BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO NGHIỆM THU ĐỀ TÀI NCKH CẤP TRƢỜNG Mã số: CS.98-05

NGHIÊN CỨU KIỂU NHÂN CÁCH, KIỂU QUAN HỆ LIÊN

NHÂN CÁCH VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA CHÚNG

TỚI BẦU KHÔNG KHÍ TÂM LÍ TẬP THỂ SINH VIÊN SƢ PHẠM

Người thực hiện: Võ Thị Ngọc Châu

TP. HỒ CHÍ MINH

12/2002

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO NGHIỆM THU ĐỀ TÀI NCKH CẤP TRƢỜNG Mã số: CS.98-05

NGHIÊN CỨU KIỂU NHÂN CÁCH, KIỂU QUAN HỆ LIÊN

NHÂN CÁCH VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA CHÚNG

TỚI BẦU KHÔNG KHÍ TÂM LÍ TẬP THỂ SINH VIÊN SƢ PHẠM

Người thực hiện: Võ Thị Ngọc Châu

TP. HỒ CHÍ MINH

12/2002

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................................... 1

2 - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 2

3 - NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 2

4- ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ............................................................ 2

5- GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU ......................................................................................... 3

6- GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ........................................................................................................... 3

7 - PHƢƠNG PHÁP DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU ................................................................. 3

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .................................................................................. 5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ............................................................................................. 5

1.1- Kiểu nhân cách ............................................................................................................ 5

1.1.1-Những vấn đề lí luận về kiểu nhân cách xã hội ..................................................... 5

1.1.2 - Cách phân loại kiểu nhân cách xã hội ................................................................ 13

1.2- Quan hệ liên nhân cách ............................................................................................. 21

1.2.1- Khái niệm quan hệ liên nhân cách ...................................................................... 21

1.2.2- Kiểu quan hệ liên nhân cách ............................................................................... 22

1.3- Vấn đề về bầu không khí tâm lý ................................................................................ 27

CHƢƠNG II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU ................................................ 36

2.1- Kiểu nhân cách sinh viên sƣ phạm ............................................................................ 36

2.1.1- Kiểu nhân cách sinh viên sƣ phạm nói chung .................................................... 36

2.1.2- Sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa các nhóm sinh viên sƣ phạm .................... 44

2.1.2.1- Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa nam và nữ sinh viên ............................... 44

2.1.2.2- So sánh sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa năm thứ II và III ................... 48

2.1.2.3- Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa các khối về kiểu nhân cách .................... 50

2.2- Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sƣ phạm ................................................. 53

2.2.1- Kiểu quan hệ liên nhân cách nói chung của sinh viên sƣ phạm ......................... 53

2.2.2- Sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách giữa các nhóm sinh viên .............. 60

2.2.2.1- Sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách giữa sinh viên nam và nữ ...... 60

2.2.2.2- Sự khác biệt kiểu quan hệ nhân cách giữa sinh viên năm II và năm III ...... 62

2.3- Bầu không khí tâm lí trong nhóm sinh viên sƣ phạm ............................................... 65

2.3.1. Đặc điểm bầu không tâm lí sinh viên sƣ phạm ................................................... 65

2.3.2. Sự khác biệt về bầu không khí tâm lí .................................................................. 69

2.3.2.1- Sự khác biệt về bầu không khí tâm lí theo giới tính ..................................... 69

2.3.2.2- Sự khác biệt bầu không khí tâm lý giữa sinh viên năm II và năm III .......... 70

2.3.2.3- Sự khác biệt và bầu không khí tâm lý giữa các khối sinh viên .................... 71

2.4- Ảnh hƣởng kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lí nhóm sinh viên.................................................................................................................. 72

2.4.1- Ảnh hƣởng kiểu nhân cách tới bầu không khi tâm lí nhóm sinh viên ................ 72

2.4.2- Ảnh hƣởng kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lý .................... 80

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 83

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 88

Phụ đính: 3 bảng thăm dò ý kiến

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vấn đề nhóm đƣợc các nhà tâm lí nghiên cứu rất nhiều, các quá trình và các hiện tƣợng tâm

lí của nhóm ảnh hƣởng rất nhiều tới hiệu xuất các quá trình hoạt động (sản xuất, nghiên cứu, học

tập....). Bầu không khí tâm lí là một trong những hiện tƣợng tâm lí có vai trò rất quan trọng ảnh

hƣởng rất nhiều tới kết quả các hoạt động trong nhóm. Nó hình thành trạng thái tâm lí tích cực, sự

đoàn kết nhất trí trong nhóm. Nhờ vậy các thành viên của nhóm sẽ hết lòng vì mục đích chung của

nhóm, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh làm cho nhóm phát triển, đồng thời từng cá nhân trong nhóm

cũng trƣởng thành về nhiều mặt. Nhóm là tế bào của xã hội, nhóm phát triển lành mạnh sẽ dẫn tới

một xã hội phát triển ở mức độ cao.

Trong bất cứ nhóm nào các thành viên trong nhóm bao giờ cũng tƣơng tác với nhau thông

qua các vai của mình, sự tƣơng tác này nhƣ thế nào lại do đặc điểm tâm lí cá nhân và kiểu quan hệ

liên nhân cách qui định. Trƣớc đây các công trình nghiên cứu chỉ chú ý nhiều tới vai trò của ngƣời

lãnh đạo trong việc hình thành các bầu không khí khác nhau. Tuy nhiên, sự tác động lẫn nhau trong

nhóm không chỉ giữa ngƣời lãnh đạo và ngƣời bị lãnh đạo mà còn giữa những ngƣời bị lãnh đạo với

nhau. Những ngƣời này là những nhân cách đƣợc xã hội hóa trong các môi trƣờng xã hội khác nhau.

Chính vì vậy họ sẽ có kiểu nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân cách rất khác nhau. Các kiểu nhân

cách và kiểu quan hệ liên nhân cách sẽ ảnh hƣởng tới bầu không khí tâm lí của nhóm và nó sẽ ảnh

hƣởng trở lại đặc điểm tâm lí của cá nhân.

Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu ảnh hƣởng của kiểu quan hệ liên nhân cách và kiểu nhân

cách ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến bầu không khí tâm lí của nhóm, từ đó nó ảnh hƣởng tới hiệu quả lao

động của nhóm. Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm xây các kiểu nhân cách và quan

hệ liên nhân cách sao cho khi ở trong nhóm, họ là những thành viên luôn tạo ra đƣợc bầu không khí

tâm lí tích cực trong nhóm, tạo điều kiện thúc đẩy nhóm đoàn kết, mọi ngƣời hết lòng vì công việc

chung của nhóm làm cho nhóm phát triển ở mức độ cao.

1

2 - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Cơ sở lí luận của tâm lí học về quan hệ liên nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách,

Nhân cách, kiểu nhân cách và bầu không khí tâm lí.

- Tìm hiểu thực trạng về kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên trƣờng Đại học Sƣ

phạm.

- Tìm hiểu thực trạng về kiểu nhân cách của sinh viên trƣờng Sƣ phạm.

- Tìm hiểu bầu không khí tâm lí của các nhóm sinh viên.

- Tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách với

bầu không khí tâm lí

- Đề xuất một số biện pháp về mặt tâm lí học để xây dựng kiểu quan hệ liên nhân

cách và kiểu nhân cách sao cho nó có ảnh hƣởng tích cực tới bầu không khí tâm lí.

3 - NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ mục đích đã nêu, nhiệm vụ cụ thể của đề tài là:

3.1- Tìm hiểu một số văn đề lí luận về: quan hệ liên nhân cách, kiểu quan hệ liên

nhân cách, nhân cách, kiểu nhân cách và bầu không khí tâm lí.

3.2 - Khảo sát thực trạng về: kiểu quan hệ liên nhân cách, kiểu nhân cách, bầu

không khí tâm lí và mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau:

+ Tìm hiểu kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách và bầu không khí tâm lí của

sinh viên sƣ phạm.

+ Tìm hiểu sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách của các nhóm sinh viên.

+ Tìm hiểu sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách giữa các nhóm sinh viên.

+ Tìm hiểu khác biệt bầu không khí tâm lí của các nhóm sinh viên.

+ Phân tích mối quan hệ giữa kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách với bầu

không khí tâm lí của các nhóm sinh viên.

+ Đề xuất xuất một số biện pháp xây dựng kiểu nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân

cách thích hợp

4- ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

4.1 - Đối tượng nghiên cứu

- Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên.

2

- Kiểu nhân cách của sinh viên.

- Bầu không khí tâm lí của các nhóm sinh viên.

4.2- Khách thể nghiên cứu:

- Sinh viên năm II và III Đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bao gồm sinh

viên các khoa trong trƣờng và đƣợc phân chia đều thành ba loại: khối tự nhiên, xã hội và

ngoại ngữ.

- Số liệu khảo sát đƣợc thu thập trong các năm: 1999 – 2000 – 2001 - 2002.

5- GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU - Các nhóm sinh viên khác nhau sẽ khác nhau về kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên

nhân cách và bầu không khí tâm lí.

- Có mối tƣơng quan giữa kiểu nhân và kiểu quan hệ liên nhân cách với bầu không

khí tâm lí.

6- GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng tới bầu không khí tâm lí, nhƣng đề tài chỉ tập trung

nghiên tìm hiểu ảnh hƣởng của kiểu nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không

khí tâm lí của nhóm.

7 - PHƢƠNG PHÁP DỤNG CỤ NGHIÊN CỨU

7.1- Phương pháp nghiên cứu

+ Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc sách, báo, tạp chí, phân tích tài liệu lý

luận.

+ Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phƣơng pháp ankét

- Phƣơng pháp trò chuyện.

- Phƣơng pháp quan sát.

- Phƣơng pháp phỏng vấn.

+ Xử lý số liệu: Thống kê toán học bằng phần mềm SPSS for Windows:

- Tính điểm trung bình (Mean)

- So sánh (dùng kiểm nghiệm F).

- Tƣơng quan (Peason).

3

7.2- Dụng cụ nghiên cứu

- Trắc nghiệm 16 PF của R. B. Cattell đã đƣợc cải biên.

