ở khu vực Tiểu vùng Mê Công.

Trên lĩnh vực thương mại và đầu tư: Từ khi gia nhập ASEAN, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. Hiện ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU). Còn ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hóa lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ đứng sau Trung Quốc. So với năm 2002, thương mại hai chiều ASEAN và Việt Nam đã tăng hơn 3 lần, đạt gần 30 tỷ USD vào năm 2008, chiếm 21% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang ASEAN là 28,4% và nhập khẩu là 27%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 1,1 tỷ USD năm 1995 lên mức 6,3 tỷ USD năm 2006 và lên tới 8,9 tỷ USD năm 200919.

19 Tổng hợp số liệu từ trang Web của Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn 85

Trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng trị giá trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và các nước ASEAN tăng 23,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 18% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cũng theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu từ thị trường các nước ASEAN hơn 7,58 tỷ USD, giảm 28,3% so với 6 tháng năm 2009 và chiếm tới 19,6% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước từ tất cả các thị trường trên thế giới20.

Những đối tác thương mại lớn nhất trong ASEAN của Việt Nam là Sinhgapore với tổng trị giá hàng hoá trao đổi giữa hai nước là 3,25 tỷ USD. Tiếp theo là Thái Lan: 3,12 tỷ USD và Malaixia: 2,43 tỷ USD.

Bảng : Tỷ trọng và thứ hạng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của

các nước thành viên ASEAN trong năm 2009 với Việt Nam

Thái

Phi-lip-

Cam-pu-

Tỷ trọng &

Xingapo

Malaixia

Inđônêxia

Lào Myanmar Brunây

Lan

pin

chia

thứ hạng

Xuất khẩu

Tỷ trọng so với tổng các

24,2

14,7

19,6

8,7

17,0

13,3

2,0

0,4

0,1

thị trường ASEAN của

Việt Nam (%)

Thứ hạng

1

4

2

6

3

5

7

8

9

Nhập khẩu

Tỷ trọng so với tổng các

thị

trườngASEAN của

30,8

32,7

18,1

11,2

3,6

1,3

1,8

0,5

0,01

Việt Nam (%)

Thứ hạng

2

1

3

4

5

7

6

8

9

Xuất nhập khẩu

Tỷ trọng so với tổng các

28,2

25,3

18,3

10,0

8,6

5,8

1,8

0,4

0,04

thị

trườngASEAN của

Việt Nam (%)

Thứ hạng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cho tới nay, ASEAN cũng đang là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Theo số liệu của Cục Đầu tư

20 Tổng hợp số liệu từ trang Web của Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn 86

nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến quý 2 năm 2010, trừ Mi-an-ma thì tất cả các nước ASEAN đã có dự án đầu tư được cấp phép tại Việt Nam, trong đó, những thành viên ASEAN có vốn đầu tư lớn vào Việt Nam là Xin-ga- po (trên 17 tỷ USD), Ma-lai-xia (18 tỷ USD) và Thái Lan (5,6 tỷ USD), Bru- nây (4,6 tỷ USD). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ ASEAN vào Việt Nam tập trung trong các lĩnh vực dịch vụ, giao thông vận tải, địa ốc, bưu điện, khách sạn du lịch, tài chính ngân hàng, gia công hàng may mặc, chế biến lương thực- thực phẩm, văn hoá - giáo dục21.

Ngược lại, Việt Nam cũng có hàng trăm dự án đầu tư vào các nước ASEAN với số vốn hàng tỷ USD. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng thúc đẩy đầu tư vào các nước ASEAN, nhất là các nước Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma. Năm 2008, 2009 Việt Nam đứng đầu về đầu tư tại Lào với 200 dự án với tổng số vốn 2,1 tỷ USD trên các lĩnh vực: công, nông, lâm nghiệp. Đầu tư Việt Nam vào Cam-pu-chia cũng không ngừng tăng mạnh. Tính đến hết năm 2009 có 63 dự án đầu tư tại Cam-pu-chia, với tổng số vốn đăng ký đạt gần 900 triệu USD, quy mô trung bình đạt 14,2 triệu USD/dự án. Việt Nam trở thành nhà đầu tư lớn thứ 3 tại Cam-pu-chia. Trong khi vốn FDI của ASEAN chảy vào Việt Nam có phần bị ngưng trệ bởi khủng hoảng tài chính thì các tập đoàn lớn Việt Nam lại không ngừng xúc tiến đầu tư sang các nước láng giềng ASEAN22.

2.1.3. Trong những lĩnh vực hợp tác chuyên ngành khác Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác phong phú khác của ASEAN như văn hóa - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, phòng chống tội phạm, bảo vệ môi trường, đối phó với biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai và hỗ trợ nhân đạo, lao động, thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ, trẻ em và người lao động nhập cư,…

Việt Nam đã phối hợp với các nước ASEAN đẩy mạnh hợp tác khoa học công nghệ trên 8 lĩnh vực chủ yếu là sản xuất lương thực,khí tượng và vật lý địa cầu, vi điện tử và công nghệ thông tin, công nghệ sinh hóa, vật liệu, năng lượng mới, biển và môi trường biển, phát triển cơ sở hạ tầng và tiềm lực KHCN23.

Một năm sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tham gia Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường (ASOEN), và từ đó tới nay Việt Nam

21 Nguồn: http://www.mpi.gov.vn 22 Nguồn: http://vccinews.vn/?page=detail&folder=165&Id=733 23 Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế, Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008, tr.175. 87

đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng như: a) Sáng kiến tại Hội nghị Bộ trưởng môi trường ASEAN phi chính thức lần thứ 4 về việc cơ cấu lại các nhóm công tác dưới ASEAN gồm: Nhóm công tác ASEAN về môi trường biển và đới bờ, Nhóm công tác ASEAN về bảo tồn đa dạng sinh học, Nhóm công tác ASEAN về các công ước đa phương về môi trường, Nhóm đặc nhiệm kỹ thuật về khói mù; b) Sáng kiến tổ chức Diễn đàn ASEAN về môi trường năm 1999; c) Sáng kiến tổ chức Hội nghị thúc đẩy cộng tác để thực hiện Hiệp định ASEAN về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới năm 2006. Năm 2008, Việt Nam đã chủ trì Hội nghị Bộ trưởng môi trường ASEAN và ASEAN+3, đồng thời nêu ra sáng kiến và đăng cai chủ trì Hội nghị Bộ trưởng môi trường Đông Á lần đầu tiên và nêu ra đề xuất Xây dựng Trung tâm giáo dục môi trường Đông Á... Qua đó, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố về ứng phó chung đối với biến đổi khí hậu, “tái khẳng định mạnh mẽ cam kết tăng cường các nỗ lực ứng phó ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu với biến đổi khí hậu và các thách thức xuyên quốc gia khác”, tin tưởng rằng Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu (ACCI) sẽ góp phần tăng cường sự hợp tác phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, quản lý nguồn nước.

Việc Việt Nam đề nghị công nhận trình độ tay nghề của người lao động trong tất cả các nước ASEAN theo tiêu chuẩn chung là một biện pháp quan trọng nhằm mở rộng sự dịch chuyển lao động trong nội khối nhằm tăng tính cạnh tranh về lao động, tích cực giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp và đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động của các nền kinh tế thành viên.

Trong tiến trình thành lập Cộng đồng ASEAN, Việt Nam đã đề xuất và thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) như là một trong 3 trụ cột của Cộng đồng ASEAN nhằm đưa ASEAN trở thành một cộng đồng các xã hội chia sẻ và đùm bọc lẫn nhau. Trong năm Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam tích cực phối hợp với các nước ASEAN thúc đẩy triển khai kế hoạch tổng thể ASCC bao gồm 6 lĩnh vực trọng tâm: phát triển con người, phúc lợi và bảo hiểm xã hội, các quyền và bình đẳng xã hội, đảm bảo môi trường bền vững, tạo dựng bản sắc ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển. Việt Nam đã đóng góp tích cực trong hoạt động của ASCC thông qua việc đưa ra các sáng kiến và tích cực thực hiện các cam kết trong hoạt động chuyên ngành như tổ chức Hội nghị Bộ trưởng về lao động ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng về phúc lợi xã hội ASEAN; Uỷ ban phụ nữ ASEAN. Việt Nam cũng đã tổ chức thành công Hội nghị Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN lần thứ ba (ASCC 3) vào ngày 7/4/2010 và lần thứ 4 vào tháng 8/2010. Qua đó góp phần

88

thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện Kế hoạch tổng thể của Cộng đồng Văn hoá – Xã hội ASEAN.

2.2. Trong hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài Với sự năng động, nhạy bén, tích cực và uy tín ngày càng cao, cùng với mối quan hệ quốc tế rộng rãi của mình, Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các mối quan hệ đối ngoại và hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, đưa các quan hệ đối tác lên tầm cao mới và đi vào chiều sâu trên nhiều lĩnh vực như ASEAN +1, ASEAN+3, APEC, ASEM, Cấp cao Đông Á, G20, Liên Hợp Quốc,…

Sự tham gia một cách có hiệu quả của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở rộng, định hình phương hướng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác truyền thống, quan trọng và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần quan trọng tăng cường mối quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ và EU. Việt Nam đã đảm nhận vai trò điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với nhiều đối tác quan trọng như: Nhật Bản, Nga, Mỹ, Ốt-xtơ-rây-lia, Ca-na-đa và hiện tại là Trung Quốc. Qua đó Việt Nam đã phát huy vai trò là cầu nối tích cực tăng cường và nâng tầm các mối quan hệ giữa ASEAN với các đối tác này. Trong mối quan hệ với các đối tác lớn, Việt Nam được đánh giá là nhân tố giữ vai trò cân bằng trong quan hệ của ASEAN với các nước này. Với vai trò, vị thế và sự nhạy cảm của mình, Việt Nam đã có vai trò quan trọng trong việc khéo léo xử lý những vướng mắc tồn tại trong mối quan hệ của ASEAN với các đối tác lớn, qua đó vừa giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong ASEAN, vừa góp phần nâng tầm quan hệ với các đối tác. Những ví dụ điển hình về điều này là sự tham gia của Mi-an-ma vào ASEM, việc xử lý mối quan hệ với Trung Quốc về vấn đề biển Đông, việc cân bằng mối quan hệ giữa ASEAN với Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản.

Bên cạnh việc đã được phân công giữ vai trò điều phối quan hệ giữa ASEAN với các đối tác khác nhau, Việt Nam đã tổ chức và chủ trì thành công các diễn đàn, hội nghị cấp cao đa phương giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài như Diễn đàn ARF (2001, 2010), Cấp cao ASEM 5 (2004), Cấp cao APEC (2006), đồng Chủ tịch Cấp cao ASEAN - Mỹ lần thứ 2 (9/2010). Nhân Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 17 (10/2010) tại Hà Nội, Việt Nam chủ trì Cấp cao Đông Á-5, Cấp cao ASEAN - Liên hợp quốc, Cấp cao ASEAN+3 và các Cấp cao ASEAN+1. Trong dịp này diễn ra một loạt cuộc đối thoại ở cấp cao giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, đưa quan hệ giữa ASEAN với các đối

89

tác lớn lên một tầm cao mới. Qua đây, Việt Nam có đóng góp lớn cho việc cải thiện hình ảnh, uy tín và vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.

Trong hợp tác đa phương giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, Việt Nam đã đưa ra và thúc đẩy nhiều sáng kiến hợp tác quan trọng nhằm thúc đẩy các mối quan hệ và đưa các mối quan hệ đi vào thực chất, được các thành viên ASEAN và các đối tác đánh giá cao. Việt Nam cũng có nhiều đóng góp nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của ASEAN tại các tiến trình hợp tác đa phương khu vực như: ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), ADMM+, qua đó, góp phần đề cao vai trò, vị thế quốc tế của Hiệp hội.

Việt Nam không chỉ quan tâm thúc đẩy và làm sâu sắc các mối quan hệ của ASEAN với các đối tác đã được thiết lập, mà còn chú trọng thúc đẩy mở rộng các mối quan hệ đối ngoại và hợp tác của ASEAN với những đối tác tiềm năng khác trên khắp thế giới. Trong năm Chủ tịch ASEAN 2010 của Việt Nam, Ca-na-đa và Thổ Nhĩ Kỳ đã ký văn kiện gia nhập Hiệp ước TAC, và 27 nước tham gia TAC ký Nghị định thư thứ 3 sửa đổi Hiệp ước này tạo điều kiện để EU có thể sớm tham gia. Cũng trong năm 2010, các lãnh đạo ASEAN đã đi tới quyết định chính thức chào đón Mỹ và Nga tham gia Cấp cao Đông Á bắt đầu từ 2011 theo mức độ và hình thức phù hợp, và Việt Nam đã mời ngoại trưởng hai nước này, đại diện cho người đứng đầu của hai nước tham dự Cấp cao Đông Á được tổ chức tại Việt Nam cuối tháng 10/2010 với tư cách khách mời đặc biệt của Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch Đông Á.

Là Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam đã đại diện cho ASEAN tham dự Hội nghị thượng đỉnh nhóm G20 tại Ca-na-đa và Hàn Quốc. Việt Nam tích cực tham vấn các nước ASEAN, xây dựng Tài liệu quan điểm chung của các nước ASEAN về các nội dung chính được bàn tại Hội nghị G20 lần này như tình hình và triển vọng kinh tế thế giới, khuôn khổ tăng trưởng mạnh mẽ, bền vững và cân bằng, chống chủ nghĩa bảo hộ và thúc đẩy thương mại và đầu tư toàn cầu, các vấn đề phát triển, tăng cường sự phối hợp và hợp tác quốc tế... Việt Nam đã đề xuất thiết lập một cơ chế phối hợp chính sách chặt chẽ hơn giữa G20 và ASEAN, coi đây là hình mẫu thử nghiệm để các nhóm nước ngoài G20 tăng cường sự tương tác và phối hợp chính sách với G20. Đề xuất này cũng như Tài liệu quan điểm của ASEAN tại Hội nghị đã được nhiều đại biểu đánh giá cao.

2.3. Thành tựu hợp tác song phương giữa Việt Nam với các nước

ASEAN

Cùng với việc đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong khuôn khổ của ASEAN, Việt Nam rất quan tâm thúc đẩy quan hệ với các quốc gia thành viên. Là các

90

quốc gia láng giềng, cùng là thành viên ASEAN, lại có sự tương đồng về nhiều mặt và gắn bó với nhau bởi những lợi ích chung nên Việt Nam và các nước thành viên ASEAN khác có cơ hội để thúc đẩy sự hợp tác năng động và cùng có lợi trên nhiều lĩnh vực.

Với Lào: Quan hệ hữu nghị đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt-Lào tiếp tục được Việt Nam chủ động củng cố và tăng cường. Quan hệ hai nước ngày càng mật thiết, không ngừng được đổi mới và đi vào chiều sâu. Các cuộc tiếp xúc từ cấp cao cho đến mọi cấp, mọi ngành, đến các địa phương được duy trì thường xuyên và mở rộng với tần suất ngày càng dày. Trên cơ sở quan hệ chính trị rất tốt đẹp, trong những năm gần đây, lãnh đạo hai nước đã chủ động thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hai nước đi vào thực chất hơn bằng cách tăng cường sự hợp tác, gắn kết về kinh tế, văn hóa, xã hội, coi đó là nhân tố gắn kết mối quan hệ hai nước một cách bền vững nhất. Các hình thức trao đổi, hợp tác hết sức phong phú và đa dạng trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ ngày càng được đẩy mạnh trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi nhưng có sự ưu đãi cho nhau phù hợp với mối quan hệ chính trị đặc biệt và sự tin cậy hoàn toàn. Bên cạnh sự ủng hộ Lào về chính trị, Việt Nam đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Lào trong phát triển kinh tế, hội nhập với khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của Lào trên trường quốc tế. Việt Nam đã hỗ trợ Lào gia nhập ASEAN và tham gia các diễn đàn và tổ chức đa phương do ASEAN là trung tâm, giúp Lào tổ chức các sự kiện lớn của ASEAN như Cấp cao ASEAN 2004, SEAGAMES 2009…

Trong quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế, trong những năm gần đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Lào ngày càng đạt được sự phát triển khả quan với tốc độ buôn bán hai chiều đạt mức tăng trưởng bình quân là 27% trong giai đoạn 2006 – 2008. Năm 2009, mặc dù suy giảm kinh tế nhưng thương mại hàng hoá song phương giữa Việt Nam và Lào vẫn đạt 417,8 triệu USD và trong quý I/2010 là 96 triệu USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước, và trong 9 tháng đầu năm 2010 đạt trên 300 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Lào với Việt Nam chiếm khoảng 16,7% tổng trị giá giao dịch ngoại thương hàng hoá của nước này. Tuy nhiên, xét trong nội khối ASEAN thì kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Lào vào Việt Nam xếp thứ 6 (cao hơn nhập khẩu từ Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Bru-nây) và chỉ chiếm 1,8% trị giá nhập khẩu hàng hoá từ tất cả các nước ASEAN vào Việt Nam. Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Lào cũng chỉ chiếm gần 2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang tất cả các nước thành viên ASEAN24. 24 Nguồn: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17645 91

Trên lĩnh vực đầu tư, Việt Nam luôn là một trong những nhà đầu tư hàng đầu tại Lào. Riêng trong hai năm 2008, 2009 Việt Nam đứng đầu về đầu tư tại Lào với 200 dự án với tổng số vốn 2,1 tỷ USD. Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công, nông, lâm nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, dịch vụ - những lĩnh vực mà Lào đang rất cần đầu tư. Mặc dù quan hệ hợp tác Việt - Lào những năm qua phát triển mạnh mẽ và gặt hái được rất nhiều thành tựu, tuy nhiên cũng còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là hiệu quả hợp tác chưa cao, quan hệ kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của hai bên cũng như với mối quan hệ chính trị đặc biệt giữa hai nước. Trong khi đó sự cạnh tranh kinh tế và địa chính trị giữa các nước bên ngoài đang diễn ra gay gắt ở Lào và các thế lực bên ngoài đang tìm cách chia rẽ mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt – Lào, hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam tại Lào.

Với Cam-pu-chia: Dù tình hình ở Cam-pu-chia có nhiều thay đổi nhưng mối quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia vẫn được củng cố và phát triển. Việt Nam đã kịp thời điều chỉnh quan hệ với Cam-pu-chia trong tình hình mới với phương châm láng giềng hữu nghị, đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm qua hai nước đã có những cố gắng lớn để giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ hai nước như vấn đề biên giới, vấn đề Việt kiều… Trên tinh thần láng giềng hữu nghị, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, hai nước đã kiên trì đàm phán, thương lượng giải quyết xong vấn đề phân định biên giới đất liền và phấn đấu đến 2012 sẽ hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên biên giới hai nước. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã xác định và ký kết thỏa thuận về phương châm chỉ đạo quan hệ hai nước với 16 chữ vàng là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Trên cơ sở quan hệ chính trị được củng cố, trong những năm gần đây quan hệ hợp tác giữa hai nước đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế, thương mại, đầu tư. Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa hai nước diễn ra thường xuyên ở mọi cấp, mọi ngành. Hợp tác kinh tế giữa hai bên diễn ra sôi động, nhất là giữa các địa phương biên giới hai nước, mậu dịch biên mậu gia tăng nhanh chóng. Cùng với hợp tác song phương, hai nước còn thúc đẩy sự liên kết hợp tác qua các khuôn khổ đa phương, tiểu vùng như Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia, hợp tác tiểu vùng sông Mê Công, Hợp tác 4 bên Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia – Mi-an-ma… Năm 2009, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt gần 1,4 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất

92

sang Cam-pu-chia trị giá 1.147 USD và nhập từ Cam-pu-chia trị giá 186 triệu USD. Chỉ trong 9 tháng năm 2010, thương mại song phương hai nước đã đạt 1,29 tỷ USD, tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2009. Cam-pu-chia là bạn hàng lớn thứ 6 và chiếm 5,8% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với ASEAN25. Đầu tư Việt Nam vào Cam-pu-chia cũng không ngừng tăng mạnh trong mấy năm gần đây. Tính đến hết năm 2009 có 63 dự án đầu tư của Việt Nam tại Cam-pu-chia, với tổng số vốn đăng ký đạt gần 900 triệu USD, đứng vị trí thứ 3 trong tổng số 50 quốc gia, vùng lãnh thổ thu hút vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam26.

Mặc dù quan hệ hai nước đang phát triển thuận lợi, nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố không ổn định bởi vấn đề biên giới lãnh thổ và bởi âm mưu chia rẽ của các thế lực bên ngoài.

Quan hệ Việt Nam - Bru-nây được thiết lập muộn cùng lúc Việt Nam gia nhập ASEAN. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước trong những năm gần đây có bước tiến triển tốt đẹp trên tinh thần hiểu biết và hữu nghị. Hai bên duy trì khá thường xuyên các cuộc tiếp xúc cấp cao và hai nước đã ký kết một số hiệp định hợp tác quan trọng như Hiệp định thương mại, Hiệp định hàng hải, Biên bản ghi nhớ về hợp tác du lịch. Hàng năm Bru-nây cấp cho Việt Nam một số học bổng đào tạo về dầu khí và tiếng Anh. Kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước còn nhỏ bé, chỉ vài triệu USD/năm, nhưng hai bên đang cố gắng cải thiện tình hình này cho tương xứng với tiềm năng của hai nước và với quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai bên. Tính đến tháng 6/2010 đầu tư của Bru-nây tại Việt Nam đạt 4,6 tỷ USD, đứng thứ 4 trong số các nước ASEAN đầu tư tại Việt Nam. Đầu tư của Bru-nây vào Việt Nam chủ yếu trong các lĩnh vực dầu khí, du lịch, bất động sản… Việt Nam hiện cũng có hàng ngàn lao động đang làm việc tại Bru-nây và con số này có thể còn tăng lên trong những năm tới.

Quan hệ Việt Nam – In-đô-nê-xia là mối quan hệ hữu nghị truyền thống được thiết lập từ năm 1955. Tuy tình hình hai nước cũng như khu vực và thế giới có nhiều biến động nhưng hai bên vẫn duy trì được mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Hai nước có nhiều quan điểm tương đồng và những lợi ích chung trong việc duy trì sự ổn định và phát triển khu vực, nâng cao vị thế của ASEAN trên thế giới. Với tư cách là quốc gia lớn nhất trong ASEAN, In-đô-nê-xia có vai trò quan trọng trong việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN và cùng với Việt Nam được coi là những nước hạt nhân

25 Nguồn: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17629 26 Nguồn: http://vccinews.vn/?page=detail&folder=165&Id=733 93

thúc đẩy sự đoàn kết hợp tác trong Hiệp hội, trung gian và cân bằng những vấn đề nảy sinh trong Hiệp hội và trong mối quan hệ của Hiệp hội với các cường quốc. Trong những năm qua quan hệ hai nước phát triển toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, duy trì sự hợp tác và phối hợp trên cả cấp độ song phương, đa phương, khu vực và quốc tế. Các chuyến viếng thăm cấp cao giữa hai nước được tiến hành thường xuyên. Hai bên đã ký kết “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ XXI”, Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa trên biển Đông năm 2003 và nhiều hiệp định hợp tác phong phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – In-đô-nê-xia năm 2008 đạt 2,5 tỷ USD. Năm 2009, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, con số này vẫn đạt xấp xỉ 2, 3 tỷ USD, trong đó In-đô-nê-xia xuất sang Việt Nam trị giá 1,546 tỷ USD và Việt Nam xuất sang In-đô-nê-xia với giá trị 748 triệu USD. In-đô-nê-xia là bạn hàng lớn thứ 4 và chiếm 10% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với ASEAN27. Ở các lĩnh vực đầu tư, du lịch và giáo dục đào tạo cũng đang tiến triển tốt đẹp. Đến hết năm 2009, In-đô-nê-xia có 22 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn ở mức 2 tỷ USD, đứng thứ 6 trong số các nước ASEAN và thứ 30 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ngược lại, con số đầu tư của Việt Nam tại In-đô-nê-xia mới ở mức 20 triệu USD28. Từ năm 2009, Chính phủ In-đô-nê-xia cũng dành nhiều chương trình đào tạo và học bổng cho cán bộ và các tổ chức của Việt Nam.

Với Malaixia: Việt Nam và Ma-lai-xia thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức ngày 30/3/1973, nhưng quan hệ hai nước chỉ bắt đầu khởi sắc từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước và ấm lên nhanh chóng sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Với sự tin cậy và hiểu biết ngày càng gia tăng, quan hệ hai nước ngày càng được củng cố và phát triển toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực cả song phương cũng như trong khuôn khổ ASEAN. Hai nước đã thiết lập quan hệ Đảng cầm quyền (1994), thành lập Hội Hữu nghị Việt - Mã, Mã - Việt ở mỗi nước (12/1994) và lập Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam – Ma-lai-xia (1995). Tháng 4/2004, hai nước đã ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21”. Trên cơ sở quan hệ chính trị tốt đẹp và thông qua hiệp thương hữu nghị, hai bên đã giải quyết được những vấn đề tồn tại giữa hai nước như việc phân định thềm lục địa và thỏa thuận khai thác chung vùng chồng lấn trên biển. Việt Nam và Ma-lai-xia cũng đã phối hợp cùng nhau trong việc khảo sát, lập hồ sơ

27 Nguồn: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17629  28 Nguồn: http://www.tbic.vn/vi/modules.php?name=News&op=viewst&sid=3488 94

và đệ trình Báo cáo chung về thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc (5/2009). Đó là những biểu hiện sinh động cho mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai nước, vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, đoàn kết và thịnh vượng chung cho khu vực. Ngoài ra, cho đến nay hai nước cũng đã ký kết gần 20 hiệp định và hàng chục biên bản ghi nhớ hợp tác trên rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển mạnh mẽ. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước trong vòng 10 năm trở lại đây đã tăng trên 600% (từ mức trên 600.000 USD năm 1999 lên đến gần 4,6 tỷ USD năm 2008, và dù gặp khó khăn nhưng vẫn đạt 4,187 tỷ USD năm 2009, chiếm 18,3% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với ASEAN. Việt Nam là bạn hàng thứ 5 của Ma-lai- xia trong ASEAN, trong khi Ma-lai-xia là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Việt Nam trên thế giới và lớn thứ 2 trong ASEAN. Đầu tư của Ma-lai-xia vào Việt Nam tăng ngoạn mục trong mấy năm gần đây, từ 1,6 tỷ USD năm 1988 tăng lên hơn 18 tỷ USD vào năm 200929. Vốn đầu tư của Ma-lai-xia vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như xây dựng, điện, nước và khí ga, cơ khí, ngân hàng… Ma-lai-xia cũng là thị trường quan trọng của lao động Việt Nam. Từ 2002 đến nay, Việt Nam đã đưa được tổng số hơn 130 nghìn lao động Việt Nam sang làm việc tại Ma-lai-xia. Quan hệ Việt Nam – Mi-an-ma vẫn luôn giữ được sự ổn định và thực sự phát triển mạnh mẽ trong ASEAN. Trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn do sự tẩy chay và cô lập của phương Tây, Mi-an-ma đã tìm thấy ở Việt Nam một người bạn tin cậy và hiểu biết lẫn nhau. Chính Việt Nam đã trợ giúp đắc lực cho Mi-an-ma gia nhập ASEAN, ASEM, hòa nhập với khu vực và quốc tế. Trong 10 năm qua, hai bên luôn duy trì các cuộc gặp cấp cao, qua đó hai nước đã thành lập Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – Mi-an-ma, đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác quan trọng về kinh tế, thương mại, đầu tư… Bên cạnh hợp tác song phương, hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN và các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác như Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, Cấp cao 4 nước Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia – Mi-an-ma.

Quan hệ kinh tế giữa hai nước tuy còn rất khiêm tốn nhưng cũng đang có những bước phát triển tích cực. Thương mại song phương hai nước đạt 71,9 triệu USD năm 2006, tăng lên xấp xỉ 100 triệu USD từ năm 2007 đến nay. Mi- an-ma chỉ chiếm 0,4% tổng kim ngạch thương mại và là bạn hàng đứng thứ 8

29 Theo: http://www.vietrade.gov.vn/abc/175-malaysia/362-quan-he-hop-tac-viet-nam--malaysia.html 95

trong ASEAN của Việt Nam30. Trong vài năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư vào Mi-an-ma, nhưng đến nay Mi-an-ma là nước duy nhất trong ASEAN chưa có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Với Phi-lip-pin: Quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp, vững chắc sau khi Việt Nam là thành viên của ASEAN. Hai bên thường xuyên duy trì các cuộc gặp cấp cao và qua đó sự tin cậy và hiểu biết ngày càng được tăng cường. Tháng 11/2002 hai bên đã ký Tuyên bố chung về Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ XXI và thời kỳ tiếp theo. Với tư cách là những bên tranh chấp, hai nước đã hợp tác một cách tích cực và xây dựng trong vấn đề biển Đông. Hai bên đã cùng nhau xây dựng và hợp tác tốt trong việc triển khai Tuyên bố ứng xử ở biển Đông (DOC) và đang thúc đẩy các bên liên quan thảo luận để sớm xây dựng và ký kết Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC). Hai bên cũng đã ký nhiều hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau. Về thương mại, kim ngạch hai chiều Việt Nam – Phi-lip-pin đạt 1,12 tỷ USD năm 2006 tăng lên xấp xỉ 2 tỷ USD trong giai đoạn 2007-2009. Hiện Phi-lip-pin là bạn hàng lớn thứ 5 của Việt Nam trong ASEAN, chiếm 8,6% tổng thương mại Việt Nam – ASEAN, trong đó Phi-lip-pin là một trong những nhà nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN cũng như trên thế giới. Phi-lip- pin cũng có hàng chục dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với số vốn khoảng vài trăm triệu USD. Xin-ga-po là quốc gia phát triển nhất trong ASEAN, do đó Việt Nam chủ trương đẩy mạnh hợp tác toàn diện với nước này, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Xin-ga-po có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý. Việt Nam có thế mạnh về tài nguyên và nhân lực, lại là nền kinh tế đang phát triển nhanh. Vì vậy, hai nước có thể bổ trợ đắc lực cho nhau để cùng phát triển. Các cuộc viếng thăm và tiếp xúc cấp cao giữa hai nước diễn ra dồn dập hàng năm và năm 2004 hai bên đã ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ XXI”, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước phát triển toàn diện. Trên cơ sở đó, năm 2005 hai nước đã ký kết Hiệp định khung về kết nối hai nền kinh tế. Ngoài ra hai bên cũng đã ký kết hàng loạt những hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau như Hiệp định thương mại (24/9/1992); Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư (29/10/1992); Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (02/3/1994)... Xin-ga-po hiện là đối tác thương mại

30 Nguồn: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17629 96

và đầu tư số 1 của Việt Nam trong ASEAN và cũng là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam trên thế giới. Ngược lại, Việt Nam cũng là thị trường lớn về hợp tác thương mại và là điểm đến hàng đầu của các nhà đầu tư Xin-ga-po. Thương mại hai chiều giữa hai nước tăng nhanh chóng qua các năm, đến năm 2009 đạt 6,324 tỷ USD.

Xin-ga-po là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN, chiếm 28,2% tổng thương mại của Việt Nam với ASEAN31. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Xin-ga-po dầu thô, máy vi tính và linh kiện, hải sản, gạo, hàng dệt may, giầy dép, cà phê, rau quả...; nhập khẩu từ Xin-ga-po xăng dầu, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, chất dẻo, kim loại, hóa chất...

Về đầu tư, Xin-ga-po luôn là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam. Tính đến nay, lượng đầu tư của Xin-ga-po vào Việt Nam đã đạt trên 17,3 tỷ USD, góp mặt trong tốp năm nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Xin-ga-po đã và đang triển khai những dự án đầu tư lớn rất hiệu quả tại Việt Nam và trở thành những dự án kiểu mẫu trong hợp tác đầu tư nước ngoài ở Việt Nam như khu công nghiệp Việt Nam – Xin-ga-po 1 và 2. Ngoài ra, quan hệ Xin-ga-po - Việt Nam còn đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận khác ở các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, xã hội. Xin-ga-po hiện là một trong những điểm đến hàng đầu của các du học sinh, sinh viên Việt Nam. Chương trình hợp tác Xin-ga-po khởi động từ năm 1992, đến nay đã có hơn 11.000 người Việt Nam tham gia vào các khóa đào tạo, các hội nghị tập huấn, các cuộc trao đổi, viếng thăm, làm việc và học tập kinh nghiệm, nhất là các khoá học về Anh ngữ và quy hoạch đô thị.

Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ Việt Nam - Thái Lan ngày càng cởi mở và năng động. Sự tin cậy cao hơn về chính trị đã dẫn tới sự đồng thuận giữa hai nước trên nhiều vấn đề song phương, khu vực và quốc tế. Hai bên đã thiết lập nhiều cơ chế hợp tác như Họp nội các chung, họp nhóm công tác chung về an ninh chính trị, họp cơ chế tư vấn hai bộ trưởng ngoại giao, hợp tác trong Tiểu vùng Mê Công… Hai nước cũng đã hợp tác giải quyết tốt vấn đề quy chế công dân của Việt kiều tại Thái Lan, vấn đề thềm lục địa và những vấn đề an ninh, hàng hải và ngư dân trên vịnh Thái Lan.

Năm 2009, kim ngạch mậu dịch Việt Nam – Thái Lan đạt 5,780 tỷ USD, trong đó, Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan đạt 1,266 tỷ USD và nhập khẩu từ Thái Lan là 4,514 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2010, kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai nước đạt 3,2 tỷ USD, tăng 28,52% so với cùng kỳ năm

31 Tổng hợp số liệu từ: http://www.vietrade.gov.vn/abc/23-singapore/20-quan-he-kinh-te-thuong-mai-voi-viet- nam.html và: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17629. 97

2009. Thái Lan là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam trong ASEAN (chỉ sau Xin- ga-po), chiếm 25,3% tổng kim ngạch thương mại Việt Nam – ASEAN. Hiện Thái Lan đứng thứ 10 trong tổng số hơn 100 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với trên 5,7 tỷ USD vốn đầu tư vào 216 dự án đang hoạt động32. Hợp tác du lịch, giáo dục, thể thao, văn hóa giữa hai nước cũng phát triển mạnh.

15 năm gia nhập ASEAN là khoảng thời gian không dài trong lịch sử 43 năm tồn tại của Hiệp hội, nhưng Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò và có những đóng góp có ý nghĩa của mình trong ASEAN. Những kết quả mà Việt Nam làm được sau 15 năm gia nhập không chỉ góp phần đưa ASEAN trở thành một tổ chức vững mạnh, ngày càng có vị thế cao trên thế giới mà còn góp phần tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.

2.4. Nguyên nhân của những thành công trong hợp tác, liên kết Việt

Nam - ASEAN

Những thành tựu trong hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau cùng tác động, trong đó có 3 nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất sau đây:

Thứ nhất, đó là kết quả của đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện một cách có hiệu quả đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, trong đó Việt Nam rất quan tâm phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt, sâu rộng với các nước ASEAN trên tinh thần láng giềng hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình và thịnh vượng cho toàn khu vực. Trên cơ sở nhận thức rằng, một ASEAN ổn định, đoàn kết, phát triển và có vị thế quốc tế ngày càng cao là hoàn toàn phù hợp với lợi ích trước mắt cũng như lợi ích cơ bản, lâu dài của Việt Nam, Việt Nam đã coi trọng việc thúc đẩy đoàn kết hợp tác trong ASEAN và đã làm hết sức mình cùng các nước thành viên khác xây dựng một ASEAN ngày càng vững mạnh, gắn bó và liên kết chặt chẽ.

Thứ hai, môi trường khu vực có nhiều thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam cũng như tạo cơ hội cho Việt Nam có tiếng nói và những đóng góp tích cực cho hòa bình và hợp tác khu vực. Chính sự phát triển năng động và vị thế quốc tế ngày càng cao của ASEAN cũng như xu thế hòa bình, hợp tác phát triển ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương đã đem đến cho Việt Nam những cơ hội to lớn để thúc đẩy quan hệ nhiều mặt với các nước trong và ngoài khu 32 Nguồn: http://www.customs.gov.vn/Lists/TinHoatDong/ViewDetails.aspx?ID=17629. 98

vực, tăng cường hội nhập, phát triển và qua đó có những đóng góp có ý nghĩa cho hòa bình, hợp tác và sự thịnh vượng chung của khu vực.

Thứ ba, tiềm năng, thế mạnh, vị trí địa chính trị trọng yếu và sự phát triển năng động của Việt Nam là một nhân tố thuận lợi cho Việt Nam gia tăng vị thế và uy tín trong khu vực và trên thế giới, đồng thời có những đóng góp lớn cho sự lớn mạnh của ASEAN cũng như cho hòa bình và phát triển của khu vực. Việt Nam với vị trí quan trọng về an ninh, chính trị, đối ngoại ở Đông Nam Á và với những tiềm năng về các nguồn lực tài nguyên, lao động, có quan hệ đối ngoại rộng mở, có sự ổn định về chính trị - xã hội... do đó, các đối tác của Việt Nam trong đó có các nước ASEAN đều thấy được hiện thực và tiềm năng phát triển của Việt Nam ở tất cả mọi lĩnh vực mà họ có thể hợp tác cùng phát triển, trong đó trước hết là các lợi ích về phát triển kinh tế và nâng cao vị thế chính trị ở khu vực và trên thế giới. Đến nay Việt Nam cũng đã có quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế với 175 nước và lãnh thổ trên thế giới, đã ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, hiệp định đầu tư song phương và hiệp định tránh đánh thuế hai lần với hơn 50 nước. Việt Nam đã gia nhập WTO và có quan hệ với hầu hết các tổ chức tiền tệ và tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB,.... Nền kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới liên tục đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7% năm, ngày càng hội nhập mạnh mẽ vào thế giới. Đó là những cơ sở quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN trong những năm qua cũng như trong hiện tại và tương lai.

3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG HỢP TÁC,

LIÊN KẾT VIỆT NAM - ASEAN

3.1 Những thiếu sót, hạn chế của ASEAN chính là những khó khăn

trở ngại trong hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN

Việt Nam cũng như các thành viên ASEAN khác có nhiều lợi ích cơ bản trùng hợp nhau và đều mong muốn duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực để tập trung vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Để ứng phó với mối đe dọa và kích động từ bên ngoài, ASEAN phải có địa vị chủ đạo ở khu vực Đông Nam Á, không để trở thành chiến trường cho các nước lớn tranh giành, khiến mất đi quyền độc lập của mình. Lợi ích chung trong lĩnh vực an ninh, chính trị của các nước thành viên ASEAN là rất lớn và có tính chất lâu dài, nhưng ASEAN lại chưa có một quy chế hợp tác quân sự được quy chế hóa, do đó một số nước trong ASEAN đã ký hiệp ước đồng minh an ninh với bên ngoài. Sự tăng cường hiện diện của Mỹ ở Đông Nam Á tạo nên những nguy cơ tiềm tàng như gia tăng hoạt động khủng bố của một số tổ chức ly khai trong khu vực, dẫn

99

tới sự phân cực trong nội bộ ASEAN. Sự đa dạng, khác biệt về chế độ chính trị, ý thức hệ tạo thành rào cản nhất định cho con đường phát triển của toàn khối Mặc dù có nhu cầu hợp tác và nguyện vọng chung tha thiết về an ninh, nhưng ASEAN chưa xây dựng được một cơ chế an ninh tập thể, điều đó thể hiện sự thiếu tin cậy về an ninh giữa các nước thành viên ASEAN… Vấn đề này gây nên những khó khăn phức tạp cho hội nhập khu vực của Việt Nam cũng như các nước thành viên khác của ASEAN.