- Trắc Nghiệm kiểu quan hệ liên nhân cách của T. Liri.

- Test về bầu không khí tâm lí của O.Amikhalƣc.

7.3 - Cách xử lý số liệu

Cách tính điểm: Mỗi một trắc nghiệm có chìa khóa đặc biệt để chấm điểm.

4

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1- Kiểu nhân cách

1.1.1-Những vấn đề lí luận về kiểu nhân cách xã hội

Ý tƣởng về kiểu nhân cách đã có từ lâu, học thuyết phân chia về kiểu khí chất đƣợc đề xuất

rõ nhất. Sau đó ý tƣởng này đƣợc bao trùm bằng học thuyết tính cách, về sau học thuyết nhân cách

đƣợc đƣa lên hàng đầu. Tuy nhiên, thực chất học thuyết những học thuyết tâm lý về nhân cách hoặc

bị mô tả một cách lu mờ (Lazunxki), hoặc là thiếu sự bình đẳng (Jungơ), hoặc bị rơi vào ý tƣởng

hoàn toàn trìu tƣợng đƣợc dựng nên bằng cấu trúc trên cơ sở phƣơng pháp luận phức tạp. Những mối

tƣơng quan và những kiểu mẫu của Frớt có thể làm ví dụ kinh điển. Frớt loanh quanh trong ngõ cụt

về vấn đề kiểu nhân cách, bởi vì ông coi nền tảng sinh vật là duy nhất và là nguồn gốc để tạo nên

kiểu nhân cách ở giai đoạn cuối cùng. Những nguyên tắc mẫu chứa đựng trong quan niệm về nhân

cách của Aizenko và số ngƣời khác không có đƣợc chút ít lý lẽ của nó. Thực chất của vấn đề là họ đã

rơi vào sự phân chia vội vàng hơn là đƣa ra kiểu nhân cách. Cách phân chia của họ đƣợc thể hiện

trong tính chất cách thức lựa chọn, có đặc tính chuyên môn, và cách thức chuẩn đoán nhân cách. Tuy

nhiên, quan niệm kiểu nhân cách thể hiện nhiều hơn - ít hơn ở các quan hệ tƣơng quan ổn định, giữa

phẩm chất bên trong mỗi kiểu, nhu cầu trong bản thân đến kiểu này hay kiểu kia, với mục đích tự

nhận thức.

Thời gian gần đây ngƣời ta chú ý đến lịch nhân cách đặc thù, ở chỗ mỗi tháng đƣợc sinh ra

tƣơng ứng với nhóm đặc điểm này hay kia của nhân cách và năng lực, cùng với hành vi của nó tới

mức tình yêu chuyên chính và biết mặc quần áo. Quan niệm kiểu nhân cách nhƣ là điều lý thú đặc

biệt dựa vào khoa học sự hoang tƣởng. Ví dụ, G. Kattnher đã gửi vị anh hùng của mình vào chuyến

viễn du theo lịch sử để tìm kiếm chiến bại củakẻ thù - nó là nhà đạo diễn, sức mạnh của nhân cách. Vị

anh hùng đi đến

5

nơi “ƣớm thử” vào mỗi khuôn mẫu các tính cách của nhân cách các thời đại khác nhau, kể cả

Ivan Grốtnƣi đến việc giải quyết nhiệm vụ tâm lý học này đã rơi vào thế kỷ đồ đá.

Tuy nhiên, vấn đề phân kiểu, có thể chia nhân cách theo kiểu này, kiểu kia nhằm

không chỉ làm khuây khỏa hoặc là để phán xét mang ý nghĩa thực dụng (nhƣ là nền tảng có

hy vọng để nghiên cứu nhân cách), vấn đề phân kiểu mang nặng thí điểm đặc biệt theo cách

nhìn lí thuyết tâm lý về nhân cách, về sự biện chứng phƣơng pháp luận của nó. Chỉ trên cơ

sở triết học Mác xít mới bao quát đƣợc toàn bộ kiến thức một cách biện chứng về cá tính,

tính điển hình, mà điều này không thể hiểu đƣợc trong thời cổ đại.

Bày tỏ ý kiến nổi tiếng nghịch lý của mình, Aristochen đã phân tích sự phân kiểu và

tính cá biệt bằng tình thế phải chọn một trong mấy giải pháp trái nhau: Có thể giải thích tính

cá biệt từ quan điểm khoa học đã đƣợc nghiên cứu phân kiểu, nếu cá tính không lặp lại thì

nhƣ thế nào? Tiếp nhận những dạng khác nhau, ý kiến trái ngƣợc này không một lần xuất

hiện trong những thời kỳ lịch sử cụ thể không giống nhau. Nhƣ vậy, thời kỳ cổ đại nhìn thấy

sự có một không hai đặc biệt trong tính tích cực, còn trên cơ sở xác định nhân cách họ lại

loại trừ đi tính tích cực, hòa lẫn nhân cách vào mối quan hệ thƣởng ngoạn với thiên nhiên.

Chủ nghĩa cá nhân tƣ bản cũng nhìn nhận sự đặc biệt trong tính tích cực của nhân cách,

nhƣng có đƣợc nhân cách cuối cùng chỉ đƣợc tạo nên từ thể thức loại trừ đi tác động của nhà

nƣớc, cũng nhƣ kiểu ở dạng toàn thể. Trong kết quả trừ xuất hiện qui định nhân cách, trong

sức mạnh, tích cực, ý chí hoàn toàn, Nhise xác định nhân cách nhƣ vậy.

Phần lớn cách chia kiểu nhân cách đã có, thể hiện sự phân chia yếu kém, chúng đƣợc

tạo nên trên những nền tảng khác nhau (ngẫu nhiên, từng phần...) ở mức độ các nguyên nhân

phân chia không đƣợc giải thích rõ ràng, chúng nảy sinh động lực phát triển và điều kiện thay

đổi kiểu này hay kiểu kia nhân cách. Khả năng cuối cùng chỉ có thể thông qua phát minh của

phép biện chứng về xã hội - sinh vật, đặc thù - chung, biện chứng về cái chung, cái đặc biệt,

cái duy nhất. Nhiệm vụ của các nhà tâm lý là ở chỗ vận dụng phƣơng pháp này vào vấn đề

phức tạp phân kiểu nhân cách trong tâm lý học.

6

Việc nghiên cứu vấn đề này ở cấp nhà nƣớc có một số khuynh hƣớng khác nhau,

chƣa thống nhất. Khuynh hƣớng đầu tiên cơ bản ở chỗ phân kiểu nhân cách ở mức lý thuyết

trong tâm lý học chƣa đƣợc thống nhất. Nguyên tắc vai trò hay địa vị đem lại khả năng kiểu

mẫu đặc thù này hay kia của nhân cách. Nguyên tắc này xem xét không phải dạng nhân cách

đại chúng, nhƣ là ngƣời đại diện cho nhóm này hay nhóm kia, mà những đặc điểm của nhân

cách có liên quan đến vị thế, chức năng trong nhóm. Kiểu mẫu nhƣ vậy của nhân cách ngƣời

lãnh đạo cũng đƣợc A.L.Zuravlevƣi và một số khác đƣa vào, rất có triển vọng cho sự phân

kiểu, mà những triển vọng này không chỉ lựa chọn các tính chất theo chức năng trong nhóm,

mà còn nói lên mối liên quan tính chất và vị thế này tới động lực, mức độ và kiểu quan hệ

trong tập thể (K.Iaro và những ngƣời khác). Sự phổ biến rộng rãi kiểu chia nhân cách theo

nghề nghiệp: đƣợc xây dựng từ chân dung nhân cách của các kỹ sƣ, công nhân, các nhà bác

học (nghiên cứu của E.C.Kuzmina; E.C.Trugunovôi; B.A.Iađôba và một số ngƣời khác).

Những đặc điểm phong cách của hoạt động tham gia trực tiếp đến những chân dung này

(E.H.Klimov và những ngƣời khác).

Mặc dù thuyết kiểu chung không đƣợc thảo ra, nhƣng một loạt tác giả đã đƣa ra kiểu

phân nhân cách theo những cơ sở đặc biệt (B.I.Đôđôn, N.I.Reinval và những ngƣời khác).

Chắc chắn những nghiên cứu xu hƣớng nhân cách, theo nội dung cơ bản mang kiểu tính cách

(L.I.Bozovit, A.V.Petrovxli và những ngƣời khác). Những ý kiến lý giải phƣơng pháp luận

chính yếu bất thƣờng về vấn đề xây dựng kiểu nhân cách của B.M.Cheplov và những đại diện

của ông ta ở trƣờng học (V.Đ.Aliebƣlisƣn và những ngƣời khác), vấn đề kiểu nhân cách đối

với Cheplov đƣợc dẫn xuất từ vấn đề về sự kết hợp của nhiều đặc tính khác nhau, theo sự

phối hợp có chừng mực đã chuyển thành tính cách đặc trƣng, tức là thành kiểu đặc tính, hoặc

ngƣợc lại. Cheplov đã nhấn mạnh rằng vấn đề kiểu nhân cách cần phải đặt trong thời điểm,

khi nghiên cứu các tính chất và các cách thức của những phối hợp tổng hợp của chúng. Tuy

nhiên, trong thực tế vấn đề phân kiểu bị đứt khúc ở mức độ tâm - sinh lý, không chuyển thành

kiểu tâm lý đại cƣơng của nhân cách, mặc dù các kiến thức nhƣ vậy chính là tính cách, khả

năng vv... Các nhà tâm lý đều cho vào cấu trúc nhân cách.

7

Những ý kiến phƣơng pháp luận quan trọng, đề cập đến sự chuyển từ kiểu nhân cách

xã hội đến nguyên tắc cá tính hóa trong tâm lý học, đã đƣợc v.x Alerlin đã nhìn thấy mối

quan hệ của kiểu dạng xã hội và cá tính trong nhân cách, thông qua cấu trúc liên kết của

nhân cách. Trong sự khác biệt với nguyên tắc phân kiểu, nó không đƣợc đƣa ra trong tâm lý

học, thực chất những nguyên tắc đã nêu trên, các nguyên tắc cá tính hóa và vấn đề cá tính đã

thu hút hầu hết các nhà tâm lý. Đặc tính này, trong các quan niệm trên nền tảng qui định cá

tính đã đƣợc ấn định bằng những tiêu chuẩn khác nhau. B.G.Ananhev coi cá tính nhƣ mức

độ cao của sự phát triển nhân cách. A.X.Prangisvili đi theo nguyên tắc lý thuyết xếp đặt đã

đƣợc Đ.N. Uznatze soạn thảo, liên quan cá tính với tính tích cực của nhân cách và một lần

nữa giải thích cá tính nhƣ năng lực liên kết của nhân cách. Cuối cùng, X.L.Rubinstein đã mở

ra nguyên tắc của sự cá tính hóa nhƣ là sự chọn lọc bên trong qua mối quan hệ với bên

ngoài, năng lực bên trong biến đổi ra bên ngoài, và trở thành khách quan. Nguyên tắc cá tính

hóa đƣợc đặt trên nền tảng qui định nhân cách xuyên qua nguyên tắc quyết định luật.

Việc đƣa ra những hiển diện của nhiều quan điểm trên về vấn đề cá tính, hoàn toàn

không đem đến sự mâu thuẫn giữa chúng. Tính tích cực, sự phát triển, sự liên kết - là những

biểu thị cơ bản của tâm lý học nhân cách, mà chúng yêu cầu phép tổng hợp của mình. Phép

tổng hợp này có thể đƣợc thực hiện trƣớc tiên trên nền tảng của sự chuyển hóa vấn đề của

những khác biệt thuộc cá tính vào những vấn đề khác biệt thuộc kiểu dạng - cá tính, nghĩa là

trên nền tảng hợp nhất của những xu hƣớng cá tính hóa và kiểu hóa. Nếu trên mức độ phân

tích tâm lý, vấn đề của các quá trình tâm lý về sự khác biệt cá tính tạo nên vấn đề tâm lý phân

biệt, thì trên mức độ phân tích nhân cách, vấn đề này đƣợc đƣa ra nhƣ là vấn đề tâm lý chung

của cá tính. Có lẽ giữa chúng bản thân vấn đề cá tính nói lên nhƣ kiểu hóa, hay là vấn đề của

sự phân biệt thuộc kiểu - cá tính, hay là vấn đề nhân cách, nếu trên nền tảng qui định kiểu

nhân cách đƣa vào tổng hợp cả ba biểu hiện của nhân cách: tính tích cực, tính phát triển và

tính liên kết.

Vào thời gian hiện nay trong thực tế đã chia ra một số kiểu nhân cách, những thông số

tâm lý của kiểu này phục vụ nhƣ là mẫu trừu tƣợng - tiêu chuẩn hay nhƣ là mẫu hoàn hảo,

theo mối quan hệ với cơ chế tâm lý thực tế của các nhân cách thực. Đặc điểm của nhân cách

thực gặp phải không nhiều hơn sự sai lệch, biến đổi của cá tính. Nếu xem

8

xét vấn đề nhƣ vậy với vị trí lý thuyết cá tính, thì gặp phải sự điều chỉnh lý về mặt thuyết này

(không phụ thuộc với những giải thích khác của nó) các quan niệm về bản chất của nhân

cách, và không can thiệp vào mẫu tiêu chuẩn duy nhất: các cá tính đƣợc phân biệt theo mức

độ của sự phát triển, theo số đo của tính tích cực và vv... Có thể giả thiết rằng sự tổng hợp

của ba thể thức này cho sự phát triển toàn bộ bản chất, mà thực tế tạo thành vài mẫu, vài kiểu

nhân cách. Kiểu duy nhất, mẫu tâm lý chung duy nhất chịu thấp kém nơi hàng loạt kiểu thực

tế, cơ sở thành lập của chúng sẽ tổng hợp đa dạng tính tích cực, tính phát triển và tính liên

kết của nhân cách. Lúc bấy giờ sự phát triển cá tính xếp đặt lại chỉ bằng sự biến đổi của mẫu

duy nhất của nhân cách. còn cá tính sẽ không rõ ràng và bằng cách thông qua mối quan hệ

với mức độ cao hơn - tiêu chuẩn của tính phát triển, tính tích cực, liên kết. Cá tính đƣợc thiết

lập lại thành ý tƣởng của sự phát triển, tính tích cực vv... của nhân cách, còn nó trở thành sự

biểu thị của mức độ thực tế của tính phát triển, tính tích cực, tính liên kết trong khối duy nhất

của chúng. Rõ ràng, sự xây dựng yêu cầu biểu lộ những tình thái mới, cơ bản cao hơn. Có thể

cho rằng khoa học tâm lý hiện đại còn chƣa đủ lớn để xây dựng nên kiểu hóa. Tuy nhiên,

trong toàn bộ các đòi hỏi nghiên cứu hệ thống nhân cách, sự tìm kiếm kiểu hóa nhƣ vậy,

những thử nghiệm việc chế tạo nên nó, không nghi ngờ, đƣa ra dẫn chứng dẫn đến sự liên kết

lớn của các kiến thức tâm lý học về nhân cách.

Hiện nay, cần phải loại bỏ đi sự phải chọn một trong mấy giải pháp trái nhau của sự

cá tính hóa, kiểu hóa trong tâm lý học: khả năng có thể thuộc cá tính, biểu thị không phải

bằng phƣơng cách duy nhất của hiểu, mà bằng mẫu đặc biệt, qua giữa hàng loạt kiểu, cùng

một lúc sẽ là các kiểu của cá tính, đƣợc xác định theo bộ khung. Nhiệm vụ cốt yếu khi xây

dựng kiểu hóa nhân cách trong tâm lý học - thực hiện hợp lý phƣơng pháp Mác-xít-phân kiểu

(sự điển hình hóa). Điều đặc biệt của phƣơng pháp Mácxít. Cuối cùng thể hiện ở chỗ, không

thể đƣa ra sự tuyển chọn những nét nhân cách (mặc dù những nét này rất quan trọng), đặc

biệt còn biểu thị sức năng động của tính tích cực, tính phát triển của nhân cách, tƣơng quan

của chúng với xu hƣớng xã hội, với sức mạnh xã hội đang phát triển. Trong đó có sự khác

nhau thuộc nguyên tắc của kiểu hóa nguyên gốc với sự phân loại. Cuối cùng mang tính chất

mô tả, cân bằng, trong chừng mực không mổ xẻ những nguyên nhân xuất hiện sức mạnh

động của tính phát triển, những điều kiện

9

thay đổi kiểu này hay kiểu kia. Đặc trƣng của kiểu nhân cách phải đƣợc thông qua qua sự

biểu hiện những điều kiện hình thành của nó, thông qua sự vạch rõ tính cách, khí chất và nó

đƣợc thể hiện, thi hành trong những xu hƣớng nào, bằng sức mạnh nào, trong khuynh hƣớng

nhƣ thế nào (đôi khi cả trong phạm vi nhƣ thế nào?), đã hỗ trợ cho sự phát triển, thông qua

những mâu thuẫn nào, nhờ vậy nó đƣợc hoàn thành và trở thành hiện thực.

Nhiệm vụ quan trọng từ kết quả này là sự thực hiện của một con đƣờng duy nhất và

phép biện chứng, đi từ dạng xã hội của nhân cách (rõ rệt hơn từ sự phân kiểu, điển hình hóa

xã hội của nhân cách đến sự phân kiểu xã hội - tâm lý. Yêu cầu duy nhất của các bƣớc

chuyển tiếp từ phân kiểu này đến phân kiểu khác đƣợc cung cấp đủ bằng sự áp dụng những

tính chất đi theo của các điều kiện, mà chúng trở thành đứng đầu cho mỗi phân kiểu tiếp

theo. Ví dụ, sự chuyển từ dạng xã hội đến dạng xã hội - tâm lý cần có bƣớc tiếp theo bằng sự

phân tích những điều kiện này (cả mặt xã hội, cả mặt xã hội - tâm lý), những điều kiện này

thuộc vào sức động của các dạng xã hội - tâm lý hay khí chất. Khi đó các nét xã hội sử dụng

dấu hiệu không nhận biết cho sự tìm tòi những nét tƣơng tự giống nhau của kiểu xã hội-tâm

lý, có những nét chung, đƣợc biểu thị trong chức năng hoàn thiện khác. Những nét qui định

mốc chuẩn cho sự tìm tòi những điều kiện then chốt, mà chúng gây ra sự đa dạng của kiểu xã

hội - tâm lý qua sự hiện diện của kiểu duy nhất xã hội. Sức mạnh động của tính tích cực

nhân cách khác nhau đối với tính chất xã hội - tâm lý không giống nhau, còn những tính

cách không giống nhau tiến hành trong hoạt động bằng những xu hƣớng xã hội - tâm lý và

xu hƣớng xã hội khác nhau.

Vấn đề quan trọng trong sự tạo nên phân kiểu tâm lý đại cƣơng thể hiện ở chỗ, biểu

thị xu hƣớng xã hội-tâm lý nào sẽ liên quan toàn bộ này hay khác các nét nhân cách và các

bản chất. Trong sự phân loại nhân cách đang có đƣợc, đó là mối quan hệ với điều kiện xã hội

(xã hội-tâm lý) này hay kia. Trong tâm lý học tƣ bản, không có tính tích cực bên trong của

nhàn cách và vị thế xã hội của nó, tính năng động đƣợc nhận thấy chỉ trong sự thay đổi vai

trò vị trí, trong sự thực thi của chúng, không động đến tính tích cực bên trong nhân cách.