Về mặt kinh tế, lợi ích chung của ASEAN là thúc đẩy kinh tế khu vực phồn vinh, nâng cao sức cạnh tranh của khu vực. Mong muốn đó đã thúc đẩy các nước ASEAN mở rộng hợp tác kinh tế, nhưng trong quá trình thực hiện còn nhiều hạn chế, thường xuyên chịu tác động tiêu cực của lợi ích quốc gia dân tộc, khiến cho Chương trình mậu dịch ưu đãi ASEAN, Kế hoạch hợp tác công nghiệp ASEAN, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN còn dở dang hoặc chưa thực hiện được, chưa hình thành một hệ thống thị trường, hệ thống thương mại và hệ thống sản xuất thống nhất. Bởi vậy, người ta cho rằng, các lợi ích chung của ASEAN về chính trị hay về kinh tế đều là những sản phẩm do sự thúc ép từ bên ngoài, ít có sự đồng thuận tập thể trong nội bộ. Do đó những lợi ích chung đó dễ bị tác động xấu, làm hạn chế khả năng thúc đẩy quá trình nhất thể hóa khu vực. Hơn 40 năm qua, ý thức khu vực ASEAN đã được tăng cường, nhưng nó mới chỉ được biểu hiện ở những người lãnh đạo, còn sự đồng thuận trong đông đảo dân chúng khoảng 580 triệu người của 10 nước thành viên ASEAN thì rất hạn chế. ASEAN là khu vực đa dạng về văn hóa, tôn giáo, tuy giữa họ xu hướng giá trị giống nhau nhưng thế giới tinh thần lại có sự khác biệt rõ rệt. Từ trong lịch sử, các nước ASEAN đã bị chủ nghĩa thực dân áp bức trong thời gian dài nên ý thức độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc vô cùng mạnh mẽ. Trong xây dựng đất nước, để ổn định và phát triển, các nước đều chú trọng đến xây dựng sự đồng thuận nội bộ quốc gia, bởi vậy sự đồng thuận về nhà nước dân tộc của ASEAN mạnh mẽ hơn sự đồng thuận khu vực. Mặc dù ASEAN luôn đề xuất phải tăng cường ý thức khu vực, nhưng sự khác biệt về tôn giáo, chủng tộc, dân tộc, coi trọng lợi ích quốc gia, thiếu (hoặc hạn chế) sự hòa nhập vào “thế giới sống chung” vẫn là trở ngại lớn cho việc xây dựng đồng thuận khu vực, đó cũng chính là nguyên nhân quan trọng làm hạn chế hợp tác trong lĩnh vực văn hóa của ASEAN.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, điểm yếu của ASEAN tập trung vào hai lĩnh vực chính là cơ cấu, thể chế và hợp tác kinh tế nội khối. Về cơ cấu, thể chế của ASEAN, lúc đầu chỉ có một Tuyên bố chung, trong đó chưa đưa ra những

100

quy định cụ thể cho các nước thành viên, cũng không có quy định nào về hợp tác nội khối, người ta chỉ thấy hàng năm chỉ có các cuộc họp triền miên của các lãnh đạo… Rồi 9 năm sau khi thành lập ASEAN mới có Ban thư ký, 7 năm sau nữa mới cam kết tăng cường Ban thư ký và quyết định thành lập Khu vực thương mại tự do AFTA. Hai nguyên tắc truyền thống của ASEAN là không can thiệp và đồng thuận, đã tạo ra nhiều thành công trong lĩnh vực an ninh – chính trị, nhưng trong liên kết kinh tế nội khối lại đem đến những tác động tiêu cực. Một số hiệp định, thỏa thuận của ASEAN thiếu tính ràng buộc chặt chẽ vì không có cơ chế thực thi bắt buộc đối với các thành viên… do vậy sự hợp tác giữa các thành viên ASEAN là sự hợp tác tự nguyện giữa các nước có chủ quyền, không có các thể chế cần thiết mang tính pháp lý. Còn về hợp tác kinh tế nội khối ASEAN, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, đây là một hạn chế vốn có của ASEAN. Về cơ bản, hợp tác kinh tế nội bộ ASEAN là ít thành công, tuy hợp tác kinh tế nội khối ASEAN có cải thiện sau chiến tranh lạnh, nhưng thực tế các nước ASEAN đã hướng ra những thị trường bên ngoài rộng lớn hơn. Người ta cho rằng, sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 đã bộc lộ rõ những hạn chế về nội lực của từng nước và khả năng hợp tác cùng đối phó với những biến động kinh tế. Tuy họ đã cố gắng xích lại gần nhau để cùng chia sẻ những biện pháp giải quyết nhưng kết quả còn rất hạn chế, một số nước như Thái Lan, In-đô-nê-xia đã phải kêu gọi sự trợ giúp từ bên ngoài để vượt qua khủng hoảng. Các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận những nỗ lực của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế nội khối, song còn rất hạn chế. Điều đó cho thấy khả năng dựa vào nhau để cùng phát triển còn nhiều hạn chế, quan hệ kinh tế - thương mại giữa các thành viên ASEAN có nhiều mặt cạnh tranh hơn là hợp tác. Điều này đã khiến cho hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN trở nên khó khăn hơn.

Hiến chương ASEAN đã có hiệu lực, ASEAN trở thành một thực thể có tư cách pháp nhân, có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý, nhưng cơ chế chung của ASEAN còn tỏ ra yếu ớt, chưa đủ hiệu lực để ứng phó và kịp thời giải quyết khi tình hình xấu xảy ra. Có ý kiến cho rằng, đó là do quy chế của tổ chức ASEAN chưa phát huy tác dụng, vì thiếu biện pháp trừng phạt có hiệu quả, quy chế mang tính khuyến khích còn hạn chế nên chỉ còn lại lợi ích dẫn dắt, mà lợi ích hợp tác của ASEAN lại thiếu cơ quan tổ chức thực hiện và giám sát đủ quyền lực cho nên việc thực hiện cụ thể và hợp tác trong tương lai còn khoảng cách khá xa. Những hạn chế đó cho thấy, quy chế chung của ASEAN khó có thể ứng

101

phó với khủng hoảng khu vực và những thay đổi trong nền chính trị thế giới, điều đó sẽ làm cho con đường liên kết của ASEAN quanh co khúc khuỷu.

Như đã phân tích ở trên, nếu đánh giá một cách khách quan thì ASEAN mới chỉ là một tổ chức hợp tác khu vực còn lỏng lẻo và mức độ liên kết còn thấp, do phải chịu tác động của nhiều nhân tố cả khách quan và chủ quan, đặc biệt là do sự đa dạng về trình độ phát triển, chính trị - xã hội, lịch sử, văn hóa, tôn giáo,…cho nên việc tăng cường hơn nữa sự “thống nhất trong đa dạng”, quá trình đi đến đồng thuận và ra quyết định gặp nhiều khó khăn hơn. Những vấn đề nảy sinh trong tình hình nội bộ của nhiều nước thành viên và trong quan hệ giữa các nước với nhau cũng làm ảnh hưởng không ít đến vấn đề đoàn kết và hợp tác ASEAN. Bên cạnh đó, hầu hết các nước thành viên ASEAN đều là nước nhỏ, trình độ phát triển chưa cao cho nên khả năng và tiềm lực của ASEAN có hạn. Trong khi đó, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng và phức tạp, nhất là tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của các nước lớn và quá trình toàn cầu hóa…tạo thêm ngày càng nhiều thách thức đối với ASEAN.

3.2. Tình hình thế giới và khu vực Đông Nam Á hiện nay tiếp tục cho thấy, mặc dù hoà bình, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, nhưng cộng đồng quốc tế vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn và khó đoán định cả về chính trị, an ninh, cả về kinh tế, điều này ảnh hưởng không thuận chiều đến hợp tác, liên kết của Việt Nam trong ASEAN

Các cuộc xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố còn diễn ra ở nhiều nơi. Toàn cầu hoá tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn do khả năng khắc phục suy thoái kinh tế thế giới chậm và do tồn tại nhiều nhân tố rủi ro, nhất là biến động về giá dầu lửa, tài chính, tiền tệ. Thêm vào đó, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch dưới nhiều hình thức tinh vi ở các nước phát triển vẫn gia tăng, tạo sức ép lớn trong quan hệ kinh tế - thương mại của tuyệt đại đa số các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và ASEAN.

Đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, những nhân tố gây mất ổn định vẫn hiện hữu không kém phần gay gắt, như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước cùng với những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước. Sự gia tăng hiện diện, cạnh tranh quyền lực và lợi ích của

102

các nước lớn ở Đông Nam Á cũng có thể dẫn tới những nguy cơ gây mất ổn định đối với khu vực. Việc Mỹ trở lại khu vực với mức độ cao hơn hiện nay, nhất là về quân sự, sẽ gây nên sự căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ, tác động tiêu cực tới quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Trong nội bộ ASEAN vì thế rất có thể dẫn tới một sự phân cực do một số đồng minh của Mỹ như Thái Lan, Phi-lip-pin tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác chính trị - an ninh, kinh tế với Mỹ. Những hoạt động như vậy sẽ khiến cho những nước thành viên ASEAN khác phải tìm kiếm quan hệ chặt chẽ hơn với một cường quốc khác, do đó cục diện tập hợp lực lượng trở nên rất phức tạp, không thuận chiều đối với những cố gắng tăng cường hợp tác, liên kết của ASEAN. Sự gắn kết trong ASEAN và vị trí của Hiệp hội trên quốc tế sẽ gặp nhiều thách thức.

3.3. Một trong những thách thức lớn đối với hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN hiện nay và những năm tới xuất phát từ chính bản thân sự phát triển của các nước trong Hiệp hội

Nội tình một số nước ASEAN còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp đang và sẽ còn tiếp tục gây nên tình trạng bất ổn định về chính trị ở các nước đó. Tình trạng nghèo khổ khiến cho những người lao động ở In-đô-nê-xia, Phi-lip-pin tràn vào Ma-lai-xia, Xin-ga-po để kiếm việc làm. Phong trào li khai ở Mi-an- ma, Thái Lan, Phi-lip-pin không chỉ gây nên bất ổn định trong các nước đó mà còn làm ảnh hưởng tới quan hệ của họ với các nước láng giềng xung quanh. Những vấn đề tranh chấp lãnh thổ, nguồn tài nguyên thiên nhiên, những tàn dư của chủ nghĩa dân tộc sô-vanh của một số thế lực ở một vài nước ASEAN, làm cho mối quan hệ giữa các nước đó trở nên phức tạp và tạo ra những thách thức đối với an ninh khu vực.

ASEAN là một tổ chức gồm 10 quốc gia có nhiều tương đồng nhưng sự đa dạng giữa các nước đó khá lớn. Giữa các quốc gia thành viên vẫn tồn tại những bất đồng, sự chưa tương đồng về trình độ phát triển kinh tế, đời sống văn hóa, thể chế chính trị - xã hội. Đây là một khó khăn, thách thức lớn không chỉ riêng với Việt Nam mà kể cả một số các nước ASEAN khác. Sự khác biệt đó khiến nước ta có thể sẽ gặp khó khăn, bất cập trong quan hệ, hợp tác phát triển với các nước ASEAN, vì thế đòi hỏi phải có sự năng động, khôn khéo và nguyên tắc cơ bản đặt ra là cần tôn trọng chủ quyền quốc gia và thể chế chính trị - xã hội của nhau. Nhận thức và hành động như vậy không phải chỉ riêng với tiến trình hội nhập ASEAN mà kể cả với toàn bộ tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu. Chủ nghĩa vị kỷ trong các nước ASEAN còn khá lớn. Điều này khiến cho tính thống nhất của tổ chức chưa thực sự cao. ASEAN tuy đã tồn tại hơn 40

103

năm nhưng sự cố kết nội khối chưa vững chắc. Các quốc gia thành viên vẫn có quan hệ với bên ngoài nhiều hơn trong khối. Tất cả những lý do đó đã làm ảnh hưởng đến ý chí chung và sự gắn kết giữa các thành viên. Cơ chế lỏng lẻo của ASEAN có thể làm giảm trách nhiệm chung, kém linh hoạt và chậm ra quyết định. Sự chênh lệch giữa các nước ASEAN dẫn đến sự khác nhau trong quan điểm, chính sách và năng lực, tạo ra những hạn chế trong việc thống nhất quan điểm và phối hợp hoạt động. Những bất cập nêu trên khiến cho Việt Nam gặp khó khăn trong các mối quan hệ, hợp tác với các nước ASEAN, làm hạn chế tính hiệu quả trong hợp tác liên kết Việt Nam - ASEAN.

3.4. Vấn đề biển Đông là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam Do lợi ích của các bên đối với biển Đông khác nhau nên khi có những vấn đề lớn, liên quan đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thường rất khó giải quyết. Khi xảy ra sự cố cụ thể trên biển Đông thì thái độ của các nước ASEAN rất khác nhau, sở dĩ như vậy vì mỗi nước thành viên ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc đều có những lợi ích riêng, thậm chí có thể có cả “thỏa thuận riêng” trong giải quyết tranh chấp. Điều này được thề hiện rõ trong quá trình soạn thảo nhằm chuyển từ Tuyên bố chung về ứng xử giữa các bên (DOC) đã được ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002 lên Bộ Quy tắc ứng xử về Biển Đông (COC) có tính ràng buộc pháp lý nhiều hơn. Có nhiều ý kiến khác nhau giữa các bên liên quan về một số vấn đề của COC.

Tuy Bộ Quy tắc đó nói rõ là không gắn với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, không phải là luật, mà chỉ là một biện pháp xây dựng lòng tin quan trọng, một Tuyên bố mà các bên có thể lấy đó làm chỉ dẫn cho các hành động cư xử với nhau, nhưng xét về phương diện pháp lý quốc tế thì Bộ Quy tắc vẫn được coi là một yếu tố của luật tập quán quốc tế, chứa đựng một vấn đề lớn và nhạy cảm về an ninh – chính trị, cho nên khó có sự nhượng bộ nếu như động chạm tới lợi ích quốc gia lâu dài của họ. Do vậy, nếu không giải quyết được vấn đề này thì khó có được COC.

Mặt khác, các nước ASEAN còn thiếu lòng tin đối với nhau, còn có những e ngại nhất định đối với Việt Nam, sự thiếu thiện chí đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam của một số thế lực đối lập, thậm chí thù địch với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Còn tồn tại các cuộc tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông, nhất là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tranh chấp về biên giới trên đất liền, về đường phân giới ngoài khơi… Do vậy, đối với Việt Nam đây là một khó khăn trong việc bảo vệ lợi ích của mình, vừa là một thách thức trong nỗ lực đóng vai trò thúc đẩy việc giải quyết các tranh

104

chấp. Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2010, điều này đòi hỏi Việt Nam phải tỉnh táo, thận trọng và linh hoạt trong ứng xử nhằm thúc đẩy hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN, đồng thời tạo dựng thêm những nỗ lực mới cho sự đồng thuận tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.

3.5. Trong hợp tác Việt Nam - ASEAN ngoài những trở ngại như đã

nêu, cũng có những trở ngại tồn tại từ chính nội tại của Việt Nam

Thứ nhất, nỗi lo về nguy cơ tụt hậu, nó được biểu hiện trên các mặt sau: - Về kinh tế mặc dù chỉ số tăng trưởng kinh tế của nước ta sau hơn 20 năm đổi mới tương đối cao ở khu vực và được duy trì trong những năm qua, nhưng nếu xét tổng GDP và GDP bình quân đầu người và so sánh với thế giới và khu vực thì nguy cơ tụt hậu vẫn là một nỗi lo còn đó. Ngoài ra còn phải kể đến một số trở ngại và bất cập khác mà Việt Nam chưa thể vượt qua ngay được, đó là hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của nền sản xuất xã hội còn nhiều lạc hậu, hệ thống giao thông – dịch vụ tài chính, ngân hàng còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển bền vững.

- Về chính trị, xã hội và văn hóa, bên cạnh sự ổn định và phát triển là cơ bản, chúng ta vẫn còn quá nhiều nỗi lo về một xã hội “văn minh nửa vời” và do đó các tệ nạn xã hội, tội phạm, mất an ninh trật tự xã hội… vẫn còn tồn tại rải rác ở nhiều nơi và cũng chưa có dấu hiệu giảm xuống.

- Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta so với các nước khác trên thế giới và trong khu vực còn thấp và chậm được cải thiện. Không chỉ yếu kém trong sức cạnh tranh về năng lực quản lý doanh nghiệp mà còn yếu kém trong sự cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam về giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp… Đặc biệt từ khi AFTA có hiệu lực đến nay thì sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và hàng tiêu dùng nội địa cũng vấp phải sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa của các nước ASEAN. Hơn nữa, từ nay đến năm 2015, khi khu vực thương mại tự do rộng lớn toàn Đông Á trở thành hiện thực, thì việc Việt Nam phải làm thế nào để hàng hóa và nền kinh tế của mình đủ sức cạnh tranh với các thành viên khác của ASEAN cũng như với tất cả các đối tác khác… Đây chính là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam trong hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, trong bối cảnh mới của thế giới và khu vực hiện nay, để có được sự hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế thì đòi hỏi về mặt chính trị Việt Nam phải có sự hài hòa về hệ thống pháp luật, luật pháp của nước ta chưa hoàn chỉnh, chưa đổi mới theo kịp luật pháp và thông lệ quốc tế và khu vực. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, bất cập với các hoạt động hợp tác

105

ASEAN… Còn về kinh tế, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Tiến trình hội nhập sâu rộng đang tạo ra sức ép lớn đối với sản phẩm và thị trường của Việt Nam. Điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, tác động tiêu cực đến xã hội nước ta, như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, di cư, chảy máu chất xám…

Thứ ba, theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, trong hội nhập quốc tế nói chung và trong hợp tác, liên kết ASEAN nói riêng, Việt Nam tham gia vào rất nhiều cơ chế theo các phạm vi địa lý khác nhau nhưng chưa đạt được chiều sâu, còn thiếu sự gắn kết hài hòa và bổ sung, tương hỗ lẫn nhau giữa các lộ trình hội nhập. Việt Nam cũng chưa thực sự phát huy tốt tinh thần chủ động và tích cực trong việc tham gia các cơ chế liên kết - hợp tác, thường bị kéo theo và ở thế bị động. Công tác chỉ đạo, điều hành còn lúng túng, thiếu nhất quán và không kịp thời, sự phối hợp chưa chặt chẽ và nhịp nhàng, bởi vậy trong đàm phán và thực thi cam kết gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, các vấn đề nảy sinh như cạn kiệt môi trường, đô thị hóa nhanh chóng, khoảng cách giàu – nghèo ngày càng gia tăng… chưa được xử lý kịp thời hoặc chưa lường hết được.

Để tham gia đầy đủ và có hiệu quả cao hơn vào hoạt động của ASEAN, tương xứng với vị trí và vai trò của mình trong Hiệp hội, đòi hỏi Việt Nam nhanh chóng tìm ra những cách thức và bước đi phù hợp, vượt qua thách thức và trở ngại, tận dụng thời cơ để ổn định và phát triển đất nước, nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới.

3.6. Về những khó khăn, thách thức từ quá trình xây dựng Cộng

đồng ASEAN

Việt Nam cũng như các nước thành viên ASEAN đều đã thể hiện quyết tâm tiếp tục phát triển ASEAN thành một tổ chức có quyền lực trong cục diện quan hệ quốc tế, kết hợp hài hòa giữa tăng cường liên kết nội khối và mở rộng hợp tác với bên ngoài. Cái đích mà các nước ASEAN vươn tới là Cộng đồng ASEAN. Đương nhiên, để tới được cái đích ấy con đường đi còn dài và nhiều gian nan, thách thức. Theo các nhà nghiên cứu, có 4 thách thức mà ASEAN phải vượt qua: 1) Khắc phục khoảng cách giữa ý tưởng và hiện thực cụ thể. 2) Khắc phục tình trạng không thuần nhất về nhiều phương diện giữa các thành viên ASEAN. 3) Đảm bảo sự “đồng thuận trong đa dạng” để vừa phát huy được bản sắc và đặc thù vừa không cản trở quá trình liên kết nội khối và tăng cường liên kết nội khối với bên ngoài. 4) Giải quyết các vấn đề nhạy cảm và tế nhị trong một vài thành viên và liên quan đến một nhóm thành viên của ASEAN.

106

Xây dựng Cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột chính là Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội, bao gồm gần 800 mục tiêu hành động. Có thể coi đây là một cuộc cải tổ, đòi hỏi tất cả các thành viên ASEAN cùng có một quyết tâm cao, để biến các nước ASEAN thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Để sự hội nhập đó thành công, Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung sẽ phải vượt qua những cản trở và thách thức trong mỗi bước đi trên con đường hội nhập, được biểu hiện cụ thể trong từng trụ cột chính. Đó là:

* Về việc xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC), có thể thấy bên cạnh những thuận lợi, quá trình xây dựng APSC đang gặp nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến: Thứ nhất, những vấn đề cơ bản, có tính quyết định như thay đổi nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tiến hành đăng kiểm vũ khí ASEAN, lập lực lượng gìn giữ hòa bình thường trực của ASEAN … vẫn đang gây nhiều tranh cãi và đe dọa tình đoàn kết, hợp tác trong ASEAN. Thứ hai, các nước thành viên vẫn lo ngại tác động của APSC đến các nước đối thoại, đặc biệt là các nước lớn. Tuy đã có Tuyên bố APSC và Chương trình hành động APSC nhưng người ta cho rằng các điều khoản trong đó còn chung chung, ít đề cập đến các biện pháp cụ thể, thiên về cách tiếp cận an ninh phi truyền thống. Mặt khác, giữa các nước ASEAN có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển, sự khác biệt về chính trị - xã hội, trong khi hợp tác chính trị, an ninh đòi hỏi phải có sự tương đồng lớn mới đạt được hiệu quả, vì vậy còn có sự khác biệt trong nhận thức về một số nguyên tắc hoạt động, về lộ trình, khuôn khổ và cơ chế vận hành của APSC. Đối với Việt Nam, hợp tác trong APSC cũng có thách thức không phải nhỏ vì hợp tác an ninh không chỉ thuần túy hay nghiêng về hợp tác an ninh phi truyền thống mà cả về hợp tác chính trị và quốc phòng. Sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng là một trong những trở ngại không nhỏ đối với Việt Nam trong APSC. Đặc biệt, với vai trò và vị trí hiện nay, Việt Nam cần thể hiện sự chủ động và linh hoạt hơn trong việc tham gia Chương trình hành động APSC.

* Về xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Hiện trạng lộ trình liên kết kinh tế ASEAN cho thấy, việc thực hiện kế hoạch tổng thể về xây dựng AEC đã có những bước tiến khả quan. Mặc dù vậy, quá trình xây dựng AEC cũng đang phải đối mặt với các trở ngại lớn: Thứ nhất là, vấn đề khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Sự khác biệt về GNP, GDP bình quân đầu người, khác biệt về thể chế, chính sách… mà sự khắc phục không thể nhanh chóng và dễ dàng. Thứ hai là, thị trường ASEAN là một thị trường

107

“cộng” chứ không phải hoàn toàn là “hòa nhập” của các thị trường thành viên, với những chính sách kinh tế không công khai, ở nhiều cấp độ phát triển, lại hướng ra ngoài hơn là hướng nội địa. Thứ ba là, ASEAN chưa có một đầu tàu kinh tế, một đồng tiền mạnh để dẫn dắt khu vực.

Trong mấy năm qua, hợp tác phát triển kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN nói chung và Việt Nam – ASEAN nói riêng tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn chưa tương xứng với khả năng và tiềm lực của ASEAN. Sự tham gia ngày càng sâu của Việt Nam vào quá trình thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) thì kết quả lại không được như mong muốn, mà ngược lại tăng trưởng thương mại hai chiều Việt Nam – ASEAN có xu hướng giảm đi, nhiều mặt hàng có mức bảo hộ cao cũng đang chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các nước thành viên ASEAN… Sự kém hiệu quả đó đó nói lên rằng, hội nhập sâu rộng về kinh tế đòi hỏi Việt Nam phải hài hòa về mặt pháp luật cũng như cách ứng xử. Kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, hiệu quả quản lý còn chưa cao, hệ thống các thể chế kinh tế thị trường phát triển chưa đồng bộ, còn yếu kém … Trước thực trạng đó, AEC sẽ tạo ra sức ép lớn đối với các sản phẩm và thị trường của Việt Nam trong và ngoài nước. Không những thế, về mặt xã hội có thể tạo ra các dòng di cư lớn, làm “chảy máu chất xám”, tăng nạn thất nghiệp và tệ nạn xã hội. Đây chính là một trong những thách thức lớn đối với nước ta.

Ngoài ra, một thách thức nữa đối với Việt Nam đó là việc tham gia vào Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), bên cạnh những thuận lợi là những thách thức khá lớn cho Việt Nam. Trước khi tham gia ACFTA, Trung Quốc đã có sự chuẩn bị khá chu đáo nên họ muốn đẩy nhanh việc thực hiện, còn Việt Nam đang ở thế buộc phải hội nhập, trong khi các mặt chuẩn bị về nhân lực, luật lệ và cơ cấu kinh tế còn chậm, vì vậy trong những năm qua cơ hội hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là rất lớn và thực tế có sự tăng trưởng đáng khích lệ, song Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc ngày càng tăng (năm 2009 mức nhập siêu tăng gần 53 lần so với năm 2001). Do vậy, để tham gia có hiệu quả vào ACFTA, Việt Nam phải đẩy nhanh tốc độ cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách hệ thống thương mại và pháp lý nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết, điều chỉnh một số luật và pháp lệnh mới ban hành sao cho đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của ACFTA và nhu cầu phát triển, hội nhập của nước ta.

* Về xây dựng Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC). Trong 15 năm qua, trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, Việt Nam đã phối hợp cùng các nước nghiên cứu nhiều đề tài văn hóa, quản lý văn hóa thông tin, đặc biệt đã giới thiệu rộng rãi

108

đến các nước ASEAN diện mạo của nền văn hóa Việt Nam, về đất nước, con người Việt Nam và đưa văn hóa của các nước ASEAN đến với người dân Việt Nam. Xây dựng ASCC bên cạnh những thuận lợi còn có vô vàn những khó khăn hạn chế, đó là những thách thức từ sự đa dạng về văn hóa, về vấn nạn ô nhiễm môi trường, thiên tai và dịch bệnh, về tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập… Sự phong phú về thành phần tộc người, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa đã tạo nên một Đông Nam Á đa dạng và đầy bản sắc, điều đó đã gây ra không ít những biến động trong đời sống chính trị của các quốc gia và trong khu vực. Sự khác nhau về giá trị văn hóa và niềm tin tôn giáo cùng với sự hạn chế trong nhận thức và sự triển khai thực hiện chính sách dân tộc kém hiệu quả của chính phủ, cũng như tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập kéo dài, tạo nên khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn trong hầu hết các nước ASEAN… Tất cả những điều đó khiến cho nhiều nước ASEAN phải đối mặt với các hoạt động của phong trào đòi ly khai, tạo ra sự phân cực về chính trị hay duy trì tình trạng lỏng lẻo trong liên kết ASEAN. Sự tồn tại nhiều cấp độ dân chủ và sự quá đa dạng về tôn giáo, sắc tộc sẽ gây nên cản trở cho liên kết văn hóa – xã hội trong ASEAN. Do vậy, xây dựng một sự hòa hợp dân tộc trong Cộng đồng, một ASCC bền vững là một thách thức không nhỏ đối với các nhà lãnh đạo ASEAN trong quá trình phát triển của mối liên kết khu vực.

Một vấn đề khác cũng gây tác động đến hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN, đó là việc di chuyển lao động trong nội khối ASEAN. Việt Nam đang thực hiện chủ trương đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong đó có thị trường ASEAN, nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, diễn biến của di chuyển lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng giảm dần sự phụ thuộc vào lao động nước ngoài trình độ thấp và nhu cầu ngày càng tăng về lao động di cư trình độ cao, lành nghề. Tình trạng cạnh tranh việc làm đối với người lao động Việt Nam ngày càng gia tăng cùng với quá trình hội nhập khu vực, đặc biệt là sau khi hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, không phải chỉ ở thị trường xuất khẩu lao động mà cả ngay trên thị trường trong nước.

Lợi thế cạnh tranh lao động hiện nay không chỉ dựa trên lực lượng lao động giản đơn giá rẻ mà còn căn cứ vào sự cải thiện về năng suất lao động… vấn đề này đặt ra cho Việt Nam cần có sự đầu tư thỏa đáng trong việc giáo dục đào tạo phát triển lực lượng lao động có đủ năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế. Hơn thế nữa, việc di chuyển lao động giữa các nước ASEAN gia tăng sẽ phát sinh nhiều vấn đề, trong đó có những phát sinh

109

tiêu cực liên quan đến người lao động ở nước ngoài và vấn đề an sinh sau khi lao động về nước… tất cả những điều đó làm hạn chế liên kết hợp tác Việt Nam - ASEAN nói chung. Để giải quyết khó khăn này đòi hỏi ngoài sự nỗ lực của các chính phủ, cần có sự hợp tác chặt chẽ trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi của các nước ASEAN, cần có sự tăng cường phối hợp của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách chung của khu vực, thúc đẩy thực hiện Tuyên bố chung của ASEAN về bảo vệ và phát huy các quyền của người lao đông di cư trong khu vực ASEAN được ký kết ngày 13/1/2007 tại Cebu, Phi-lip-pin.

Hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đã trải qua 15 năm, bên cạnh những thành tựu vô cùng quan trọng và có ý nghĩa lớn, thì khó khăn, hạn chế và trở ngại cũng không phải là nhỏ trên tất cả các lĩnh vực. Như đã phân tích ở trên, có thể thấy, dù là trực tiếp hay gián tiếp thì chúng đều bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản sau:

Một là: Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện thế giới thay đổi khiến cho các nước lớn đều tiến hành thay đổi chính sách đối ngoại của mình, trong đó có sự điều chỉnh từng bước chính sách đối với khu vực Đông Nam Á, mục tiêu của họ nhằm củng cố và tăng cường ảnh hưởng tại khu vực từ đó làm cơ sở vươn ra châu Á – Thái Bình Dương. Sự cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn đó tác động mạnh mẽ đến hợp tác, liên kết ASEAN nói chung và hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN nói riêng.

Hai là: ASEAN là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, trải qua 43 năm phát triển, hiện nay ASEAN được xem là một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công trên thế giới. Tuy vậy, ASEAN chưa có một cơ chế liên kết chặt chẽ, thiếu tính ràng buộc về mặt pháp lý. ASEAN đã có Hiến chương nhưng để đưa vào cuộc sống còn là vấn đề khó khăn, do đó sự lỏng lẻo trong hợp tác giữa các thành viên ASEAN dẫn đến tính hướng ngoại nổi trội hơn tính hướng nội, đoàn kết nội khối chưa cao. Mặt khác, 10 nước thành viên ASEAN đều là những quốc gia nhỏ, sự phát triển lại không đồng đều, có khoảng cách lớn về trình độ, đa dạng về dân tộc, tôn giáo, phong phú về văn hóa, chính trị - xã hội. Cả sự khác biệt và tương đồng giữa các nước thành viên ASEAN đều góp phần tạo nên những hạn chế nhất định trong hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN.

Ba là: Việt Nam, với thành tựu 24 năm đổi mới, đã tạo nên thế và lực mới, vai trò và vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, tên tuổi Việt Nam được nhiều người trên thế giới biết đến. Nhưng nếu nhìn nhận một cách thẳng thắn thì

110

nước ta vẫn thuộc vào nhóm nước nghèo, chậm phát triển. Về kinh tế tuy có sự tăng trưởng liên tục song vẫn còn nguy cơ tụt hậu, GDP bình quân đầu người còn thấp, trong ASEAN nước ta chỉ ở vị trí thứ 7 (trước Bru-nây, Cam-pu-chia và Lào), sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu…. Về chính trị - xã hội, bên cạnh sự ổn định và phát triển vẫn còn tệ nạn xã hội, tội phạm, mất an ninh trật tự xã hội. Ngoài ra, hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật nước ta còn lạc hậu, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, nguồn nhân lực còn tỏ ra bất cập trước yêu cầu cao của hội nhập quốc tế và khu vực… Những yếu kém tồn tại của chính nước ta đang tạo ra những cản trở không phải là nhỏ trong quá trình thực hiện các hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN.

Năm Chủ tịch ASEAN – 2010 của Việt Nam sắp kết thúc, Hội nghị cấp cao ASEAN – 16 và 17 đã thành công tốt đẹp, các Hội nghị liên quan cũng đạt được kết quả quan trọng. Dư luận quốc tế và bạn bè trên thế giới đánh giá cao vai trò và trách nhiệm của Việt Nam. Đây chính là một cơ hội tốt để Việt Nam nâng cao tầm ảnh hưởng và uy tín của mình nói riêng và các nước ASEAN nói chung trên thế giới. Những khó khăn, thách thức trong hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN chưa thể khắc phục trong một vài năm tới, nhưng chắc chắn rằng, Việt Nam cũng như tất cả các thành viên ASEAN khác sẽ cố gắng hết sức mình, chủ động và linh hoạt từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức đưa hợp tác, liên kết Việt Nam – ASEAN ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng để Cộng đồng ASEAN sớm trở thành hiện thực.

4. VAI TRÒ CỦA HỢP TÁC, LIÊN KẾT VIỆT NAM - ASEAN ĐỐI VỚI SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM

4.1. Vai trò của hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đối với sự phát

triển của Việt Nam trên lĩnh vực an ninh - chính trị - đối ngoại

4.1.1. Đối với môi trường đối ngoại - an ninh - chính trị của Việt Nam * Phá thế bao vây cô lập về đối ngoại Khi tiến hành đổi mới, Việt Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng về nhiều mặt. Đặc biệt, Việt Nam đứng trước đòi hỏi bức bách là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo mục tiêu đã lựa chọn.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đặt cao vị trí quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước ASEAN trong chính sách đối ngoại của mình. Bởi lẽ, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam rất

111

cần thiết phải có môi trường hòa bình, mà trước tiên là môi trường hòa bình xung quanh đất nước. Phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á không chỉ đáp ứng yêu cầu tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết thân của Việt Nam. Theo hướng đối ngoại này, Việt Nam chú trọng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt với Lào, quan hệ láng giềng hữu nghị với Cam-pu- chia và xây dựng quan hệ hợp tác mới với ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN.

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) cùng với việc khẳng định quan điểm phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước trên bán đảo Đông Dương, đã nêu rõ chủ trương cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, thực hiện chính sách cùng tồn tại hòa bình với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau ở khu vực Đông Nam Á. Ngay từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã đưa ra một số điều chỉnh quan trọng chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Trong chính sách đối với các nước láng giềng và khu vực, Việt Nam nhấn mạnh quan điểm tích cực góp phần giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN.

Việt Nam xác định rõ, việc tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu- chia là một điểm đột phá để cải thiện quan hệ với ASEAN, góp phần từng bước thoát vòng bao vây cô lập về đối ngoại, đồng thời đóng góp vào việc tạo lập môi trường quốc tế hoà bình, ổn định ở khu vực. Cùng với việc đơn phương rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi Cam-pu-chia, Việt Nam chủ động và tích cực đẩy mạnh đối thoại với ASEAN và các nước hữu quan, nhằm nhanh chóng đạt được giải pháp chính trị toàn bộ, công bằng hợp lý cho vấn đề Cam-pu-chia. Việc ký Hiệp định Pari ngày 23/10/1991 đánh dấu sự kết thúc quá trình tìm kiếm và đi đến giải pháp chính trị cho vấn đề Cam-pu-chia là sự ghi nhận những đóng góp của Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi trong triển khai đường lối đối ngoại đổi mới nói chung, chính sách với các nước ASEAN nói riêng, tạo điều kiện đưa Việt Nam thoát ra khỏi vòng bị bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực quốc tế thù địch.

Trước những chuyển biến nhanh chóng của tình hình quốc tế sau khi Liên Xô tan rã, chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN được điều chỉnh mạnh. Theo đó, vấn đề cải thiện và phát triển quan hệ với các nước ASEAN, về cơ bản, luôn được đặt cao như một trong những ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại Việt Nam. Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN

112

(7/1995), Việt Nam càng coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với ASEAN và các thành viên của hiệp hội, chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. * Tạo dựng một môi trường an ninh - chính trị ở khu vực Đông Nam Á thuận lợi cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá và bảo vệ đất nước. Ngay từ khi mới trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam đã tích cực cùng các nước ASEAN soạn thảo Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Hiệp ước được ký tháng 12 năm 1995 là một thắng lợi lớn của các nước ASEAN trong củng cố hoà bình và an ninh khu vực. Qua đó, góp phần đảm bảo tốt hơn môi trường an ninh khu vực của Việt Nam ở bình diện chiến lược. Khi đảm nhiệm vai trò chủ tịch ASEAN và ARF, Việt Nam đã chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến giữa Việt Nam và một số cường quốc có vũ khí hạt nhân, thúc đẩy tích cực quá trình các nước này tham gia Nghị định thư về SEANWFZ.