Thực chất con đƣờng đi của Mác-xít bao gồm không chỉ việc vạch ra định loại xã hội, cấu

trúc xã hội trên phƣơng diện động lực của chúng, mà còn mang tính tƣơng quan các qui luật

xã hội với tính tích cực của con ngƣời, với các hình thức cần

10

thiết của sự tham gia của chúng vào trong quá trình xã hội vv... Không phải sự trùng nhau

các nhân tố của các đặc tính này hay kia của nhân cách với những hoàn cảnh, sự kiện, các

quá trình xã hội này hay khác, còn các phƣơng thức thuộc nguyên tắc liên quan với xu

hƣớng bên trong và bên ngoài (sự trùng nhau của chúng, những mâu thuẫn...) qui định

phƣơng pháp Mác-xít trong việc phân kiểu. Tiếp theo những nguyên tắc này, tâm lý học Xô

Viết gắn chặt tính tích cực với nhân cách khách quan (Đ.N.Uznatre), mở ra phép biện chứng

bên ngoài và bên trong (X.X. Rubinstein). Vị trí phƣơng pháp luận này cần phải thực hiện

khi xây dựng kiểu loại.

Chắc là, sự thiết yếu từ thiết kế trừu tƣợng các kiểu nhân cách từ những bản chất và

tính chất riêng lẻ của nhân cách, liên quan từ sự so sánh đối chiếu các nhân cách với nhau,

đến sự nghiên cứu kiểu nhân cách, các mối quan hệ nhân cách với xu hƣớng xã hội-tâm lí

với cuộc sống. Nhân cách thể hiện không nhƣ tích phân bên trong của thể thức tâm lý mà

nhƣ tích phân các mối quan hệ xã hội, mà tích phân này có thể lộ rõ qua sự tác động lẫn

nhau của nhân cách với những điều kiện, hoàn cảnh của cuộc sống. Nói cách khác, trên nền

tảng xây dựng nên kiểu nhân cách cần phải đƣa vào nguyên tắc phân tích nhân cách thông

qua hoạt động sống của nó, thông qua phƣơng cách sống của nó. X.L. Rubinstein đã khai

thác triệt để nguyên tắc này áp dụng vào tâm lý học, dựa vào luận điểm nổi tiếng của Mác:

hoạt động của cá nhân trong cuộc sống nhƣ thế nào, thì nó sẽ trở thành nhƣ thế ấy. Toàn bộ

quan điểm nhƣ vậy đã cho ra khả năng vƣợt qua kiểu nghiên cứu một chiều cấu trúc và đặc

tính nhân cách bên ngoài những hoạt động, những thay đổi, những phát triển xảy ra trong

cuộc sống nhân cách.

Một thời gian dài khái niệm tâm lý học về nhân cách bị hạn chế về hiểu biết cấu trúc

của nó (tổng hợp khí chất, tính cách...). Thậm chí khi nhấn mạnh tính chất năng động của cấu

trúc này hay quá trình tiến triển của nó tạo thành, tâm lý học nhân cách đƣa ra nhƣ đặc tính

tâm lí của nó. V.N.Miaxisev đã đƣa ra một bƣớc cơ bản tiên phong, coi nhân cách nhƣ một

hệ thống các mối quan hệ của nó với thế giới. Tuy vậy, hệ thống này trong quan điểm của

ông vẫn không thay đổi. B.G. Ananhev đƣa ra vấn đề thuộc nguyên tắc về tính chất hoạt

động các mối quan hệ của nhân cách với thế giới và ông phân bố kiểu mẫu của nhân cách

theo quá trình phát triển trong quá trình sống. ông đã hoàn thiện và vƣợt qua một cách triệt để

từ vấn đề về cấu trúc các yếu tố tâm lý trong

11

nhân cách đến vấn đề về cách tổ chức nhân cách của các mối quan hệ với thế giới, chú ý tới

quá trình tiến triển của các thuộc tính cuối cùng. Tuy nhiên, việc thử thực hiện tiếp cận

mang tính hệ thống đến việc nghiên cứu nhân cách đã mâu thuẫn với phƣơng thức tĩnh tại

của các kết cấu phân tích từng đoạn trong cuộc sống của dạng xã hội tâm lý trong tâm lý học

xã hội.

Trƣờng phái của B.G.Ananhev đụng tới điều nan giải khác, trên cơ sở phân tích cách

sống của nhân cách đã xem sự hiểu biết về nó nhƣ lịch sử cá thể. Tuy nhiên, việc phân tích

thời kỳ giai đoạn sống, kiểu loại của kết cấu cuộc sống và của hình thức tính tích cực (sự

giao tiếp, sự nhận thức, sự hoạt động) khi bắt tay tiến hành nghiên cứu trong thực tế, đã đƣa

ra một cách thực tế khái niệm về lịch sử tiêu biểu, cách sống tiêu biểu, sự phân chia thời kỳ

cuộc sống của mọi nhân cách bất kỳ. Vì sao không thành công thực thi khái niệm cá thể hóa

vào học thuyết con đƣờng quá trình sống? Trƣớc tiên, vì nhân cách chƣa đƣợc nghiên cứu

xem xét nhƣ là một chủ thể của hoạt động sống, tức là sự phân chia thời kỳ sống (theo tất cả

các chi tiết và sự chuẩn xác của nó) sự phân chia không liên quan với tính tích cực của chính

nhân cách, mà tính tích cực tạo nên sự tổng hợp sống của mình, tạo hình con đƣờng cho

cuộc sống của mình. Và cùng với những điều này, quan niệm của Ananhev đã trở thành tiền

đề tiên quyết cho việc giải quyết tiếp theo vấn đề về kiểu nhân cách và cá nhân.

Nhiệm vụ của ngày hôm nay ở chỗ không đơn giản thiết lập qui định sự phù hợp các

giai đoạn, các sự kiện biến cố, các hoàn cảnh tình huống này hay kia của cuộc sống, cùng với

những đặc điểm, những nét này hay khác của nhân cách, mà còn là ở chỗ là để khám phá các

mối quan hệ mang tính chất nguyên nhân của chúng. Sự phụ thuộc của nhân cách vào tính

chất khách thể của hoạt động sống cũng nhƣ quá tình xã hội là điểm xuất phát. Nhƣng đồng

thời nhân cách bao gồm sự tổng hòa các nguyên nhân và kết quả của cuộc sống của chính

mình nó không chỉ nhƣ phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài, mà còn nhƣ sự biến đổi tích cực

của chúng, hơn thế, nhƣ sự tạo thành trong phạm vi xác định vị trí và con đƣờng sống của

mình.

Bằng quan điểm nhƣ vậy, tính tích cực của nhân cách đƣợc xác định không trìu tƣợng,

còn chính qua sự tổng hợp hoàn cảnh đã biến đổi nó, hƣớng tới tiến trình của cuộc sống - tạo

thành vị thế cuộc đời. Tính năng động của cuộc sống chấm dứt việc xác

12

định qua những biến cố, nhƣng lại trở thành sự bị phụ thuộc vào tính chất tích cực của nhân

cách, vào năng lực tổ chức và hƣớng tới biến cố trong xu hƣớng cần thiệp cho hợp ý muốn.

Quan điểm nhƣ vậy không chỉ năng động, mà còn có thiên hƣớng. Hệ thống các mối quan

hệ nhân cách đƣợc xem nhƣ hệ thống xu hƣớng bên trong của nhân cách, hƣớng tới biến đổi

hay tăng cƣờng hoạt động các điều kiện bên trong của nhân cách.

1.1.2 - Cách phân loại kiểu nhân cách xã hội

Nhân cách là tổng hòa các phẩm chất tâm lý của cá nhân đƣợc hình thành và phát

triển trong các mấu quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân có khí chất, năng lực, tính cách, ý thức và

tính tích cực khác nhau, có lý tƣởng sống riêng của mình. Do vậy mà trong nhóm tồn tại

những kiểu nhân cách khác nhau. Sự hình thành các kiểu nhân cách này không chỉ phụ thuộc

chính bản thân cá nhân đó, mà còn tùy thuộc vào quan hệ xã hội, vào điều kiện lịch sử mà

con ngƣời đó sống.

Các nhà nghiên cứu dựa trên những tiêu chí khác nhau để phân loại kiểu nhân cách,

vì thế cho nên có rất nhiều cách phân loại. Tuy nhiên tất cả các cách phân loại đều chỉ mang

tính chất tƣơng đối vì trên thực tế không có ngƣời nào chỉ thuộc về một kiểu nhân cách. Chỉ

có thể coi đó là thiên hƣớng chính của họ bởi vì trong những hoàn cảnh môi trƣờng khác

nhau họ có những cách ứng xử, biểu hiện nhân cách khác nhau.

1.1.2.1- Phân loại theo định hướng giá trị

Spranger (1882-1963) là nhà tâm lý ngƣời Đức thuộc trƣờng phái tâm lý học, mô tả,

Spranger dựa vào các định hƣớng giá trị trong hoạt động sống của các nhân, đã chia ra các

kiểu nhân cách sau:

a. Người lý thuyết

Kiểu ngƣời này chỉ biết có một niềm say mê: giải thích và thiết lập mối quan hệ có

tính chất lý luận giữa các hiện tƣợng và sự việc. Họ sống thoát ly thực tế. Đối với họ giá trị

lớn nhất là phƣơng pháp nhận thức đúng, coi đó là giá trị chân lý với bất cứ giá trị nào. Họ

sống trong một thế giới không có thời gian, cái nhìn của họ hƣớng về tƣơng lai xa xôi, họ

liên kết quá khứ với tƣơng lai theo một qui luật tinh thần do chính họ lập ra.

b. Người kinh tế

Động cơ quyết định chính những lĩnh vực khác nhau nhất của cá nhân và tính chất lối

sống của kiểu ngƣời này là lợi ích. Trong các mối liên hệ sống, họ luôn đặt lợi

13

ích lên hàng đầu. Họ tiết kiệm từ vật chất, sức lực đến thời gian với mục tiêu là chiếm đƣợc

lới ích tối đa. Những ngƣời kinh tế thƣờng là những ngƣời sống thực dụng. Với họ, mọi hành

động đều phải đem lại hiệu quả thiết thực, và tất cả đều là phƣơng thức hỗ trợ cuộc sống, đấu

tranh vì sự tồn tại và tiện nghi sống tốt nhất. Kiểu nhân cách này đối lập với kiểu nhân cách

của những ngƣời lý thuyết.