Quá trình Việt Nam tham gia ARF, với ASEAN đóng vai trò hạt nhân, góp phần tích cực trong việc tạo dựng một môi trường an ninh bền vững cho Việt Nam. Điều này thể hiện rõ ở một số điểm cơ bản sau: Một là, Việt Nam thông qua ARF để hợp tác với các nước ASEAN và các đối tác, đặc biệt là các nước lớn có ảnh hưởng hàng đầu ở khu vực, giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống như an ninh môi trường, thiên tai, dịch bệnh, an ninh lương thực, hợp tác chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia. Hai là, thông qua ARF, Việt Nam giảm được sự nghi kỵ, tăng cường xây dựng niềm tin, thúc đẩy hợp tác thiết thực với các nước Đông Nam Á và các nước đối tác khác của ASEAN trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng. Hiện nay, ARF đã chuyển sang triển khai ngoại giao phòng ngừa - giai đoạn hai trong tiến trình ba giai đoạn hợp tác an ninh của diễn đàn này. Việt Nam và một số nước thành viên còn không ít những nghi ngại do ngoại giao phòng ngừa là một khái niệm mới xuất hiện ở thời kỳ sau chiến tranh lạnh và vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện về nội dung. Tuy nhiên, Việt Nam đã từng bước tiếp cận linh hoạt để có thể phát huy hữu hiệu vai trò của ngoại giao phòng ngừa, thúc đẩy kiến tạo một môi trường an ninh - quốc phòng có lợi cho công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Cộng đồng chính trị an ninh ASEAN (APSC) đang được các nước ASEAN xây dựng có nhiều nội dung cốt lõi phù hợp yêu cầu phát triển của Việt Nam. Năm 2004, ASEAN thông qua kế hoạch hành động Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC POA). Việc Hiến chương ASEAN có hiệu lực cuối tháng 12 năm 2008 là một bước tiến rất quan trọng trong tiến trình xây dựng APSC. Tại

113

Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN trước thềm Hội nghị cấp cao ASEAN 17 diễn ra vào cuối tháng 10 năm 2010, các bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố ASEAN về hợp tác tìm kiếm và cứu trợ người và tàu thuyền bị nạn trên biển, Quy tắc trình các tranh chấp không giải quyết được lên Cấp cao ASEAN và Quy tắc Uỷ quyền ký kết các giao dịch theo nội luật nhằm cụ thể hóa và phục vụ triển khai Hiến chương ASEAN, nhất là trên lĩnh vực an ninh, có ý nghĩa tích cực đối với tiến trình ASC. Cũng trước thềm Hội nghị cấp cao ASEAN 17, Hội nghị những người đứng đầu cơ quan an ninh các nước ASEAN lần thứ nhất đã diễn ra. Đây là sáng kiến của Việt Nam được các nước ASEAN đánh giá cao, góp phần tăng cường tính gắn kết và hợp tác hiệu quả giữa cơ quan an ninh các nước thành viên.

APSC hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản là tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đồng thuận, giảI quyết xung đột bằng con đường hoà bình. Các văn kiện điều phối hoạt động của APSC có ZOPFAN, TAC, SEANWFZ, Hiến chương ASEAN. APSC thừa nhận cách tiếp cận an ninh toàn diện. Vì vậy, APSC công nhận sự ổn định chính trị và xã hội, sự thịnh vượng về kinh tế, sự thu hẹp khoảng cách phát triển và bất công xã hội sẽ là nền tảng vững chắc cho APSC. Theo đuổi mục tiêu an ninh toàn diện sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam và ASEAN hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống mà khu vực đang phải đối diện.

APSC là một cộng đồng mở, hướng ra bên ngoài, gắn kết bạn bè, nhất là các nước đối thoại, đồng thời củng cố và tăng cường vai trò hạt nhân của ASEAN đối với ARF. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm từng nhấn mạnh rằng: “Cộng đồng An ninh ASEAN không nhằm tạo ra khối phòng thủ chung, mà mục tiêu là tạo dựng một môi trường hoà bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia, đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài”. Rõ ràng là, nguyên tắc và mục tiêu hoạt động của APSC phù hợp với nhu cầu, cách tiếp cận đối với môi trường an ninh khu vực của Việt Nam.

Có thể nói, quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước ASEAN là một hoạt động đối ngoại cơ bản góp phần tạo dựng một môi trường an ninh khu vực hoà bình, hữu nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia, trị an xã hội, phát triển kinh tế. Việc hợp tác chặt chẽ với các nước ASEAN càng trở nên bức thiết khi mà các vấn đề an ninh phi truyền thống như môi trường sinh thái, khủng bố, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, dân tộc, an

114

ninh lương thực, dịch bệnh, thiên tai ngày càng có những diễn biến mới nghiêm trọng, phức tạp. Việt Nam được dư luận quốc tế đánh giá là một trong những nước có môi trường an ninh, chính trị ổn định. Đây là một trong những yếu tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. * Tuy nhiên, cũng cần thấy rõ những giới hạn trong hợp tác an ninh - quốc phòng với các nước ASEAN. Trong quá trình tham gia hợp tác an ninh cùng các nước ASEAN, Việt Nam cần kiên trì đấu tranh giữ vững nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh, chính trị. Một khi những nguyên tắc này không còn được thực hiện, cũng có nghĩa là bản sắc, chủ quyền an ninh quốc gia của Việt Nam sẽ đứng trước những thách thức lớn.

Phân tích động thái tình hình chính trị, an ninh của Việt Nam hiện nay, có thể thấy, tuy không phải trực tiếp đối diện với mối đe doạ xâm lược từ bên ngoài, nhưng nguy cơ về một mối đe doạ như vậy vẫn tiềm tàng. Giả định trong trường hợp xảy ra xung đột, liệu Việt Nam có thể trông cậy vào ASEAN hoặc ARF? Câu trả lời chắc chắn ở đây là không thể, vì hầu hết các nước ASEAN sẽ không sẵn sàng coi mối đe dọa mà Việt Nam phải đối phó cũng là mối đe dọa của chính họ. Sự giúp đỡ của ASEAN đối với Việt Nam trước hết và chủ yếu chỉ là về tinh thần. Còn ARF chỉ là một diễn đàn đối thoại về an ninh với cơ chế lỏng lẻo, tác dụng của nó chỉ là giúp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, qua đó giảm nghi kỵ giữa các nước khu vực. Bởi vậy, trách nhiệm đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam vẫn phải do Việt Nam tự gánh vác. Trong điều kiện hiện nay và những năm tới, Việt Nam cũng không thể dựa hẳn vào bất kỳ một nước lớn nào để đảm bảo an ninh cho mình, làm như vậy thậm chí sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Sự lựa chọn khả dĩ và đúng đắn nhất đối với Việt Nam là khôn khéo phát triển quan hệ hợp tác với tất cả các nước lớn có lợi ích an ninh ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, xác lập thế cân bằng với các nước này, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đồng thời chủ động tăng cường quan hệ với Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và EU.

4.1.2. Đối với quan hệ giữa Việt Nam với một số nước lớn Quá trình gia nhập ASEAN đã tác động tích cực đến quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Từ sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng bị các nước láng giềng bao vây, cô lập để bước vào một giai đoạn phát triển theo hướng hội nhập khu vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt thế và quan hệ với các nước lớn. Mỹ đã bình thường hoá quan hệ với Việt Nam (11/7/1995) trước khi diễn ra lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN. Quan hệ của

115

Việt Nam với Trung Quốc có bước phát triển mới, tiến tới thiết lập khuôn khổ 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Quan hệ Việt Nam với Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU) cũng có những tiến triển tích cực. Các hội nghị cấp cao ASEM với những cam kết nâng cao hợp tác giữa hai khu vực và những ưu tiên giúp đỡ mà các nước EU giành cho Việt Nam mang lại những lợi ích thiết thực trong quá trình Việt nam phát triển và hội nhập quốc tế. Những sự kiện trên cho thấy, việc cải thiện và bình thường hóa quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể là ngẫu nhiên, mà không có sự liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN.

Cách tiếp cận của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn trên lĩnh vực an ninh - quân sự, về cơ bản là cố gắng cân bằng quan hệ giữa những nước này, chứ không ngả hẳn về một nước nào cả. Cách tiếp cận này phù hợp với cách tiếp cận của Việt Nam.

Chương trình hành động Hà Nội khuyến khích và tạo điều kiện cho các nước ngoài ASEAN tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC). Tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 tổ chức ở Bali, In-đô-nê-xia ngày mồng 8/11/2003, Trung Quốc trở thành nước đầu tiên tham gia Hiệp ước này. Sau đó nhiều nước lớn đã ký kết TAC với ASEAN. Ngày 22/7/2009, tại Phuket (Thái Lan), Mỹ đã ký văn kiện này, trở thành quốc gia ngoài Đông Nam Á thứ 16 tham gia Hiệp ước. Việc các nước lớn tham gia và thực hiện các cam kết TAC là rất có giá trị đối với xây dựng môi trường hòa bình, phát triển của khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đẩy sâu quan hệ theo chiều hướng tích cực với các nước này.

Hiến chương ASEAN thông qua trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc truyền thống là không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, và đồng thuận. Hiến chương là một văn kiện tăng cường tính pháp lý trong quan hệ nội khối, tăng cường tính gắn kết giữa các nước thành viên, nâng cao tính thống nhất của ASEAN trong quan hệ với các đối tác bên ngoài, đánh dấu một sự phát triển về chất trong quá trình trưởng thành của Hiệp hội.

Từ những ý tưởng ban đầu về Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) năm 2006, qua 4 năm kinh nghiệm, với tầm nhìn, tinh thần đoàn kết, trí tuệ tập thể và sự quyết tâm, các nước ASEAN đã chuẩn bị đầy đủ và tự tin, chủ động thiết lập một cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh mới cho khu vực. ADMM+ gồm bộ trưởng quốc phòng 8 nước đối thoại là Ốt-xtơ-rây- lia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Niu Di-lân, Hàn Quốc, Nga và Mỹ. Đây là

116

một cơ cấu hợp tác quốc phòng mang ý nghĩa chiến lược. Trước hết đây là một diễn đàn đối thoại, tham vấn chiến lược nhằm xây dựng một nhận thức chung về an ninh khu vực, xây dựng lòng tin, xác định các lĩnh vực hợp tác thiết thực về quốc phòng. ADMM+ còn là cơ chế hợp tác ở cấp cao nhất về quốc phòng của khu vực, có khả năng định hướng và chỉ đạo các chương trình hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết có hiệu quả các thách thức an ninh chung, nhất là các vấn đề an ninh phi truyền thống đang nổi lên. Các nước ASEAN xác định 5 lĩnh vực ưu tiên hợp tác là: Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm hoạ, An ninh biển, Quân y, Chống khủng bố và Các hoạt động gìn giữ hoà bình. ADMM+ còn là sân chơi bình đẳng và có lợi cho tất cả các bên tham gia, đồng thời có vai trò hài hoà quan hệ, xây dựng năng lực và tăng cường quan hệ giữa quân đội các nước tham gia, từ đó tạo dựng một cục diện an ninh mới trong khu vực. Việt Nam vinh dự được đăng cai tổ chức Hội nghị ADMM+ lần thứ nhất vào tháng 10 năm 2010 tại Hà Nội với chủ đề "Hợp tác chiến lược vì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực". Tuyên bố chung của Hội nghị tái khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình ADMM+, tái khẳng định các cam kết đã nêu trong TAC.

Hội nghị cấp cao Đông Á lần thứ 5 diễn ra vào tháng 10 năm 2010 với ASEAN đóng vai trò trung tâm cũng đã mời Mỹ và Nga tham dự với tư cách là những nước đã được quyết định mời làm thành viên từ năm 2011. Như vậy số nước thành viên Hội nghị đã tăng từ 16 lên 18 với vai trò hạt nhân của ASEAN được củng cố .

Sự trưởng thành vượt bậc của ASEAN đã được các đối tác lớn nhất trong khu vực và trên thế giới thừa nhận. Một biểu hiện rõ ràng nhất của nó là việc các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU đã cử đại sứ riêng phụ trách quan hệ đối ngoại với ASEAN như với một tổ chức thống nhất. Vị thế của từng nước thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, rõ ràng cũng được nâng lên cùng sự trưởng thành của cả khối.

Sự trưởng thành và tự chủ như vậy của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn là rất có lợi cho Việt Nam trong việc xây dựng và duy trì một thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là trong bối cảnh mới ở Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh khi mà ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực có phần suy giảm, còn Trung Quốc và Nhật Bản muốn gia tăng mạnh mẽ ảnh hưởng, gây dựng một vị thế mới của mình trong quan hệ với các nước Đông Nam Á. Có thể nói, phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế và quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Nếu không là

117

thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra.

4.1.3. Đối với việc giải quyết các tranh chấp, trong đó có tranh chấp

chủ quyền giữa Việt Nam với một số nước liên quan

Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng Tối cao của Hiệp ước TAC. Nội dung chính của Quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan trực tiếp đồng ý và chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải mà không sử dụng biện pháp cưỡng chế, mọi quyết định đều dựa trên nguyên tắc nhất trí. Trước đây, các tranh chấp kiểu này nếu không được giải quyết ổn thỏa trên cơ sở song phương, đa phương giữa các nước liên quan, thì thường được đưa lên Toà án quốc tế (ICJ - La Hay, Hà Lan). Tình hình này không có lợi cho vị thế, cho việc xây dựng tình đoàn kết, và tiến trình liên kết khu vực của các nước ASEAN. Việc các nước ASEAN thông quan được bộ nguyên tắc của Hội đồng tối cao của TAC vào tháng 7/2001 tạo lập một cơ sở pháp lý góp phần giải quyết các tranh chấp nội khối và các tranh chấp giữa các thành viên ASEAN với các đối tác ngoài khu vực một cách hoà bình và thỏa đáng hơn. Trong hoạt động của Hội đồng Tối cao, Việt Nam luôn chú ý tới việc duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến Hội đồng thành một tòa án khu vực với vai trò của một vài nước khống chế các quyết định của Hội đồng.

Việt Nam cũng kiên trì cùng các nước ASEAN khác đấu tranh bảo đảm nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ khi sử dụng ASEAN Troika trong giải quyết xung đột. Theo đó, ASEAN Troika không phải là một cơ chế thường xuyên, mà chỉ được lập ra khi cần thiết trên cơ sở sự nhất trí của tất cả 10 ngoại trưởng ASEAN. Hơn nữa, ASEAN Troika hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ, về chức năng ASEAN Troika không có thẩm quyền quyết định và chỉ đóng vai trò tư vấn cho các ngoại trưởng ASEAN. Như vậy, ASEAN Troika có thể được Việt Nam vận dụng như một phương tiện hữu ích giúp Việt Nam giải quyết tốt hơn các bất đồng, tranh chấp trong quá trình tham gia liên kết, hợp tác với các thành viên ASEAN khác, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị với các nước này.

Hiện nay trong các tranh chấp nổi lên vấn đề biển Đông. Đây là một vấn đề tranh chấp chủ quyền phức tạp liên quan đến Việt Nam với một số thành viên ASEAN, và với một trong những đối tác lớn của ASEAN là Trung Quốc. Gần đây, Trung Quốc có một số động thái đáng chú ý như xây dựng căn cứ tàu ngầm quy mô lớn ở Tam Á (Hải Nam, Trung Quốc), tập trận trên biển Đông,

118

gây sức ép với nhiều công ty kinh doanh dầu mỏ quốc tế trong việc tiến hành hợp tác khai thác với Việt Nam tại vùng biển này, hơn thế còn muốn cộng đồng quốc tế công nhận "đường lưỡi bò", tức là muốn xác lập chủ quyền toàn bộ vùng biển Đông. Cho đến nay có những tổng kết chỉ ra rằng, trong giải quyết vấn đề biển Đông, Trung Quốc chỉ tiến hành các đối thoại song phương, chia để trị; kết hợp con đường ngoại giao, tuyên truyền quốc tế về chủ quyền lãnh hải ở biển Đông với răn đe quân sự. Trong tình hình này, Việt Nam vừa cần tăng cường sức mạnh quốc phòng, vừa tăng cường nghiên cứu lịch sử liên quan đến vấn đề biển Đông, vận dụng luật quốc tế, thông tin và tuyên truyền các căn cứ lịch sử, pháp lý về chủ quyền lãnh hải của mình với cộng đồng quốc tế, để tranh thủ hơn nữa sự ủng hộ.

Việt Nam có thể hợp tác với các nước ASEAN để gia tăng sức nặng trong quá trình giải quyết vấn đề này. Nhờ sự kiên trì của ASEAN và do những tác động tích cực của ARF, Trung Quốc và ASEAN đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 tổ chức tại Phnôm-pênh (Cam-pu-chia) ngày 4/11/2002. Đây là một bước quan trọng nhằm tiến tới hoàn thiện Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Dự thảo Bộ Quy tắc này dựa trên cơ sở của những thoả thuận quan trọng mà Việt Nam đã đạt được với một số nước ASEAN, như: Thoả thuận hợp tác cùng khai thác nguồn tài nguyên vùng chống lấn giữa Việt Nam - Malaixia (5/6/1992); Thỏa thuận giữa Việt Nam - Thái Lan - Malaixia về hợp tác cùng khai thác dầu khí ở vùng chồng lấn giữa ba nước trên thềm lục địa; Thỏa thuận Việt Nam – Phi-lip-pin (7/11/1995) về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản giữa hai nước ở vùng biển Đông; Hiệp định phân định vùng chồng lấn giữa Việt Nam - Thái Lan trong vịnh Thái Lan (9/8/1997)... Đặc biệt, những nỗ lực của Việt Nam cùng Phi-lip-pin soạn thảo dự thảo Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (7/1999) chứa đựng nhiều nội dung được các nước hữu quan đánh giá với thái độ tích cực.

Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) là một thành tựu quan trọng trong hoạt động đối ngoại của ASEAN. DOC nhấn mạnh các bên liên quan trong khi chưa đi đến giải pháp cuối cùng thì cần tránh làm cho tình hình phức tạp và căng thẳng hơn, và cố gắng thông qua con đường thương lượng hoà bình để giải quyết vấn đề. Điều này có ý nghĩa tích cực đối với Việt Nam trong việc tăng cường đảm bảo chủ quyền lãnh thổ, giải quyết tranh chấp với các bên liên quan đặc biệt là Trung Quốc.

Đương nhiên cũng cần nhận thấy rằng, DOC không phải là một giải pháp, mà chỉ có ý nghĩa như một biện pháp góp phần điều phối quan hệ ASEAN với

119

Trung Quốc, làm dịu tình hình ở biển Đông. DOC không đề cập đến vùng tranh chấp, chỉ nêu những định hướng chung chung, mỗi bên liên quan trên thực tế có thể lý giải văn kiện này theo cách có lợi cho mình. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Trung Quốc lần thứ 13 (10/2010), Việt Nam cùng các nước ASEAN khác và Trung Quốc đã tiếp tục nhấn mạnh việc tuân thủ và thực hiện hiệu quả DOC, hơn nữa thúc đẩy hợp tác tiến tới thông qua Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cam kết giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển của Liên Hợp quốc.

Như vậy, trong giai đoạn hiện nay với tư cách là một thành viên có trách nhiệm, tích cực của ASEAN, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác vì phát triển ở Đông Nam Á; hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của từng nước thành viên cũng như cả Hiệp hội. Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn và coi trọng đúng mức tầm quan trọng chiến lược của ASEAN đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Việt Nam đánh giá cao ý nghĩa của việc gia nhập và tham gia hợp tác ASEAN, vì điều đó đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng, thiết thực về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại, mà bao trùm là tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như hỗ trợ Việt Nam hội nhập nhanh chóng và hiệu quả hơn với khu vực và thế giới.

4.2. Vai trò của hợp tác, liên kết ASEAN đối với Việt Nam trên lĩnh

vực kinh tế - xã hội

4.2.1 Vai trò của hợp tác, liên kết nội khối Việt Nam - ASEAN đối với

kinh tế - xã hội Việt Nam

Trong lĩnh vực thương mại, trong những năm qua, CEPT-AFTA góp phần thắt chặt hơn mối quan hệ thương mại của Việt Nam với ASEAN. Việt Nam đã cùng các nước ASEAN xây dựng Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp và được ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tháng 11/1996 làm cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện các hiệp định kinh tế ASEAN. Tổng cục Hải quan đã triển khai áp dụng Hành lang xanh (Green Lane) cho các hàng hóa CEPT-AFTA. Việc làm này góp phần làm thông thoáng lưu thông hàng hoá hai chiều giữa Việt nam với các nước ASEAN khác, làm tăng sức sống cho nền kinh tế các bên liên quan.

So với năm 1994, tức là năm trước khi Việt nam gia nhập ASEAN, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN đã tăng hàng chục lần. Thị trường ASEAN là nơi tiêu thụ khối lượng lớn nông sản nhất là gạo của Việt

120

Nam, đồng thời là nơi cung cấp nhiều máy móc thiết bị và nguyên vật liệu. Từ năm 1997 đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1,9 tỷ USD lên 2,5 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN ở mức 3,2% mỗi năm. Về nhập khẩu, kim ngạch tăng tương ứng từ 3,1 tỷ USD lên 4,5 tỷ USD. Năm 2009, kim ngạch thương mại với ASEAN chiếm 1/4 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Tác động có ý nghĩa nhất của các cam kết CEPT đối với nền kinh tế Việt Nam đó là bước đầu hình thành một số nhóm mặt hàng có sự liên kết nhất định ở cấp khu vực như hàng dệt may, điện tử và một số mặt hàng tiêu dùng như đồ gỗ, đồ nhựa và hoá mỹ phẩm các loại.

Tuy vậy, càng tham gia sâu hơn vào quá trình thực hiện CEPT-AFTA thì dường như đà tăng trưởng thương mại hai chiều Việt Nam và ASEAN lại có xu hướng giảm đi. Tỷ trọng kim ngạch thương mại Việt Nam - ASEAN trong tổng kim ngạch thương mại liên tục giảm từ 30% năm 1996 xuống 20-25% những năm 2002-2007. Nhiều mặt hàng có mức bảo hộ cao như điện tử, hàng tiêu dùng, giấy, xi măng... cũng đang chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ các nước thành viên ASEAN.

Sự kém hiệu quả của chương trình hợp tác của ASEAN không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà là vấn đề của cả hệ thống thực thi quá trình tự do hoá thương mại của ASEAN. Để cải thiện tình hình này ASEAN nhất trí tạo ra các bước đột phá mới trước hết bằng các nỗ lực tăng cường liên kết nội khối, hoàn thiện những nền tảng pháp lý và cơ chế thực thi các cam kết một cách chặt chẽ hơn. Tuy vậy, ASEAN cũng đang tự tạo nên cho mình những sức ép mới bằng việc thiết lập các quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn đối với các đối tác thương mại lớn ngoài khối, đưa đến xu hướng xây dựng FTA/BFTA với các đối tác ngoài ASEAN. Điều này đã đẩy một số nước ASEAN đi quá xa khỏi những nguyên tắc của ASEAN về tự do hoá thương mại. Tình hình này làm cho sự đoàn kết và phối hợp trong nội bộ của ASEAN đứng trước nhiều thử thách lớn. Một số nước thành viên hoàn toàn theo đuổi những lợi ích cục bộ, bỏ qua những đòi hỏi phối hợp ở cấp khu vực hoặc lợi dụng các khuôn khổ hợp tác của ASEAN với các bên đối thoại để xúc tiến các thoả thuận ưu đãi song phương.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đứng trước tình thế nhạy cảm cần được đánh giá đúng mức và có đối sách thích hợp. Tham gia vào các thoả thuận tự do hoá khu vực ASEAN và các bên đối tác cho phép Việt Nam và các thành viên mới được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt về thời gian cũng như phạm vi tự do hoá thương mại khi tham gia vào kế hoạch tự do hoá thương mại chung của ASEAN. Vậy nhưng, các nước ASEAN không chỉ tiếp cận trên cơ sở khu

121

vực, mà có thể thực hiện trên cơ sở song phương hoặc dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Chính đây là vấn đề có thể làm giảm những kết quả đạt được của Việt Nam trong khuôn khổ khu vực vì bất cứ khi nào những cam kết song phương cũng có thể dành cho các nước ASEAN khác sự ưu đãi cao hơn so với các cam kết trong khu vực. Do đó, Việt Nam có thể thiết lập các liên kết song phương có hiệu quả với các đối tác thương mại lớn, như rất nhiều thành viên ASEAN đang theo đuổi. Trên thực tế, một số thoả thuận song phương của Việt Nam với những đối tác lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ cũng đã mang lại những lợi ích thương mại thiết thực cho nền kinh tế Việt Nam.

Trong lĩnh vực đầu tư, Việt Nam đã tham gia Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, và đã cùng các nước thành viên ASEAN soạn thảo, ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định tại AEM-28 (12/1996), thực hiện Hiệp định về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). Ba ngành được đề nghị triển khai hợp tác AICO đầu tiên là ôtô, hóa chất và dệt, hơn nữa đến nay đã mở rộng sang các ngành khác. Đến năm 2005, FDI của ASEAN vào Việt Nam đạt gần 11 tỷ USD, chiếm 27% tổng vốn FDI ở Việt Nam. Hiện nay, các nước ASEAN có trên dưới 1000 dự án đầu tư đang triển khai, với số vốn trên 13 tỉ USD, chiếm khoảng 20% FDI đang triển khai ở Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng có trên 120 dự án đầu tư đang triển khai ở các nước ASEAN với tổng vốn 700 triệu USD. FDI của các nước ASEAN vào Việt Nam là một nguồn vốn quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Những dự án của các nước ASEAN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực như khai thác dầu khí, công nghiệp năng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, nông lâm thuỷ sản, khách sạn, du lịch, ngân hàng, tài chính. Các dự án này giải quyết hàng vạn công ăn việc làm cho người lao động.

Vấn đề thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường khả năng hội nhập của các thành viên cũng là một nội dung kinh tế được các thành viên ASEAN, đặc biệt là các thành viên mới như Việt Nam chú trọng. Trong những chương trình cụ thể thực hiện mục tiêu này tiêu biểu có Sáng kiến về Hội nhập ASEAN (IAI) và Chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS). IAI được thông qua không chính thức năm 2000 với mục tiêu thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN, hỗ trợ các nước ASEAN-4 (CLMV) hội nhập đầy đủ vào kinh tế khu vực và giảm đói nghèo. Kế hoạch này chính thức được phê duyệt tại Hội nghị bộ trưởng ASEAN lần thứ 34 tại Hà Nội tháng 7 năm 2001 thông qua Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển để hội nhập sâu hơn vào ASEAN. ASEAN lập ra nhóm đặc trách về các nước CLMV,

122

và mở ra Diễn đàn hợp tác và phát triển IAI (IDCF). Mục tiêu chính của IDCF là tìm kiếm tài trợ và kêu gọi đầu tư thực hiện IAI. Kế hoạch hành động IAI dành cho Việt Nam và các nước thành viên mới của ASEAN sự ưu tiên trong 4 lĩnh vực cơ bản với 7 nhóm chính là: Phát triển kết cấu hạ tầng (Giao thông và năng lượng), Phát triển nguồn nhân lực (xây dựng năng lực cho khu vực công, lao động và việc làm, giáo dục trình độ cao), Nâng cao trình độ công nghệ thông tin, Thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực (thương mại hàng hoá và dịch vụ, hải quan, các tiêu chuẩn, đầu tư), Phát triển du lịch, Xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống và Một số dự án mang tính điều phối.

Thời gian qua, các dự án IAI tập trung nhiều nhất vào phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, xây dựng năng lực cho khu vực công được đầu tư khá nhiều, tiếp đến là mảng hội nhập kinh tế. Các dự án hội nhập kinh tế tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nhóm các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin cũng có tiến triển khả quan. Các chương trình xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng sống ít nhận được sự quan tâm hơn cả. Bất cập này được khắc phục trong Kế hoạch hành động IAI giai đoạn 2 thời kỳ 2008-2015 thông qua vào tháng 6 năm 2007 với mục tiêu chiến lược là tập trung hỗ trợ thúc đẩy phát triển tại những khu vực nghèo và kém phát triển của các nước ASEAN. Cho đến nay, các dự án này đều mang lại kết quả nhất định cho Việt Nam và các thành viên mới của ASEAN. Các dự án này góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng của Việt Nam.

Trong quá trình triển khai các dự án, chương trình nói trên có một số yếu tố cần được quan tâm, xem xét để cải thiện chất lượng của các chương trình dự án. Một là, trong quá trình thiết kế và thực thi dự án, tỷ trọng tham gia của các nước thành viên ASEAN mới, trong đó có Việt Nam còn thấp. Điều này dẫn đến khả năng các thiết kế không thực sự phản ánh và đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của Việt Nam và các nước CLMV khác. Hai là, hoạt động điều phối cũng là một vấn đề cần cân nhắc để đảm bảo sự thành công của các dự án IAI. Quá trình thực hiện IAI ít nhất cũng liên quan tới một số mối quan hệ cơ bản sau: quan hệ giữa các nước CLMV, ASEAN-6, các đối tác đối thoại, các tổ chức phát triển; quan hệ giữa bản thân các nước ASEAN-6 trong quyết định triển khai các dự án hỗ trợ IAI; quan hệ giữa các nước CLMV và nhóm hành động IAI cũng như với bộ phận phụ trách IAI của Ban thư ký ASEAN. Từ đó để thấy rằng điều phối hoạt động để thực hiện thành công IAI là rất phức tạp. Và do đó, nếu không xử lý thành công vấn đề này thì hiệu quả thực hiện sẽ không cao.

123

Nhằm đẩy nhanh tiến trình thu hẹp khoảng cách về kinh tế trong khu vực và biến ASEAN thành một cộng đồng được kết nối thông suốt, không rào cản, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 15 vào tháng 10 năm 2009 (Hủa Hỉn, Thái Lan), các nhà lãnh đạo ASEAN đã ra tuyên bố về Sáng kiến kết nối ASEAN. Kế hoạch tổng thể kết nối ASEAN (ASEAN Connectivity) đã được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 17 cuối tháng 10 năm 2010 tại Hà Nội. Văn kiện đã quy hoạch tổng thể các dự án đã có và xây dựng các dự án mới, nhằm kết nối cơ sở hạ tầng bao gồm cả phần cứng như mạng lưới giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng và phần mềm như các cơ chế thuận lợi hóa lưu thông hàng hóa và con người trong nội bộ ASEAN. Ba kết nối chính được đề cập là kết nối về cơ sở hạ tầng, kết nối về thể chế, chính sách và kết nối về con người. Việc triển khai Kế hoạch kết nối này sẽ góp phần đẩy sâu tiến trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực, mở ra những cơ hội, không gian hợp tác mới và đặc biệt là đẩy nhanh nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam, các thành viên ASEAN mới và các thành viên ASEAN có trình độ kinh tế - xã hội phát triển hơn.

Quá trình hợp tác, liên kết kinh tế Việt Nam - ASEAN cũng là một quá trình tạo những thay đổi nhất định đối với phương thức vận hành, và cách thức hoạt động của nền kinh tế Việt Nam. Một là, góp phần định hướng lại mô hình tăng trưởng, chuyển sang mô hình cạnh tranh trên thị trường mở, thực chất là hướng ngoại, dựa vào xuất khẩu và trên cơ sở lợi thế so sánh. Hai là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các thể chế và nguyên tắc cơ bản của hệ thống kinh tế thị trường nhằm tạo một sân chơi bình đẳng và minh bạch, thúc đẩy quá trình hình thành các thể chế thị trường hiện đại. Ba là, đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chống độc quyền doanh nghiệp. Bốn là, thúc đẩy đầu tư tư nhân, góp phần quan trọng tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Năm là, góp phần thúc đẩy cải cách quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tăng cường hiệu lực điều hành và quản lý nhà nước, lấy yêu cầu hội nhập làm chuẩn để đặt ra mục tiêu, lộ trình cải cách.

Nhìn chung, hợp tác, liên kết kinh tế nội khối Việt Nam - ASEAN khá rộng và đa dạng. Việt Nam đã cố gắng trong những nỗ lực hợp tác của mình với tư cách là một nước thành viên. Việt Nam đang chủ động và tích cực đề ra những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy triển khai Hiệp định khung về 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN. Bên cạnh đó, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh việc tham gia thực hiện các thỏa thuận về tự do hóa mậu dịch đầu tư và dịch vụ trong ASEAN,

124

thúc đẩy liên kết kinh tế sâu rộng hơn. Đồng thời, Việt Nam nỗ lực phát huy vai trò chủ đạo trong việc thực hiện Sáng kiến liên kết ASEAN hỗ trợ các thành viên mới, các chương trình phát triển Tiểu vùng Mê Công, Hành lang Đông - Tây nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển và hỗ trợ liên kết kinh tế khu vực. Hợp tác liên kết Việt Nam-ASEAN cũng góp phần giúp Việt Nam tích luỹ thêm kinh nghiệm tham gia có hiệu quả vào các cơ chế lớn như APEC, WTO. Tuy nhiên, việc Việt Nam là một thành viên mới, lại có trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu hơn so với các thành viên khác; khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu; hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh; các thủ tục còn rườm rà và không ít bất cập với các hoạt động hợp tác ASEAN đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN những năm qua.

4.2.2 Vai trò của một số khuôn khổ hợp tác của ASEAN với các đối tác

bên ngoài đối với kinh tế - xã hội Việt Nam

* ASEAN+3 với Việt Nam ASEAN + 3 thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nền

kinh tế Đông Á nói chung, các nước Đông Bắc Á nói riêng.

Thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực tài chính tiền tệ của hợp tác ASEAN+3 là việc triển khai Sáng kiến Chiềng mai (Chiangmai Initiative). Theo đó, đến năm 2007 đã có 16 thoả thuận hoán đổi song phương (BSA) được ký kết giữa các nước Đông Á, trị giá hàng chục tỷ USD. Đây là các thoả thuận hoán đổi song phương giữa các nước ASEAN với 3 đối tác Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Mục đích là nhằm cung cấp vốn ngắn hạn dưới hình thức hoán đổi tiền tệ cho các nước tham gia khi gặp phải khó khăn về cán cân thanh toán hoặc về khả năng thanh toán trong thời gian ngắn hạn, giúp các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng giảm bớt sự phụ thuộc tài chính vào các nguồn vốn từ Mỹ và EU.

Ba nước Đông Bắc Á Trung quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hiện đều là các

đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam.

Quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc phát triển ngày càng mạnh mẽ. Kim ngạch thương mại hai chiều từ hơn 30 triệu USD vào năm 1991 tăng lên hơn 22 tỷ vào năm 2009, tăng gấp 700 lần. Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Nhưng cùng với tăng trưởng thương mại song phương, tình trạng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc ngày càng tăng. Trong 3 năm gần đây là năm 2007, 2008, 2009, Việt Nam liên tục nhập siêu giá trị hàng hoá trên dưới 10 tỷ USD từ Trung Quốc, hơn nữa tình trạng nhập siêu có xu hướng tăng liên tục. Nguyên nhân chính là do Trung Quốc chủ

125

yếu xuất khẩu hàng công nghiệp với số lượng lớn sang Việt Nam trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh kém, chủ yếu là xuất khẩu hàng thô.

Trong lĩnh vực đầu tư, trong vòng 10 năm trở lại đây, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng cả về số lượng lẫn quy mô dự án. Tuy nhiên vấn đề nổi cộm là đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam vẫn chưa thực sự tương xứng với quan hệ hai nước cũng như tiềm năng thị trường của Việt Nam và thực lực kinh tế của Trung Quốc. Nhìn chung, các dự án đầu tư của Trung Quốc có quy mô nhỏ, sử dụng công nghệ thấp, chủ yếu nhằm vào nhu cầu tiêu dùng phổ thông. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam), số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam trong năm 2009, đạt 180,4 triệu USD, chỉ chiếm 1,1% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm (16,35 tỷ USD). Dễ nhận thấy, có khoảng cách lớn về quy mô FDI của Trung Quốc vào Việt Nam khi so sánh với Nhật Bản và Hàn Quốc.

Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng tăng kể từ khi hai nước dành cho nhau quy chế thuế suất tối huệ quốc vào năm 1999. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là các sản phẩm thuỷ sản, dệt may, dầu thô, cáp điện, đồ gỗ. Trong khi đó, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản các mặt hàng cơ khí, sắt thép, điện tử, xe gắn máy, nguyên liệu dệt và da. Hiện nay, Nhật Bản là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.

Trong lĩnh vực đầu tư, tuy không đứng đầu về số dự án và số vốn đăng ký nhưng Nhật Bản lại đứng đầu trong việc giải ngân và thực hiện các dự án. Nhật Bản đang có các dự án lớn hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ USD đầu tư tại Việt Nam. Các dự án có xu hướng ngày càng thiên về công nghệ thông tin và các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao. Địa bàn đầu tư của các tập đoàn lớn đang có sự chuyển dần từ các tỉnh miền Nam ra các tỉnh miền Bắc.

Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam còn một số điều lưu ý. Một là, nguồn vốn FDI của Nhật Bản vẫn tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn có lợi thế về cơ sở hạ tầng và thị trường tiêu thụ, chứ ít đầu tư vào những vùng miền núi, những địa bàn xa xôi hẻo lánh. Hai là, trước làn sóng đầu tư mới của các nhà đầu tư Nhật Bản, các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam vẫn chưa phát triển tương ứng. Tỷ lệ nội địa hoá của các nhà sản xuất Nhật Bản tại Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với ở một số nước ASEAN khác như Thái Lan, Ma-lai-xia.

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (EPA) có hiệu lực từ 1/10/2009. Trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, 92% các mặt

126

hàng xuất khẩu giữa hai nước sẽ được miễn thuế. Hiệp định này được đánh giá là sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ thương mại và đầu tư song phương.

Trong lĩnh vực viện trợ phát triển chính thức (ODA), Nhật Bản là nước tài trợ lớn nhất cho Việt Nam. Từ năm 1992 đến năm 2007, đạt khoảng 13 tỷ USD, chiếm 30% tổng khối lượng ODA mà cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam. Chính sách viện trợ của Nhật Bản gắn chặt giữa cung cấp ODA với việc gia tăng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam, hoặc gắn ODA với thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi tích cực sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật Bản lần thứ 13 diễn ra vào tháng 10 năm 2010, Việt Nam cũng như các thành viên ASEAN đánh giá cao sự ủng hộ của Nhật Bản trong nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường kết nối ASEAN.

Hàn Quốc luôn nằm trong số những đối tác có quan hệ kinh tế lớn nhất với Việt Nam trong gần 20 năm qua. Trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, tốc độ tăng trưởng trung bình kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 1993-2008 là 27,9% và nhập khẩu từ Hàn Quốc là 20,7%. Từ giữa những năm 1990 đến nay, Hàn Quốc là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nhưng trong quan hệ thương mại hàng hoá với Hàn Quốc có đôi điều cần lưu ý. Một là, Việt Nam chịu thâm hụt thương mại khá nặng, nhập siêu năm 2008 từ Hàn Quốc là 5,2 tỷ USD. Hai là, tuy tỷ trọng hàng chế tạo trong xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc khá lớn, song chủ yếu lại là hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, và hàm lượng công nghệ không cao. Lĩnh vực đầu tư là một điểm sáng trong hợp tác kinh tế Việt - Hàn. Trong những năm 1990, các dự án đầu tư của Hàn Quốc tập trung vào Việt Nam chủ yếu là các dự án vừa và nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, thì từ năm 2000 trở lại đây, các dự án lại có sự chuyển hướng về quy mô, và chuyển sang các lĩnh vực công nghiệp nặng, công nghệ cao và dịch vụ như điện tử, sắt thép, xây dựng, năng lượng, văn phòng, khách sạn.

Hội nghị cấp cao ASEAN - Hàn Quốc lần thứ 13 (10/2010) đã nhất trí nâng quan hệ hai bên thành Đối tác chiến lược và thông qua Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược vì hòa bình, thịnh vượng. Đôi bên ghi nhận hài lòng kết quả tích cực trong việc triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố chung về Hợp tác và Đối tác toàn diện giai đoạn 2006 - 2010 và đã thông qua Kế hoạch hành động cho giai đoạn 2011- 2015 với nhiều biện pháp hợp tác quan trọng và thiết thực.