c. Người thẩm m ỹ

Nhân cách này không chỉ có ở ngƣời sáng tạo nghệ thuật, mà ở cả những ngƣời hay

tƣởng tƣợng. Họ thông qua tƣởng tƣợng mà tri giác hiện thực. Họ có một năng khiếu đặc

biệt, đó là linh cảm. Họ thƣờng sống mơ mộng, đứng trƣớc những khó khăn về kinh tế

thƣờng tỏ ra bất lực. Với họ cái quan trọng nhất là sự trong sáng và vẻ đẹp cao quí của tâm

hồn. Cuộc sống nội tâm của họ hƣớng tới cái đẹp thiên nhiên, sự toàn mỹ của các tác phẩm

nghệ thuật cụ thể.

d. Người vị tha

Đặc điểm của kiểu nhân cách này là chú ý quan tâm đến cuộc sống của ngƣời khác,

cảm nhận thấy mình ở trong ngƣời khác. Cống hiến vì ngƣời khác là nhu cầu chủ yếu và lẽ

sống của kiểu ngƣời này. Biểu hiện cao nhất trong xu hƣớng xã hội của họ là tình yêu. Tình

yêu không chỉ đơn thuần ở chỗ yêu cuộc sống, yêu ngƣời khác mà còn có bản chất sâu xa

hơn: tình yêu là một tình cảm còn lại ở trong mình, chú ý đến cuộc đời khác vì những giá trị

của chính cuộc sống đó. Chính tình yêu đã khám phá ở ngƣời khác những giá trị nhất định,

mà nhờ đó họ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống của mình khi đƣợc cống hiến cho ngƣời khác, cho

xã hội.

e. Người chính trị

Một ngƣời có quyền lực với ngƣời khác khi ngƣời đó có kiến thức và trí tuệ cao, hoặc

là có cơ sở vật chất dồi dào, hoặc là có nhân cách hoàn chỉnh và nội tâm phong phú, hoặc là

do niềm tin tôn giáo nào đó mà mọi ngƣời coi ngƣời đó nhƣ một ông thánh. Trƣờng hợp đặc

biệt khi con ngƣời không hƣớng tới một trong bốn giá trị đặc biệt này, mà cái chính đối với

họ là củng cố thế mạnh của chính bản thân mình, ở đây uy quyền đƣợc xem nhƣ khả năng

cũng nhƣ sự cố gắng biến xu hƣớng giá trị của cá nhân thành động lực chủ yếu cho ngƣời

khác. Đặc điểm nhân cách nổi bật của học là tính tự khẳng định, cố gắng đạt thành tích, sức

sống, lối sống mạnh mẽ. Mọi biểu hiện của các mối

14

quan hệ dựa trên quyền lực đều mang một phong cách mà ta gọi là chính trị. Những ngƣời

lấy uy quyền làm giá trị chủ đạo gọi là kiểu ngƣời chính trị.

h. Người tôn giáo

Ngƣời tôn giáo có đặc điểm là luôn hƣớng tới và đạt đƣợc giá trị ở mức cao nhất. Xét

trên cơ sở các giá trị có quan hệ nhƣ thế nào với ý nghĩa chung của cuộc sống có thể phân ra

ba loại ngƣời tôn giáo: tích cực, tiêu cực và hỗn hợp (lúc tích cực, lúc tiêu cực). Khi các giá

trị của cuộc sống thể hiện trong quan hệ tích cực thì kiểu nhân cách này thể hiện sự thần bí

nội tại; nếu giá trị đặt trong quan hệ tiêu cực thì xuất hiện ngƣời thần bí siêu nghiệm. Nếu là

giá trị hỗn hợp thì xuất hiện tƣ chất tôn giáo nhị nguyên.

Sự phân chia kiểu nhân cách xã hội nhƣ trên của Spranger dựa trên cơ sở các định

hƣớng giá trị. Tác giả không tính đến ý nghĩa của vai mà cá nhân đảm nhận trong nhóm,

chƣa tính đến các điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Spranger mới chỉ dừng lại ở việc mô tả

các biểu hiện đặc trƣng của các loại nhân cách. Ông chƣa lý giải đƣợc các loại nhân cách

này hòa nhập vào nhóm khác nhƣ thế nào, sẽ tồn tại ra sao và có vai trò gì trong các quan hệ

tƣơng tác của nhóm. Tuy nhiên tính hợp lý của cách phân chia này là ở chỗ nó liên hệ cấu

trúc của tính nhân cách cụ thể với các giá trị tinh thần mà nhân dân xây dựng nên cùng với

các hình thức văn hóa.

Karen Horney (1885-1952) ông là nhà tâm lý học ngƣời Mỹ, theo trƣờng phái phân

tâm học, dựa vào định hƣớng giá trị trong quan hệ ngƣời - ngƣời, ông phân ra ba kiểu nhân

cách:

- Kiểu ngƣời nhƣờng nhịn (bị áp đảo).

- Kiểu công kích (mạnh mẽ).

- Kiểu hờ hững (lạnh lùng).

Ông cho rằng cơ sở phân loại là nhu cầu tâm lý trội hơn trong quan hệ với ngƣời

khác.

a. Người nhường nhịn

Nhu cầu tâm lý chủ yếu của loại ngƣời này tập chung ở những ngƣời thân cận nhất,

gần gũi nhất, là sao để cho mọi ngƣời hiểu và thƣơng mến họ. Khi quan hệ với ngƣời khác

họ luôn muốn tìm hiểu thái độ của ngƣời đó đối với mình, có thể diễn đạt

15

dƣới dạng các câu hỏi nhƣ: bạn sẽ thƣơng tôi hay không? Bạn có muốn để tôi quan tâm đến

bạn không?

b. Người công kích

Những ngƣời này có xu hƣớng đối nghịch với ngƣời khác, luôn có nhu cầu kiểm tra

ngƣời khác. Trong thế giới riêng của họ chỉ tồn tại những ngƣời mạnh mẽ. Họ khó chịu đựng

đƣợc những thất bại và luôn khôn ngoan, khéo léo hơn ngƣời khác. Trong mọi quan hệ kiểu

ngƣời này luôn quan tâm đến việc làm nhƣ thế nào để có lợi.

c. Người hờ hững

Ngƣời hờ hững luôn muốn xa lánh mọi ngƣời, và thƣờng tự thiết lập khoảng cách

nhất định giữa mình với ngƣời khác trong mọi lĩnh vực. Họ có nhu cầu muốn đƣợc yên tĩnh

trong một góc nhỏ của mình hoặc liên kết với ai mà họ thấy cần thiết. Kiểu ngƣời này không

thích khuất phục và phụ thuộc ngƣời khác.

Dựa vào cách phân loại này các nhà tâm lý học Liên Xô đã tìm thêm một số đặc điểm

của các kiểu nhân cách trong lĩnh vực hoạt động khác. Một nghiên cứu của Vinhiukh về vấn

đề thủ lĩnh trong hành vi ảnh hƣởng đến xu hƣớng hoạt động nhƣ thế nào thì thấy rằng kiểu

ngƣời công kích không muốn hợp tác với những ngƣời ngang hàng mà chỉ thích làm việc với

thủ lĩnh. Trong khi đó kiểu ngƣời nhƣờng nhịn thì thích làm việc với những ngƣời có phong

cách dân chủ.

Một nghiên cứu khác của I.C.Kôn về định hƣớng giá trị trong lĩnh vực giao tiếp ảnh

hƣởng đến việc chọn nghề cho thấy kiểu ngƣời nhƣờng nhịn có quan hệ tốt với những ai có

giao tiếp rộng và hay chọn nghề có tính chất xã hội. Kiểu ngƣời công kích thƣờng hƣớng tới

thành công có giá trị cao cho nên hay chọn nghề có khả năng thành công lớn. Ở kiểu ngƣời

lạnh lùng, hờ hững thì nhu cầu và sáng tạo và tự do luôn ở mức độ cao. Vì thế họ hay chọn

hƣớng hoạt động khoa học và nghệ thuật.

1.1.2.2- Phân loại nhân cách qua giao tiếp

Trong giao tiếp con ngƣời thể hiện rất rõ nhân cách và cá tính của mình, đặc biệt là

trình độ ứng xử, nét tính cách, những phẩm chất và năng lực các nhân. Thông qua giao tiếp

có thể chia ra các kiểu nhân cách sau:

a- Người thích sống bằng nội tâm

16

Kiểu ngƣời này không ƣa những giao tiếp mang hình thức, xã giao. Cuộc sống của họ

thiên về chiều sâu và sự phong phú về tâm hồn. Trong ứng xử xã hội, họ vụng về, khó hòa

nhập vào trạng thái tình cảm của ngƣời khác, thƣờng có tƣ duy bảo thủ và dễ bị ép buộc

trong cuộc sống riêng. Tuy vậy, họ rất có trách nhiệm với công việc đƣợc giao. Họ thƣờng

có thói quen tò mò. Mọi biểu hiện bề ngoài trong hành động của họ cũng vụng về nhƣ trong

giao tiếp.

b- Người thích giao tiếp hình thức

Kiểu ngƣời này thƣờng thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ trong giao tiếp, dễ thích

nghi và dễ đồng cảm với ngƣời khác, nhóm khác. Chính vì vậy họ rất nhạy cảm trong giao

tiếp. Trong những tiếp xúc mang tính chất hình thức, xã giao, họ biết đƣa ra những ý kiến,

nhân định và lời nói phù hợp trong những tình huống cần thiết. Tuy vậy họ thiếu khả năng

chú ý đến ngƣời đối thoại. Hoạt động của họ thƣờng trong trạng thái lộn xộn. Cơ chế phòng

vệ cái tôi của họ nhiều khi thái quá.

c- Người nhạy cảm

Những ngƣời thuộc kiểu này thƣờng có linh cảm cao trong giao tiếp, dù là hình thức

hay không hình thức. Họ là những ngƣời khiêm tốn và có trí tƣởng tƣợng phong phú và

thƣờng hay có ý đồ cạnh tranh trong lĩnh vực này.

d- Người ba hoa

Họ là những ngƣời thích phóng đại, thổi phồng, tô vẽ thêm mọi chuyện. Trong giao

tiếp họ có xu hƣớng hình tƣợng hóa. Kiểu ngƣời này thƣờng sống bằng hiện tại, không quan

tâm tới quá khứ và tƣơng lai, luôn tìm thấy thú vui để giải trí, thích tìm tới những quan hệ

mới, những cuộc tiếp xúc mới. Họ không thích những hoạt động tập thể. Họ rất khó chịu khi

phải chịu đựng những điều gì đó buồn khổ.