127

* GMS với Việt Nam Chương trình hợp tác phát triển tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực cho Việt Nam. Từ đầu những năm 1990 đến nay, trong tiểu vùng Mê Công mở rộng, đã có những sáng kiến hợp tác với nhiều cơ chế hợp tác đa phương có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của Việt Nam. Trong đó có hợp tác kinh tế trong GMS từ năm 1992 gồm 6 nước Trung Quốc, Mi-an-ma, Lào, Thái Lan, Cam-pu-chia, Việt Nam, diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương từ năm 1993, hợp tác trong Uỷ hội sông Mê Công gồm Cam-pu-chia – Lào – Thái Lan – Việt Nam, hợp tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mê Công (AMBDC) từ năm 1995, hợp tác tam giác phát triển Cam-pu-chia - Lào - Việt Nam từ năm 1999, hợp tác sông Mê Công - sông Hằng từ năm 2000, chiến lược hợp tác kinh tế Agiadady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS) gồm 5 nước Cam-pu-chia – Lào – Thái Lan – Myanma – Việt Nam từ năm 2003. Sự phát triển GMS làm gia tăng lưu lượng mậu dịch qua biên giới giữa Việt Nam với các nước trong tiểu vùng Mê Công mở rộng. Mặt khác, GMS kích thích sản xuất của nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi, nâng thêm tỷ trọng giá trị thương mại của Việt Nam. Đồng thời, nó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dịch vụ, khai thác phát huy thế mạnh các nguồn lực sản phẩm nông nghiệp của khu vực Tiểu vùng trong tiêu dùng. GMS góp phần tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống của các bộ phận dân cư trong phạm vi tác động của các dự án, các hành lang phát triển kinh tế. GMS xét trên thực tế hiện nay và triển vọng sẽ làm gia tăng thêm động lực phát triển bên trong của khu vực, góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa Việt Nam cũng như các thành viên mới của ASEAN với các nước thành viên khác, mở rộng và phát triển thị trường cạnh tranh của ASEAN.

Tham gia GMS, Việt Nam phát huy được lợi thế riêng trong cạnh tranh, tạo không gian hợp tác đa dạng hơn, thu hút quốc tế đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá trình Việt Nam liên kết hội nhập với khu vực và thế giới. Sự hợp tác trong một số lĩnh vực như cơ sở hạ tầng giao thông liên vùng đã tạo lập các hành lang phát triển kết nối vùng lãnh thổ và quốc gia. Các hành lang phát triển được coi là giải pháp tận dụng các yếu tố địa chiến lược, địa kinh tế, địa chính trị, địa an ninh và quan hệ quốc tế, kết nối sâu rộng Việt Nam với Đông Nam Á - Đông Bắc Á - Nam Á. Hội nghị GMS lần thứ 3 tổ chức tại Viên Chăn năm 2008 với chủ đề "Tăng cường cạnh

128

tranh thông qua kết nối sâu rộng hơn", trên cơ sở đánh giá những tiến triển trong hợp tác đã vạch ra Kế hoạch hành động phát triển GMS giai đoạn 2008 - 2012, tập trung vào 6 nội dung chính. Trong đó, trọng tâm là kết nối hạ tầng giao thông, năng lượng, viễn thông, coi đó là nền tảng để triển khai kết nối nguồn lực, con người, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của từng nền kinh tế GMS. Về hạ tầng giao thông, đây là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu, đồng thời là lĩnh vực hợp tác có kết quả nổi bật nhất, tập trung vào 3 hành lang kinh tế chính. Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) dài 1450 km bắt đầu từ thành phố cảng Maolamin (Mi-an-ma) chạy qua Thái Lan, Lào, đến Việt Nam. Hành lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC) gồm 3 tuyến theo trục Bắc Nam là Côn Minh - Chiềng rai - Băng cốc, Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Hà Nội. Hành lang kinh tế phía Nam (SEC) gồm 3 tuyến đường nối phía nam Thái Lan qua Cam-pu-chia với Việt Nam. Cuối tháng 8 năm 2010, dưới sự bảo trợ và nghiên cứu của ADB, bộ trưởng các nước ASEAN là Cam-pu-chia, Lào, Mi-an- ma, Việt Nam, Thái Lan và đối tác Trung Quốc đã tổ chức hội nghị xem xét việc thành lập 4 tuyến đường trong vùng này. Trong đó tuyến đường khả quan nhất là tuyến chạy từ Băng Cốc đến Phnôm-pênh, qua thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và đến hai thành phố Nam Ninh cùng Côn Minh của Trung Quốc. Tuyến đường này chủ yếu sử dụng các đoạn đường sắt sẵn có. Phần khuyết thiếu duy nhất hiện nay trên tuyến đường nằm giữa Phnôm-pênh và thành phố Hồ Chí Minh với chi phí hoàn thành ước tính 1,09 tỷ USD. Việc nâng cấp các tuyến hiện có hết khoảng 7 tỷ USD. Cũng theo bản kế hoạch, dự kiến tới năm 2025, khoảng 3,2 triệu lượt khách và 23 triệu tấn hàng hoá được chuyên chở trên tuyến đường này.

Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị cấp cao giữa ASEAN và các đối tác, Hội nghị cấp cao Mê Công – Nhật Bản lần thứ 2 diễn ra vào 29/10/2010 đã ghi nhận nhiều chương trình, dự án thuộc "Chương trình Hành động 63 điểm" đã và đang được triển khai, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông và các lĩnh vực khác như phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân v.v. Hội nghị cũng đánh giá cao việc thực hiện 2 sáng kiến của Việt Nam nêu tại Hội nghị cấp cao Mê Công - Nhật Bản lần thứ 1: xây dựng Dự án Trung tâm đào tạo Mê Công - Nhật Bản đặt tại Vĩnh Phúc và việc Nhật Bản tài trợ cho các dự án của Uỷ hội Mê Công nhằm quản lý nguồn nước vào mùa lũ và mùa cạn. Các nước tham gia Hội nghị cũng đã nhất trí thông qua Chương trình hành

129

động triển khai sáng kiến "Hướng tới thập kỷ Mê Công xanh" và Chương trình hành động "Sáng kiến hợp tác Kinh tế Công nghiệp Mê Công - Nhật Bản". Có thể nói, GMS có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam trên các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, truyền tải điện năng, bưu chính viễn thông, du lịch, việc làm, mở rộng thu hút đầu tư, phối hợp bảo vệ môi trường. Những điều này giúp Việt Nam thúc đẩy tiến bộ kinh tế - xã hội, phát triển các quan hệ đối ngoại song phương, đa phương, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà còn góp phần tạo một vùng biên ổn định, hữu nghị hơn. Nói rộng hơn, thông qua GMS, sự đồng thuận lợi ích kinh tế giữa Việt Nam và các nước liên quan tăng lên, từ đó thúc đẩy hợp tác an ninh, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường. Nhưng cũng cần nhận thấy rằng, tình hình chính trị, an ninh khu vực trong còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn định cùng với lối sống văn hoá và trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các nước tiểu vùng còn nhiều khác biệt. Trong tuyên bố chung của GMS-3, các nhà lãnh đạo 6 nước GMS và chủ tịch ADB đã nhấn mạnh những thách thức như dịch bệnh, buôn bán ma tuý, buôn bán phụ nữ, trẻ em, biến đổi khí hậu. Đây là những khó khăn không nhỏ mà Việt Nam phải tính đến trong qua trình tham gia GMS, và cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế hậu quả tiêu cực của nó.

* ACFTA với Việt Nam Theo kế hoạch, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) sẽ hoàn thành trong vòng 10 năm. Trung Quốc và ASEAN-6 sẽ hoàn thành cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư sớm hơn 5 năm bắt đầu từ ngày 1/1/2005 và hoàn thành vào năm 2010. ASEAN-4 sẽ hoàn thành lịch trình vào năm 2015. Để khuyến khích các nước ASEAN tiếp tục xây dựng khu vực tự do với mình, Trung Quốc đã đề nghị một chương trình Thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA (EHP) kéo dài 3 năm. Theo EHP, thời gian thực hiện và cắt giảm thuế xuống 0% sẽ sớm hơn và nhanh hơn so với lộ trình 10 năm xây dựng ACFTA. Đối với Việt Nam, thời hạn thực hiện cắt giảm sẽ bắt đầu từ 1/1/2004 đến hết năm 2008 so với mức thuế suất MFN ở thời điểm 1/7/2003. Hầu hết các mặt hàng tham gia EHP của Việt nam đều có lợi thế xuất khẩu và có khả năng tăng xuất khẩu theo chương trình EHP. Thực hiện EHP, Việt Nam đã ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu của Việt Nam cho các năm 2004 - 2008 với việc giảm 484 dòng thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản, thuỷ sản. Trong khi đó, Trung Quốc phải cắt

130

giảm 536 dòng thuế đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là nước có lợi thế nhất trong thực hiện EHP.

Các nhóm mặt hàng Việt Nam cắt giảm thuế đều không phải thế mạnh xuất khẩu của Trung Quốc sang thị trường Việt Nam. Các nhóm mặt hàng này bao gồm các loại trứng chim, hải sản, nấm, hoa quả tươi, thịt gà, một số giống cây, thường đi đường tiểu ngạch hoặc nhập về sản xuất với số lượng ít. Theo thống kê của bộ Tài chính, có 2 nhóm mặt hàng chủ lực trong EHP mà Việt Nam xuất khẩu nhiều, gồm thủy sản, và hoa quả tươi, hạt điều. Tham gia EHP, thuế nhập khẩu của Trung Quốc đánh vào các mặt hàng này giảm mạnh. Đây là một nhân tố thuận lợi để Việt Nam tăng kim ngạch những mặt hàng này vào Trung Quốc. Nhiều sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam như trái cây, cao su, dầu cọ đều có thị trường tiêu thụ lớn ở Trung Quốc. Vùng miền tây Trung Quốc tương đối lạc hậu là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác kinh doanh thuỷ sản và hoa quả nhiệt đới.

Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng nông sản là mặt hàng có tính thời vụ, giá cả phụ thuộc vào sản lượng thu hoạch và thời tiết. Trong khi đó, hiện nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông sản sơ chế, vì vậy giá trị sản phẩm chưa cao. Điều này đặt ra vấn đề nâng cao giá trị gia tăng cho mặt hàng nông sản. Về tổng thể, Việt Nam đang nhập siêu từ Trung Quốc, nhưng đang xuất siêu các mặt hàng trong chương trình EHP. Việc thực hiện ACFTA cũng góp phần làm thông thoáng hoạt động mậu biên với mức thuế suất giảm dần tới không. Đây là một động lực thúc đẩy hợp tác biên giới trên đất liền, và duyên hải phát triển năng động, với quy mô lớn hơn của Việt Nam với Trung Quốc. Khi ACFTA được thực hiện, Việt Nam cũng có cơ hội là nơi trung chuyển hàng hoá giữa Trung Quốc và ASEAN. Một số tỉnh biên giới phía bắc như Lạng Sơn có thế mạnh lớn về địa lý. Hiện kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh này mỗi năm cũng đạt có số 1 tỷ USD. Các tỉnh có hoạt động biên mậu với Trung Quốc sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng nhanh theo hướng gia tăng tỷ trọng thương mại và dịch vụ, xây dựng cơ bản, về cơ cấu thành phần kinh tế, thì một bộ phận nông dân và các nghề có thu nhập thấp chuyển sang kinh doanh cá thể, hoặc thành lập các doanh nghiệp. Quá trình này cũng làm gia tăng dân số đô thị, giảm dân số nông thôn. Cùng với nhu cầu giao lưu kinh tế, phương tiện nghe nhìn, giao thông, bưu chính viễn thông cũng sẽ ngày càng phát triển. Các tỉnh làm biên mậu cũng có điều kiện thu hút nguồn khách du lịch quốc tế.

131

Bên cạnh những thuận lợi, quá trình tham gia ACFTA của Việt Nam cũng có những thách thức, khó khăn. Một là, về cơ cấu mặt hàng, hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng nông lâm thuỷ sản sang Trung Quốc, và nhập hàng công nghiệp của Trung Quốc. Điều này không có lợi cho Việt Nam trong quan hệ thương mại, và đặc biệt là trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

Hai là, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc cao hơn của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy Việt Nam đã có nhiều mặt hàng tiêu dùng được người Trung Quốc chấp nhận như giày dép Bitis, đệm Kym Đan, bánh kẹo Hải Hà, cà phê Trung Nguyên, nhưng nhìn chung, hàng tiêu dùng Việt Nam khó chen sâu thị trường nội địa Trung Quốc, khó khăn trong xuất khẩu chính ngạch. Ngay trong các ngành hàng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giày thì các doanh nghiệp Trung Quốc vẫn tỏ ra lấn át.

Ba là, chất lượng và tốc độ phát triển giao thông phục vụ giao lưu, phát triển kinh tế với các nước khu vực còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến tốc độ lưu thông thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc trong quá trình thực hiện ACFTA.

Bốn là, sau khi gia nhập WTO vào năm 2001, Trung Quốc càng có ưu thế trong việc thu hút FDI. Thay đổi điều này là không dễ vì điều này liên quan đến năng lực cạnh tranh tổng thể của cả nền kinh tế.

Năm là, cùng với quá trình giao lưu kinh tế quốc tế tăng mạnh, vấn đề quản lý trị an xã hội cần được quan tâm sát sao hơn. Thực tế cho thấy các hoạt động buôn lậu, buôn hàng cấm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, du nhập văn hoá phẩm đồi truỵ, tội phạm xuyên quốc gia đang cần sự phối hợp của không chỉ các bộ ngành trong nước, mà còn cần sự phối hợp liên quốc gia, đặc biệt là các tỉnh có đường biên giới với các nước láng giềng.

Sáu là, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa kịp cập nhật thông tin về chính sách, pháp luật, thông tin thị trường, thông tin kinh tế của thị trường khu vực để có thể thích ứng tốt hơn với những diễn biến mau lẹ của thị trường. Tóm lại: Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của ASEAN và là một thành viên có trách nhiệm của gia đình ASEAN. Khu vực Đông Nam Á và ASEAN có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam, vì nó liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam luôn xác định tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết trong ASEAN, xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ

132

song phương, là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt Nam.

Việc cải thiện quan hệ và chính thức gia nhập ASEAN (7/1995) đã góp phần giúp Việt Nam từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc và thù địch, hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế và quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Thành công đạt được trong chính sách với ASEAN trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng nhất thúc đẩy quan hệ đối ngoại của Việt Nam được mở rộng, thực lực của đất nước được tăng cường, vị thế ở khu vực và trên trường quốc tế được nâng cao không ngừng trong 24 năm đổi mới vừa qua. Mặt khác, cũng cần nhận thấy Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt và giải quyết rất nhiều khó khăn, thách thức cả tạm thời cũng như dài hạn trong tiến trình hợp tác, hội nhập khu vực và quốc tế. Bước sang giai đoạn mới, trong quan hệ với ASEAN, Việt Nam tiếp tục dành ưu tiên cao đối với việc tham gia tích cực, chủ động và có trách nhiệm, góp phần cùng các nước thành viên xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN. Việt Nam sẽ tiếp tục góp phần thiết thực và quan trọng vào sự phát triển của Hiệp hội, vì lợi ích to lớn của người dân ASEAN hiện nay cũng như trong tương lai.

133

Phần thứ ba TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020

1. TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN ĐẾN NĂM 2020 1.1. Dự báo những nét lớn của tình hình thế giới và khu vực đến 2020

có ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam - ASEAN

* Trong thập niên tới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, song tình hình an ninh thế giới sẽ còn nhiều bất trắc khó lường. Đấu tranh giữa hai xu thế “đơn cực” và “đa cực”, “đơn phương” và “đa phương” diễn ra với ưu thế của “đa cực”, “đa phương”. Xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai chưa có chiều hướng giảm và vẫn gây mất ổn định ở nhiều khu vực.

Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực với cuộc đối đầu Đông - Tây gay gắt không còn tồn tại. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới diễn biến phức tạp nhưng có xu hướng tiến tới đa cực với sự nổi lên của nhiều trung tâm quyền lực cạnh tranh nhau và chi phối đời sống chính trị quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hầu như tất cả các nước, các bên đều đã từng nếm trải và phải trả giá cho chiến tranh, đều thấy sự cần thiết của sự đàm phán thương lượng thay cho gây hấn, xung đột để giải quyết các tranh chấp. Nước Mỹ tuy hùng mạnh như vậy nhưng cũng không thể tạo ra trật tự thế giới một cực theo ý của mình. Các cường quốc vẫn đang theo đuổi xu hướng đa cực chính trị. Ngay cả các đồng minh của Mỹ cũng ngày càng bất bình chính sách cường quyền của Mỹ. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là muốn ngồi lại đàm phán, hiệp thương để cùng giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn. Đó là cơ sở cho hòa bình được kiến tạo. Thế giới ngày nay đã có những nhân tố làm cho hòa bình vượt trội hơn nhân tố chiến tranh.

Diễn biến phức tạp của tình hình an ninh chính trị thế giới với những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải có những nỗ lực chung nhằm duy trì hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội.

134

Toàn cầu hóa đặt nhân loại trước hàng loạt các vấn đề cấp bách mà con đường và phương thức giải quyết nó chỉ có thể là hòa bình, hợp tác cùng phát triển. Sự bùng nổ dân số, sự cạn kiệt tài nguyên, môi trường sinh thái bị tàn phá; nạn nghèo đói, bệnh tật hiểm nghèo, nạn mù chữ, thất học; sự phân hóa giàu nghèo... đã và đang là những vấn đề toàn cầu cấp bách đòi hỏi sự hợp tác giải quyết của mọi quốc gia trên thế giới không ngoại trừ ai. Thế giới đang cần môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển để cùng chung tay giải quyết các vấn đề trên, hòa bình hợp tác cùng phát triển là nguyện vọng của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Trong thế kỷ XX vì sự tranh giành của cải, tài nguyên và quyền lực, mà các nước đế quốc đã phát động các cuộc chiến tranh thế giới cũng như chiến tranh cục bộ để lại những hậu quả thảm khốc cho nhân loại. Với thực tế đó, nhân dân các nước đều không muốn thấy bất cứ quốc gia hay tập đoàn chính trị nào tiến hành cường quyền mới. Vì nếu chiến tranh thế giới nổ ra một lần nữa sẽ là chiến tranh hạt nhân, mà hậu quả của nó là khôn lường với sự hủy diệt toàn bộ nền văn minh trên trái đất.

Quan hệ giữa toàn cầu hoá kinh tế với chủ quyền quốc gia là một tiêu điểm hàng đầu của chính trị quốc tế ngày nay. Cùng với đà phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế, về khách quan đã đặt ra những thách thức đối với chủ quyền quốc gia. Nhiều người đã cho rằng: chủ quyền quốc gia đã từ tuyệt đối trước đây chuyển sang tương đối. Họ lập luận rằng: Toàn cầu hoá kinh tế về thực chất là quá trình xuyên quốc gia, mục tiêu cuối cùng là nhất thể hoá kinh tế thế giới, điều đó tất yếu đòi hỏi xoá bỏ hàng rào quốc gia và nhà nước dân tộc; rằng quyền lực riêng mỗi nước ngày càng chuyển dần cho quyền lực chung của cộng đồng quốc tế; rằng nhượng bớt chủ quyền, thực thi chủ quyền hạn chế đã trở thành yêu cầu khách quan của thời đại toàn cầu hoá... Nhưng họ đã nhầm, thực tế lịch sử gần 20 năm sau Chiến tranh lạnh đã chứng minh điều ngược lại. Cùng với quá trình toàn cầu hoá: ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của các dân tộc ngày càng được nâng cao, các cuộc đấu tranh chống áp đặt, cường quyền trong quan hệ quốc tế, chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới ngày càng sôi nổi và rộng khắp.

Sự phát triển của khoa học - công nghệ: Khoa học - công nghệ hiện đại ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí tuệ hoá lao động ngày càng trở nên phổ biến,... đang làm tăng nhu cầu và khả năng hợp tác và phát triển ở các cấp độ cá nhân, xã hội, quốc gia và quốc tế. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, của lực lượng sản xuất hiện đại dẫn đến những biến đổi khá mạnh mẽ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, buộc các quốc gia

135

và cả cộng đồng quốc tế phải có những thay đổi trong các lĩnh vực quản lý kinh tế và xã hội.

Kinh tế thị trường trở nên phổ biến trên quy mô toàn cầu làm gia tăng nhu cầu về cung ứng vốn, công nghệ và lao động; gia tăng nhu cầu mở rộng thị trường và tìm kiếm lợi nhuận; gia tăng nhu cầu về ổn định, hợp tác và cạnh tranh... Sự hình thành nền kinh tế tri thức, theo đó, sản xuất, sử dụng và quảng bá tri thức ngày càng trở nên phổ biến; thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành dịch vụ; hình thành phân công lao động toàn cầu với cấu trúc mạnh; tốc độ phát triển nhanh, hiệu quả kinh tế lớn; phát triển, khai thác nguồn lực con người trở nên chủ yếu; kinh tế tri thức làm tăng nhu cầu, khả năng về hoà bình, hợp tác và phát triển...

Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục làm gia tăng số lượng, quy mô và vai trò của các công ty xuyên quốc gia; thúc đẩy tiến bộ khoa học và chuyển giao công nghệ; đẩy mạnh tự do hoá thương mại; đẩy mạnh chu chuyển vốn đầu tư; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế (ở những nước chuyển đổi cơ chế kinh tế); mở rộng thị trường; cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng; nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các quốc gia; thúc đẩy giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế...

Hướng phát triển chủ yếu của thế giới đương đại là đua tranh kinh tế trên tinh thần hợp tác xây dựng cùng phát triển chứ không phải theo hướng đối đầu, xâm lược, thôn tính lẫn nhau bằng vũ lực và chiến tranh như trước. Có sự khác biệt trên bởi toàn cầu hoá đã làm gia tăng tính tùy thuộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng sâu sắc hơn. Vì vậy, các nước cần có hòa bình như một tất yếu để tồn tại, để hợp tác liên kết với nhau cùng phát triển. Một sự kiện xảy ra ở một điểm (cục bộ) đều ảnh hưởng và liên lụy chung đến toàn bộ thế giới. Nên hòa bình hợp tác và phát triển là sự lựa chọn chung của các quốc gia trên thế giới.

Như vậy là, thế giới hiện đại và giàu có như vậy, nhưng cũng vô cùng mong manh, bấp bênh, dễ tan vỡ, hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào nếu sức mạnh bảo vệ hòa bình, sự sống và hợp tác phát triển không được phát huy. Với tất cả những điều trên cho thấy: Hòa bình, hợp tác và phát triển là thông điệp nghiêm túc nhất, là tiếng nói của lương tri, công lý, là sự sống của các thế hệ hôm nay và mai sau. Chính điều này qui định tính khách quan tất yếu của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới trong thập niên tới.

136

Trong quá trình hình thành trật tự thế giới mới, xu thế “đa cực” có ưu thế so với xu thế “đơn cực”. Nguyên nhân chủ yếu trước hết là do sự xuống dốc của siêu cường kinh tế Mỹ và sự phát triển mạnh mẽ của các trung tâm kinh tế mới.

- Vị thế siêu cường của Mỹ giảm sút: Năm 2010 không chỉ là cột mốc đánh dấu kết thúc thập kỷ đầu tiên trong thế kỷ XXI mà còn chứng kiến vị thế siêu cường số một thế giới của nước Mỹ đã bị giảm sút mạnh sau các cuộc phiêu lưu quân sự bất thành và cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ những năm 30 của thế kỷ trước. Có lẽ, trong tương lai gần, Mỹ khó có thể lấy được vị thế đã mất trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của các trung tâm sức mạnh khác đang thách thức Oa-sinh-tơn về nhiều phương diện. Mấy năm gần đây, dư luận quốc tế, kể cả Báo cáo "Kế hoạch đến năm 2020" (Project 2020) của Hội đồng Tình báo quốc gia Mỹ (công bố ngày 6-1-2005), đều có đánh giá tương đối thống nhất như "Chủ nghĩa khu vực mới: dịch chuyển tới đa cực", "Một siêu cường kém siêu cường hơn", "Siêu cường duy nhất đang tụt dốc, thế giới đa cực đang lên", "Quyền lực của Mỹ đang xói mòn"... Sự suy yếu vị thế siêu cường của Mỹ thể hiện trên nhiều mặt.

Về kinh tế, theo số liệu của IMF, khi bước sang thế kỷ XXI, nước Mỹ chiếm 32% GDP của thế giới. Đến thời điểm kết thúc thập niên đầu tiên của thế kỷ này, nền kinh tế Mỹ tụt dốc xuống tới mức chỉ còn chiếm 24% GDP toàn thế giới. Trong khi mức thu nhập bình quân của các gia đình Mỹ không tăng thì nợ nhà nước liên bang tăng với tốc độ phi nước kiệu, gấp 2 lần so với trước đó một thập niên. Mỹ đã từng là một quốc gia có nền kinh tế sản xuất ra hơn 96% hàng hóa tiêu dùng, còn hiện nay nước Mỹ hoàn toàn phụ thuộc vào những nước xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ và dùng chính số tiền bán hàng hóa để mua trái phiếu của Mỹ. Với cách làm đó, Trung Quốc đã sở hữu gần 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ của Mỹ và đã trở thành quốc gia đóng vai trọng quan trọng đối với Mỹ, được ví như vai trò của nước Anh với Mỹ trong những năm đầu tiên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xây dựng nền cộng hòa.

Về quân sự, vụ khủng bố ngày 11/9/2001 được ví như “Trân Châu Cảng thế kỷ XXI” đã làm đảo lộn mọi thứ ở nước Mỹ. Sau sự kiện này, Mỹ lâm vào các cuộc chiến tranh kéo dài và tốn kém bên ngoài lãnh thổ. Mỹ không những không giành được chiến thắng trong “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố” mà còn khiến khủng bố lan rộng, đe dọa an ninh quốc gia Mỹ. Hiện chưa có bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ Oa-sinh-tơn sẽ sớm kết thúc cuộc chiến đó mặc dù Mỹ đã tổn thất hơn 5.200 sinh mạng và tiêu tốn hơn 1.000 tỷ USD. Quyết định tăng thêm 300.000 quân đến Ap-ga-ni-xtan được chính dư luận ở Mỹ đánh giá

137

là bước leo thang chiến tranh nguy hiểm và đầy khinh suất. Bằng quyết định đó, Ô-ba-ma đã đào sâu thêm vũng lầy vốn đã khó thoát ra đối với giới quân sự Mỹ, tiếp tục tiêu tốn tiền bạc và của cải vốn không phải là vô tận của một quốc gia đang thâm hụt ngân sách và trở thành con nợ lớn nhất hành tinh.

- Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các cường quốc: Đồng thời với sự suy giảm vị thế chiến lược của Mỹ, Nhật Bản và nhiều nước châu Âu là sự vươn lên mạnh mẽ của các nước mới và tái trỗi dậy, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin và Nga. Theo hàng loạt chỉ số thống kê trong các Báo cáo viễn cảnh kinh tế thế giới (WEO) của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) những năm gần đây, trọng tâm kinh tế thế giới đang dịch chuyển từ các nền kinh tế phát triển sang các nền kinh tế mới trỗi dậy, chủ yếu là ở châu Á. Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đã trở thành nền kinhh tế lớn thứ hai sau Mỹ. Tính theo sức mua tương đương, GDP của Trung Quốc bằng 76% GDP; còn nếu tính theo tỷ giá hối đoái, Trung Quốc đã vượt Anh (từ 2005), vượt Đức (2007), sẽ vượt Mỹ (2025 hoặc 2040). Nền kinh tế Nga hiện đứng thứ 7 sẽ lọt vào tốp 4 nước dẫn đầu thế giới vào năm 2020. Nền kinh tế Ấn Độ - tính theo sức mua tương đương - đứng thứ 3 thế giới vào 2006 và sẽ vẫn giữ vị trí này trong tương lai. Theo dự báo của IMF, trong vòng 5 năm tới, các nền kinh tế mới và tái trỗi dậy sẽ tăng trưởng trung bình 6,8%/năm, trong khi các nền kinh tế phát triển chỉ tăng 2,7%/năm. Nếu các nước này tiếp tục tăng trưởng với nhịp điệu đó thì trong vòng 20 năm tới, các nền kinh tế mới và tái trỗi dậy sẽ chiếm hai phần ba tổng sản lượng kinh tế toàn cầu (theo sức mua tương đương).

Như vậy là sự dịch chuyển sức mạnh toàn cầu, trước hết là sức mạnh kinh tế, đang trong quá trình hình thành. Một khi cán cân sức mạnh kinh tế trên thế giới thay đổi, tất yếu về lâu dài cán cân sức mạnh chính trị cũng không thể không thay đổi. Cục diện thế giới đã và đang trải qua nhiều thời điểm biến động. Mỹ không còn là siêu cường ở đỉnh cao quyền lực đóng vai thống soái trong công việc quốc tế như cách đây một thập niên. Thế giới đơn cực đang chuyển dịch sang đa cực. Đây là một quá trình trong đó vai trò chi phối của Mỹ giảm sút dần, vai trò của các cường quốc đang trỗi dậy cùng các nước trung bình và nhỏ năng động ngày càng lớn mạnh và trở thành chủ đạo.

- Xu hướng hợp tác “đa phương” chiếm ưu thế so với “đơn phương: Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay thì xu hướng hợp tác đa phương là tất yếu. Với sự phát triển của khoa học công nghệ và các phương tiên thông tin hiện đại, khoảng cách về không gian địa lý giữa mọi quốc gia trên thế giới gần như đã bị xoá bỏ. Các nước trên thế giới ngày càng gắn kết và ảnh hưởng lẫn

138

nhau cả về kinh tế, văn hóa, chính trị. Toàn cầu hóa buộc các nước phải hợp tác với nhau để cùng phát triển. Các nước tăng cường quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực, hợp tác song phương cũng như đa phương, trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Điều này thể hiện rõ qua nhưng cuộc gặp song phương, đa phương của các nhà lãnh đạo các tổ chức quốc tế cũng như các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, các vấn đề toàn cầu như đói nghèo, bệnh tật, khủng bố, tội phạm toàn cầu, vấn đề môi trường, sư thay đổi khí hậu,… đang ngày càng nghiêm trọng và cũng yêu cầu sự hợp tác giải quyết của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hội nghị hàng năm của Liên hợp quốc được tổ chức với sự tham gia của 192 quốc gia trên thế giới nhằm liên kết các nước cùng chung tay tìm ra giải pháp cho các vấn đề toàn cầu.

Nhận thức rõ xu hướng tất yếu của giai đoạn hiện nay là hợp tác đa phương, Việt Nam cũng đang tăng cường mở rộng hợp tác với các quốc gia không chỉ trong khu vực mà còn với tất cả các nước với chủ trương: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với mọi quốc gia trên thế giới vì một mục đích chung đó là hợp tác cùng phát triển. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã và đang tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế cũng như hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức toàn cầu. Việt Nam cũng tích cực ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. Những nỗ lực này thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của Việt Nam đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

- Xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai chưa có chiều hướng giảm và gây mất ổn định ở nhiều khu vực: Những năm gần đây, vấn đề xung đột sắc tộc, tôn giáo, ly khai đang ngày càng nghiêm trọng và không có dấu hiệu giảm. Các cuộc xung đột này hàng năm đã khiến hàng nghìn người thiệt mạng, không chỉ làm mất ổn định trong mỗi khu vực mà còn ảnh hưởng ngày càng lớn đến quan hệ quốc tế. Nhiều khu vực trên thế giới đang trở thành điểm nóng về khủng bố và đánh bom liều chết, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai. Vấn đề này có ở phần lớn mọi khu vực trên thế giới. Ở khu vực Trung Đông có xung đột: Ix-ra-en – Pa-le-xtin, Li-băng – Ix-ra-en, Irắc, Iran, Áp-ga-ni-xtan – Hoa kỳ, Ấn độ - Pa- ki-xtan,… Ở Đông Á, Đông Bắc Á có các cuộc xung đột: Bắc Triều Tiên – Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc – Đài Loan, Nhật Bản – Trung Quốc,… Ở Đông Nam Á: In-đô-nê-xia – Phi-lip-pin, Thái Lan – Cam-pu-chia, Thái Lan – Mi-an-

139

ma, đặc biệt nổi lên vấn đề tranh chấp biển Đông giữa Việt Nam, Trung Quốc, Phi-lip-pin, Ma-lai-xia, Đài Loan,… ngoài ra còn có vấn đề ly khai của nhiều vùng tự trị tại các quốc gia như vùng Tân Cương, Tây Tạng của Trung Quốc, Aceh ở In-đô-nê-xia… Các vấn đề này vẫn đang diễn biến vô cùng phức tạp và dù đã có sự tham gia của các tổ chức quốc tế cũng như nỗ lực của chính phủ mỗi quốc gia nhưng vẫn chưa tìm ra giải pháp khắc phục triệt để.

* Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn sẽ diễn ra nhanh và linh

hoạt

- Mỹ tiếp tục theo đuổi mục tiêu duy trì vị trí siêu cường và chi phối tình

hình quốc tế, nhưng sẽ phải thoả hiệp nhiều hơn với các nước lớn khác.

Như đã phân tích ở trên, thế giới đang chuyển từ thế giới đơn cực sang đa cực, Mỹ đã đánh mất vị trí siêu cường trong khi các quốc gia khác trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ và đang chi phối dần nền kinh tế toàn cầu. Điều này tất yếu buộc Mỹ phải thay đổi chính sách đối ngoại phù hợp để có thể khôi phục vị trí siêu cường và tiếp tục gây ảnh hưởng được với các nước khác. Qua những gì mà Ô- ba-ma đã và đang làm thông qua chính sách đối ngoại mới kể từ khi nhậm chức ta có thể thấy rõ điều này. Trong bài diễn văn nhậm chức ngày 20/1/2009, Tổng thống Ô-ba-ma nêu rõ chính sách của chính quyền mới sẽ chú trọng hơn đến chủ nghĩa đa phương, tính nhân văn và sự kiềm chế, Mỹ sẽ triển khai chính sách theo hướng tập trung nhiều vào việc xây dựng và củng cố các thiết chế quốc tế có lợi cho lợi ích của Mỹ, tăng cường hỗ trợ phát triển toàn cầu, đầu tư nhiều hơn cho ngoại giao công, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, khuyến khích sự phát triển của công nghệ và sự sáng tạo. Ô-ba-ma cũng tăng cường chú trọng quan hệ với các lớn như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản cũng như tăng cường sự ảnh hưởng với các nước khu vực châu Á và Đông Nam Á. Ô-ba-ma đã thực hiện ngay chuyến thăm đến một loạt nước trong khu vực châu Á một thời gian ngắn sau khi nhậm chức, có hàng loạt những chuyến thăm, ký kết các hiệp định hợp tác song phương với Trung Quốc, Nga, Nhật, Ấn Độ, …Nước Mỹ đang có những thay đổi đang kể về chính sách đối ngoại trong giai đoạn mới, Ô-ba-ma gọi đây là “chính sách đối ngoài mềm”, “chính sách đối ngoại thông minh” nhưng dù là chính sách đối ngoại gì, và dù có thay đổi chính sách như thế nào Mỹ cũng sẽ không thay đổi mục đích cuối cùng là tiếp tục theo đuổi mục tiêu bá chủ thế giới.

- Trung Quốc ưu tiên duy trì ổn định ở trong nước, tăng cường thế và lực thông qua phát triển kinh tế, ổn định quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác, chủ động can dự vào khu vực và phát huy ảnh hưởng tại khu vực, thể hiện vai trò

140

nước lớn. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua, khi mà các nước lớn như Mỹ phải đối mặt với sự suy giảm kinh tế nghiêm trọng thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng mạnh. Trung Quốc đã triển khai một “chính sách kích thích kinh tế rất thông minh” và ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính được xử lý hiệu quả. Trong khi khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng vì thế giới lệ thuộc nhiều vào kinh tế Mỹ, Trung Quốc đã tìm được cách tránh khi để nhu cầu nội địa lèo lái kinh tế của đất nước mình thay vì phụ thuộc vào xuất khẩu.

Năm 2010 là năm then chốt để Trung Quốc ứng phó với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đảm bảo kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tương đối nhanh. Trong bối cảnh đó, tăng tốc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế được Trung Quốc xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Theo đó, Trung Quốc tập trung hoàn thiện thể chế cơ chế và định hướng chính sách nhằm tăng tốc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế; tăng tốc thực thi các dự án khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia; phát triển ngành nghề mới mang tính chiến lược… Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ chú trọng hơn nữa đến vấn đề cải thiện dân sinh, thúc đẩy xã hội hài hòa, ổn định.

Trong khi Mỹ đang bận rộn với cuộc chiến chống khủng bố và các vấn đề nhân quyền, thì Trung Quốc đang tìm cách xây dựng niềm tin với thế giới và đặc biệt là khu vực châu Á bằng việc gia tăng sức mạnh mềm thông qua các lĩnh vực ngoại giao, kinh tế, văn hoá và các lực lượng có tính phi cưỡng chế khác. Để giành giật sức ảnh hưởng đối với khu vực châu Á, phương thức tiến hành gia tăng sức mạnh mềm của Trung Quốc rất phong phú và linh hoạt, từ “ngoại giao kinh tế” (hỗ trợ phát triển, các hiệp định thương mại…), “ngoại giao văn hóa” (tuyên truyền văn hóa, hợp tác giáo dục, quảng bá ngôn ngữ Hán) đến “ngoại giao nhân dân” (thăm hữu nghị, hội đàm, trao đổi ý kiến, hội thảo, hội nghị quốc tế). Trong chiến lược gia tăng sức mạnh mềm của mình, Trung Quốc đã khai thác tối đa sự không hài lòng của các nước châu Á đối với những đòi hỏi hà khắc của phương Tây vào thời gian cuộc khủng hoảng tiền tệ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Họ cũng triển khai chính sách ngoại giao kinh tế ngày càng tinh vi hơn bằng cách dựa trên sự gần gũi về mặt địa lý, lịch sử, tạo ra môi trường thuận lợi để khai thác vì lợi ích hai bên giữa Trung Quốc và khu vực này.