1.1.2.3- Phân loại nhân cách theo thời gian

Nhà tâm lý học, bác sĩ tâm lí ngƣời Thụy sĩ K.T.Lung (1857-1961) cho rằng con

ngƣời tri giác sự vật qua bốn hệ thống thời gian: cảm xúc, cảm giác, tƣ duy và tình cảm. Trên

cơ sở này ngƣời ta phân ra bốn kiểu nhân cách: Kiểu ngƣời xúc cảm, kiểu ngƣời cảm giác,

kiểu ngƣời tƣ duy và kiểu ngƣời linh cảm. Lung cho rằng khi tri giác thời gian theo những

cách khác nhau thì con ngƣời tri giác sự việc trong xã hội cũng khác nhau.

a- Người xúc cảm

17

Với những ngƣời này cái chính là quá khứ của bản thân, mọi hiện tƣợng và sự vật đều

xác định theo tiêu chí của quá khứ bằng sự hồi tƣởng cái đã qua. Với đặc điểm của kiểu nhân

cách này, nếu ở tuổi thanh niên thì có xu hƣớng mạo hiểm, còn ở trung niên thì thƣờng bảo

thủ. Những ngƣời xúc cảm rất khó thiết lập quan hệ mới với ngƣời khác. Họ đánh giá các vấn

đề theo quan điểm cá nhân, nên mang nặng dấu ấn chủ quan.

b- Người cảm giác

Loại ngƣời này không tri giác sự vật, hiện tƣợng trong sự vận động của thời gian, với

họ chỉ hiện tại mới chỉ có ý nghĩa. Họ không để ý tới quá khứ cũng nhƣ không biết nghĩ đến

tƣơng lai. Họ ít liên tƣởng đến các sự kiện đã xẩy ra, nhƣng lại giải quyết những vấn đề trong

hiện tại rất tốt, có khả năng vƣợt qua những khủng hoảng của cuộc sống một cách tốt đẹp.

Nét tiêu biểu trong nhân cách của họ là hành động cƣơng quyết, có tính tự chủ, kiên định cao

không bị lay chuyển bởi các yếu tố bên ngoài tronh hành động của mình. Họ không có khả

năng chịu đựng những đau khổ tình cảm và để giải quyết ấn đề này họ thƣờng cố quên nó đi.

Họ không ngồi yên để chờ đợi mà luôn hành động theo cảm xúc của mình. Tóm lại họ là

những con ngƣời của hành động.

c- Người tư duy

Họ nhận biết thời gian nhƣ một quá trình tổng thể và liên tục, mọi sự kiện có thể hiểu

đƣợc khi liên tƣởng chúng với quá khứ bằng tƣ duy. Đặc điểm nhân cách của họ là cởi mở,

tự tin, sống theo những nguyên tắc của bản thân mình, luôn luôn hành động theo qui luật, cố

gắng tranh mọi ngẫu nhiên đến mức thấp nhất, nghĩa là họ phải luôn tính toán, suy đoán kỹ

càng để dành thế chủ động. Trong trƣờng hợp khó khăn, cần sự giúp đỡ của ai đó thì họ lại

rất khó phối hợp hành động với họ. Đây là những ngƣời rất biết tôn trọng và biết tiết kiệm

thời gian, họ làm việc chính xác theo thời gian. Với những ngƣời có trình độ tƣ duy cao thì

họ hoạt động rất tích cực.

d- Người linh cảm

Những ngƣời này không cảm nhận thời gian một cách thực sự, trong giao tiếp thƣờng

sai hẹn với ngƣời khác. Họ dễ thích nghi với những thay đổi của cuộc sống, thay đổi của

công việc. Họ là những ngƣời có sức hấp dẫn lớn với ngƣời khác, ý thức đƣợc điều đó và

luôn luôn cho mình trở nên quyến rũ hơn. Nhƣng những ngƣời này thƣờng thiếu kiên nhẫn

và hay nóng vội. Họ có khả năng tác động đến ngƣời thực dụng.

18

1 . 1.2.4- Phân loại nhân cách trong hoạt động nghề nghiệp

Phần này chỉ đề cập đến nghề diễn viên. Trong hoạt động của họ ta thấy nổi lên hai

loại ngƣời: hƣớng ngoại và hƣớng nội.

a- Diễn viên hướng ngoại

Đóng tốt những vai tƣơng tự nhƣ mình vì họ thể hiện đúng bản thân mình trong mỗi

vai mới. Họ chỉ quan tâm đến vai của mình. Họ là ngƣời có quan hệ rộng, yêu cái thiện và

thích một sự tƣ do rõ ràng, và sẽ làm việc tốt khi hợp với đạo diễn.

b- Diễn viên hướng nội

Khi đóng vai thƣờng khám phá ra nội tâm của nhân vật, hoàn toàn đồng nhất với

nhân vật. Mỗi lần đóng những vai khác nhau họ có những thể hiện khác nhau. Họ luôn thấy

khó chịu khi bị chỉ bảo và luôn tự làm lấy. Họ chỉ chấp nhận đạo diễn nhƣ là một ngƣời tƣ

vấn mà thôi. Họ làm việc kém hiệu quả khi gặp một đạo diễn tồi.

Trong tâm lý học xã hội còn ít các công trình nghiên cứu về kiểu nhân cách xã hội,

đặc biệt là những nghiên cứu có tính lý luận và hệ thống cao. Những nghiên cứu đã đƣợc

trình bày ở trên mới dừng loại ở mức độ phân loại các kiểu nhân cách xã hội, chỉ ra đặc điểm

cơ bản của các loại nhân cách đó. Còn những vấn đề cơ bản nhƣ: các kiểu nhân cách đó đƣợc

hình thành trong các nhóm nhƣ thế nào. Những yếu tố nào tác động đến quá trình hình thành

và phát triển các kiểu nhân cách ấy. Quá trình hòa nhập các loại ngƣời này trong các nhóm xã

hội ra sao. Những tác động của họ đến những thành viên khác của nhóm và nhóm ảnh hƣởng

đến họ nhƣ thế nào. Những kiểu nhân các này có mang tính chất lịch sử và có chị sự ảnh

hƣởng của cơ cấu tổ chức nhóm đặc biệt là thể chế chính trị của xã hội đó hay không, có chịu

sự chi phối của nền văn hóa mà con ngƣời đang sống không v.v... Tất cả đều chƣa đƣợc đề

cập đến và lý giải từ góc độ tâm lý học xã hội. Vì vậy tâm lý học xã hội cần coi đây là những

vấn đề lớn cần đƣợc sự nghiên cứu công phu và có hệ thống.

1.1.2.5- Theo cách phân loại của Cattell

Trắc nghiệm kiểu nhân cách của Cattell dựa vào các động thái của động cơ, nhu cầu

hứng thú, định hƣớng giá trị, nó tổng hợp từ nhiều phƣơng pháp và nghiên cứu các hành vi

của các nét nhân cách trong các tình huống cụ thể khác nhau. Quan điểm của ông đƣợc nhiều

nhà tâm lí học đồng ý.

19

1. Yếu tố A

Mức độ thấp: "A" Hƣớng nội (kín đáo, biệt lập, phê phán. lạnh nhạt, kiên định).

Mức độ cao: "A" Hƣớng ngoại (thân mật, hiền lành,vô tƣ, giao thiệp rộng).

2. Yếu tốB

Mức độ thấp: "B" Trí tuệ thấp (không tập trung tƣ tƣởng, tối dạ).

Mức độ cao: "B" Trí tuệ cao (tập trung tƣ tƣởng, sáng dạ).

3. Yếu tố c

Mức độ thấp: "C" "Cái tôi" yếu, cảm xúc không bền vững (dễ bị ảnh hƣởng của tình

cảm, dễ phiền muội, hay thay đổi).

Mức độ cao: "C" "Cái tôi" mạch cảm xúc bền vững (biết kiềm chế,bình thản, nhìn

nhận sự việc tỉnh táo).

4. Yếu tố E

Mức độ thấp: "E" Ngoan ngoãn, phục tùng (dịu dàng, dễ bảo, hay giúp đỡ, nhã nhặn).

Mức độ cao: "E" Ƣu thế, thích quyền lực (kiên trì, tự tin, cứng rắn, bƣớng bỉnh, hay

gây sự).

5. Yếu tố F

Mức độ thấp: "F" Hay lo lắng (bình thản, im lặng, nghiêm túc, ít nói).

Mức độ cao "F" Vô tƣ (dễ phấn khởi, cẩu thả, không cẩn thận).

6. Yếu tố G

Mức độ thấp: "G" "Siêu tôi" thấp, thiếu phù hợp với các chuẩn mực đạo đức chung.

Mức độ cao: "G" "Siêu tôi" cao, tính cách mạnh (có lƣơng tâm, tận tụy, kiên trì, dạy

đời, già dặn, cân bằng).

7. Yếu tố H

Mức độ thấp: không cƣơng quyết, dè dặt, thận trọng, sợ sệt.

Mức độ cao: can đảm, dũng cảm.

8. Yếu tố I

Mức độ thấp: kém nhạy cảm, vô tình, khô khan.

Mức độ cao: nhạy cảm, vị tha, phụ thuộc.

9. Yếu tố L

20

Mức độ thấp: cả tin.

Mức độ cao: hay nghi ngờ.

10. Yếu tốM

Mức độ thấp: thực tế.

Mức độ cao: lí tƣởng hóa.

11. Yếu tốN

Mức độ thấp: đơn giản.

Mức độ cao: sắc sảo.

12. Yếu tố O

Mức độ thấp: tự tin

Mức độ cao: lo lắng

Yếu tố Q1

Mức độ thấp: bảo thủ.

Mức độ cao: cấp tiến.

Yếu tố Q2

Mức độ thấp: Phụ thuộc nhóm.

Mức độ cao: độc lập.