Trung Quốc đã bước đầu thành công khi chinh phục châu Á thông qua việc ủng hộ tiến trình hợp tác Đông Á và triển khai Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Không chỉ vậy, với việc đưa ra các sáng kiến và tham gia vào cơ chế đa phương của khu vực, Trung Quốc dường như muốn mở rộng

141

hơn sự xâm nhập của mình vào khu vực Trung Á. Với những nỗ lực trên, Trung Quốc đang muốn tạo dựng hình ảnh vững vàng của một cường quốc kinh tế có khả năng che chở và tạo cơ hội cho sự thịnh vượng chung của khu vực châu Á. Cùng với sức ảnh hưởng ngày càng gia tăng của nền kinh tế mới, chính sách ngoại giao văn hóa mềm dẻo của Trung Quốc cũng đang phát huy tác dụng. Thông qua việc tuyên truyền văn hóa, quảng bá du lịch, ẩm thực, y dược, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm văn hóa như truyền hình, phim ảnh, âm nhạc, giao lưu văn hóa ra thế giới và đặc biệt là sự lan rộng của 46 học viện Khổng Tử ở châu Á, Trung Quốc đã đan cài khéo léo quan hệ chính trị, ngoại giao, văn hóa với các tổ chức đa phương tại châu Á. Trong khi Mỹ đang phô bày sức mạnh quân sự trên toàn thế giới, thì dường như Trung Quốc lại thể hiện một hình ảnh khác, nhất là đối với khu vực châu Á. Tại đây, trong một số lĩnh vực mang tính nhạy cảm, Trung Quốc đã đi quá giới hạn “không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”, đảm nhận vai trò trung gian hòa giải tích cực. Tóm lại Trung quốc đang có sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và ngày càng nâng cao tầm ảnh hưởng về chính trị trên trường quốc tế. Quốc gia này trở thành một cực trong trật tự thế giới đa cực đang được hình thành.

- Nhật bản tiếp tục cải cách kinh tế, nâng cao vị thế trên trường quốc tế kể cả về chính trị và an ninh. Đầu năm 2009 nền kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên, từ cuối 2009 đến nay kinh tế Nhật Bản đang có những dấu hiệu phục hồi trở lại. Các chuyên gia dự báo năm 2010, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng thực chất đạt 1,4% và tăng trưởng danh nghĩa là 0,4% nhờ tăng xuất khẩu sang các nước châu Á, trong đó Trung Quốc là thị trường lớn nhất. Tiêu dùng tăng nhờ các biện pháp cứu trợ kinh tế cả gói của Chính phủ. Đây sẽ là lần đầu tiên trong 3 năm qua, Nhật Bản đạt được tăng trưởng dương trong cả tăng trưởng thực chất và tăng trưởng danh nghĩa.

Ngân sách năm tài khóa 2010 được Chính phủ thông qua trị giá 92,3 nghìn tỷ yên, khoảng 1.014 tỷ USD. Trong đó, chi tiêu chính sách chiếm 587 tỷ USD, chủ yếu cho chương trình hỗ trợ trẻ em mà Đảng Dân chủ (DPJ) cầm quyền cam kết trong chiến dịch tranh cử, chiếm hơn 51% ngân sách nhà nước. Chi tiêu cho các công trình công cộng giảm lớn nhất, trong đó xây dựng cầu đường giảm 18,3%, viện trợ phát triển Chính phủ (ODA) cũng giảm 7,9%. Thu nhập từ thuế đạt khoảng 410 tỷ USD, giảm khoảng 19% so với năm 2009. Để bù đắp thiếu hụt này, Chính phủ phải phát hành trái phiếu mức kỷ lục hơn 44 nghìn tỷ yên, khoảng 487 USD, tăng 33% so với năm 2009, vượt qua mức

142

thu nhập thuế lần đầu tiên trong 63 năm qua, chiếm 48% thu nhập Chính phủ. Như vậy, với hàng loạt chính sách hỗ trợ của nhà nước, kinh tế Nhật bản đang có bước phục hồi đáng kể, hứa hẹn tiếp tục khôi phục tăng trưởng mạnh hơn trong những năm tới.

Nhật Bản đẩy mạnh các nỗ lực nhằm nâng cao vị thế trên trường quốc tế cả về an ninh và chính trị. Chính phủ của Đảng Dân chủ đã tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao năng động, thể hiện rõ chính sách ngoại giao tăng cường liên minh bình đẳng hơn với Mỹ và coi trọng quan hệ với châu Á là 2 trụ cột chính trong chính sách ngoại giao của Chính phủ mới. Thủ tướng và các quan chức cấp cao Nhật Bản liên tục tham dự các diễn đàn cấp cao quốc tế và khu vực như Hội nghị Đại hội đồng Liên Hợp quốc cuối tháng 9/2009 tại Mỹ, Hội nghị quốc tế về hạt nhân, về thay đổi khí hậu, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tại Xin-ga-po, Hội nghị cấp cao 3 bên Nhật - Trung - Hàn tại Bắc Kinh, Hội nghị cấp cao Nhật Bản – Mê Công tại Tokyo... đồng thời tổ chức nhiều cuộc hội đàm cấp cao song phương với các nước như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Liên minh châu Âu... Tại tất cả các hội nghị, Nhật Bản luôn thể hiện vai trò đi đầu trong giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực, nhất là vấn đề thay đổi khí hậu, đối phó với khủng hoảng kinh tế, hỗ trợ cả về tài chính và nhân lực khắc phục thiên tai, dịch bệnh, v.v… Ảnh hưởng của Nhật Bản so với thời điểm chính quyền tiền nhiệm đã được nâng cao trên trường quốc tế, quan hệ với Mỹ đang giữ được thế bình đẳng hơn và quan hệ với các nước châu Á cũng được cải thiện thực sự. Theo các chuyên gia phân tích dự báo, tình hình Nhật Bản tiếp tục được nhận định là ổn định về chính trị, phục hồi nhẹ về kinh tế, linh hoạt và năng động hơn trong các hoạt động đối ngoại. Hiện tại, các chính sách mới của chính phủ đang được thực thi mạnh mẽ và quyết liệt, ban đầu cũng đạt được một số hiệu quả nhất định.

Một định hướng lớn được thúc đẩy mạnh trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời Hatoyama là “Trở về châu Á”: Sau nhiều thập niên thực hiện chính sách công nghiệp hóa theo hướng “Ra khỏi châu Á, đi vào châu Âu” tương đối thành công. Giờ đây, Nhật Bản mong muốn thành “cầu nối” giữa phương Đông và phương Tây, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Chính phủ của Đảng Dân chủ đã chủ động đề xuất sáng kiến thành lập Cộng đồng Đông Á như là một tổ chức khu vực mở, có thể cho cả các nước ở khu vực khác tham gia. Nhật Bản tổ chức Hội nghị cấp cao Nhật Bản với năm nước lưu vực sông Mê Công (Mi-an-ma, Thái Lan, Lào, Cam-pu-chia và Việt

143

Nam), đồng thời cũng dành một vị trí đặc biệt cho Trung Quốc trong chính sách đối ngoại.

- Nga tập trung ổn định tình hình trong nước, phát triểt kinh tế, thực hiện chính sách đối ngoại thực dụng nhằm bảo vệ lợi ích sống còn ở không gian SNG. Nước Nga đang tiến hành chính sách đối ngoại thực dụng vì các quyền lợi phát triển đất nước. Sự nghiệp đối ngoại trước hết cần phải hướng tới mục đích phát triển nền kinh tế của nước Nga, và kết quả hoạt động ngoại giao không những phải là sự hỗ trợ cụ thể cho các tập đoàn Nga ở nước ngoài, mà còn thể hiện ở khối lượng đầu tư nước ngoài vào Nga, và điều chủ yếu là dòng công nghệ mới. Chính sách đối ngoại của Nga đang hướng tới các mục đích lâu dài nhằm khôi phục vị thế của một trong những cường quốc hàng đầu thế giới.

Ưu tiên đối ngoại hàng đầu của Nga là tăng cường vai trò trong SNG. Một văn kiện rất quan trọng bắt đầu được thực hiện từ năm 2010 là Liên minh hải quan Nga – Bê-la-rút – Ca-dắc-xtan. Đây là hình thức liên kết chặt chẽ nhất trong không gian hậu Xô viết hiện nay và sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa ba nước anh em, đồng thời thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và Cộng đồng Kinh tế Á - Âu (EAEC).

Trong năm 2010, Tổng thống Medvedev sẽ có hàng chục chuyến thăm tới các nước thuộc không gian hậu Xô viết. Ngoài ra, quan hệ với U-crai-na vẫn chiếm vị trí đặc biệt trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga. Mát-xcơ-va sẵn sàng nối lại hợp tác với Ki-ép, với điều kiện chính quyền U-crai-na chủ trương phát triển quan hệ tốt, cởi mở với nước Nga.

- Liên minh Châu Âu (EU) tập trung vào các vấn đề mở rộng và thống nhất nội bộ, theo đuổi chủ nghĩa đa phương. Trước đòi hỏi bức thiết của việc cải cách thể chế của một EU ngày càng mở rộng và việc nhất thể hoá châu Âu ngày càng đi vào chiều sâu trên mọi phương diện, vấn đề đặt ra là EU sẽ phát triển thành một “siêu quốc gia”, một “hợp chủng quốc”, một liên bang hay chỉ là một liên minh được vận hành một cách linh hoạt, dưới hình thái “liên bang các nhà nước - dân tộc” gồm nhiều quốc gia riêng lẻ, vẫn giữ bản sắc, độc lập và chủ quyền riêng. Để làm được việc này, các nước trong liên minh thảo luận tiến tới ký kết hiệp ước Lisbon. Ban đầu vấp phải sự phản đối của Séc nhưng cuối cùng hiệp ước Lisbon đã được tất cả 27 quốc gia thành viên phê chuẩn và bắt đầu chính thức có hiệu lực từ 1/12/2009. Hiệp ước này sẽ làm thay đổi cách thức điều hành chính sách đối ngoại của cả châu Âu.

Hiệp ước Lisbon sẽ mang lại 3 thay đổi lớn. Thứ nhất, hiệp ước sẽ tăng cường sự kiểm soát dân chủ của Nghị viện châu Âu, mà các quyền chấp thuận

144

hay phản đối các hiệp định và luật mới tăng lên đáng kể. Thứ hai, nó làm cho quá trình ra quyết định của 27 quốc gia thành viên dễ dàng hơn bằng việc giảm số lĩnh vực cần sự đồng thuận của cả 27 quốc gia thành viên. Phương thức bầu đa số phiếu sẽ trở thành cách phổ biến nhất để ra quyết định. Thứ ba, rất nhiều công cụ chính sách đối ngoại của EU được quy tụ dưới sự lãnh đạo của một cơ quan: Các chương trình viện trợ phát triển và các hiệp định thương mại sẽ do Ủy ban châu Âu quản lý và một loạt các vấn đề về an ninh, khủng hoảng, quân đội và cảnh sát hiện tại đang được điều khiển bởi 27 quốc gia thành viên thông qua Hội đồng các Bộ trưởng.

Hiệp ước Lisbon quy định bầu Chủ tịch EU với nhiệm kỳ 30 tháng và vị trí phụ trách chính sách đối ngoại cho toàn bộ 27 thành viên EU với nhiều quyền lực hơn. Hiệp ước này cũng huỷ bỏ quyền phủ quyết của các nước thành viên trong khoảng 50 lĩnh vực, trong đó gồm cả những vấn đề nhạy cảm như hợp tác về cảnh sát hay pháp luật. Mục đích chính của Hiệp ước là đơn giản hóa quá trình ra quyết định của EU. Chính vì vậy, Hiệp ước Lisbon còn được gọi là Hiệp ước đơn giản hay Hiệp ước cải cách. Ngày 19/11/09 EU đã tiến hành Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt để bầu các chức vụ lãnh đạo mới của khối theo tinh thần Hiệp ước Lisbon. Kết quả, ông Herman Van Romuy (Thủ tướng Bỉ) được bầu làm Chủ tịch EU và bà Catherine Ashton (Ủy viên Thương mại EC) được bầu làm Đại diện cao cấp về chính sách đối ngoại và an ninh của EU. Bà Ashton cũng sẽ đồng thời giữ chức Phó chủ tịch EC và là người đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng Ngoại giao EU. Những nỗ lực đối ngoại của EU gần đây cho thấy rõ quan điểm theo đuổi chủ nghĩa đa phương, khẳng định tính độc lập của liên minh với tư cách một cực trong thế giới đa cực.

- Ấn Độ tiếp tục cải cách và phát triển kinh tế, triển khai mạnh mẽ chính sách hướng Đông, gắn chặt hơn với Đông Á. Nền kinh tế lớn thứ ba châu Á đã có mức tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh các nền kinh tế lớn khác vẫn lao đao sau khủng hoảng. Kết thúc năm tài khoá năm 2008 (vào ngày 31/3/2009), kinh tế nước này đạt mức tăng trưởng 6,7% - mức thấp nhất kể từ năm 2003 nhưng lại đứng nhất nhì thế giới về tốc độ tăng trưởng. Đặc biệt khi Chính phủ Ấn Độ thông qua chương trình kích thích kinh tế, cắt lãi suất và giảm thuế để khuyến khích chi tiêu đã giúp thị trường tiêu thụ trong nước tăng mạnh và nhờ thế hoạt động công nghiệp khởi sắc. Với những gì đã đạt được Ấn Độ tiếp tục có các chính sách cải cách và thúc đấy nên kinh tế phát triển. ADB dự báo kinh tế Ấn Độ sẽ có thể đạt mức tăng trưởng 7% trong năm 2010.

145

"Chính sách hướng Đông" của Ấn Độ được bắt đầu từ những năm 90, mục đích là để hội nhập kinh tế và hợp tác chính trị với Đông Nam Á , đây là kết quả của cách tiếp cận thực tế hơn trong quan hệ đối ngoại. Mục tiêu của chính sách này cũng được mở rộng sự ảnh hưởng của nó trên nhiều mặt bằng cách phát triển mối quan hệ an ninh tại tất cả các hướng, đặc biệt là tại Đông Nam Á, với một tầm nhìn sâu rộng hơn để trở thành một đối trọng trong sự cân bằng quyền lực mới nổi ở châu Á. Thực hiện “Chính sách hướng Đông", Ấn Độ đã rất thành công khi không chỉ hợp tác chặt chẽ hơn với các nước Đông Nam Á mà còn tăng cường hơn nữa quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc. Hải quân Ấn Độ đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc chống buôn lậu và cướp biển ở eo biển Malaca. Ấn Độ đã xây dựng các căn cứ của mình tại các đảo Andaman và Nicobar tạo ra một vành đai đặc biệt dựa trên các đảo của vùng biển viễn Đông. Các cuộc tập trận chung với các nước Đông Nam Á là một biểu hiện quan trọng đối với sự hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN. Ấn Độ tích cực tham dự Hội nghị sau Hội nghị bộ trưởng (PMC) và diễn đàn ARF của ASEAN, chủ động đề xuất và tham gia các hoạt động xây dựng lòng tin (CBMs), tìm kiếm cứu hộ trên biển, các hoạt động gìn giữ hòa bình , không phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, quản lý tài nguyên, phòng ngừa thiên tai,… Ấn Độ đã có các cuộc gặp thượng đỉnh cùng các nước ASEAN, ngang hàng với ASEAN+3 (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) và là một thành viên chính của Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS). Trong “Chính sách hướng Đông" của Ấn Độ, Việt Nam có vị trí quan trọng trong việc xúc tiến về quan hệ chính trị, kinh tế và các lợi ích an ninh tại Đông Nam Á.

* Xu thế phát triển các hiệp định tự do thương mại song phương và

khu vực tiếp tục được đẩy mạnh

Hiệp định thương mại tự do (FTA) là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Thông thường các thỏa thuận được thực hiện giữa hai nước và có nghĩa là để giảm bớt hoặc gỡ bỏ hoàn toàn thuế quan trong thương mại. Số lượng các Hiệp định thương mại tự do đã tăng đáng kể trong thập niên qua. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), số hiệp định thương mại tự do (FTA) ký kết giữa các quốc gia châu Á đã tăng từ 3 hiệp định năm 2000 lên 56 hiệp định vào cuối tháng 8 năm 2009. Mười chín trong tổng số 56 hiệp định thương mại tự do đó được ký giữa 16 nền kinh tế châu Á, một xu hướng có thể giúp cho khu vực này trở thành khối mậu dịch hùng mạnh.

Xu hướng ký kết hiệp định thương mại tự do diễn ra mạnh mẽ giữa các quốc gia, khu vực trên toàn thế giới. Chỉ tính các hiệp định lớn được ký kết với

146

ASEAN, thì gần đây có thể kể đến một số hiệp định tự do lớn như: Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ấn Độ, Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt- xtrây-lia – Niu Di-lân (AANZFTA),…

Kể từ ngày 1/1/2010, Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtrây-lia – Niu Di-lân (AANZFTA) chính thức có hiệu lực đối với Ốt-xtrây-lia, Niu Di- lân và 6 nước ASEAN gồm: Việt Nam, Bru-nây, Mi-an-ma, Ma-lai-xia, Phi-lip- pin và Xinh-ga-po. Các nước ASEAN còn lại (In-đô-nê-xia, Cam-pu-chia, Lào và Thái Lan) tiếp tục sẽ phê chuẩn Hiệp định. AANZFTA là hiệp định thương mại tự do đa phương đầu tiên của Ốt-xtrây-lia và là FTA toàn diện nhất mà ASEAN từng ký kết. Hiệp định mở ra một thị trường rộng lớn gồm 600 triệu dân với GDP khoảng 3,1 nghìn tỷ đô la Ốt-xtrây-lia. Theo nội dung Hiệp định, Ốt-xtrây-lia sẽ giảm dần thuế quan đối với tất cả các dòng thuế để đến năm 2020 đạt mục tiêu dỡ bỏ 100% dòng thuế. Đổi lại, đến năm 2020, 96% các sản phẩm xuất khẩu hiện tại của Ốt-xtrây-lia sang ASEAN sẽ được dỡ bỏ thuế quan. Đối với Việt Nam, hiệp định AANZFTA sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, đồ gỗ, nông sản… (Ví dụ, đối với mặt hàng dệt may và các sản phẩm dệt may, Ốt-xtrây-lia sẽ loại bỏ dần thuế quan đến năm 2020, trong đó 563 dòng thuế sẽ được áp dụng thuế suất 0% vào năm 2010). Mặt khác, các doanh nghiệp cũng có cơ hội nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc từ các nước thành viên với giá rẻ hơn.

Trước đó, trong khuôn khổ của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế các nước ASEAN, ngày 13/8/2009 tại Băng Cốc (Thái Lan), Bộ trưởng Kinh tế các nước ASEAN và Bộ trưởng Thương mại - Công nghiệp Ấn Độ đã ký kết Hiệp định thương mại tự do sau hơn 6 năm đàm phán. Từ ngày 1/1/2010 hiệp định này sẽ có hiệu lực. Thành công của hiệp định này sẽ kết nối ASEAN với Ấn Độ - một thị trường 1,1 tỉ dân, một nền kinh tế có thể so sánh những nền kinh tế lớn đã ký kết hiệp định thương mại tự do với ASEAN như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Thương mại giữa ASEAN và Ấn Độ được kỳ vọng có thể đạt 60 tỉ USD trong năm tới. Theo Hiệp định, các quốc gia thành viên ASEAN và Ấn Độ sẽ dỡ bỏ thuế nhập khẩu đối với 80% loại hàng hoá nhập vào thị trường của nhau trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2016. Thuế suất đối với các hàng hoá đặc biệt có thể giảm 5% vào năm 2016.

Ngoài ra, tại Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế thế giới 2010 (31/1), Việt Nam cùng các nhà lãnh đạo Thái Lan, In-đô–nêxia, Xinh-ga-po, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ốt-xtrây-lia đã tham dự phiên họp đặc biệt về Cộng đồng Đông Á.

147

Các nhà lãnh đạo cũng cho rằng mức độ liên kết kinh tế - thương mại giữa các nước ở khu vực ngày càng sâu sắc, với một mạng lưới các thoả thuận mậu dịch tự do (FTA) song phương và đa phương. Đề xuất lập Khu vực Mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong khuôn khổ ASEAN+3 và Đối tác kinh tế toàn diện Đông Á (CEPEA) giữa 16 nước tham gia Cấp cao Đông Á cũng đang được nghiên cứu triển khai. Nếu thành hiện thực, Khu vực Mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) sẽ là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới với thị trường hơn 2 tỷ dân và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lên đến 10 nghìn tỷ USD.

* Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tác động mạnh đến môi trường chiến lược khu vực Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương, buộc các nước, trong đó có Việt Nam, luôn phải tính đến Mỹ, Trung Quốc và quan hệ giữa hai nước trong hoạch định chính sách đối ngoại.

Đông Á bao gồm cả Đông - Bắc Á và Đông - Nam Á là một bộ phận trọng yếu của khu vực CA-TBD, nơi tập trung khoảng 65% GDP của thế giới, 55% giá trị thương mại toàn cầu, 50% tổng giá trị các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đang được mệnh danh là “khu vực của thế kỷ XXI”. Hơn nữa, Đông Á không chỉ là nơi đang nổi lên xu hướng liên kết khu vực khá mạnh mẽ (như ASEAN, ASEAN + 1, ASEAN + 3..) mà còn là điểm giao thoa, đan xen lợi ích chiến lược của các nước lớn trong đó có Mỹ và Trung Quốc. Những năm gần đây, sự trỗi dậy và gia tăng nhanh chóng ảnh hưởng của những nước này đã làm tăng tầm quan trọng của Đông Á trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn.

Mỹ quan tâm hơn tới khu vực Đông Nam Á lục địa, vì Mỹ cho rằng đây là khâu yếu nhất trong ASEAN và có nguy cơ chịu ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng nhiều. Bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM-42) và các hội nghị liên quan tại Phuket (Thái Lan), Ngoại trưởng Mỹ Clin-tơn đã có cuộc gặp riêng với các Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và Thái Lan về các vấn đề sông Mê Công. Cuộc họp được tổ chức theo sáng kiến của Ngoại trưởng Mỹ với sự đồng thuận của bốn nước tiểu vùng. Bên cạnh các lợi ích, còn có những chuyển biến khiến chính quyền Ô-ba-ma phải có những điều chỉnh chính sách của Mỹ tại khu vực. Sở dĩ vậy là vì:

Một là, hợp tác kinh tế Đông Á đang phát triển mạnh dưới sự thúc đẩy và cả sự cạnh tranh của Trung Quốc và Nhật Bản khiến chính quyền Ô-ba-ma chắc chắn sẽ phải tăng cường hợp tác với khu vực, đặc biệt là về kinh tế để duy trì sự dính líu và vai trò ở khu vực. Đông Nam Á còn hứa hẹn là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt sau khi ASEAN đang hoàn thành kế hoạch xây dựng khu

148

vực thương mại tự do và từng bước xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Do vậy, B.Ô-ba-ma đã tính đến khả năng thúc đẩy đàm phán khu vực thương mại tự do với ASEAN.

Hai là, các diễn đàn đa phương có xu hướng phát triển mạnh mẽ ở khu vực. Trong khi đó ASEAN đóng vai trò dẫn dắt hầu hết các diễn đàn và các nước lớn cạnh tranh gay gắt ảnh hưởng ở đây. Do vậy, Mỹ thấy cần phải tăng cường hợp tác với ASEAN, lôi kéo các nước ASEAN ủng hộ vai trò của Mỹ.

Ba là, việc Trung Quốc đang tăng cường khả năng quân sự và làm nóng tranh chấp ở Biển Đông buộc Mỹ phải quan tâm với khu vực này và thúc đẩy hợp tác an ninh quốc phòng và an ninh biển để tăng cường sự hiện diện ở khu vực cũng như khả năng bảo đảm các đường biển trong khu vực.

Bốn là, trước tình hình ngày càng phức tạp ở bán đảo Triều Tiên, Mỹ đang có kế hoạch tái khẳng định và cơ cấu lại lực lượng quân đội Mỹ ở khu vực và Hạm đội Thái Bình Dương để có thể điều động, phối hợp binh chủng nhanh giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Trung Quốc hiện đang dẫn đầu một làn sóng hợp tác khu vực mới ở Đông Nam Á và cơ chế hợp tác khu vực do Trung Quốc khởi xướng dường như đã lan ra mọi lĩnh vực hợp tác có thể về kinh tế, chính trị. Vì các lý do kinh tế, quân sự, ngoại giao và an ninh, Trung Quốc đang ra sức phát triển các mối quan hệ hợp tác với các nước thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). "Cuộc tấn công quyến rũ" của Bắc Kinh đã trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược chung nhằm thiết lập một cơ cấu khu vực mới có lợi cho các lợi ích chiến lược. Một chủ nghĩa khu vực châu Á mới được khích lệ từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (CAFTA) sẽ thống trị bức tranh kinh tế tương lai của châu Á, trong đó Mỹ có thể sẽ không có một vai trò đáng kể nào. CAFTA sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với Trung Quốc và 6 nước ASEAN vào năm 2010 và sẽ được mở rộng ra tất cả các nước thành viên ASEAN vào năm 2015. Trung Quốc hiện đang nỗ lực thúc đẩy CAFTA bằng cách phát triển các hành lang kinh tế ở Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) gồm Trung Quốc, Lào, Mi- an-ma, Thái Lan và Việt Nam. Toàn bộ khu vực đều hiểu được dụng ý, mục đích sau sự thành công của Trung Quốc trong việc xâm nhập vào khu vực Đông Nam Á và Trung Á bằng các phương tiện kinh tế. Nhưng một điều quan trọng cần phải chú ý là Trung Quốc đã "chinh phục" các nước Đông Nam Á không chỉ qua các mối quan hệ hợp tác kinh tế song phương mà còn bằng cách đưa ra các sáng kiến và tham gia vào các cơ chế kinh tế đa phương của khu vực.

149

Đặc biệt, trong rất nhiều các tuyên bố chung của các nước khu vực trong các dịp diễn ra các diễn đàn đa phương khu vực, Trung Quốc đã có một vị thế đầy tự tin và chắc chắn bằng việc đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác mới và dẫn đầu trong nhiều cơ chế hợp tác khu vực.

Trên thực tế, sự phụ thuộc về chính trị và kinh tế trong khu vực giữa Trung Quốc và ASEAN đang ngày càng tăng lên, đặc biệt là mức độ phụ thuộc của các nước ASEAN, rõ ràng hơn là các nước GMS, vào Trung Quốc. Qua các dự án phát triển GMS, Trung Quốc đang nhanh chóng phát triển được mối liên hệ và mạng lưới vững chắc với các đối tác.

Việc Mỹ và Trung Quốc tăng cường cạnh tranh gây ảnh hưởng tại khu vực sẽ giúp các nước có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển kinh tế. Tuy nhiên các nước trong cộng đồng khu vực CA-TBD, đặc biệt là Đông Nam Á cũng phải có những chính sách phù hợp làm sao để vừa đảm bảo lời ích tối ưu về kinh tế vừa giữ được quan hệ hữu hảo tốt đẹp với cả hai nền kinh tế lớn hứa hẹn sẽ là hai trong số các cực của thế giới đa cực trong tương lai này.

* Tình hình an ninh châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á có thể diễn biến phức tạp hơn do phong trào ly khai, hoạt động khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, vấn đề Biển Đông, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề Đài Loan, các vấn đề tồn tại giữa các nước, nhất là tranh chấp chủ quyền và sự gia tăng cạnh tranh lợi ích, ảnh hưởng giữa các nước lớn ở khu vực.

Biển Đông, với diện tích hơn 3,5 triệu km2, có một vị trí chiến lược và đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động hàng hải cũng như an ninh khu vực và thế giới. Vùng biển này cũng rất giàu tài nguyên làm nảy sinh nhiều tranh chấp giữa các nước. Để ngăn ngừa xung đột, thúc đẩy hòa bình, hợp tác, trong thập niên qua, nhiều nỗ lực đã được các nước liên quan thực hiện, trong đó có những bước đi quan trọng như Tuyên bố ASEAN năm 1992 về biển Đông, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc - bước đầu tiên trong quá trình tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông.

Tại Biển Đông hiện nay, nổi cộm nhất việc Bắc Kinh công bố bản đồ chủ quyền hình chữ U của họ, được nhắc đến từ lâu, nhưng lần đầu tiên được trình ra Liên Hiệp Quốc vào tháng 5/2009. Căn cứ vào tấm bản đồ này, hầu như toàn bộ Biển Đông thuộc về chủ quyền của Trung Quốc. Vấn đề là không chỉ đòi hỏi chủ quyền trên giấy tờ, Trung Quốc ngày càng sử dụng đến những biện pháp có thể gọi là ''cưỡng chế'' đối với các nước khác để buộc họ phải tôn trọng chủ

150

quyền của Bắc Kinh trong khu vực. Việt Nam là nạn nhân cụ thể của các hành động này, với việc ngư dân, tàu thuyền đánh cá bị bắt giữ, khi hoạt động trong những vùng bị Trung Quốc xem là của họ. Không những thế, nhiều đối tác ngoại quốc trong lãnh vực dầu khí của Việt Nam đã liên tục bị sức ép của Trung Quốc, buộc họ phải đình chỉ công việc làm ăn với Việt Nam tại những vùng biển mà Bắc Kinh tự nhận chủ quyền. Tranh chấp Việt Nam Trung Quốc như vậy đã mang thêm kích thước quốc tế do việc các đối tác này lại là các tập đoàn đa quốc gia Anh, Mỹ, như BP, Exxon... Vấn đề hù dọa nói trên đã khiến cho những nước như Hoa Kỳ chẳng hạn phải lên tiếng. Tranh chấp biển Đông ngày càng trở nên phức tạp nhất là khi ngày càng dính líu đến các tác nhân phi nhà nước như các tập đoàn đa quốc gia, các ngư dân. Một sự kiện khác còn nêu rõ hơn quy mô quốc tế của tranh chấp biển Đông. Đó là việc Trung Quốc, căn cứ vào các đòi hỏi chủ quyền của họ, đã gây khó dễ cho việc tự do lưu thông trong khu vực. Biểu hiện cụ thể nhất là sự kiện Trung Quốc xách nhiễu tàu của Hải quân Hoa Kỳ với lý do là các quân hạm này xâm nhập ''trái phép'' vào vùng biển thuộc chủ quyền Trung Quốc. Cho đến nay vấn đề biển Đông vẫn còn đang rất phức tạp. Về phía Việt Nam, Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết mọi bất đồng liên quan đến biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Trều Tiên là một điểm nóng nổi cộm hiện nay, không chỉ trong khu vực châu Á mà đã thu hút sự tham gia của rất nhiều nước lớn trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Mối quan hệ giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên đóng băng kể từ khi Tổng thống Mỹ George W Bush liệt Bình Nhưỡng vào cái gọi là "liên minh ma quỷ" hồi tháng 1/2002. Căng thẳng thực sự leo thang kể từ tháng 10/2002 khi Mỹ cáo buộc CHDCND Triều Tiên đang phát triển một chương trình hạt nhân bí mật dựa trên cơ sở nguyên liệu uranium. Oa-sinh-tơn không chỉ quan ngại về việc Bình Nhưỡng phát triển vũ khí hạt nhân mà còn muốn ngăn chặn khả năng CHDCND Triều Tiên xuất khẩu tên lửa và công nghệ hạt nhân sang các quốc gia hoặc các tổ chức khác. Kể từ tháng 10/2002, CHDCND Triều Tiên đã tái khởi động lò phản ứng hạt nhân, trục xuất thanh sát viên IAEA và rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Ngoài ra, CHDCND Triều Tiên còn liên tục cảnh báo về nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến hạt nhân. Được khởi động năm 2003, các cuộc đàm phán hạt nhân 6 bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên liên quan đến Trung

151

Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Mỹ, Nga và Nhật Bản. Mục đích của các cuộc đàm phán này là tìm cách phi hạt nhân hoá CHDCND Triều Tiên. Tuy nhiên nhưng cuộc đàm phán này vẫn chưa đạt đựơc kết quả mong đợi. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên vẫn chưa tìm được hướng giải quyết. Ngày 25/5/2009 Bắc Triều Tiên đã cho nổ dưới lòng đất một thiết bị hạt nhân. Đây là lần thử hạt nhân thứ hai của quốc gia này, tiếp sau đó còn tiến hành một số vụ thử tên lửa tầm ngắn và bắn thử hàng loạt tên lửa tầm xa hướng đến Mỹ. Tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên hiện nay, nhất là sau cuộc đấu pháo giữa hai miền (11/2010) và các cuộc tập trận phô diễn sức mạnh quân sự của liên quân Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật gây quan ngại sâu sắc cho cộng đồng qốc tế. Các hữu quan trong khu vực đều đang hết sức nỗ lực để tìm ra giải pháp cho các xung đột.

1.2. Một số kịch bản về triển vọng mối quan hệ Việt Nam - ASEAN

đến năm 2020

Từ dự báo những nét lớn của tình hình thế giới và khu vực đến 2020 có ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam – ASEAN và sự phân tích về những thành tựu, khó khăn, hạn chế, vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam – ASEAN kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN đến 2010 như nêu ở trên, có thể nêu một số kịch bản về triển vọng mối quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020 như sau: Kịch bản thứ nhất: Quan hệ Việt Nam - ASEAN phát triển nhanh, mạnh mẽ về chất, mức độ liên kết nhất thể hoá rất cao. Kịch bản này khó có thể trở thành hiện thực, bởi những lí do sau:

Trong hơn 15 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN-6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý tưởng một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. Từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM- 34) và các hội nghị liên quan. Các bộ, ngành của Việt Nam cũng đăng cai nhiều

152

hội nghị cấp bộ trưởng và cấp quan chức cao cấp (SOM) về kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Việt Nam cũng đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Liên minh Nghị viện ASEAN (AIPO) tháng 9/2002..

Năm 2010 này, trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam lại càng có nhiều cơ hội góp sức vào sự phát triển bền vững của tổ chức. Việt Nam đã tổ chức 2 hội nghị cấp cao, 8 hội nghị của các hội đồng cộng đồng cấp bộ trưởng và nhiều hội nghị cấp bộ trưởng, các cuộc họp của các quan chức cấp cao trong khuôn khổ ASEAN; chủ trì một số diễn đàn khác do ASEAN khởi xướng, như diễn đàn ASEAN +3, diễn đàn Cấp cao Đông Á, ARF, v.v…

Việt Nam luôn nhấn mạnh, hợp tác ASEAN là ưu tiên chiến lược của Việt Nam, là một bộ phận trong chính sách đa dạng hóa đa phương hóa, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực. Việt Nam tham gia ASEAN theo phương châm tích cực, chủ động và có trách nhiệm, góp phần xây dựng một ASEAN ngày càng liên kết chặt chẽ, vững mạnh hơn. Mối quan hệ giữa Việt Nam - ASEAN sẽ có điều kiện để đi vào chiều sâu hơn, trong điều kiện Cộng đồng ASEAN (AC) được hình thành đúng thời hạn như dự kiến vào năm 2015 và ASEAN trở thành một tổ chức hợp tác liên chính phủ có tính thể chế chặt chẽ trên nền tảng Hiến chương ASEAN.

Tuy nhiên, kịch bản về quan hệ Việt Nam-ASEAN phát triển nhanh, mạnh mẽ về chất với mức độ thể chế hóa cao, khó có thể trở thành hiện thực trước hết là do bản thân quá trình hình thành Cộng đồng ASEAN cũng không thể diễn ra nhanh, đồng thời còn ẩn chứa những khó khăn không nhỏ. Mặt khác, do sự chênh lệch trình độ phát triển giữa hai nhóm nước ASEAN nên trong 10 năm tới khó có thể khắc phục một cách căn bản những khó khăn và vấn đề đặt ra trước ASEAN. Hơn nữa, sự tác động của môi trường quốc tế tiếp tục tạo sức ép đối với sự phát triển của ASEAN và quan hệ Việt Nam - ASEAN.

ASEAN gồm 10 quốc gia với trình độ phát triển khá chênh lệch. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, các nước Đông Nam Á có trình độ phát triển kinh tế khá đồng đều, song ngày nay chênh lệch phát triển giữa các nước ASEAN khá rõ ràng, đặc biệt là giữa sáu nước thành viên cũ và bốn nước thành viên mới của ASEAN (CLMV). Nhóm sáu nước thành viên cũ của ASEAN đã phát triển kinh tế thị trường trong hơn 3 thập niên, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.500 USD/người, trong khi đó bốn nước thành viên mới của ASEAN đều là các nền kinh tế chuyển đổi với mức thu nhập chưa đến 800 USD/người; trong số bốn nước thành viên mới này, chỉ có Việt Nam vừa mới vượt qua tình trạng kém phát triển, ba nước còn lại đều thuộc nhóm nước kém

153

phát triển. Tính theo mức thu nhập bình quân đầu người, nước cao nhất trong ASEAN là Xin-ga-po và nước cao nhất trong nhóm CLMV là Việt Nam thì chênh lệch là gần 40 lần; giữa Xin-ga-po với nước nước nghèo nhất trong ASEAN mới là Mi-an-ma thì chênh lệch lên tới 136 lần; nước nghèo nhất trong ASEAN cũ là In-đô-nê-xia và Phi-lip-pin cũng có mức thu nhập bình quân đầu người cao gấp 2 - 3 lần nước có mức thu nhập cao nhất trong ASEAN mới; các nước CLMV có mức thu nhập chỉ bằng từ 2/5 đến l/5 mức bình quân thu nhập bình quân đầu người của toàn bộ ASEAN 10. Các nước ASEAN cũ đạt được thành tựu tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục trong khoảng 3 thập niên, biến họ thành những nước công nghiệp hoá mới NIEs (cả thế hệ 1 và 2), trong khi đó các nước CLMV vẫn đang trong quá trong chuyển đổi sang kinh tế thị trường và thúc đẩy hội nhập quốc tế, tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, song không đều và chưa có tính liên tục. Chênh lệch phát triển không chỉ thể hiện qua sự cách biệt giữa 2 nhóm nước mà còn thể hiện khá rõ nét trong mỗi nước thành viên ASEAN. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, nghèo đói và bất bình đẳng cao trong một nước thành viên ASEAN có thể trở thành nhân tố tiềm ẩn de doạ an ninh kinh tế không chỉ của bản thân nước đó mà còn có thể lan truyền sang các nước thành viên khác. Nghèo đói và bất bình đẳng cao là thách thức lớn nhất mà các nước ASEAN phải nỗ lực vượt qua.

Trong cuộc hội thảo khu vực về việc thực hiện kế hoạch làm việc thứ hai của Sáng kiến hội nhập ASEAN do Vụ ASEAN Bộ Ngoại giao Lào và Ban Thư ký ASEAN đồng tổ chức, bốn nước thành viên mới của ASEAN cùng đại biểu các tổ chức quốc tế GTZ (Đức), JICA (Nhật Bản) đã thảo luận những biện pháp thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong những lĩnh vực và hoạt động cần ưu tiên nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập cũng như đáp ứng các nhu cầu thực sự của các nước trong ASEAN. Tuy nhiên, từ lý thuyết cho tới thực tiễn còn là cả một quá trình dài. Cho tới khi cộng đồng ASEAN được thành lập thì việc thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các nước trong ASEAN có thực hiện được hay không vẫn còn là một câu hỏi lớn.

Kịch bản thứ hai, hợp tác Việt Nam - ASEAN sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn, nổi lên những bất đồng gay gắt do tác động từ các nhân tố bên ngoài và khu vực và trước sự xuất hiện của những hình thái tập hợp lực lượng, cạnh tranh quyền lực gay gắt giữa các nước lớn (trước hết là Mỹ và Trung Quốc), kịch bản này cũng ít có khả năng xảy ra.

Một trong những thách thức đặt ra với Việt Nam trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 là việc điều phối các mối quan hệ giữa ASEAN với các nướng

154

láng giềng và các cường quốc trên thế giới, trước hết là Trung Quốc. Một trong những vấn đề lớn hiện nay ảnh hưởng tới Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung là vấn đề “nhạy cảm” ở biển Đông.