Yếu tốQ3

Mức độ thấp: ý kiến riêng mức độ thấp

Mức độ cao: ý kiến riêng mức độ cao.

Yếu tố Q4

Mức độ thấp: mức độ căng thẳng nội tâm thấp.

Mức độ cao: mức độ căng thẳng nội tâm cao.

1.2- Quan hệ liên nhân cách

1.2.1- Khái niệm quan hệ liên nhân cách

Cần phải làm sáng tỏ bản chất và vị trí của quan hệ liên nhân cách trong cuộc sống và

hoạt động của con ngƣời. Ngành tâm lí học đã đƣa ra một số quan điểm khác nhau về việc

nên đặt quan hệ liên nhân cách vào chỗ nào trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Thỉnh

thoảng mọi ngƣời nhìn nhận nó từ góc độ xem nó có quan hệ với các quan hệ xã hội không?

hoặc nghĩ rằng nó đƣợc hình thành dựa trên cơ sở các quan hệ xã

21

hội. Ngƣợc lại, có tác giả xem quan hệ liên nhân cách là mức độ cao nhất so với các mối

quan hệ khác. Ở trƣờng hợp khác, xem nó nhƣ là sự phản ánh các mối quan hệ trong ý thức.

Cuối cùng chúng ta thấy rằng, (dựa vào ý kiến của đa số các nhà nghiên cứu tâm lí) để đi đến

kết luận, bản chất của mối quan hệ liên nhân cách - đó là loại quan hệ đặc biệt nó không xuất

hiện bên ngoài, bên cạnh, bên trên hay bên dƣới v.v… của mối quan hệ xã hội mà nó đƣợc

xuất hiện bên trong bất cứ dạng quan hệ xã hội nào. Có thể trình bày một cách đơn giản nhƣ

sau: mối quan hệ liên nhân cách nhƣ là tiết diện phẳng của hệ thống các mối quan hệ xã hội.

Những quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội v.v… rất đa dạng và phong phú đều phát hiện thấy

trong tiết diện phẳng này các mối quan hệ liên nhân cách. Hiểu nhƣ vậy mọi cái trở nên rõ

ràng, dễ hiểu hơn để từ đó có thể giải thích vì sao quan hệ liên nhân cách dƣờng nhƣ tác

động trực tiếp lên nhân cách một cách rộng rãi, mang tính xã hội toàn diện. Xét cho đến

cùng, quan hệ liên nhân cách đƣợc qui định bởi quan hệ xã hội mang tính khách quan.

Mối quan hệ liên nhân cách tồn tại bên trong các mối quan hệ xã hội rất đa dạng. Mối

quan hệ liên nhân cách dƣờng nhƣ thực hiện các mối quan hệ không bản sắc trong các hoạt

động cụ thể của con ngƣời, trong các cử chỉ, trong giao tiếp, trong sự tác động lẫn nhau.

Cùng lúc, trong quá trình thực hiện các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời (trong đó có quan

hệ xã hội), mối quan hệ liên nhân cách một lần nữa lại xảy ra. Có thể nói bằng cách khác, có

những khoảnh khắc (ý chí đƣợc ý thức và do những mục đích đặc biệt của cá nhân) xuất hiện

trong tế bào khách quan của các mối quan hệ xã hội. Chính tại đây, mối quan hệ xã hội và

mối quan hệ liên nhân cách va chạm nhau một cách trực tiếp. Vì vậy, trong tâm lí học xã hội,

vấn đề này đƣợc đƣa ra có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.

1.2.2- Kiểu quan hệ liên nhân cách

Giới thiệu cấu trúc các mối quan hệ tạo ra một kết quả quan trọng đối với tâm lí học

xã hội. Đối với mỗi một ngƣời, khi tham gia các mối quan hệ liên nhân cách, các mối quan

hệ này có thể biểu hiện mang tính thống nhất. Trong thực tế, bất kể đó là mối quan hệ nào

thực ra suy cho đến cùng, dạng quan hệ xã hội này hay khác đều có nội dung của các quan hệ

liên nhân cách. Nghĩa là hoạt động xã hội đã đƣợc xác định, nhƣng nội dung, đặc biệt là bản

chất của chúng còn nhiều bí ẩn. Bình thƣờng con ngƣời

22

không chú ý tới quá trình quan hệ liên nhân cách mà chỉ chú ý quá trình vận hành quan hệ xã

hội, trong đó mọi ngƣời trao đổi ý tƣởng cho nhau và ý thức đƣợc mối quan hệ này. Sự ý

thức này không xảy ra thƣờng xuyên tới mức họ nghĩ rằng họ đang tham gia vào mối quan hệ

liên nhân cách. Vào những thời điểm riêng biệt của mối quan hệ xã hội, những con ngƣời

đang vận hành quan hệ xã hội lại thể hiện mình nhƣ là chủ thể các mối quan hệ liên nhân

cách và quan hệ lẫn nhau: ai đƣợc tri giác nhƣ là con rắn độc của chủ nghĩa tƣ bản, ai đƣợc

tri giác nhƣ một nhà buôn khôn lỏi v.v… Đối với lĩnh vực tâm lí học xã hội vẫn chƣa có sự

phân tích về mặt lí luận một cách chuyên sâu và vấn đề chính ở chỗ đó. Chính vì vậy, động

cơ của hành vi thƣờng chỉ đƣợc giải thích bề mặt bằng bức tranh mối quan hệ, chứ không

giải thích bên trong. Tất cả trở nên phức tạp hơn khi mối quan hệ liên nhân cách chính là

thực tiễn của các mối quan hệ xã hội. Mác đã viết rằng, chính mối quan hệ mang bản sắc cá

nhân của cá thể giữa ngƣời với ngƣời, mối quan hệ lẫn nhau của họ với tƣ cách là một cá thể

đã hàng ngày tạo và xây dựng nên mối quan hệ cơ bản. Trong thực tế, mọi ngƣời gia nhập

vào tất cả các nhóm hoạt động với hai tƣ cách: nhƣ là những ngƣời thực hiện vai xã hội

không bản sắc và với tƣ cách là một nhân cách mang bản sắc cá nhân và đơn nhất. Điều này

là cơ sở để đƣa "khái niệm vai liên nhân cách" nhƣ là sự ghi nhận vị thế của con ngƣời trong

hệ thống của các mối liên kết nhóm, không phải trên cơ sở vị trí khách quan của nhân cách

mà dựa vào vị trí đƣợc xuất hiện một cách đặc biệt, trên cơ sở những đặc điểm tâm lí của

nhân cách. Ví dụ có những vai liên nhân cách rõ nhƣ ban ngày trong cuộc sống thƣờng ngày

đƣợc một số ngƣời trong nhóm nói rằng, đó là "anh chàng ruột để ngoài da", loại "bất chấp

tất cả để đạt đƣợc danh vọng" v.v… Việc phát hiện các nét của nhân cách trong kiểu thực

hiện vai xã hội sẽ tạo ra các phản ứng trả lời của các thành viên khác trong nhóm. Tóm lại,

trong nhóm xuất hiện sự thống nhất của mối quan hệ liên nhân cách.

Theo tâm lí học mác xít, bản chất của mối quan hệ liên nhân cách về cơ bản khác hẳn

mối quan hệ xã hội: nét quan trọng mang tính đặc thù của nó đó là nền tảng cảm xúc. Chính

vì vậy, mối quan hệ liên nhân cách có thể đƣợc xem nhƣ là một nhân tố tạo nên bầu không

khí tâm lí của nhóm. Cơ sở cảm xúc của quan hệ liên nhân cách, nghĩa là các mối quan hệ

này xuất hiện và hình thành dựa trên một số cảm xúc xác định, đƣợc nảy sinh ở con ngƣời khi

có mối quan hệ lẫn nhau. Ngành tâm lí học Xô Viết đã

23

chia ra ba loại hay ba mức độ biểu hiện cảm xúc: xúc động, cảm động và tình cảm. Tuy

nhiên, trong tâm lí học, các thuật ngữ trên không đƣợc sử dụng trong ý chặt chẽ của nó.

Trong thực tế tập hợp các loại cảm xúc trên là vô hạn. Tuy nhiên, có thể phân ra thành hai

nhóm lớn:

- Nhóm thứ nhất: đó là những ngƣời gần gũi nhau, cảm xúc của họ đƣợc liên kết lại.

Họ gia nhập một cách tự nguyện trong từng trƣờng hợp của mối quan hệ. Trong mối quan hệ

với ngƣời khác, họ luôn sẩn sàng hợp tác, cùng tham gia hoạt động....

- Nhóm thứ hai: cảm xúc của họ phân tán khắp nơi, họ là ngƣời không thể chấp nhận

đƣợc, là con ngƣời khó chịu trong quan hệ với ngƣời khác. Họ không hề mong muốn hợp

tác... và cƣờng độ các cảm xúc của họ sẽ khác nhau.

Mức độ cụ thể của sự phát triển cảm xúc không thể nào là vô hạn đối với hoạt động

của nhóm. Việc mô tả, phân tích các mối quan hệ liên nhân cách không thể đƣợc coi là đầy

đủ đối với đặc tính của nhóm: trên thực tế, các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời không chỉ

đƣợc hình thành trên cơ sở tiếp xúc cảm xúc một cách trực tiếp, bản thân hoạt động đã qui

định một loạt các quan hệ khác, đƣợc hình thành gián tiếp thông qua nó.

Các nhà tâm lí học Phƣơng Tây có cách tiếp cận khái niệm quan hệ liên nhân cách

khác với các nhà tâm lí học Xô Viết trƣớc đây. Cũng nhƣ các nhà tâm lí học Xô Viết họ đồng

quan điểm cho rằng quan hệ liên nhân cách nằm trong quan hệ xã hội. Tuy nhiên trong quá

trình thể hiện vai của mình, các chủ thể bao giờ cũng mang trong mình cá tình mang tính đơn

nhất, không lặp lại ở ngƣời thứ hai. Chính vì vậy cho dù ở vai nào, vị trí và chức năng nào. Ở

họ vẫn nổi trội kiểu quan hệ liên nhân cách rất đặc trƣng cho chính họ, vì vậy khi ở các nhóm

khác nhau với các vị trí chức năng khác nhau nhƣng những nhận xét về con ngƣời cụ thể đó

của những ngƣời khác nhau sẽ trùng khớp nhau.