Cuộc hội thảo quốc tế về Biển Đông tại Hà Nội kết thúc ngày 27/11/2009 với một nhận định chung : tranh chấp chủ quyền trong vùng biển này không còn giới hạn giữa Trung Quốc, Đài Loan và 4 nước ASEAN, mà càng lúc càng mang quy mô quốc tế. Tính chất quốc tế của tranh chấp biển Đông đã được rất nhiều chuyên gia nêu bật tại cuộc hội thảo tại Hà Nội, đặc biệt sau những hành động cứng rắn của Trung Quốc trong thời gian gần đây nhằm áp đặt chủ quyền đang bị tranh cãi của họ.

Các quan chức quốc phòng trong khu vực cho hay cả Trung Quốc, Hoa Kỳ và nhiều nước ASEAB đều đang tăng cường hoạt động hải quân tại Biển Đông. Động thái này được khơi mào bởi kế hoạch nâng cao năng lực hải quân đầy tham vọng của Trung Quốc. Việt Nam không chỉ khẳng định chủ quyền đối với hơn 20 hòn đảo hiện đang nắm giữ, mà còn nhất quán khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi, Hoa Kỳ gia tăng hiện diện ở khu vực, muốn theo dõi hoạt động của tàu ngầm Trung Quốc ở đảo Hải Nam. Trung Quốc, ngoài việc phản đối Hoa Kỳ do thám ngoài khơi Biển Đông và cho rằng việc chấm dứt điều này là tiền đề để bình thường hóa quan hệ quân sự. Trung Quốc cũng có phản ứng mạnh về hoạt động của Việt Nam trên Biển Đông.

Giới ngoại giao cho rằng các quốc gia ASEAN cần tìm cách đối phó với Trung Quốc trong vấn đề này nếu muốn đóng vai trò chủ động trong việc giảm căng thẳng trong tương lai.

Những mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN cũng có thể làm cho tiến trình xây dựng các Cộng đồng ASEAN bị “đông cứng” hoặc thậm chí phá sản, và trong tình hình đó cho quan hệ Việt Nam - ASEAN sẽ khó duy trì được mức độ gắn kết cao.

Thời gian gần đây, những bất đồng về vấn đề xuất khẩu gạo giữa Thái Lan và Phi-lip-pin khiến cho cái bắt tay của Tổng thống Arroyo với Thủ tướng Abhisit giảm đi sự nồng hậu. Sáu thành viên cũ của ASEAN (Thái Lan, Bru- nây, In-đô-nê-xia, Ma-lai-xia, Phi-lip-pin, Xin-ga-po) có nghĩa vụ phải thực hiện trước mức thuế ưu đãi thuế quan (CEPT) từ 0 - 5 % cho tất cả các sản phẩm vào đầu năm 2010. Phía Thái Lan cũng đã yêu cầu Phi-lip-pin cắt giảm thuế nhập khẩu gạo và tăng hạn ngạch nhập khẩu gạo theo Hiệp định Tự do Thương mại ASEAN (AFTA). Song Phi-lip-pin nhấn mạnh rằng, gạo được

155

phân loại theo danh sách hàng hóa “rất nhạy cảm " cho phép đánh thuế nhập khẩu 35%.

Bên cạnh đó, vấn đề giữa Cam-pu-chia và Thái Lan vẫn là một rào cản không nhỏ đối với hợp tác ASEAN. Khỏi phải xa xôi trở về quá khứ mà chỉ cần điểm lại những vụ việc gần đây. Năm 2002, người dân Cam-pu-chia nổi giận đốt phá đại sứ quán Thái Lan sau khi một danh ca nước này cho rằng Ăng-co Vát là của Thái Lan. Ngay sau đó, tranh chấp đền Preah Vihear trở thành chủ đề chính trong tranh luận chính trị cả hai phía và dẫn đến xung đột quân sự vào năm 2008. Ngoài ra phải kể đến các mâu thuẫn trong việc phân chia Vịnh Thái Lan, những hiềm khích mang nặng tính dân tộc chủ nghĩa khác đến từ chính trị nội bộ của hai bên làm cho quan hệ giữa hai nước gần như không có đủ thời gian để lắng dịu.

Tranh cãi giữa hai nước lần này bùng phát ngay trước thềm Hội nghị Cấp cao của ASEAN họp tại Hin Hua trong nhiệm kỳ chủ tịch ASEAN của Thái Lan. Tham dự Hội nghị sau nhiều tin đồn vắng mặt, Thủ tướng Cam-pu-chia Hunsen đã rời Hội nghị mà không có cuộc tiếp xúc chính thức nào với người đồng nhiệm nước chủ nhà. Đặc biệt, việc Cam-pu-chia mời cựu Thủ tướng Thái Lan là ông Thaksin làm cố vấn riêng cho Thủ tướng Hunsen lại làm cho mối quan hệ vốn chưa bao giờ hoà thuận giữa Cam-pu-chia và Thái Lan trở nên căng thẳng hơn.

Những mâu thuẫn tương tự như vậy vô hình chung đã làm cho quan hệ hợp tác nội bộ ASEAN không mấy tốt đẹp, tạo ra rào cản đối với việc thành lập Cộng đồng ASEAN và trong khung cảnh đó mối quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng sẽ khó mà suôn sẻ như mong muốn nếu những mâu thuẫn này cứ tiếp diễn và trầm trọng hơn.

Sự tham gia của Việt Nam vào hợp tác ASEAN sẽ còn gặp một rào cản nữa cả trong trường hợp Cộng đồng Đông Á được hình thành, khiến cho ASEAN bị hoà tan vào thể chế hợp tác này. Cộng đồng Đông Á (EAC) là một cộng đồng kinh tế dự định của mười quốc gia thành viên ASEAN và sáu quốc gia gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân với mong muốn nâng cao vị thế của Đông Á trong nền chính trị và kinh tế thế giới. Song khi Cộng đồng Đông Á ra đời, ASEAN sẽ không tránh khỏi nguy cơ bị hoà tan vào thể chế này. Và khi đó, những nỗ lực của Việt Nam đối với việc tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN sẽ hầu như không còn ý nghĩa nữa như hiện nay.

156

Như đã phân tích, kịch bản thứ hai này xét về mặt lý thuyết là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Tuy nhiên, với sự thận trọng và cảnh giác cao - một đặc tính truyền thống cố hữu của hợp tác Đông Á, trên thực tế, kịch bản này lại khó thành hiện thực.

Kịch bản thứ ba, quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN trên cơ sở thực tế hiện nay, tiếp tục từng bước được cải thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả, theo hướng mỗi bên đều có những điều chỉnh thích hợp để khắc phục dần những khó khăn, hạn chế và yếu kém còn tồn đọng.

Tình trạng quan hệ như trên có thể diễn ra trong bối cảnh các Cộng đồng ASEAN (chinh trị - an ninh, kinh tế, văn hoá - xã hội) tuy gặp nhiều thách thức, nhưng về cơ bản, sẽ được hình thành theo dự kiến. Đây là kịch bản có khả năng hiện thực nhất đối với sự tiến triển của quan hệ Việt Nam - ASEAN trong mười năm tới.

Trước tiên phải nhìn nhận những khó khăn, thách thức mà Việt Nam đang đối mặt trong tiến trình hội nhập với ASEAN. Mặc dù Việt Nam đã và đang tiếp tục tạo dựng được một vị thế vững vàng và triển vọng phát triển sáng sủa, song nghiêm túc nhìn nhận, chúng ta còn phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn nữa, cao hơn nữa để đến năm 2020 mới có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra là trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trước mắt, Việt Nam cần phải nỗ lực phấn đấu vượt qua một số trở ngại và thách thức lớn nhất sau đây trong tiến trình hội nhập ASEAN nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.

Thứ nhất, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã duy trì liên tục được sự tăng trưởng khả quan như trên đã đề cập, vào loại nhanh thứ hai ở châu Á, chỉ sau có Trung Quốc, song có điều chưa thể hoàn toàn yên tâm với thành tích này vì nỗi lo về nguy cơ tụt hậu vẫn còn đó. Các số liệu thống kê cho thấy, nếu xét theo GDP thực tế, Việt Nam hiện vẫn chỉ ở vị trí xếp hạng lớn thứ 7 trong khối 10 nước ASEAN (ta chỉ đứng trước Brunây, Cam-pu-chia và Lào) và đứng thứ 58 trên thế giới, vẫn thuộc vào nhóm nước nghèo.

Việc đánh giá về trình độ phát triển kinh tế có thể căn cứ vào chỉ tiêu GDP như trên, song có một loại chỉ tiêu khác rất quan trọng phản ánh thực chất mức sống của người dân và cũng là thể hiện tương đối toàn diện về trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, đó là chỉ tiêu GDP bình quân đầu người. Ta hãy thử so sánh chỉ tiêu đó của Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan là hai nước cùng khu vực và hơn nữa cùng trong khối ASEAN+3.

157

Bảng 1: So sánh GDP bình quân đầu người Việt Nam - Trung Quốc

1998 740 350 2,11 2001 890 410 2,17 2002 940 430 2,18 2003 1120 500 2,24 2009 2460 1050 2,34

(USD) Trung Quốc Việt Nam Hệ số chênh lệch TQ/VN (lần)

Qua biểu trên, ta thấy rõ hệ số chênh lệch ngày càng lớn, cũng có nghĩa là mức tụt hậu của nền kinh tế nước ta so với nền kinh tế Trung Quốc đã ngày càng xa hơn.

Cũng theo phương pháp tiếp cận tương tự, ta hãy so sánh mức GDP bình

quân đầu người giữa Việt Nam và Thái Lan qua bảng dưới đây:

Bảng 2: So sánh GDP bình quân/người giữa Việt Nam và Thái Lan

(USD)

2002 2003 2004 2005

Thái Lan 2043 2173 2346 2580

Việt Nam 439 471 509 549

Hệ số so sánh 4,65 4,61 4,60 4,69

TL/VN (lần)

Nguồn: Số liệu của ASEAN Statistic Unit Rõ ràng là, hệ số so sánh giữa Việt Nam và Thái Lan cũng có xu thế tăng lên, nghĩa là mức tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với Thái Lan cũng ngày càng nặng nề hơn và mức tụt hậu của Việt Nam so với Thái Lan còn xa hơn so với Trung Quốc.

Từ tương quan so sánh về hai loại chỉ tiêu kinh tế cơ bản trên đây cho thấy rõ ràng nỗi lo về nguy cơ tụt hậu của Việt Nam trên thế giới, trước hết là trong khu vực vẫn còn đó. Ngoài ra còn phải kể đến một số trở ngại, bất cập khác mà Việt Nam chưa thể vượt qua được ngay trong thập niên này. Đó là sự tồn tại một hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của nền sản xuất xã hội còn nhiều lạc hậu, bao gồm cả những vấn đề còn rất nan giải như hệ thống máy móc, thiết bị chủ yếu là ở các thế hệ cũ, thậm chí rất cũ, hệ thống giao thông - dịch vụ tài chính, ngân hàng... cùng với quá trình đô thị hoá tuy đã khá hơn nhiều so với trước song vẫn còn khấp khểnh chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển bền vững ở nước ta. Về phương diện chính trị, xã hội và văn hoá, bên cạnh sự ổn định và phát triển đi lên là cơ bản, Việt Nam vẫn còn quá nhiều nỗi lo về một xã hội “văn minh nửa chừng”. Nghĩa là, có những

158

điều chúng ta đã đạt được ở trình độ trung bình khá hoặc tiên tiến của khu vực và thế giới, ví dụ như theo đánh giá của UNDP và WB về chỉ số giáo dục và chỉ số phát triển con người Việt Nam đều đạt ở mức khá. Nhưng đó là về đại thể, còn trên thực tế vẫn có không ít người, hiện nay vẫn còn những nhận thức lệch lạc trong cách sống, dẫn đến dễ bị tha hoá, biến chất thành những con người ích kỷ, thực dụng và do đó tệ nạn xã hội, tội phạm, mất an ninh trật tự xã hội cũng từ đó vẫn chưa thể giảm xuống được.

Liên quan đến vấn đề nguy cơ tụt hậu trên đây cũng cần phải kể đến một yếu kém của Việt Nam hiện nay, đó là năng lực cạnh tranh còn thấp, chậm được cải thiện. Cụ thể, có thể kể ra nhiều yếu kém như sức cạnh tranh về năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu. Nhiều doanh nghiệp nhà nước tồn tại được là nhờ có sự bảo hộ, trợ cấp của Nhà nước (vấn đề của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam hiện nay là một ví dụ). Tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ còn lớn. Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam cũng còn thua kém hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, một khó khăn, thách thức lớn đối với Việt Nam và có lẽ không chỉ riêng với Việt Nam mà kể cả số các nước khác trong khối ASEAN đang vẫn còn tồn tại ít nhiều những nét chưa tương đồng về trình độ phát triển kinh tế, đời sống văn hoá, thể chế chính trị - xã hội...

Sự khác biệt đó khiến Việt Nam có thể sẽ gặp khó khăn, bất cập trong quan hệ hợp tác phát triển với các nước ASEAN vì thế đòi hỏi phải có sự năng động, khôn khéo và nguyên tắc cơ bản đặt ra là cần tôn trọng chủ quyền đất nước và thể chế chính trị - xã hội của nhau. Nhận thức và hành động như vậy không phải chỉ riêng với tiến trình hội nhập ASEAN mà kể cả với toàn bộ tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu.

Trên đây là hai khó khăn, thách thức lớn nhất đặt ra mà Viêt Nam cần phải nỗ lực phấn đấu vượt qua trong tiến trình hội nhập có hiệu quả vào ASEAN. Đương nhiên còn có thể kể ra một số khó khăn, thách thức lớn khác. Đó là những hạn chế, bất cập của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu cao của hội nhập quốc tế và khu vực; những yếu kém của cơ chế quản lý hành chính hiện nay mặc dù Việt Nam đã cải cách, đổi mới nhiều... Và ngoài ra còn những khó khăn, thách thức lớn từ bối cảnh quốc tế và khu vực đưa lại, trong đó phải kể đến sự thiếu thiện chí đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam của một số thế lực đối lập, thậm chí thù địch với định hướng tiến lên CNXH ở Việt Nam;

159

những đe doạ đối với an ninh phát triển của toàn cầu, trong đó đáng lo ngại nhất hiện nay là tình trạng môi trường thiên nhiên ngày càng xấu hơn, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gia tăng mạnh.

Việt Nam đang nỗ lực khắc phục và giải quyết từng bước những khó khăn, thách thức. Mặt khác, cũng có thể thấy triển vọng quan hệ hợp tác Việt Nam – ASEAN là khá tốt đẹp. Theo báo cáo “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010” của Liên Hợp quốc dự báo, năm 2010, các nước đang phát triển ở châu Á sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, đạt 6,3%; trong đó, các quốc gia ASEAN có mức tăng trưởng khá, tiếp tục được coi là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, như trước khi suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra.

Trong các nước ASEAN, Việt Nam được kỳ vọng là có mức tăng trưởng cao nhất năm 2010, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng Việt Nam có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ít nhất 6%. Theo đánh giá của IMF, Việt Nam đã thực hiện sớm và có hiệu quả gói kích thích kinh tế và có chính sách tiền tệ năng động cũng như điều tiết cán cân ngoại thương kịp thời để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ các thị trường buôn bán chính của Việt Nam.

Xin-ga-po là nền kinh tế phát triển nhất trong ASEAN, nhưng cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên rơi vào suy thoái khi tốc độ tăng trưởng GDP từ 7,8% trong năm 2007 giảm xuống còn 1,1% trong năm 2008 và âm 2,5-2% trong năm 2009 trước khi phục hồi vào năm 2010.

In-đô-nê-xia, nền kinh tế lớn nhất (hơn 600 tỷ USD) trong ASEAN, tuy bị tác động từ cuộc khủng hoảng toàn cầu, song vẫn đạt mức tăng trưởng từ 4- 4,5,% trong năm 2009. Năm 2010 kinh tế In-đô-nê-xia được dự báo sẽ tăng trưởng tốt hơn năm 2009 và có thể đạt mức tăng từ 5-5,5%. Trong khi đó, mục tiêu mà chính phủ đề ra trong 5 năm tới là kinh tế sẽ tăng trưởng tới 7% vào năm 2014. Mặc dù có nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước, nhưng nhìn chung, các chuyên gia vẫn đánh giá tốt về kinh tế In-đô-nê-xia hiện nay.

Trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ cuối năm 2008, kinh tế Ma-lai-xia cũng bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm 2009. Trong năm 2010, Chính phủ Ma-lai-xia đang xem xét gói kích thích kinh tế thứ 3 khoảng từ 8 - 10 tỷ ringgit (2,3-2,9 tỷ USD, sau 2 gói kích cầu trị giá tới 19 tỷ USD) để giúp đẩy nhanh tốc độ phục hồi nền kinh tế, đồng thời giảm mức thuế thu nhập để khuyến khích tiêu dùng hơn nữa.

Thái Lan, một nền kinh tế lớn trong ASEAN, trong năm qua chịu tác động kép từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và sự bất ổn định chính trị trong nước, nên nền kinh tế chịu mức giảm gần 3%. Chính phủ Thái Lan có kế hoạch

160

kích cầu trị giá trên 1.430 tỷ baht (43 tỷ USD) được triển khai trong 3 năm (10/2009-2012), để có thể vực dậy nền kinh tế trị giá 260 tỷ USD đạt mức tăng trưởng từ 2,5 đến 4% từ năm 2012.

Các nền kinh tế ASEAN đang đứng trước cơ hội khá thuận lợi. Từ 1/1/2010, Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) bắt đầu có hiệu lực (với 6 thành viên cũ của ASEAN là In-đô-nê-xia, Thái Lan, Ma-lai-xia, Xinh-ga-po, Phi-lip-pin và Bru-nây). Cùng với đó là Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân (AANZFTA) cũng có hiệu lực cùng thời điểm.

Việc hai khu vực tự do thương mại có 2 tỷ dân và GDP gần 8.000 tỷ USD đi vào hoạt động mở ra cơ hội lớn cho các nền kinh tế thành viên. Bởi việc giảm bớt hàng rào thuế quan sẽ thúc đẩy buôn bán nội khối gia tăng mạnh mẽ. Tuy nhiên, do có sự phát triển tương đương nhau và nhiều nét tương đồng trong phát triển kinh tế, sự gắn kết này cũng tạo ra thách thức vô cùng lớn. Chẳng hạn hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc có thể lấn át hàng hóa cùng loại của ASEAN. Tuy thế, sự liên kết này là xu hướng tất yếu và đây là cơ hội đề ASEAN phát triển hơn, trở thành một trong những động lực chính của kinh tế toàn cầu trong tương lại không xa.

Triển vọng về mối quan hệ hợp tác khả quan giữa Việt Nam - ASEAN

được thể hiện qua xu thế liên kết về kinh tế, thương mại.

Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam - ASEAN không ngừng tăng trưởng, kim ngạch thương mại 2 chiều tăng từ 7,3 tỷ USD năm 2000 lên 14,9 tỷ USD năm 2005 và 29,77 tỷ năm 2008. Tính chung, đến 2008 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang ASEAN chiếm khoảng 14% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Trong các nước ASEAN, Xin-ga-po là bạn hàng lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này giai đoạn 1997 - 2008 chiếm tới 31% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN, tiếp đến là Ma-lai-xia chiếm 16%, Phi-lip-pin 15%, Thái Lan 13%... Cơ cấu hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN chủ yếu là hàng hóa có hàm lượng chế biến thấp, giá trị gia tăng không cao, hàng thô và hàng sơ chế chiếm tỷ trọng không cao, trong đó lớn nhất là dầu thô, tiếp đến là gạo, linh kiện điện tử, may mặc, thủy hải sản… Về tổng thể, trong quan hệ thương mại với ASEAN, Việt Nam ở thế nhập siêu với mức độ ngày càng tăng trong giai đoạn 1997 - 2008 (tuy nhiên, nếu xét riêng từng nước thì có nước Việt Nam ở thế xuất siêu nhưng không lớn). Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN chủ yếu là nguyên liệu cho sản xuất, hàng công nghiệp, phân bón,

161

giấy và hàng tiêu dùng. Nhìn chung, nhập siêu của Việt Nam từ ASEAN chiếm khoảng 30% tổng nhập siêu của cả nước.

Những năm qua, thương mại hai chiều phát triển khá mạnh, Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của kinh tế trong toàn khối, nhưng nhìn tổng thể thì quy mô trao đổi thương mại còn thấp. Trong lúc kinh tế thế giới còn có nhiều khó khăn khi đang dần ra khỏi khủng hoảng, để tận dụng và khai thác được những lợi thế từ hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta cần có những điều chỉnh về chính sách để tận dụng lợi thế về thuế quan trong FTA, gia tăng xuất khẩu, tiến tới cân bằng trao đổi thương mại với ASEAN. Đặc biệt, Việt Nam đã hợp tác kinh tế rất hiệu quả với Xin-ga-po, tiếp đó là Phi-lip-pin, In-đô-nê-xia, Mi-an- ma và Bru-nây. Đối với hầu hết các nước này, Việt Nam đã có được những thỏa thuận hợp tác lâu dài trên nhiều lĩnh vực.

Qua những phân tích ở trên, có thể dự đoán rằng quan hệ hợp tác Việt Nam – ASEAN trong những năm tới sẽ có nhiều bước tiến triển tốt đẹp tiến tới hình thành một Cộng đồng ASEAN vững mạnh - một nhân tố chủ đạo trong Cộng đồng châu Á. Đây có thể xem là kịch bản có nhiều triển vọng xảy ra nhất trong quan hệ Việt Nam – ASEAN từ nay tới năm 2020.

2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA

CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC, LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020

Nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết với ASEAN đến năm 2020 là một hướng ưu tiên quan trọng trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn phát triển mới của ASEAN, Việt Nam tiếp tục chủ trương tham gia, thúc đẩy hợp tác và tăng cường liên kết ASEAN theo tinh thần chủ động, tích cực, cùng ASEAN chung tay giải quyết các vấn đề khó khăn, phức tạp cũng như các thách thức mới đang đặt ra nhằm duy trì sức sống cũng như vị thế, giá trị của ASEAN trong hoàn cảnh mới. Nỗ lực thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các thỏa thuận và cam kết đã đề ra, với ưu tiên hàng đầu hiện nay là xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, thống nhất và gắn kết vào năm 2015.

Trong năm 2010, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN, góp phần cụ thể hóa các mục tiêu của Cộng đồng ASEAN, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam, đề cao hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới và năng động, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; tạo điều kiện quan trọng nâng cao hiệu quả của sự liên kết, hợp tác của Việt Nam với ASEAN đến năm 2020.

162

Hướng tới nâng cao hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết với ASEAN đến năm 2020, Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, cụ thể và thiết thực, vừa thực hiện những giải pháp chung mang tính định hướng, vừa thực hiện những giải pháp trên những lĩnh vực cụ thể.

2.1. Những giải pháp chung 2.1.1. Nâng cao nhận thức toàn xã hội; thực hiện cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu quả Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020

Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền: Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về việc Việt Nam hợp tác, liên kết với ASEAN là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đầu tiên, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả của sự liên kết, hợp tác của Việt Nam trong tổ chức này thời gian tới. Theo lộ trình hợp tác, liên kết ASEAN, Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành vào năm 2015 và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tiếp theo. Vì thế, việc nhận thức đúng những vấn đề, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động... của ASEAN, tầm quan trọng của khối liên kết này, trách nhiệm và vai trò của Việt Nam trong Hiệp hội... là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng. Sự nhận thức đó không chỉ ở các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, ở những lực lượng trực tiếp thực thi, mà phải là nhận thức chung của toàn xã hội. Phải nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng về ASEAN, cũng như vị trí, vai trò, trách nhiệm của nước ta trong khối. Chưa đạt được nhận thức chung toàn xã hội, thì chúng ta khó có thể tham gia một cách có hiệu quả trong khuôn khổ hợp tác, liên kết ASEAN.

Điều quan trọng đầu tiên là cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, làm cho các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ, hội nhập và tham gia vào ASEAN là đòi hỏi khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, giúp Việt Nam tranh thủ những lợi ích thiết thực về kinh tế - thương mại và văn hóa - xã hội, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Là thành viên ASEAN cũng tạo thế cho Việt Nam mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực rộng lớn hơn như ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), APEC, ASEM, WTO,… qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam.

Làm cho mọi người dân hiểu được lợi ích chiến lược trong việc tăng cường quan hệ với ASEAN: gia nhập ASEAN là quyết sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng. Tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực về chính trị - an

163

ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội và đối ngoại, mà bao trùm là giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như hỗ trợ cho Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế. Tham gia hợp tác, liên kết ASEAN giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á, thông qua việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN thống nhất, liên kết chặt chẽ và có vai trò ngày càng quan trọng ở khu vực, cũng như hình thành các mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên. Kể từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN, có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác ASEAN, xử lý một số vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong khu vực, hạn chế sức ép và tác động từ bên ngoài.

Làm cho các tầng lớp xã hội thấy rõ, việc xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ xuyên suốt trong hợp tác liên kết của ASEAN hiện nay, Việt Nam phải cùng các nước ASEAN thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ quá trình này. Việt Nam có vai trò quan trọng và đóng góp tích cực vào sự phát triển của ASEAN. Sự tham gia và những đóng góp thiết thực của Việt Nam đối với quá trình hợp tác, liên kết ASEAN luôn nhận được sự đánh giá cao của các nước trong khu vực, từ đó Việt Nam được tín nhiệm và giao trọng trách tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế quan trọng. Năm 2010, Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN với công việc hết sức nặng nề, nhưng vinh dự cũng hết sức lớn lao. ASEAN 17 năm 2010 với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”, Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ vai trò Chủ tịch của mình, đóng góp cho sự đoàn kết, hợp tác ASEAN, nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của tổ chức khu vực, của Việt Nam nói riêng lên tầm cao mới.

Thực hiện cơ chế, chính sách nhằm tăng cường hiệu quả Việt Nam tham gia trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020. Để tăng cường hiệu quả Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020, chúng ta cần phải thực hiện những cơ chế, chính sách phù hợp, thiết thực. Trong đó, trước hết cần quan tâm những vấn đề chủ yếu sau:

- Thúc đẩy đoàn kết và hợp tác ASEAN, đẩy mạnh liên kết khu vực nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN, hoàn tất việc đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống. Mở rộng và tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN, với các bên đối tác; củng cố và duy trì vai trò quan trọng của ASEAN tại các khuôn khổ hợp tác khu vực, đóng góp cho hòa bình,

164

ổn định và phát triển ở khu vực CA-TBD. Quảng bá đất nước và con người Việt Nam; đề cao hình ảnh một nước Việt Nam đổi mới và năng động, có đường lối đối ngoại độc lập, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, tích cực hội nhập khu vực và quốc tế.

- Cần phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên thông qua các hành động cụ thể đẩy nhanh tiến độ triển khai hiệu quả các chương trình, kế hoạch xây dựng 3 trụ cột Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch công tác giai đoạn II về Thu hẹp khoảng cách phát triển trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đảm bảo việc thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN đúng lộ trình vào năm 2015.

- Triển khai Hiến chương, hoàn thiện bộ máy tổ chức mới, cải tiến phương thức hoạt động của ASEAN, hoàn tất soạn thảo các văn kiện pháp lý bổ sung cho Hiến chương, tạo khuôn khổ pháp lý cho ASEAN. Tiếp tục tăng cường quan hệ với các đối tác bên ngoài trên cơ sở các khuôn khổ đối tác, hợp tác hiện có, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, hợp tác ứng phó với các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, an ninh năng lượng, lương thực…

- Việt Nam cần thúc đẩy vị thế quốc tế của ASEAN thông qua củng cố và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực; mở rộng hơn vai trò của ASEAN tại các thể chế, diễn đàn khu vực và quốc tế như APEC, ASEM, Liên Hợp quốc, G20…

2.1.2. Tăng cường nội lực và sức mạnh tổng hợp quốc gia Tham gia vào ASEAN và nâng cao hiệu quả của việc Việt Nam tham gia vào tổ chức khu vực này, điều đặc biệt quan trọng là chúng ta phải nỗ lực làm cho đất nước mạnh lên về mọi mặt, tăng cường nội lực và phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia. Không có nội lực và sức mạnh thì sự tham gia của bất kể các nước thành viên nào cũng không thể đạt được hiệu quả mong muốn, không thể phát huy mạnh mẽ vai trò tích cực của mình đối với sự phát triển của tổ chức. Việt Nam cũng nằm trong tình hình như vậy. Trong thực tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhận thức rõ vấn đề này. Vì thế, một mặt rất tích cực, chủ động tham gia các hoạt động của ASEAN; mặt khác, ra sức phát triển đất nước, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, điều chỉnh, bổ sung những chính sách phù hợp với yêu cầu mới, nhằm tăng cường nội lực mà trước hết là nội lực phát triển của nền kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước. Chính trên cơ sở đó, mà sự tham gia của Việt Nam từ khi chính thức là thành viên của

165

ASEAN ngày càng có hiệu quả, vai trò, vị thế của Việt Nam trong khối ngày càng được nâng cao.

Từ nay đến năm 2020, trước yêu cầu phát triển mới của ASEAN trong bối cảnh lịch sử mới, việc tăng cường nội lực, phát huy sức mạnh tổng hợp càng trở nên quan trọng và cấp thiết để Việt Nam tham gia ngày càng có hiệu quả hơn vào các hoạt động của ASEAN. Vấn đề này không chỉ phải trở thành nhận thức chung của cả xã hội, của các cấp, các ngành, mà điều quan trọng còn phải biến thành quyết tâm trong hành động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều đó, đòi hỏi chúng ta phải có được sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, có nội lực mạnh từ nền kinh tế; chính trị ổn định, quốc phòng và an ninh vững mạnh, văn hóa xã hội phát triển; phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp nội lực và vị thế quốc tế của đất nước tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất cho đất nước để hội nhập và tham gia hiệu quả vào ASEAN.

2.1.3. Phát huy lợi thế so sánh trong hội nhập khu vực và quốc tế Đây là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Hội nhập và tham gia vào ASEAN, Việt Nam rất cần tiếp tục quán triệt quan điểm đối ngoại của Đảng trong tình hình mới, tạo điều kiện tăng cường hiệu quả hội nhập với ASEAN. Cần quán triệt quan điểm: “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”; “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước”35. Việt Nam là quốc gia có những lợi thế so sánh về nguồn nhân lực, về tài nguyên, thị trường.... Do mô hình và trình độ phát triển khác nhau giữa các nước ASEAN, để phát huy lợi thế so sánh trong hội nhập khu vực và quốc tế, chúng ta cần phải tự đổi mới mình về nhiều mặt, đây là một nhiệm vụ quan trọng. Theo đó, cần phải “Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác”36. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập ngày càng phát triển sâu rộng.

35 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 114 36 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 114 166

2.2. Những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả Việt Nam

tham gia trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020

2.2.1. Trên lĩnh vực chính trị, an ninh Trước hết, cần nhận thức rõ rằng, Việt Nam và các nước ASEAN hiện nay có nhiều lợi ích cơ bản trùng hợp nhau, mục tiêu lớn nhất của các quốc gia là đều mong muốn duy trì hòa bình ổn định trong khu vực để có thể tập trung mọi nguồn lực cho xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tế phát triển của khu vực và thế giới những năm gần đây cũng cho thấy rõ hơn những phức tạp mà Việt Nam đã và sẽ phải vượt qua để tham gia có hiệu quả hơn vào quá trình hợp tác của ASEAN trên lĩnh vực chính trị và an ninh.

Thời gian tới, sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn nhằm tạo ra cục diện cân bằng lợi ích mới trong khu vực tiếp tục tác động, lôi kéo một số nước ASEAN, gây phức tạp cho sự đoàn kết của ASEAN. Điều này gây khó khăn nhất định cho Việt Nam trong việc hướng ASEAN thực hiện chính sách cân bằng quan hệ với các nước lớn theo hướng thuận lợi cho Việt Nam triển khai chính sách đối ngoại đối lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Mặt khác, những khác biệt về chế độ chính trị dù sao vẫn tạo ra tâm lý nghi ngại nhất định từ phía các nước ASEAN, cũng như Việt Nam trong việc thúc đẩy APSC.

Hiện nay tại khu vực Đông Nam Á vẫn còn tồn tại những vấn đề lớn, liên quan đến chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải rất khó giải quyết vì lợi ích các bên khác nhau. Trong quan hệ với Trung Quốc, khi xảy ra sự cố cụ thể trên biển Đông thì thái độ của các nước ASEAN rất khác nhau, do mỗi nước theo đuổi lợi ích riêng với Trung Quốc. Các nước ASEAN cũng có những thận trọng đối với quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, do vậy Việt Nam không hoàn toàn thuận lợi để có thể đóng vai trò cầu nối thúc đẩy quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý nữa là trong ARF, nhiều nước muốn chuyển sang ngoại giao phòng ngừa, thể chế hóa diễn đàn, đây cũng là thách thức lớn nhất đòi hỏi Việt Nam cần phải tỉnh táo, xử lý thận trọng, khéo léo để vừa đảm bảo được lợi ích dân tộc, vừa không bị đẩy tới tình trạng bị cô lập.

Từ góc nhìn nêu trên, xin nêu một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hơn nữa sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác của ASEAN về chính trị, an ninh những năm tới:

Một là, cần chủ động và tích cực tham gia vào hợp tác chính trị, an ninh ASEAN, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác với tất cả các nước lớn có lợi ích an ninh tại khu vực.

167

Mặc dù các nước lớn có những mâu thuẫn về quyền lợi và tranh giành ảnh hưởng với nhau, nhưng xu thế cùng tồn tại hòa bình và hợp tác vẫn là xu thế chính trong quan hệ giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản. Xu thế này sẽ còn kéo dài ít nhất là một vài thập niên nữa, cho nên trong những năm tới, cả Trung Quốc, Nga, Nhật Bản sẽ tạm thời "chấp nhận" vai trò siêu cường duy nhất của Mỹ và chưa có phản ứng đáng kể đối với các hoạt động của Mỹ ở ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của họ. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục chủ trương đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ quốc tế, đề cao ưu tiên trong quan hệ cân bằng với các nước lớn. Theo các chuyên gia phân tích động thái tình hình chính trị, an ninh của Việt Nam hiện nay cho thấy, tuy không phải trực tiếp đối diện với mối đe dọa xâm lược từ bên ngoài, nhưng nguy cơ về một mối đe doạ như vậy vẫn tiềm tàng.

Như các phần trên đã phân tích, trong trường hợp xảy ra xung đột hoặc những rắc rối về an ninh ở Đông Nam Á, nhất là ở Biển Đông, thì trách nhiệm đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam đương nhiên phải do Việt Nam tự gánh vác. Bởi vậy, Việt Nam cần khôn khéo phát triển quan hệ hợp tác với ASEAN cũng như tất cả các nước lớn có lợi ích an ninh ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, xác lập thế cân bằng với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đồng thời chủ động tăng cường quan hệ với Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu.

Việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) hàng năm cần phải là một hướng chú ý ưu tiên trong hoạt động của Việt Nam. Trong 4 Hội nghị ADMM đã được tổ chức, Hội nghị ADMM - 3 tại Thái Lan với chủ đề “Tăng cường quốc phòng ASEAN đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống”; Hội nghị ADMM - 4 diễn ra tại Hà Nội - Việt Nam, tháng 5 năm 2010 với chủ đề “Tăng cường hợp tác quốc phòng ASEAN vì một khu vực ổn định và phát triển” đã thành công tốt đẹp. Các Bộ trưởng đã thống nhất phải hợp tác chặt chẽ thực chất hơn trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nghị ADMM - 4 đã thông qua hai văn kiện thành lập ADMM+, đó là: “Cơ cấu và thành phần”; “Thể thức và thủ tục”, hoàn tất thủ tục pháp lý để đi đến hiện thực hóa ADMM+, đảm bảo cho ASEAN chủ động mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các đối tác ngoài khu vực, mà khởi điểm là Hội nghị ADMM+8 tháng 10 năm 2010 tại Hà Nội (Hội nghị gồm 10 nước ASEAN và 8 đối tác đầy đủ: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Ôtxtrâylia, Niudilân). “ADMM+ sẽ là cơ chế mạnh có khả năng đưa lại

168

kết quả trên thực tế và đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực trong thời gian tới”37.

Việt Nam cần tham gia và tích cực, thúc đẩy hoạt động theo cơ chế ADMM+, nhằm vừa tăng cường vị thế của ASEAN, vừa nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam, hạn chế đến mức thấp nhất những trở ngại về quốc phòng, an ninh đối với đất nước, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam cần chủ động cùng với các nước thành viên ASEAN thực hiện những chính sách cụ thể nhằm thu hút các nước lớn tham gia, lôi cuốn họ tham gia giải quyết các vấn đề an ninh khu vực. Đồng thời, cần phải tỉnh táo để tránh rơi vào "thế kẹt" của các nước lớn, Việt Nam cần có thái độ thực sự cầu thị hợp tác hòa giải những vấn đề nảy sinh từ tham vọng của các nước lớn, cũng như sự cạnh tranh lợi ích, ảnh hưởng và quyền lực giữa họ tại khu vực Đông Nam Á.

Hai là, coi trọng hiệu quả thiết thực khi tham gia xây dựng Cộng đồng

chính tri-an ninh ASAN (APSC).

Trên chặng đường phát triển của mình, ASEAN đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận trước hết là trong lĩnh vực an ninh chính trị. Vào thời điểm hiện nay, ASEAN đang tập trung nỗ lực hướng tới mục tiêu xây dựng APSC nhằm hoàn thiện và nâng cấp các cơ chế hợp tác an ninh hiện có với một nền pháp lý mới là bản Hiến chương ASEAN được thông qua cuối năm 2007. Mục tiêu phấn đấu của ASEAN nói chung và của APSC nói riêng, xét trên nhiều góc độ, phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần có những cam kết thực sự đối với APSC. Với vai trò và vị trí đang được củng cố trong hợp tác chính trị, an ninh của ASEAN, Việt Nam cần tiếp tục thể hiện rõ sự chủ động, linh hoạt hơn nữa để đảm bảo vị thế và lợi ích của mình trong khuôn khổ hợp tác APSC. Việt Nam cần chủ động hơn trong việc tham gia vào các lĩnh vực an ninh chính trị nhạy cảm đã được nêu ra trong Chương trình hành động APSC như: thúc đẩy nhận thức chung ASEAN về dân chủ và nhân quyền, hoàn thiện những chuẩn mực ứng xử của ASEAN, xây dựng Công ước ASEAN về chống khủng bố, trao đổi thông tin về các vấn đề an ninh quốc gia, tham gia tập trận quân sự ASEAN… Trước mắt, Việt Nam cần chủ động triển khai những công việc liên quan sau khi Hiến chương ASEAN được các thành viên thông qua. Đối với quá trình xây dựng APSC, Việt Nam cần tham gia tích cực ngay từ đầu nhằm xây dựng môi trường khu vực hòa bình và ổn

37 Thành công của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng lần thứ nhất và triển vọng của một cấu trúc an ninh khu vực, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11/2010, tr. 8 169

định, thúc đẩy hợp tác và đối thoại ASEAN trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, một mặt nhằm đóng góp vào quá trình xây dựng lòng tin, giảm thiểu nguy cơ xảy ra xung đột ở khu vực, mặt khác giúp ASEAN giữ vững vai trò chủ đạo trước xu hướng gia tăng hợp tác ở khu vực trong lĩnh vực này.

Hiện nay, cấu trúc quyền lực trên thế giới nói chung, ở CA-TBD nói riêng chưa định hình rõ, chưa hình thành một cơ chế chung đủ uy tín và sức mạnh có thể điều phối hay kiểm soát các tranh chấp, nhất là trong lĩnh vực an ninh. Toàn cầu hoá và các thể chế kinh tế, chính trị quốc tế bị các nước tư bản lớn, đặc biệt là Mỹ lợi dụng như một công cụ chính trị để thực hiện "dân chủ hoá thế giới". Mặt khác, tại khu vực ASEAN tiếp tục hiện hữu những tranh chấp phức tạp về chủ quyền lãnh thổ, nguy cơ căng thẳng các xung đột tôn giáo, sắc tộc và xu hướng ly khai, cùng với sự khác nhau về chế độ chính trị - xã hội… Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần đổi mới nhận thức về vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, đồng thời cần kiên trì cùng các nước ASEAN đấu tranh giữ vững nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh, chính trị. Một khi những nguyên tắc này không còn được thực hiện, cũng có nghĩa là bản sắc chủ quyền an ninh quốc gia của Việt Nam sẽ đứng trước những thách thức nguy cơ lớn, ASEAN cũng sẽ đối mặt trước nguy cơ bị một nhóm nước phát triển hơn chi phối, khống chế. APSC cũng vì thế mà khó có thể trở thành hiện thực trong thiết kế như ASEAN mong đợi hiện nay.

Ba là, cần có cách tiếp cận linh hoạt khi tham gia cơ chế hợp tác chính

trị, an ninh của ARF.

Trong những năm gần đây, ARF đã có những đóng góp quan trọng đối với an ninh khu vực thông qua những cố gắng xây dựng lòng tin và tăng cường các kênh đối thoại đa dạng giữa các nước thành viên tham gia diễn đàn và đây tiếp tục sẽ là hướng hoạt động nổi bật nhất của ARF trong những năm sắp tới. Hiện nay, ARF đã chuyển sang giai đoạn thứ 2 - ngoại giao phòng ngừa trong tiến trình ba giai đoạn được trù tính trong hoạt động của tổ chức này. Tuy nhiên, trong giai đoạn này Việt Nam và một số nước thành viên còn không ít những nghi ngại do ngoại giao phòng ngừa là một khái niệm mới xuất hiện ở thời kỳ sau Chiến tranh lạnh và vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện về nội dung.

Hội nghị ARF lần thứ 9 (2002) nêu lên khái niệm về ngoại giao phòng ngừa với hàm nghĩa là hoạt động liên ứng về chính trị và ngoại giao do các nhà nước có chủ quyền tiến hành với sự đồng thuận của tất cả các bên có liên quan trực tiếp. Mục đích của ngoai giao phòng ngừa nhằm giúp: ngăn chặn nảy sinh

170

các cuộc va chạm và xung đột giữa các nhà nước, có thể gây nên mối đe doạ tiềm tàng đối với hòa bình và ổn định trong khu vực; ngăn chặn các cuộc tranh chấp và xung đột đó leo thang thành đối đầu vũ trang; giảm thiểu tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của các cuộc va chạm và xung đột như vậy tới khu vực. Như vậy, ngoại giao phòng ngừa, xét về bản chất, chỉ là những biện pháp hòa bình, dựa trên sự tự nguyện và đồng thuận của các nước thành viên, không có tính chất áp đặt, ép buộc hay kiềm chế bất kỳ nước thành viên nào thông qua các biện pháp có tính chất thể chế. Cho nên, Việt Nam cần có cách tiếp cận linh hoạt, khôn khéo tham gia vào các hoạt động của tổ chức này. Việt Nam không quá lo ngại, để tích cực tham gia ngoại giao phòng ngừa của ARF, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, độc lập chủ quyền của mình.

Bốn là, tích cực tham gia hợp tác ASEAN để đối phó với những thách

thức an ninh phi truyền thống.

Các nước ASEAN trong những năm tới sẽ chủ yếu phải đối mặt trước những thách thức an ninh phi truyền thống. Trước hết, đó là tình trạng tăng trưởng không bền vững về kinh tế; sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và mất cân bằng sinh thái; sự gia tăng dòng di cư lao động bất hợp pháp; nạn buôn lậu ma túy, vũ khí, buôn lậu phụ nữ qua biên giới; các hoạt động khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Để đối phó với những thách thức đó, các nước ASEAN cần có sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả. Việc tích cực tham gia hợp tác của Việt Nam trong ASEAN để đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống sẽ góp phần tăng cường an ninh quốc gia, cũng như an ninh chung của toàn khu vực.

Tuy nhiên, Việt Nam cần thận trọng trong việc tham gia hợp tác giải quyết những thách thức an ninh phi truyền thống. Thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất hiện nay của ASEAN là chủ nghĩa khủng bố. Một trong những nguồn gốc sâu xa của các hoạt động khủng bố trong khu vực hiện nay là do sự sai lầm trong chính sách phát triển không đồng đều, chênh lệch về sự thụ hưởng từ sự phát triển, nhất là đối với những khu vực có những vấn đề về tôn giáo, sắc tộc. Mặc dù Việt Nam đã có những chính sách về dân tộc và tôn giáo đúng đắn, nhưng cách tốt nhất để ngăn chặn sự bùng nổ xung đột về tôn giáo, sắc tộc và ngăn chặn nguy cơ lây lan của chủ nghĩa khủng bố vào Việt Nam là thực hiện cho được một chiến lược phát triển bền vững và đồng đều. Trong khi tham gia các hoạt động hợp tác chống khủng bố của ASEAN, Việt Nam nên cân nhắc tránh đưa ra những tuyên bố chống khủng bố đơn phương và thận trọng trong việc tham gia hoạt động hợp tác quân sự chống khủng bố. Đặc biệt, cần chú ý không để các lực lượng khủng bố ở khu vực lợi dụng và khai thác một số bất

171

bình của số ít nhóm tộc người ở Việt Nam chống lại chính phủ, gây bạo loạn làm mất ổn định chính trị trong nước, ảnh hưởng đến quốc phòng an ninh và môi trường hòa bình của đất nước.

Năm là, thúc đẩy hợp tác an ninh song phương với các nước thành viên

ASEAN khác.

Hợp tác an ninh song phương của ASEAN hiện nay được tiến hành thông qua các hình thức như tuần tra biên giới, đào tạo, huấn luyện sĩ quan, trao đổi thông tin, tình báo, tập trận chung, cứu hộ và cứu nạn. Trong những năm qua, trừ hình thức tập trận chung, Việt Nam đã tham gia với mức độ khác nhau đối với các hình thức hợp tác an ninh song phương với các nước khu vực. Trong những năm tới, trước những đề nghị tập trận chung của các nước thành viên ASEAN, Việt Nam luôn phải có sự cân nhắc thận trọng, đặc biệt không tham gia tập trận chung với các nước lớn ngoài ASEAN, vì đây là vấn đề rất nhạy cảm đối với khu vực.

2.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế, thương mại Lĩnh vực kinh tế, thương mại là lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong hợp tác, liên kết ASEAN. Nhằm thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam một cách có hiệu quả vào quá trình hợp tác liên kết ASEAN, phù hợp với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế", Việt Nam cần thực hiện một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, đẩy mạnh hợp tác liên kết kinh tế trong khuôn khổ ASEAN. Đẩy mạnh hợp tác liên kết kinh tế trong khuôn khổ ASEAN là biện pháp đặc biệt quan trọng bảo đảm sự cố kết giữa các quốc gia trong khu vực, củng cố tổ chức. Để có bước đi thích hợp và đạt hiệu quả cao, trước hết chúng ta cần đầu tư thích đáng đối với công tác nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về tiến trình hội nhập, liên kết kinh tế ASEAN, đặt nó trong bối cảnh chung của tình hình và xu thế phát triển hợp tác liên kết kinh tế trên thế giới, cũng như ở CA-TBD, đặc biệt là Đông Á. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá đúng kết quả sự tham gia liên kết kinh tế ASEAN thời gian qua, rút ra những bài học và kinh nghiệm, khắc phục những hạn chế, yếu kém, từ đó đề ra những quyết sách hội nhập thích hợp cho những năm tới, có tính toán một cách đầy đủ những yêu cầu chung của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế từ nay đến năm 2020.

Thứ hai, chủ động và tích cực đề ra những biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy triển khai Hiệp định khung về 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN, hướng tới tiêu đích xây dựng AEC vào năm 2015.

Cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các thỏa thuận về tự do hóa mậu dịch, đầu tư và dịch vụ trong ASEAN, thúc đẩy liên kết kinh tế sâu rộng hơn. Phát

172

huy vai trò chủ đạo trong việc thực hiện Sáng kiến hội ASEAN, các chương trình phát triển Tiểu vùng Mê Công, WEC,… Trong khi chú trọng đẩy mạnh tiến trình liên kết kinh tế ASEAN làm trục ưu tiên, cần tranh thủ cơ hội thúc đẩy quá trình đi tới FTA song phương với một số nền kinh tế lớn và phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản và EU.

Thứ ba, tích cực tham gia các cơ chế đối thoại, thúc đẩy mở rộng và làm

sâu sắc hơn quan hệ hợp tác kinh tế của ASEAN với các bên đối thoại.

Việt Nam cần phát huy tính chủ động tham gia và đóng góp giữ vững vai trò chủ đạo của ASEAN trong các tiến trình hợp tác kinh tế do ASEAN khởi xướng như ASEAN + 1, ASEAN + 3, Cấp cao Đông Á, ASEM; tranh thủ tối đa cơ hội và lợi thế trong việc thúc đẩy và thực hiện các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước khác.

Thứ tư, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của nền kinh tế. Phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của nền kinh tế thông qua đẩy mạnh quá trình cải cách bên trong, bao gồm điều chỉnh định hướng cơ cấu và cải cách thể chế, nhằm mục tiêu hội nhập sâu rộng vào các cơ chế hợp tác liên kết kinh tế ASEAN. Khẩn trương điều chỉnh, đổi mới bên trong từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.

Thứ năm, chú trọng thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác từ ASEAN.

Cải tiến phương thức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và có kế hoạch trả nợ đúng hạn, duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tham gia hợp tác liên kết kinh tế ASEAN, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp các nước ASEAN và mạnh dạn đầu tư vào các nước ASEAN. Đẩy mạnh xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát huy lợi thế trong phân công lao động của ASEAN, tích cực phát triển hợp tác lao động với các nước trong khối.

2.2.3. Trên các lĩnh vực khác * Về khoa học công nghệ và môi trường: Hợp tác trên lĩnh vực khoa học công nghệ và môi trường giữa các nước ASEAN cần tăng cường và nâng cao hiệu quả hơn. Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với các nước ASEAN xây dựng các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học mới trong các lĩnh vực vốn

173

có kinh nghiệm triển khai hợp tác nhiều năm qua, như: sản xuất nông nghiệp, an ninh lương thực, khí tượng và vật lý địa cầu, vi điện tử và công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu, năng lượng phi truyền thống, biển và môi trường biển; phát triển hạ tầng và tiềm lực khoa học công nghệ. Việt Nam cần chủ động vươn lên để nghiên cứu và sáng tạo, coi đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với nước ngoài nói chung, với ASEAN nói riêng.

Trong những năm qua, hợp tác liên kết về khoa học và công nghệ giữa các nước ASEAN cũng như giữa Việt Nam và ASEAN chủ yếu chỉ mới diễn ra trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, còn lĩnh vực rất quan trọng là khoa học xã hội lại rất mờ nhạt. Do vậy, Việt Nam cần sớm tăng cường các nội dung về khoa học xã hội trong hợp tác khoa học và công nghệ của ASEAN. Trong hợp tác về môi trường, Việt Nam có thể cân nhắc đề xuất hợp tác với các nước ASEAN hữu quan một số chương trình, dự án về bảo vệ các hệ sinh thái trong Tiểu vùng sông Mê kông mở rộng và ở khu vực biển Đông. Đây là một hướng đóng góp có triển vọng vì một ASEAN sạch và xanh.

* Về văn hoá, giáo dục - đào tạo: Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác trong ASEAN nhằm phát triển nguồn nhân lực cho hợp tác văn hoá thông tin. Thúc đẩy việc thành lập các tổ chức liên doanh đào tạo, chuyển giao công nghệ, nâng cao kỹ năng, năng lực, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm văn hoá. Khuyến khích các sáng kiến đào tạo cả ở khu vực tư nhân và nhà nước. Xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng các dự án hợp tác về đào tạo chuyên ngành văn hoá và nghệ thuật. Hợp tác sản xuất sản phẩm văn hoá có quy mô vừa và nhỏ. Đây là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ và phát huy những giá trị của văn hoá, làm cho các sản phẩm văn hoá vừa có giá trị thương mại, vừa mang đậm bản sắc văn hoá riêng biệt của từng địa phương, từng quốc gia và khu vực. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác song phương và hợp tác văn hoá thông tin với các nước đối thoại của ASEAN.

Hợp tác trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong những năm tới cần thống nhất trên những vấn đề chính là: vấn đề cơ cấu đào tạo, chương trình đào tạo và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đó là vấn đề rất quan trọng tạo nên sự thống nhất về học vấn trong nội khối. Việt Nam cần tăng cường trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy, học tập với các nước ASEAN. Từ đó, các nước khu vực cố gắng đưa ra một chương trình giảng dạy chung giữa các nước ASEAN, thúc đẩy thành lập các trường đại học cho cả khu vực (ASEAN Universities) với việc sử dụng tiếng Anh trong giảng dạy và

174

học tập. Đồng thời, cũng cần có sự thống nhất và công nhận lẫn nhau về giá trị chung của các bằng cấp đào tạo của các quốc gia, để có thể thực hiện sự di chuyển tự do về lao động có tay nghề cao trong khu vực, tăng cường hiệu quả hợp tác, liên kết của Việt Nam với ASEAN.

Tóm lại: Trong giai đoạn hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình khu vực và thế giới, đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam đang năng động đẩy mạnh triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, song vẫn dành ưu tiên cao đối với việc phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN. Với tư cách một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết và năng động, có vai trò ngày càng quan trọng, ASEAN đã và sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh, hợp tác vì phát triển ở Đông Nam Á. Tăng cường phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN đã và đang hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu an ninh và phát triển của Việt Nam. Trên chặng đường 15 năm qua kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã đóng góp quan trọng trong việc xác định các phương hướng hợp tác và tương lai phát triển cũng như trong các quyết sách lớn của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác, nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Hiệp hội.

175

KẾT LUẬN

Trên chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ quy mô ban đầu với 5 thành viên sáng lập, sau 4 lần mở rộng, ngày nay đã quy tụ được sự tham gia của 10 nước Đông Nam Á. Từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển, ASEAN đã trở thành một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên thế giới hiện nay.

ASEAN ra đời trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh được đẩy lên cao. Do đó, ASEAN đã không dễ dàng trong việc thực hiện những mục tiêu hàng đầu được xác định trong Tuyên bố Băng Cốc khi thành lập là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng. Gần suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, do chịu tác động từ cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương, từ ý đồ cạnh tranh chiến lược của các nước lớn và vấn đề Cam-pu-chia, cho nên quan hệ giữa các nước ASEAN với các nước Đông Dương nhìn chung thường bị bao phủ bởi bầu không khí lạnh nhạt, thậm chí căng thẳng, thiếu tin cậy lẫn nhau và đối đầu. Xuất phát từ lợi ích của mình, các nước ASEAN trong một số thời điểm cụ thể vẫn cố gắng tìm kiếm cơ hội thúc đẩy hợp tác khu vực, thể hiện rõ qua Tuyên bố về ZOPFAN, Hiệp ước Ba-li, Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN… Các nước ASEAN chú trọng hợp tác chính trị, an ninh và sự thành công đáng kể nhất của họ cũng chính là trên lĩnh vực này. Hợp tác kinh tế ASEAN do nhiều trở ngại khác nhau, nên còn khá mờ nhạt và nhiều hạn chế.

Chiến tranh lạnh kết thúc đã mở ra cơ hội mang ý nghĩa lịch sử cho tiến trình phát triển hợp tác liên kết ASEAN trên các lĩnh vực. Hơn một thập niên qua, tiến trình này tuy còn gặp không ít khó khăn, nhưng đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của ASEAN.

Là một nước có vị trí quan trọng ở Đông Nam Á, Việt Nam từ rất sớm cũng đã xây dựng được mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng khu vực. Truyền thống quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong khu vực được kết tinh và hun đúc không chỉ từ sự tương đồng về lịch sử văn hoá, mà còn từ chính quá trình đấu tranh cách mạng giành và giữ nền độc lập dân tộc của mỗi nước. Bởi vậy, mối quan hệ này mặc dù đã từng

176

trải qua những thử thách thăng trầm của thời cuộc, song vẫn thường xuyên được củng cố và phát triển, trở thành một trong những nhân tố không thể thiếu đóng góp xứng đáng đối với sự phát triển bền vững của mỗi nước cũng như toàn khu vực.

Trong bối cảnh quốc tế mới sau chiến tranh lạnh, việc gia nhập ASEAN tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn lực bên ngoài, góp phần phát huy hơn nữa tiềm năng nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Đối với các nước ASEAN, sự kiện này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sức mạnh cũng như sự thống nhất trong đa dạng của khu vực Đông Nam Á, mở ra triển vọng hiện thực về một ASEAN bao gồm tất cả các nước khu vực, tạo vị thế mới của Hiệp hội trước sự phát triển mạnh mẽ của xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá. Đồng thời, Việt Nam gia nhập ASEAN cũng tạo cơ hội cho các thành viên ASEAN tăng cường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là về kinh tế với Việt Nam trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.

Kể từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của ASEAN. Trên lĩnh vực chính trị ngoại giao, Việt Nam cùng với các nước ASEAN khác năng động cải thiện quan hệ, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác cả về song phương và đa phương trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, phấn đấu xây dựng khối đoàn kết ASEAN. Thông qua diễn đàn an ninh ASEAN (ARF), Việt Nam tỏ rõ sự chủ động cùng với các nước khu vực tìm kiếm những hình thức hợp tác thích hợp, tạo dựng lòng tin, tiến tới các biện pháp ngoại giao phòng ngừa, ngăn chặn xung đột, chống tội phạm xuyên quốc gia và chủ nghĩa khủng bố quốc tế... nhằm kiến tạo nền hoà bình, an ninh bền vững tại Đông Nam Á cũng như ở CA-TBD. Đối với vấn đề tranh chấp ở biển Đông - một vấn đề an ninh phức tạp và nhạy cảm, Việt Nam luôn chủ động kiềm chế, bày tỏ rõ lập trường nhất quán cùng với các bên hữu quan giải quyết thông qua đàm phán thương lượng hoà bình, nhanh chóng xây dựng Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông (COC) để thúc đẩy hoà bình, an ninh khu vực.

Sự tham gia và những đóng góp thiết thực của Việt Nam đối với quá trình hợp tác liên kết ở Đông Nam Á luôn nhận được sự đánh giá cao của các nước khu vực. Ba năm sau kể từ khi trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ sáu (Hà

177

Nội - 1998) trong khung cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở khu vực diễn ra gay gắt. Những sáng kiến đề xuất của Việt Nam về thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN chứa đựng trong tinh thần các văn kiện chính thức của Hội nghị như Chương trình hành động Hà Nội và Tuyên bố Hà Nội là đóng góp quan trọng trong hợp tác liên kết khu vực. Việt Nam cũng đã hoàn thành tốt trọng trách Chủ tịch ASEAN và ARF góp phần thúc đẩy hợp tác của ASEAN ngày càng đi vào chiều sâu thực chất hơn.

Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước ASEAN là một trong những lĩnh vực luôn được ưu tiên hàng đầu. Những thành tựu đạt được trong đổi mới của Việt Nam đã tạo niềm tin cho các đối tác ở khu vực, giúp họ tăng cường mở rộng các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại, dịch vụ, đầu tư, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ, v.v... Nhiều nước ASEAN được xếp vào vị trí cao trong danh sách các nhà đầu tư lớn ở Việt Nam; kim ngạch mậu dịch hai chiều với các nước khu vực chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam hiện nay. Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã khẩn trương tham gia AFTA, cam kết thực hiện CEPT theo lộ trình vạch ra. Tiến trình tham gia hợp tác tiểu vùng của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác liên kết ASEAN cũng có những chuyển biến tích cực. Các chương trình, dự án về hành lang Đông - Tây, về hệ thống giao thông bộ xuyên Á, về hợp tác lưu vực sông Mê Công... đã phát huy tác dụng và hiệu quả thiết thực đối với các bên tham gia, góp phần năng động hoá hình thức hợp tác liên kết khu vực. Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào cũng tích cực phối hợp hành động hợp tác thông qua “Tam giác phát triển” và tạo lập cơ chế gặp gỡ định kỳ hàng năm giữa Thủ tướng ba nước.

Ngoài các lĩnh vực nêu trên, Việt Nam còn xúc tiến sự hợp tác ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khác như văn hoá, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, y tế... với các nước Đông Nam Á. Đồng thời, Việt Nam cũng tham gia đóng góp vào việc tăng cường sự hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là với các nước đối thoại của Hiệp hội. Nhìn chung, tuy còn đứng trước không ít khó khăn, phức tạp, nhưng hợp tác giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á với những thành tựu đạt được đang hứa hẹn triển vọng tốt đẹp, góp phần xây dựng một Đông Nam Á hoà bình, đoàn kết, phát triển năng động, hội nhập toàn diện và cùng thịnh vượng.

Thành tựu đạt được của ASEAN trên các lĩnh vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh là kết quả nỗ lực vượt bậc với không ít gian nan của các nước thành viên trong việc tìm kiếm mô hình phát triển và hợp tác liên kết mang đậm nét

178

“phong cách ASEAN”. Đây còn là biểu hiện rõ nét sự trưởng thành của ý thức tự cường khu vực, với khát vọng vươn lên xây dựng một cộng đồng các dân tộc sống trong hoà bình, đoàn kết, phát triển năng động, đồng đều và thịnh vượng trước những thách đố thăng trầm của thời cuộc. Trong thời điểm hiện nay, mặc dù còn không ít thách thức lớn, song ASEAN đang đứng trước cơ hội lịch sử nhằm đưa hợp tác liên kết lên tầm cao mới, đó là việc hiện thực hoá quyết định xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Việt Nam với đà phát triển như hiện nay, hoàn toàn có khả năng hiện thực để có những đóng góp xứng đáng đối với sự phát triển của Hiệp hội.

179

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Đình Bin (chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-

2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

2. Lê Thanh Bình (2001), Thành tựu, thách thức và triển vọng giao lưu, phát triển văn hoá thông tin các nước ASEAN, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 2

3. Nguyễn Phương Bình(2003), Ngoại giao phòng ngừa ở Đông Nam Á,

Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội

4. Nguyễn Phương Bình (2000), Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên và đối với khu vực châu á - Thái bình dương, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 3

5. Nguyễn Phương Bình (1994), Về việc Việt Nam gia nhập ASEAN,

Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3

6. Bộ Ngoại giao - Vụ ASEAN (1998), Hiệp hội các quốc gia Đông

Nam á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

7. Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

8. Bộ Ngoại giao - Vụ Chính sách đối ngoại (2004), Tổng kết chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới, Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao

9. Bộ Quốc Phòng Việt Nam(2009), Sách trắng Quốc phòng Việt Nam

2009, NXB Thế Giới

10. Nguyễn Mạnh Cầm (1995), Trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

11. Đại học quốc phòng Trung Quốc(2007), Chiến lược an ninh quốc gia

Trung Quốc đầu thế kỷ 21, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật, Hà Nội

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

180

quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghiên cứu nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII), Nxb Sự thật, Hà Nội

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

20. Nguyễn Hoàng Giáp (2005), Phát triển quan hệ với các nước lớn trong chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Nghiên cứu quốc tế, số 2(61)

21. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2007), Mỹ điều chỉnh chính sách đối ngoại đối với châu á-Thái Bình Dương, Đông Nam á, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1

22. Nguyễn Hoàng Giáp (2008), Quan hệ hợp tác của ASEAN trong

khuôn khổ một số cơ chế đa phương, T/c Thông tin Đối ngoại, số 10

23. Nguyễn Hoàng Giáp (2008), Việt Nam với hợp tác, liên kết ASEAN trong lĩnh vực chính trị- an ninh, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 9 24. Nguyễn Hoàng Giáp (2008), Thực trạng và định hướng phát triển quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng, T/c Lý luận Chính trị, số 10

25. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế (2008), Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội

26. Nguyễn Hoàng Giáp (2009), Việt Nam với quá trình liên kết ASEAN,

Thông tin Đối ngoại, số 3

27. Henri Alleg (2003), Trung Quốc thế kỷ XXI, Nxb Thông tấn, Hà Nội 28. Nguyễn Huy Hiệu (2008), Một số vấn đề về công tác đối ngoại quốc

phòng Việt Nam, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội

29. Nguyễn Thị Hoàn (2010), Vai trò của Việt Nam trong quan hệ giữa

ASEAN với các đối tác lớn, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3

30. Nguyễn Hoàng (2007), 40 năm hợp tác, liên kết ASEAN và đóng góp

181

của Việt Nam, T/c Lý luận Chính trị, số 8

31. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng (2002), Biên niên sự kiện lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (5.1975- 12.1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

32. Học viện Quan hệ Quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 33. Học viện Quan hệ Quốc tế (22/8/1995), 50 năm Ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội

34. Nguyên Chu Hồi (2000), Nhìn lại 5 năm hợp tác với ASEAN trong lĩnh vực môi trường biển và vùng ven bờ. Báo cáo tại hội nghị tổng kết 5 năm Việt Nam hợp tác với ASEAN trong lĩnh vực môi trường, Hà Nội

35. Hồ sơ sự kiện, chuyên san của Tạp chí Cộng sản, số 114, ngày

7/5/2010

36. Hồng Hà (1992), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta,

Tạp chí Cộng sản, số tháng 12 năm 1992, tr. 10 - 13

37. Vũ Dương Huân (chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì

sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội

38. Mạnh Ngọc Hùng, Tác động của toàn cầu hóa đến an ninh các quốc gia và khu vực, theo Tạp chí Khoa học xã hội, http://chungta.com 39. Nguyễn Khắc Huỳnh (1995), Năm mươi năm ngoại giao: suy nghĩ về mấy bài học quan trọng nhất, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 3(7) 40. Đào Việt Hưng (2002), Thu hẹp khoảng cách phát triển - thách thức mới trong liên kết ASEAN, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6(77)

41. Trần Khánh (2003), Liên kết ASEAN - Xét từ góc độ lý luận của khu

vực hóa, Tạp chí Cộng sản, số 47

42. Trần Khánh (2002), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa,

Nxb. KHXH, Hà Nội

43. Trần Khánh (2003), Liên kết ASEAN - Xét từ góc độ lý luận của khu

vực hóa, Tạp chí Cộng sản, số 47

44. Trần Khánh (2006), Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam á

thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb. KHXH, Hà Nội

45. Phạm Gia Khiêm (2010), Những đóng góp tích cực của Việt Nam vào quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, T/c Thông tin đối ngoại, tháng 5

182

46. Vũ Khoan (2006), Hai mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.417- 435

47. Hoa Hữu Lân (2000), Vai trò của ASEAN trong quá trình phát triển

kinh tế Việt Nam, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 3

48. Nguyễn Thị Lệ (2007), Đông Nam Á trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ sau chiến tranh lạnh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3

49. Nguyễn Đình Luân, Một số nét về chủ nghĩa khu vực mở,

http://www.dav.edu.vn

50. Đinh Thị Hiền Lương, Chủ nghĩa khu vực các trường phái tiếp cận lý

thuyết, www.hocvienngoaigiao.org.vn

51. Đinh Xuân Lý (1999), Tiến trình mở rộng quan hệ Việt Nam –

ASEAN, T/c Cộng sản, số 15

52. Ngô Hữu Mạnh (2000), Những nhân tố thúc đẩy và hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam – ASEAN trong 5 năm qua, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 3

53. Một số vấn đề về tổ chức ASEAN (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội

54. Thu Mỹ (1998), ASEAN hướng tới tầm nhìn năm 2020. T/c. Nghiên

cứu Đông Nam á, số 2

55. Nguyễn Thu Mỹ - Lê Phương Hòa (2008), Việt Nam và công cuộc xây

dựng Cộng đồng ASEAN, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á 7

56. Hoàng Khắc Nam (2007), Phân định khu vực trong nghiên cứu quốc tế, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007)

57. Đào Huy Ngọc (Chủ biên) (1997), ASEAN và sự hội nhập của Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

58. Đào Huy Ngọc (2007), Lý luận quan hệ quốc tế, 1, Học viện quan hệ

quốc tế, Hà Nội

59. Nguyễn Dy Niên (2006), Ngoại giao Việt Nam trên đường đổi mới, Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.436- 471

60. Vũ Dương Ninh (2007), Đông Nam Á truyền thống và hội nhập, Nxb Thế

giới, Hà Nội

61. Vũ Dương Ninh (2010), Việt Nam – ASEAN: chặng đường đã qua và

tương lai phía trước, T/c Cộng sản số tháng 8

183

62. Vũ Dương Ninh (2004), Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và

song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

63. Đào Huy Ngọc (1997) ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, Nxb.

CTQG, Hà Nội

64. Paulr. Viotti và Mark V.Kauppi (2001), Lý luận quan hệ quốc tế, Học

viện Quan hệ quốc tế

65. PGS, TS. Vũ Văn Phúc (2003), Tác động của toàn cầu hoá, khu vực hoá đối với các nước đang phát triển, Tạp chí Kinh tế châu Á-TBD, số 5

66. Nguyễn Duy Quý (1999), Hợp tác khu vực của ASEAN: Quá trình hình thành và đặc điểm. T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 (37) 67. Nguyễn Duy Quý (2001), Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và

phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

68. Tạp chí Cộng sản, số 814, 817, tháng 8, 11/2010 69. Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1, tháng 3/2010 70. Phạm Đức Thành (2002), Kinh tế các nước Đông Nam á: Thực trạng

và triển vọng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

71. Tôn Sinh Thành, Mô hình lý thuyết giải thích hiện tượng ASEM,

http://www.dav.edu.vn

72. Trần Cao Thành (2001), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, hội nhập

của Việt Nam. T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4

73. Phạm Đức Thành (2006), Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ

XXI, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội

74. Phạm Đức Thành (1998), Về bản sắc ASEAN, T/c Cộng sản, số 24 75. Nguyễn Xuân Thắng (1998), Tầm nhìn ASEAN 2020: Nhìn từ khía

cạnh kinh tế. Những vấn đề kinh tế thế giới, Hà Nội

76. Thông tấn xã Việt Nam (1995), ASEAN và Việt Nam, Tài liệu tham

khảo số 8&9

77. Thông tấn xã Việt Nam (2010), Chiến lược của Mỹ đối với ASEAN,

Nxb Thông tấn, Hà Nội, số 060

78. Thông tấn xã Việt Nam (2010), Đánh giá về khu vực thương mại tự

do ASEAN - Trung Quốc, Nxb Thông tấn, Hà Nội, số 015

79. Thông tin đối ngoại, Tạp chí của Ban chỉ đạo công tác thông tin đối

ngoại - Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, tháng 10/2010

80. Đỗ Xuân Thông (2007), Tăng cường hợp tác toàn diện với các nước

ASEAN, T/c Thông tin đối ngoại tháng 12

184

81. Lê Khương Thùy (2003), Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN

trong và sau Chiến tranh Lạnh, Nxb Khoa học xã hội

82. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc gia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội, 1999

83. Thành Trung (1991), Hiệp ước thân thiện và hợp tác Bali 1976, T/c

Quan hệ quốc tế (11)

84. Đặng Cẩm Tú (2003), Hợp tác an ninh chống khủng bố trong ASEAN

và ARF, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 3(52)

vực hóa: Nhìn từ châu Âu,

85. Đinh Công Tuấn, Khu http://www.iseas.org.vn

86. Lê Đình Tự (1997), Quan hệ văn hoá Việt Nam - ASEAN: Một cách

tiếp cận, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 5

87. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Sự tham gia của Việt Nam vào “Cộng đồng kinh tế ASEAN” trong định hướng phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, Báo cáo tổng hợp đề án nghiên cứu giai đoạn 2 về AEC, Hà Nội

88. Việt Nam gia nhập ASEAN , Tuần báo quốc tế, Phụ trương 6/1995 89. Trung Việt, Việt Nam ghi dấu ấn đậm nét trong hợp tác ASEAN, T/c Hữu

nghị số 61

90. Phạm Quang Vinh (2010), Diễn đàn khu vực ASEAN và những đóng góp

của Việt Nam, T/c Thông tin đối ngoại, tháng 8

91. Vnexpress.net (08.08.2008), ASEAN có ý nghĩa chiến lược đối với

Việt Nam

92. Vụ ASEAN (1995), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

TIẾNG ANH

93. Alan Dupont (May 1998), The Future of the Asean Regional Forum: An Australian View, Strategic and Defence Studies Center, Australian National University

94. Amitav Acharya(1993), A New Regional Order in Southeast Asia: ASEAN in the Post-Cold War Era, Adelphi Paper 279, London: International Institute for Strategic Studies

95. Asean Regional Forum, Annual Security Outlook 2000, http://www.aseanregionalforum.org, “Enhanced Role of the ARF Chair”

185

96. ASEAN Secretariat(1995), ASEAN Concept Paper on ASEAN

Regional Forum

97. ASEAN Standing Committee, Annual Report 1994-1995 98. Bryal J. Couchman(10.1996), The ASEAN Regional Forum: Does the Reality Match the Rhetoric?, Johannesburg: East Asia Project, University of Witwatersrand

99. Camilleri, Joseph (2003), Regionalism in the New Asia- Pacific Order : The Political Economy of the Asia- Pacific Region, Volume II (Chelteham: Edward Elgar)

100. Dan T. Radzykewycz, Ph.D (1998), Regional Organizations In The Asia - Pacific: A Selective Compendium, Asia Pacific Center For Security Studies

101. Dibb Paul (1995), “Towards A New Balance of Power in Asia.”

Adelphi Paper. New York: Oxford University Press

102. Dosch Jorn (2006), Vietnam's ASEAN Membership Revisited: Golden Opportunity or Golden Cage? Journal of International and Strategic Affairs, Volume 28, Number 2, August

103. Frank Frost (1995), Vietnam's Foreign Relations: Dynamics of

Change, Pacific Affairs, Vol. 67, No. 4

104. Institute Of Southeast Asian Studies(1998), Regional Outlook

Southeast Asia 1997-98, Prime Packaging Industries

105. Jasjit Singh (2000), Asia’s New Dawn The Challenges To Peace and Security, Institute for Defense Studies and Analyses, New Delhi 106. Jun Tsumekawa, Regional Order in East Asia, National Institute for

Defense Studies Japan

107. Kosaka Masataka and Sidney Bearman (1996), Asian Security 1995-

96, Research Institute For Peace and Security Tokyo

108. Maria Consuelo C. Ortuoste (2000), Reviewing the ASEAN Regional Forum and Its Role in Southeast Asian Security, Honolulu, Hawaii: Asia-Pacific Center for Security Studies

109. Mely Caballero-Anthony (2007), Regional Security in Southeast Asia

Beyond the ASEAN Way, ISAS

110. Michael Leifer (1996), The ASEAN Regional Forum: Extending ASEAN’s Model of Regional Security, Oxford and New York: Orford University Press for the International Institute for Strategic Studies 111. Noel M. Morada (2001), Multilateralism and Regional Order: Essays

186

on Major Power Relations and East Asian Security, The National Defense College of the Phillipines (DNCP)

112. Rahui Sen (2004), Free Trade Agreement in Southeast Asia, ISEAS 113. Ralf Emmer (2003), Cooperative Security and the Balance of Power in ASEAN and the ARF, RoutledgeCurzon, London and New York 114. Ralf Emmer (2007), “ASEAN Regional Forum: Time to Move towards Preventive Diplomacy”, RSIS Commentaries, 25 October

115. Rodolfo C. Severino (2009), The Asean Regional Forum, ISAS 116. Roth Stanley O (1998), U.S. Security policy Toward East Asian- Pacific, Testimoney before the Subcommittee on East Asian and Pacific Affairs of the House Foreign Relations Committee, Washington DC, May 7

117. Shaun Narine (October 1997), ASEAN and the ARF: The Limits of

the "ASIAN Way", Asian Survey XXXVII, (10)

118. The ASEAN Secretariat, ASEAN Regional Forum, Documents Series

1994 - 2002

119. The National Institute for Defense Studies Japan, East Asian

Strategic Review 2008, The Japan Times

120. The National Institute for Defense Studies Japan, East Asian

Strategic Review 2009, The Japan Times

TIẾNG PHÁP

121. Daniel Bach, Régionalismes, régionalisation et globalisation, in : Mamoudou Gazibo et Céline Thiriot, dirs., L'Afrique en Science Politique, Paris: Karthala, 2009

122. Éric Boulanger, Christian Constantin, Christian Deblock, Le régionalisme en Asie : un chantier, trois concepts, Mondes en Développement Vol.36-2008/4-n°144

123. Franck Petiteville, Les processus d'intégration régionale, vecteurs de recomposition du système international ?, Études internationales, vol. 28, n° 3, 1997, p. 511-533, http://id.erudit.org

124. Institut Orléanais de Finance : L’intégration entre pays inégalement développés, L'integration entre pays inegalement developpes dans la regionalisation de l'economie mondiale: une analyse comparative 125. Isabelle Beaulieu, La coopération multilatérale en matière de l’Asie-Pacifique, Études cas régionale : sécurité de le

187

internationales, vol. 26, n° 4, 1995, p. 843-856.Études internationales, vol. 26, n° 4, 1995, p. 843-856, http://id.erudit.org

126. Collage Michel Coquery (2002), Les économies en développement à

l’heure de la régionalisation, Éditions KARTHALA, 2003

127. Jean Balié, Anna Ricoy, Aspects théoriques de l´intégration

l'intégration

régionale et des Politiques Agricoles Communes (PACs), 8-2008 128. Philippe Hugon, Les économies en développement au regard des théories de la régionalisation, In: Tiers-Monde, 2002, tome 43 n°169. Les chemins de régionale. pp. 9-25, http://www.persee.fr

129. Yann Echinard, Laetitia Guilhot (2007), Le « nouveau régionalisme»: de quoi parlons-nous?, Note de travail, N° 22/2007 Laboratoire d’economie de la production et de l’integration internationale UMR 5252 CNRS - UPMF

188

Häc viÖn chÝnh TrÞ-hµnh chÝnh Quèc Gia Hå ChÝ Minh

®Ò tµi khoa häc cÊp bé n¨m 2010

M∙sè: B.10-17

“VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG ”

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM

ĐỐI VỚI HỢP TÁC, LIÊN KẾT ASEAN

C¬ quan chñ tr×: viÖn quan hÖ quèc tÕ Chñ nhiÖm ®Ò tµi : PGS,TS NguyÔn thÞ quÕ Th− ký ®Ò tµi : ThS NguyÔn THÞ Minh Th¶o

Hµ néi - 11/2010

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HỢP TÁC, LIÊN KẾT ASEAN

I. KIẾN NGHỊ VỀ THAM GIA HỢP TÁC CHÍNH TRỊ, AN NINH ASEAN

Trước hết, cần nhận thức rõ rằng, Việt Nam và các nước ASEAN hiện

nay có nhiều lợi ích cơ bản trùng hợp nhau, lớn nhất là đều mong muốn duy trì

hòa bình ổn định trong khu vực để có thể tập trung mọi nguồn lực cho xây

dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, thực tế phát triển của khu vực và thế

giới những năm gần đây cũng cho thấy rõ hơn những phức tạp mà Việt Nam đã

và sẽ phải vượt qua để tham gia đầy đủ và có hiệu quả hơn vào quá trình hợp

tác của ASEAN trên lĩnh vực chính trị, an ninh.

Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn nhằm tạo ra cục diện cân

bằng lợi ích mới trong khu vực tiếp tục tác động, lôi kéo một số nước ASEAN,

gây phức tạp cho sự đoàn kết của Hiệp hội. Điều này ảnh hưởng nhất định cho

Việt Nam trong việc cùng với ASEAN thực hiện chính sách cân bằng quan hệ

với các nước lớn theo hướng thuận lợi cho Việt Nam triển khai chính sách đối

ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Mặt khác,

những khác biệt về chế độ chính trị dù sao vẫn còn tạo ra sự nghi ngại nhất

định từ phía các nước ASEAN cũng như Việt Nam trong việc thúc đẩy Cộng

đồng An ninh ASEAN (ASC).

Tại khu vực Đông Nam Á hiện nay vẫn còn những vấn đề lớn, liên quan

đến chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải rất khó giải quyết vì lợi ích các bên khác

nhau. Trong quan hệ với Trung Quốc, khi xảy ra sự cố cụ thể trên biển Đông

thì thái độ của các nước ASEAN rất khác nhau, do mỗi nước theo đuổi lợi ích

riêng với Trung Quốc. Các nước ASEAN cũng có những thận trọng đối quan

hệ Việt Nam - Trung Quốc, do vậy Việt Nam không thuận lợi để có thể đóng

vai trò cầu nối thúc đẩy quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Một điểm đáng chú

nữa là trong Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), nhiều nước muốn

chuyển giai đoạn sang ngoại giao phòng ngừa, thể chế hóa Diễn đàn, đây cũng

1

là thách thức lớn đòi hỏi Việt Nam cần phải tỉnh táo, xử lý thận trọng, khéo léo

Từ góc nhìn nêu trên, xin nêu một số khuyến nghị sau nhằm có thể

để vừa đảm bảo được lợi ích dân tộc vừa không bị đẩy tới tình trạng bị cô lập.

thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết của

ASEAN về chính trị, an ninh hiện nay và những năm tới:

Thứ nhất: Cần chủ động và tích cực tham gia vào hợp tác chính trị,

an ninh ASEAN, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác với tất cả các nước

lớn có lợi ích an ninh tại khu vực.

Mặc dù các nước lớn vẫn mâu thuẫn về quyền lợi và tranh giành ảnh

hưởng với nhau, nhưng xu thế cùng tồn tại hoà bình và hợp tác là xu thế chính

trong quan hệ giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản. Xu thế này sẽ còn kéo

dài ít nhất là một vài thập niên nữa, cho nên trong những năm tới, cả Trung

Quốc, Nga, Nhật Bản sẽ tạm thời chấp nhận vai trò siêu cường duy nhất của

Mỹ và sẽ không có phản ứng đáng kể đối với các hoạt động của Mỹ ở ngoài

vùng ảnh hưởng trực tiếp của họ. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để

Việt Nam tiếp tục chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, đặt

cao ưu tiên trong quan hệ cân bằng với các nước lớn.

Phân tích động thái tình hình chính trị, an ninh của Việt Nam hiện nay,

có thể thấy, tuy không phải trực tiếp đối diện với mối đe doạ xâm lược từ bên

ngoài, nhưng nguy cơ về một mối đe doạ như vậy vẫn tiềm tàng. Giả định

trong trường hợp xảy ra xung đột, liệu Việt Nam có thể trông cậy vào ASEAN

hoặc ARF? Câu trả lời chắc chắn ở đây là không thể, vì hầu hết các nước

ASEAN sẽ không sẵn sàng coi mối đe doạ mà Việt Nam phải đối phó cũng là

mối đe doạ của chính họ. Sự giúp đỡ của ASEAN đối với Việt Nam trước hết

và chủ yếu chỉ là về tinh thần. Còn ARF chỉ là một diễn đàn đối thoại về an

ninh với cơ chế lỏng lẻo, tác dụng của nó chỉ là giúp tăng cường sự hiểu biết

lẫn nhau, qua đó giảm nghi kỵ giữa các nước khu vực. Bởi vậy, trách nhiệm

đảm bảo an ninh quốc gia của Việt Nam vẫn phải do Việt Nam tự gánh vác.

Trong điều kiện hiện nay và những năm tới, Việt Nam cũng không thể dựa hẳn

vào bất kỳ một nước lớn nào để đảm bảo an ninh cho mình, làm như vậy thậm

chí sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường. Sự lựa chọn khả dĩ và đúng đắn nhất

2

đối với Việt Nam là khôn khéo phát triển quan hệ hợp tác với tất cả các nước

lớn có lợi ích an ninh ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương, xác lập

thế cân bằng với các nước này, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, đồng thời chủ

động tăng cường quan hệ với Nga, Ấn Độ và Nhật Bản, coi Liên minh châu Âu

(EU) như một đối tác tin cậy thực sự, một nguồn lực kinh tế, khoa học - kỹ

thuật cũng như chính trị không thể thiếu cho duy trì hoà bình và phát triển của

Việt Nam.

Mặt khác, Việt Nam phải chủ động cùng với các nước thành viên

ASEAN khác thực hiện những chính sách cụ thể nhằm thu hút các nước lớn

tham gia vào Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (TAC), lôi cuốn họ tham gia giải

quyết các vấn đề an ninh khu vực. Đồng thời, cần phải tỉnh táo để tránh rơi vào

“thế kẹt” của các nước lớn, Việt Nam và các nước ASEAN cần có thái độ thực

sự cầu thị cùng nhau hợp tác hóa giải những vấn đề nảy sinh từ tham vọng của

các nước lớn cũng như sự cạnh tranh lợi ích, ảnh hưởng và quyền lực giữa họ

tại khu vực.

Thứ hai: Coi trọng hiệu quả thiết thực khi tham gia xây dựng Cộng

đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC)

Trên chặng đường phát triển hơn 40 năm qua, ASEAN đã đạt được

những thành tựu rất đáng ghi nhận trước hết là trong lĩnh vực an ninh, chính

trị. Vào thời điểm hiện nay, ASEAN đang tập trung nỗ lực hướng tới mục tiêu

xây dựng APSC nhằm hoàn thiện và nâng cấp các cơ chế hợp tác an ninh hiện

có với một nền pháp lý mới là bản Hiến chương ASEAN vừa được thông qua

cuối năm 2007. Mục tiêu phấn đấu của ASEAN nói chung và của APSC nói

riêng, xét trên nhiều góc độ, phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam. Do

vậy, Việt Nam cần có những cam kết thực sự đối với APSC. Với vai trò và vị

trí đang được củng cố trong hợp tác chính trị, an ninh của ASEAN, Việt Nam

cần tiếp tục thể hiện rõ sự chủ động, linh hoạt hơn nữa để đảm bảo vị thế và lợi

ích của mình trong khuôn khổ hợp tác APSC. Việt Nam cần cởi mở và chủ

động hơn trong việc tham gia vào các lĩnh vực an ninh chính trị nhạy cảm đã

được nêu ra trong Chương trình hành động ASPC như: thúc đẩy nhận thức

chung ASEAN về dân chủ và nhân quyền, hoàn thiện những chuẩn mực ứng

3

xử của ASEAN, xây dựng Công ước ASEAN về chống khủng bố, trao đổi

thông tin về các vấn đề an ninh quốc gia, tham gia tập trận quân sự ASEAN...

Trước mắt, Việt Nam cần chủ động triển khai những công việc liên quan

sau khi Hiến chương ASEAN được các thành viên thông qua. Đối với quá

trình xây dựng Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN, Việt Nam cần tham gia

tích cực ngay từ đầu nhằm xây dựng môi trường khu vực hòa bình và ổn định,

thúc đẩy hợp tác và đối thoại ASEAN trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng,

một mặt nhằm đóng góp vào quá trình xây dựng lòng tin, giảm thiểu nguy cơ

xảy ra xung đột ở khu vực, mặt khác giúp ASEAN giữ vững vai trò chủ đạo

trước xu hướng gia tăng hợp tác ở khu vực trong lĩnh vực này.

Hiện nay, cấu trúc quyền lực trên thế giới nói chung, ở châu Á - Thái

Bình Dương nói riêng chưa định hình rõ, chưa hình thành một cơ chế chung đủ

uy tín và sức mạnh có thể điều phối hay kiểm soát các tranh chấp, nhất là trong

lĩnh vực an ninh. Toàn cầu hoá và các thể chế kinh tế và chinh trị quốc tế bị

các nước tư bản lớn, đặc biệt là Mỹ lợi dụng như một công cụ chính trị để thực

hiện "dân chủ hoá thế giới". Mặt khác, tại khu vực ASEAN tiếp tục hiện hữu

những tranh chấp phức tạp về chủ quyền lãnh thổ, các xung đột tôn giáo, sắc

tộc và xu hướng ly khai cùng với sự khác nhau về chế độ chính trị - xã hội…

Trong bối cảnh đó, một mặt Việt Nam cần đổi mới nhận thức về vấn đề độc lập

dân tộc và chủ quyền quốc gia, mặt khác cần kiên trì cùng các nước ASEAN

đấu tranh giữ vững nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp công việc nội bộ

của nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh, chính trị. Một khi những nguyên

tắc này không còn được thực hiện cũng có nghĩa bản sắc chủ quyền an ninh

quốc gia của Việt Nam sẽ đứng trước những thách thức lớn, ASEAN cũng sẽ

đối mặt trước nguy cơ bị một nhóm nước phát triển hơn chi phối, khống chế.

Cộng đồng an ninh ASEAN, cũng vì thế, mà khó có thể trở thành hiện thực

trong thiết kế như ASEAN trông đợi hiện nay.

Thứ ba: Cần có cách tiếp cận linh hoạt khi tham gia cơ chế hợp tác

chính trị, an ninh của ARF

Như vậy, hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu đối với Việt Nam. Hợp

tác đa phương trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực chính tri, an ninh,

4

quốc phòng, là sự lựa chọn lâu dài đối với Việt Nam, giúp bảo vệ an ninh quốc

gia từ xa.

Trên cơ sở những kết quả mà Việt Nam thu được kể từ khi tham gia

ARF, từ những thuận lợi và khó khăn cũng như chủ trương quốc phòng Việt

Nam, Việt Nam nên tiếp tục tham gia sâu hơn vào các hoạt động của ARF.

Cho dù là một diễn đàn, còn hạn chế về cơ chế và tính pháp lý nhưng những gì

mà chúng ta thu được từ ARF là rất lớn. Qua ARF, các đối tác lớn biết đến

Việt Nam như một quốc gia có tiếng nói độc lập, mạnh mẽ, sẵn sàng đóng góp

những ý tưởng, sáng kiến mang lại lợi ích cho khu vực, giúp cân bằng, ít nhất

về quan điểm, trên nhiều vấn đề mà ARF thảo luận.

Việt Nam nên tận dụng lợi thế trung tâm của ASEAN trong ARF để phát

huy vị trí, vai trò của ASEAN. Trên cơ sở ASEAN, chúng ta thúc đẩy đoàn kết

nội khối ASEAN, giải quyết những khác biệt và bất đồng trong ASEAN, cũng

như xung đột giữa các nước thành viên trên cương vị Chủ tịch ASEAN. Thực

tế, trong quan hệ hợp tác đối ngoại với các nước lớn, Việt Nam luôn bị gây sức

ép, đặt điều kiện, bị đối xử bất công (các điều kiện Việt Nam tham gia vào Tổ

chức thương mại thế giới (WTO) bị các đối tác đàm phán đặt tiêu chuẩn cao

hơn so với các nước khác, Mỹ và EU áp đặt các loại thuế coi hàng hóa Việt

Nam bán phá giá…), cho nên ASEAN là sân chơi đúng tầm hiện tại và lâu dài

đối với Việt Nam. Trong ASEAN, ít nhất Việt Nam không bị chèn ép, có tiếng

nói bình đẳng về mọi vấn đề với các quốc gia khác trong khối. Ngày

08/08/2008, phát biểu nhân kỷ niệm 41 năm ngày thành lập ASEAN, Thủ

tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng: “Khu vực Đông Nam Á và ASEAN có ý

nghĩa chiến lược đối với Việt Nam, vì nó liên quan trực tiếp đến môi trường an

ninh và phát triển của đất nước. Một ASEAN đoàn kết, có vai trò và vị thế

quốc tế quan trọng là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt

Nam. Việt Nam luôn xác định ASEAN, xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ

1 Vnexpress.net (08.08.2008), “ASEAN cú ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam”

song phương, là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt Nam”1.

5

Hơn nữa, các quốc gia ASEAN có nhiều điểm đồng về văn hóa, kinh tế,

xã hội, cũng từng có lịch sử bị các nước phương Tây và Nhật Bản xâm lược

nên dễ cùng đoàn kết vì mục tiêu chung. Tháng 12/2008, Hiến chương

ASEAN chính thức có hiệu lực đó tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế để

ASEAN tăng cường đoàn kết, thống nhất và đẩy mạnh liên kết nội khối, tiến

tới hoàn thành mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Việc tất

cả các nước ASEAN cam kết hoàn thành mục tiêu Cộng đồng ASEAN vào

năm 2015 với 3 trụ cột gồm Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh

tế và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội cho thấy, các thành viên xác định ASEAN

là sân chơi của họ. Chỉ thông qua ASEAN, họ mới đứng vững, được biết đến

và vươn ra hợp tác bình đẳng với thế giới bên ngoài.

Tuy nhiên, ARF là một diễn đàn đa phương có sự tham gia của nhiều

nước, trong đó Mỹ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Nhiều vấn đề quan

hệ hợp tác đang diễn ra trong ARF, từ quốc phòng - an ninh đến các vấn đề

như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. ARF có tác động đến môi trường an

ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á và có những vấn đề

nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến an ninh, lợi ích của của Việt Nam trước mắt

cũng như lâu dài. Tham gia hoạt động trong ARF là cơ hội để Việt Nam phát

huy ảnh hưởng, ngăn chặn ý đồ chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch

nhưng đồng thời cũng chứa đựng những nguy cơ mắc bẫy của Mỹ và phương

Tây, ảnh hưởng đến lợi ích an ninh quốc gia. Mục tiêu của Việt Nam trong

ARF là tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước

theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, khi tham gia ARF, Việt

Nam cần quán triệt một số nguyên tắc sau:

* Phát huy tính độc lập tự chủ: Việt Nam là nước trung bình trong ARF

và còn khó khăn trong nhiều mặt. Một số nước lớn trong ARF đều muốn tìm

cách lôi kéo Việt Nam nhằm phục vụ cho lợi ích của họ. Trong trường hợp

Việt Nam nghiêng về bên nào đó thì sớm hay muộn cũng sẽ gặp khó khăn,

thậm chí mất quyền tự chủ. Thực hiện chính sách cân bằng giữa các nước là

một trong những biện pháp có tính thực tiễn nhằm đảm bảo đường lối độc lập,

tự chủ của Việt Nam.

6

* Luôn đảm bảo lợi ích an ninh quốc gia: Mọi hoạt động của Việt Nam

trong ARF đều phải tính đến lợi ích an ninh quốc gia. Không nên nhấn mạnh

đến lợi ích cục bộ của một ngành, không vì lợi ích trước mắt mà phải tính đến

lợi ích lâu dài, để góp phần củng cố an ninh - quốc phòng, đảm bảo lợi ích an

ninh quốc gia.

* Thận trọng, tỉnh táo và cảnh giác: Trong thực hiện lộ trình ARF,

nhiều biện pháp do các thành viên đề xuất trên cơ sở “Xây dựng lòng tin” cũng

như khi chuyển sang giai đoạn “Ngoại giao phòng ngừa” chứa đựng một số nội

dung chưa phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việc chấp nhận thực hiện lộ trình,

hoặc chấp nhận hay không chấp nhận ở mức độ nào, phải căn cứ vào thực lực

và điều kiện cụ thể của Việt Nam để có giải pháp phù hợp, không bị động để

nước này hay nước kia lôi kéo. Nếu Việt Nam tham gia quá nhanh có thể sẽ

không kiểm soát được tình hình, ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc gia. Ngược

lại, nếu luôn trì hoãn các vấn đề được nêu ra, Việt Nam sẽ không nâng cao

được vị thế, dễ bị cô lập.

Như vậy, tham gia sâu hơn vào ARF đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ

phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Để đạt được mục tiêu trên trong

lĩnh vực hợp tác an ninh - quốc phòng, Việt Nam cần phải thực hiện một số

vấn đề sau:

Một là: Phấn đấu ổn định về chính trị, xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng

kinh tế ở mức khá. Đây chính là nhân tố nội lực mạnh. Đất nước ổn định, kinh

tế phát triển sẽ tạo cho Việt Nam một vị thế xứng tầm khi tham gia vào đối

ngoại quốc phòng, đồng thời tạo cho ta có tiếng nói khi đưa ra các sáng kiến

trong ARF và trong ASEAN. Thực tế cho thấy, những xung đột, bất ổn nội bộ

tại một số nước trong khu vực Đông Nam Á (như Thái Lan, Ma-lai-xia) đã tạo

ra vị thế yếu cho các nước này trong cộng đồng ARF và ngay trong ASEAN.

Hai là: Việt Nam phải đưa ra được các sáng kiến có tính khả thi cao

trong quá trình tham gia các hoạt động của ARF. Kể từ khi tham gia ARF,

thực tế Việt Nam cũng thể hiện sự độc lập trong trong thảo luận nhiều vấn đề

gây tranh cãi của ARF. Chúng ta có hiểu biết, đánh giá về ý đồ của các bên,

tuy nhiên uy tín của một thành viên ngoài yếu tố thực lực còn phụ thuộc vào

7

các sáng kiến được áp dụng trong tổ chức đó. Trong thời gian tới, tranh chấp

chủ quyền tại biển Đông có thể sẽ diễn biến phức tạp và vấn đề này không thể

giải quyết trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu càng để tranh chấp kéo dài sẽ càng

gây bất lợi cho Việt Nam trong việc giành lại lãnh thổ tại khu vực đang bị

Trung Quốc chiếm đóng. Có thể khẳng định rằng chưa bao giờ vấn đề biển

Đông lại thu hút được sự quan tâm của các nước như hiện nay. Dư luận nhìn

chung ủng hộ một giải pháp hòa bình và phản đối sử dụng vũ lực để giải quyết

tranh chấp. Phát biểu tại Diễn đàn Shang-ri-la lần thứ 9 (tháng 06/2010) tại

Xinh-ga-po, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố: “Biển Đông

không chỉ quan trọng đối với những nước liền kề vùng biển này mà còn quan

trọng với tất cả các quốc gia có lợi ích an ninh và kinh tế ở châu Á”. Mỹ

"chống lại việc sử dụng quân sự và các hành động cản trở quyền tự do hàng

hải", “chống lại bất kỳ nỗ lực nào nhằm hù dọa các tập đoàn của Mỹ tham gia

vào các hoạt động kinh tế hợp pháp”. Ông Gates cũng khẳng định, Mỹ cam

kết tiếp tục xây dựng năng lực của các đối tác liên quan đến an ninh biển để có thể "chia sẻ trách nhiệm an ninh"2. Quan điểm này của Mỹ trùng với quan điểm

của Việt Nam và có lợi cho Việt Nam trong việc tranh thủ và tập hợp dư luận

để “quốc tế hóa” tranh chấp trên biển Đông. Do vậy, Việt Nam nên tập trung

vào việc đưa ra sáng kiến giải quyết tranh chấp tại biển Đông.

Ba là: Trong năm làm Chủ tịch ASEAN 2010 cũng như các năm tới, Việt

Nam nên cùng với các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy thành công Hội

nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN với các đối tác đối thoại của

ASEAN (ADMM+). ARF là diễn đàn an ninh - chính trị bao trùm khu vực châu

Á - Thái Bình Dương. Hợp tác ADMM+ không nằm trong khuôn khổ ARF,

cho nên biện pháp thúc đẩy ADMM+ sẽ buộc các nước ASEAN đoàn kết,

chống lại khả năng bị các nước lớn chi phối an ninh khu vực. Động thái này sẽ

hạn chế các nước lớn lái các hoạt động của ARF đi chệch hướng mục tiêu ban

đầu. Nhiều quốc gia hiện đang là thành viên ARF nhưng không phát huy được

hiệu quả (Băng-la-đét, Triều Tiên, Niu Di-lân…). Tuy nhiên, khi muốn đạt

được sự đồng thuận trong ARF, các quốc gia trên có thể bị lôi kéo và ngả theo 2 Dr Robert M Gates, Secretary of Defense, United States. “Strengthening Security Partnerships in the Asia- Pacific” 8

ý đồ của các nước lôi kéo. Điều này gây ra sự chia rẽ, không hiệu quả đối với

Diễn đàn. Trong tình huống có liên quan trực tiếp đến lợi ích của Việt Nam, nó

sẽ rất bất lợi, gây khó khăn cho ta cả về lĩnh vực quốc phòng và ngoại giao.

Vỡì vậy, thúc đẩy ADMM+ sẽ loại bỏ được những nhân tố không hiệu quả tại

ARF và động thái này sẽ làm cho ASEAN (đóng vai trò trung tâm) và các quốc

gia chủ chốt khác trong ARF tại CA-TBD thảo luận về các vấn đề an ninh của

khu vực. Thúc đẩy ADMM+ cũng có thể được coi là phương án đề phòng khả

năng ARF dậm chân tại chỗ, không phát huy được tác dụng.

Tóm lại: Tham gia ARF vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với Việt

Nam. Trong bối cảnh đất nước đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực

và thế giới, thế và lực của Việt Nam đã có những bước phát triển mới. Chủ

động tích cực hơn nữa trong tham gia ARF là nhu cầu khách quan của Việt

Nam để thúc đẩy những lợi ích và hạn chế những tiêu cực do ARF mang lại.

Tuy nhiên, phải thấy được hết tính phức tạp của ARF, luôn thận trọng và quán

triệt sâu sắc những vấn đề có tính nguyên tắc trong tham gia ARF. Trong vài

năm gần đây, trong lĩnh vực quốc phòng, Việt Nam đã ủng hộ nhiều đề xuất

của các thành viên thuộc ARF về các hoạt động chống khủng bố, cướp biển,

buôn lậu, kiểm soát vũ khí, diễn tập… Thông qua các hoạt động này đã tạo cơ

hội cho quốc phòng Việt Nam bước đầu tiếp cận với những hoạt động quân sự

của khu vực và ngoài khu vực, đồng thời không đi lệch chủ trương chung của

Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên, do bối cảnh chung của

tình hình khu vực và quốc tế, mặt khác lĩnh vực quốc phòng lại mang tính nhạy

cảm có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách ngoại giao, an ninh quốc gia

cũng như do điều kiện, khả năng còn hạn chế, nên nhiều vấn đề ta đã chủ động

từ chối, trì hoãn hoặc né tránh đề cập như hình thành lực lượng gìn giữ hòa

bình khu vực, lực lượng chống khủng bố khu vực, hoặc thậm chí tham gia ở

mức độ hạn chế như đồng ý cử quan sát viên tham gia hoạt động diễn tập quân

sự chung. Cùng với tiến trình hội nhập của đất nước về lĩnh vực kinh tế, việc

mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng - an ninh là một nhu cầu khách quan để

góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, trong

đó ARF là một diễn đàn quan trọng. Tuy nhiên, trước những diễn biến nhanh

9

chóng và phức tạp của tình hình, để đạt được những mục tiêu trong tham gia

ARF, cần phải xây dựng chiến lược chỉ đạo tổng thể và có sự phối kết hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan có liên quan.

Thứ tư: Tích cực tham gia hợp tác ASEAN để đối phó với những

thách thức an ninh phi truyền thống.

Với đà phát triển như hiện nay, các nước ASEAN trong những năm tới

sẽ chủ yếu phải đối mặt trước những thách thức an ninh phi truyền thống.

Trước hết, đó là tình trạng tăng trưởng không bền vững về kinh tế; sự cạn kiệt

tài nguyên thiên nhiên và mất cân bằng sinh thái; sự gia tăng dòng di cư lao

động bất hợp pháp; nạn buôn lậu ma tuý, vũ khí, phụ nữ qua biên giới; các hoạt

động khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Để đối phó với những thách thức

nêu trên, các nước ASEAN cần có sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả. Việc tích

cực tham gia hợp tác của Việt Nam trong ASEAN để đối phó với những thách

thức an ninh phi truyền thống sẽ góp phần tăng cường cả an ninh quốc gia cả

an ninh chung của khu vực.

Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc tham gia hợp tác giải quyết những

thách thức an ninh phi truyền thống. Thách thức an ninh phi truyền thống lớn

nhất hiện nay của ASEAN là chủ nghĩa khủng bố. Một trong những nguồn gốc

sâu xa của các hoạt động khủng bố trong khu vực hiện nay là do sự sai lầm

trong chính sách phát triển không đồng đều, chênh lệch về sự thụ hưởng từ sự

phát triển, nhất là đối với những khu vực có những vấn đề về tôn giáo, sắc tộc.

Mặc dù Việt Nam đã có những chính sách về dân tộc và tôn giáo đúng đắn,

nhưng cách tốt nhất để ngăn chặn sự bùng nổ xung đột tôn giáo, sắc tộc và

ngăn chặn nguy cơ lây lan của chủ nghĩa khủng bố vào Việt Nam là thực hiện

cho được một chiến lược phát triển bền vững và đồng đều. Trong khi tham gia

các hoạt động hợp tác chống khủng bố của ASEAN, Việt Nam nên cân nhắc

tránh đưa ra những tuyên bố chống khủng bố đơn phương và tránh tham gia

hoạt động hợp tác quân sự chống khủng bố. Đặc biệt, không để các lực lượng

khủng bố ở khu vực lợi dụng và khai thác một số bất bình của số ít nhóm tộc

người ở Việt Nam chống lại chính phủ, gây bạo loạn làm mất ổn định chính trị

trong nước.

10

Thứ năm: Thúc đẩy hợp tác an ninh song phương với các nước thành

viên ASEAN khác.

Hợp tác an ninh song phương của ASEAN hiện nay được tiến hành

thông qua các hình thức như tuần tra biên giới, đào tạo, huấn luyện sỹ quan,

trao đổi thông tin, tình báo, tập trận chung, cứu hộ và cứu nạn. Trong những

năm qua, trừ hình thức tập trận chung, Việt Nam đã tham gia với mức độ khác

nhau đối với các hình thức hợp tác an ninh song phương của các nước

ASEAN. Trong những năm tới, trước những đề nghị tập trận chung của các

nước thành viên ASEAN, Việt Nam luôn phải có sự cân nhắc thận trọng, đặc

biệt không tham gia tập trận chung với các nước lớn ngoài ASEAN vì đây là

vấn đề rất nhạy cảm đối với khu vực.

2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ THAM GIA HỢP TÁC, LIÊN KẾT KINH TẾ

Để thúc đẩy sự tham gia của Việt Nam một cách hiệu quả vào quá trình

hợp tác liên kết ASEAN, phù hợp với chủ trương “chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế” của Đại hội Đảng lần thứ X, xin nêu một số khuyến nghị

sau đây:

Một là: Đẩy mạnh hợp tác liên kết kinh tế trong khuôn khổ ASEAN,

coi đây là đòi hỏi tất yếu và cấp thiết đối với Việt Nam - một nước thành viên

của ASEAN. Để có bước đi thích hợp và đạt hiệu quả cao, trước hết cần đầu tư

thích đáng đối với công tác nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về tiến trình hội

nhập, liên kết kinh tế ASEAN, đặt nó trong bối cảnh chung của tình hình và xu

thế phát triển hợp tác liên kết kinh tế trên thế giới, cũng như ở châu Á – Thái

Bình Dương, đặc biệt là Đông Á. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá đúng kết quả

sự tham gia liên kết kinh tế ASEAN thời gian qua, rút ra những bài học và kinh

nghiệm, khắc phục những hạn chế, yếu kém, đề ra được những quyết sách hội

nhập thích hợp cho những năm tới, có tính toán một cách đầy đủ những yêu

cầu chung của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế khi đất nước đã gia nhập Tổ

chức Thương mại thế giới (WTO).

Hai là: Cần chủ động và tích cực đề ra những biện pháp phù hợp

nhằm thúc đẩy triển khai Hiệp định khung về 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập

của ASEAN, hướng tới đích xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm

11

2015. Cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các thỏa thuận về tự do hóa mậu dịch,

đầu tư và dịch vụ trong ASEAN, thúc đẩy liên kết kinh tế sâu rộng hơn. Phát

huy vai trò chủ đạo trong việc thực hiện Sáng kiến hội ASEAN, các chương

trình phát triển Tiểu vùng Mê Công, Hành lang Đông - Tây,… Trong khi chú

trọng đẩy mạnh tiến trình liên kết kinh tế ASEAN làm trục ưu tiên, cần tranh

thủ cơ hội thúc đẩy quá trình đi tới FTA song phương với một số nền kinh tế

lớn và phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản và EU.

Ba là: Tích cực tham gia các cơ chế đối thoại, thúc đẩy mở rộng và

làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác kinh tế của ASEAN với các bên đối thoại.

Việt Nam cần phát huy tính chủ động tham gia và đóng góp giữ vững vai trò

chủ đạo của ASEAN trong các tiến trình hợp tác kinh tế do ASEAN khởi

xướng như ASEAN + 1, ASEAN + 3, Cấp cao Đông Á, ASEM; tranh thủ tối

đa cơ hội và lợi thế trong việc thúc đẩy và thực hiện các khu vực mậu dịch tự

do của ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước khác.

Bốn là: Phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của nền kinh tế thông qua

đẩy mạnh quá trình cải cách bên trong, bao gồm điều chỉnh định hướng cơ

cấu và cải cách thể chế, nhằm mục tiêu hội nhập sâu rộng vào các cơ chế

hợp tác, liên kết kinh tế ASEAN. Khẩn trương điều chỉnh, đổi mới bên trong

từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ trung ương đến

địa phương, doanh nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi

mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật...

Điều chỉnh cơ cấu và cải cách bên trong, cần tập trung vào các mặt chủ

yếu như: 1) Định hướng lại mô hình tăng trưởng, kiên quyết đoạn tuyệt với mô

hình hướng nội, thay thế nhập khẩu; chuyển sang mô hình cạnh tranh trên thị

trường mở, thực chất là hướng ngoại, dựa vào xuất khẩu và trên cơ sở lợi thế

so sánh. 2) Đổi mới căn bản công tác quy hoạch phát triển, chuyển sang

phương thức Chính phủ xây dựng và thực hiện quy hoạch “cứng” tổng thể

quốc gia, còn doanh nghiệp thực hiện quy hoạch “mềm” (sản xuất cái gì, ở

đâu, bao nhiêu và lúc nào). 3) Kiên quyết khắc phục tình trạng thiên lệnh trong

đầu tư, chủ yếu nghiêng về đầu tư công, thúc đẩy đầu tư tư nhân, coi đây là

hướng quan trọng để hạn chế nguồn gốc trực tiếp đẻ ra tham nhũng, tạo nhiều

12

việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giải tỏa áp lực lớn nhất của nền

kinh tế. 4) Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các thể chế và nguyên tắc cơ bản của

hệ thống kinh tế thị trường nhằm tạo một sân chơi bình đẳng và minh bạch,

thúc đẩy quá trình hình thành các thể chế thị trường hiện đại. 5) Đẩy mạnh quá

trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chống độc quyền doanh nghiệp. 6)

Đẩy mạnh cải cách hành chính thực sự, trong đó, khâu ưu tiên là cải cách triệt

để hệ thống tiền lương trong khu vực quản lý nhà nước. 7) Tăng cường hiệu

lực điều hành và quản lý nhà nước; nâng cao năng lực và hiệu lực thực thi của

bộ máy công quyền, uy tín của pháp luật và nhà nước; cải cách hệ thống luật

pháp, lấy yêu cầu hội nhập làm chuẩn để đặt ra mục tiêu, lộ trình cải cách.

Năm là: Chú trọng thực hiện các giải pháp cụ thể, bao gồm: Cải thiện

môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, tín dụng

thương mại và các nguồn vốn khác từ các nước ASEAN. Cải tiến phương thức

quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và có kế hoạch trả nợ đúng hạn,

duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính

năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tham gia

hợp tác liên kết kinh tế ASEAN, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam

hợp tác liên doanh với doanh nghiệp các nước ASEAN và mạnh dạn đầu tư

vào các nước ASEAN. Đẩy mạnh xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát

huy lợi thế trong phân công lao động của ASEAN, tích cực phát triển hợp tác

lao động với các nước trong Hiệp hội, …

3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HỢP TÁC TRÊN CÁC LĨNH VỰC KHÁC

* Về khoa học- công nghệ và môi trường: Đẩy mạnh hợp tác với các

nước ASEAN xây dựng các chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu khoa học

mới trong các lĩnh vực vốn có kinh nghiệm triển khai hợp tác nhiều năm qua

như: sản xuất nông nghiệp, an ninh lương thực, khí tượng và vật lý địa cầu, vi

điện tử và công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu, năng lượng phi

truyền thống, biển và môi trường biển; phát triển hạ tầng và tiềm lực khoa học

công nghệ. Cần chủ động vươn lên để nghiên cứu và sáng tạo, coi đây là điều

kiện quan trọng để Việt Nam mở rộng hợp tác khoa học - công nghệ với nước

ngoài nói chung và với ASEAN nói riêng.

13

Trong những năm qua, hợp tác liên kết về khoa học và công nghệ giữa

các nước ASEAN cũng như giữa Việt Nam và ASEAN chỉ mới chủ yếu chỉ

diễn ra trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, còn lĩnh vực rất quan

trọng là khoa học xã hội lại rất mờ nhạt. Do vậy, Việt Nam cần sớm tăng

cường các nội dung về khoa học xã hội trong hợp tác khoa học và công nghệ

của ASEAN.

Trong hợp tác về môi trường, Việt Nam có thể cân nhắc đề xuất hợp tác

với các nước ASEAN hữu quan một số chương trình, dự án về bảo vệ các hệ

sinh thái trong tiểu vùng sông Mê Công mở rộng và ở khu vực biển Đông. Đây

là một hướng đóng góp có triển vọng vì một ASEAN sạch và xanh.

* Về văn hoá, giáo dục - đào tạo: Việt Nam cần thúc đẩy hợp tác trong

ASEAN nhằm phát triển nguồn nhân lực cho hợp tác văn hóa thông tin: thành

lập các tổ chức liên doanh đào tạo, chuyển giao công nghệ, nâng cao kỹ năng,

năng lực, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm văn hoá; Khuyến khích các sáng kiến

đào tạo cả ở khu vực tư nhân và nhà nước; Xây dựng các chiến lược phát triển

nguồn nhân lực; Xây dựng các dự án hợp tác về đào tạo chuyên ngành văn hoá

và nghệ thuật.

Hợp tác sản xuất sản phẩm văn hoá có qui mô vừa và nhỏ. Đây là việc

làm cần thiết nhằm bảo vệ và phát huy những giá trị của văn hoá, làm cho các

sản phẩm văn hoá vừa có giá trị thương mại vừa mang đậm bản sắc văn hoá

riêng biệt của từng địa phương, từng quốc gia và khu vực. Đồng thời, đẩy

mạnh hợp tác song phương và hợp tác văn hoá thông tin với các nước đối thoại

của ASEAN.

Trong hợp tác về giáo dục, đào tạo giữa Việt Nam và các nước ASEAN

những năm tới cần thiết phải thống nhất cơ cấu đào tạo, chương trình đào tạo

và chất lượng đào tạo. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy, học

tập, thực hiện giao lưu, trao đổi về dạy và học giữa các nước ASEAN. Từ đó

cố gắng đưa ra một chương trình giảng dạy chung giữa nước ASEAN, thành

lập nhiều trường đại học cho cả khu vực (ASEAN Universities); trong khi chưa

thể có ngôn ngữ chung cho cả khu vực cần tăng cường sử dụng tiếng Anh

trong giảng dạy và học tập; khuyến khích các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ viết bằng

14

tiếng Anh. Về bằng cấp cũng cần có sự thống nhất về giá trị chung để có thể

thực hiện tốt việc di chuyển tự do về lao động có tay nghề cao. .

Tóm lại: Trong giai đoạn hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng

của tình hình khu vực và thế giới, đặc biệt là sự tác động mạnh mẽ của quá

trình toàn cầu hóa, Việt Nam đang năng động đẩy mạnh triển khai chính sách

đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, song vẫn

dành ưu tiên cao đối với việc phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN. Với tư

cách một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết và năng động, có vai trò ngày càng

quan trọng, ASEAN đã và sẽ tiếp tục là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với

việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh, hợp tác vì phát triển ở Đông Nam Á.

Tăng cường phát triển quan hệ toàn diện với ASEAN đã và đang hỗ trợ đắc lực

cho mục tiêu an ninh và phát triển của Việt Nam. Trên chặng đường 15 năm

qua kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã đóng góp quan trọng trong việc

xác định các phương hướng hợp tác và tương lai phát triển cũng như trong các

quyết sách lớn của ASEAN, góp phần tăng cường đoàn kết và hợp tác, nâng

cao vai trò và vị thế quốc tế của Hiệp hội. Trong thời điểm hiện nay, mặc dù

còn không ít thách thức lớn, song ASEAN đang đứng trước cơ hội lịch sử

nhằm đưa hợp tác liên kết lên tầm cao mới, đó là việc hiện thực hoá quyết định

xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Việt Nam với đà phát

triển như hiện nay, hoàn toàn có khả năng hiện thực để có những đóng góp

xứng đáng đối với sự phát triển của Hiệp hội.

15