- Mỗi con ngƣời là một cá tính với những đặc điểm tâm lí khác nhau, có các kiểu

quan hệ liên nhân cách khác nhau đƣợc hình thành do các quá trình xã hội hóa khác nhau,

trên cơ sở đó họ sẽ hình thành cái tôi rất khác nhau trong nhóm.

Chính những yếu tố này xác định những ấn tƣợng chung về con ngƣời trong quá trình

tri giác liên nhân cách. Trong vô số các tập hợp quan trong khi phân tích kiểu hành vi của các

hành vi liên nhân cách trong nhóm các nhà tâm lí học đã có thể phân chia các kiểu quan hệ

liên nhân cách trội hơn khi có sự tác động lẫn nhau trong nhóm. Chính

24

kiểu quan hệ liên nhân cách này làm cho các cá nhân khác nhau khi giữ các vai khác nhau

đều mang trong mình bản sắc riêng làm cho quan hệ xã hội không bản sắc đã đƣợc phủ lên

lớp sơn cá tính của cá nhân.

Khi nghiên cứu các mối quan hệ liên nhân cách, các tác giả khác nhau sẽ có cách

phân các kiểu quan hệ liên nhân cách sau:

- Khống chế - bị lệ thuộc.

- Hữu nghị - gây hấn.

- Dễ gần - xa cách

- Tiếp nhận sự đấu tranh - lảng tránh sự đấu tranh.

Theo Liri nhà tâm lí học xã hội ngƣời Mỹ đã chia các kiểu quan hệ liên nhân cách với

các đặc tính nhƣ sau:

Kiểu quyền uy: Tính cách của xƣớng ngôn viên, ngƣời hống hách chuyên quyền

(chuyên chế), kiểu nhân cách mạnh mẽ, thích đứng đầu trong các hoạt động nhóm, khuyên

bảo (dạy bảo) tất cả, giáo huấn (huấn thị) tất cả, khao khát tất cả phải dựa vào ý kiến của

mình. Không biết tiếp nhận lời khuyên của ngƣời khác. Mọi ngƣời xung quanh ghi nhận

quyền lực này nhƣng không thừa nhận nó.

- Ích kỷ: Mong muốn ở trên mọi ngƣời, mình luôn là nhất trong khi đó muốn tách ra

khỏi mọi ngƣời xung quanh, tự phụ say mê chính mình, là ngƣời chi li, ngƣời không phụ

thuốc, ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình.

Chuyển những khó khăn sang những ngƣời xung quanh, bản thân tỏ thái độ với khó

khăn một cách ghẻ lạnh, là ngƣời tự kiêu, hài lòng với bản thân, tính hay khoe khoang.

- Gây hấn: Khắc nghiệt, tàn nhẫn, có tính thù địch trong mối quan hệ với những

ngƣời xung quanh, tàn nhẫn, gay gắt, cục cằn, thô bạo, tính công kích, có thể dẫn đến hành vi

chống xã hội.

Nếu điểm thấp hơn, là ngƣời yêu cầu cao, thẳng tính, cởi mở, nghiêm khắc, mạnh mẽ,

chặt chẽ khắt khe trong việc đánh giá những ngƣời xung quanh. Là ngƣời không khoan

nhƣợng, có khuynh hƣớng kết tội tất cả. Là ngƣời hay giễu cợt, mỉa mai, là ngƣời dễ tức

giận.

25

- Đa nghi: Lạnh nhạt (xa cách) trong mối quan hệ với thế giới (hung dữ) tàn ác và

nhiều kẻ thù. Là ngƣời đa nghi, hay giận, dễ bị mếch lòng có khuynh hƣơng nghi ngờ tất cả

hay thù oán, hay để bụng, thƣờng xuyên phàn nàn mọi điều.

Nếu điểm thấp, là ngƣời hay phê bình, thể nghiệm những khó khăn.Vì tính đa nghi

và sợ hãi các mối quan hệ xấu, là ngƣời khép kín, hoài nghi, tuyệt vọng chán mọi ngƣời, là

ngƣời kín đáo, tính tiêu cực thể hiện trong tính gây hấn bằng lời (thù địch bằng lời).

- Lệ thuộc: Ngoan ngoãn, dễ bảo, có khuynh hƣớng lệ thuộc, nhu nhƣợc, có khuynh

hƣớng nhƣờng nhịn mọi ngƣời tất cả. Thƣờng xuyên đặt mình vào vị trí cuối cùng, lên án

bản thân, gán lỗi cho mình, là ngƣời thụ động, có khuynh hƣớng tìm điểm tựa ở những

ngƣời mạnh hơn.

Nếu điểm số thấp là ngƣời nhã nhặn, rụt rè, nhút nhát, hay nhƣợng bộ, thận trọng,

ngƣời cảm xúc. Có khả năng bị chinh phục, không có ý kiến riêng của mình, nghe lời và

thực hiện trácch nhiệm một cách nghiêm túc.

- Phụ thuộc: Không tin vào bản thân, ám ảnh sự sợ hãi và nguy hiểm, lo lắng do bất

cứ nguyên nhân nào. Chính vì vậy mà phụ thuộc vào nsƣời khác, phụ thuộc vào ý kiến của

ngƣời khác. Loại ngƣời ngoan, dễ bảo, nhút nhát, bất lực yếu đuối, không biết biểu hiện sự

phản kháng, thƣờng chân thành cho rằng tất cả mọi ngƣời đều đúng.

Điểm thấp, là ngƣời dịu dàng, chờ đợi sự giúp đỡ và lời khuyên, cả tin, có khuynh

hƣớng khâm phục những ngƣời xung quanh, lịch thiệp.

- Hòa thuận: Lịch thiệp với tất cả. Định hƣớng vào việc tiếp nhận và khen ngợi xã

hội. Mong muốn thỏa mãn yêu cầu của ngƣời khác "trở thành ngƣời tốt" với tất cả mọi

ngƣời không tính tới hoàn cảnh, thƣờng hƣớng tới mục đích của nhóm nhỏ. Biết phát triển

cơ chế lấn át, là ngƣời cảm xúc.

Điểm thấp, có khuynh hƣớng đoàn kết, có sự hợp tác, mềm dẻo, biết thỏa hiệp khi

giải quyết vấn đề và trong hoàn cảnh xung đột, có khuynh hƣớng đồng ý với ý kiến của

những ngƣời xung quanh, ý thức, dẫn tới tính ƣớc lệ, tính nguyên tác, tính nội qui "là ngƣời

tốt giọng" trong mối quan hệ với ngƣời khác. Là ngƣời chủ động, sáng kiến, nhiệt tình đạt

đƣợc mục đích của nhóm, mong muốn giúp đỡ, cảm thấy mình là trung tâm của

26

sự chú ý, đáng đƣợc yêu và đƣợc thừa nhận, ngƣời cởi mở, là ngƣời đầm ấm và hữu nghị

trong các mối quan hệ.

- Vị tha: thƣờng xuyên hy sinh những hứng thú của mình mong muốn giúp đỡ tất cả

ngƣời khác, thƣơng xót tất cả, thông cảm với tất cả. Hay bị ám ảnh bởi sự giúp đỡ của mình

và tích cực quá đáng trong các mối quan hệ với ngƣời xung quanh. Vì ngƣời khác mà nhận

trách nhiệm về mình một cách không thích hợp, là loại nhân cách kín đáo, là loại ngƣời mâu

thuẫn.

Điểm thấp, là ngƣời trách nhiệm trong mối quan hệ với những ngƣời xung quanh, dịu

dàng, hiền lành, nhân hậu, lịch sự. Có mối quan hệ cảm xúc với mọi ngƣời biểu hiện ở sự

thƣơng xót, cảm tình, chăm sóc, an ủi, vuốt ve...

1.3- Vấn đề về bầu không khí tâm lý

Đã từ lâu các nhà tâm lý học xã hội đã chú ý nghiên cứu vấn đề về nhóm nhỏ, các đặc

thù thuộc nhóm, những công trình nghiên cứu và trong thực tế cuộc sống đã có nhắc tới bầu

không khí tâm lý. Bản thân khái niệm bầu không khí tâm lý tâm lý thực sự chƣa đƣợc nghiên

cứu đầy đủ và khoa học. Chính vì vậy sau nhiều năm khái niệm này có rất nhiều ý nghĩa khác

nhau. Các nhà tâm lý học và mọi ngƣời thƣờng sử dung thuật ngữ này với nội hàm của chúng

cũng rất khác nhau.

Từ những năm 20-30 của thế kỷ XX Macarencô đa nghiên cứu mối quan hệ, kiểu và

vai trò của tập thể. Ông nghiên cứu các thành viên họ khi đang sống trong tập thể sẽ phụ

thuộc nhau nhƣ thế nào? Mỗi một nhân cách riêng lẻ cần phải phối hợp những mong muốn

của riêng mình với mong muốn của những ngƣời khác. Thứ nhất: vì tập thể có tính thống

nhất, những mong muốn đầu tiên của tập thể của những ngƣời trong nhóm cần phải đƣợc

phối hợp, để các mục đích riêng lẻ trở thành các mong nuốn đƣợc chia sẻ trong mối quan hệ

với mục đích chung của nhóm. Các mục đích chung của nhóm cần phải đƣợc xác định thành

các mục đích riêng. Vì vậy những dấu hiệu chung, đặc trƣng cho tập thể, đó là:

- Sự hài hòa mối quan hệ và mục đích các nhân và mục đích tập thể.

- Các quan hệ phụ thuộc nhau một cách có trách nhiệm, giữa các thành viên trong

nhóm khi họ tham gia vào các công việc.

27

- Sẵn sàng hành động mang lại lợi ích và hứng thú với tâm trạng phấn khích và sảng

khoái.

- Tâm trạng đặc biệt của nhân cách trong tƣ tƣởng, tinh thần vững vàng (khỏe mạnh),

có khả năng tự thực hiện các công việc.

- Khả năng bảo vệ che chở cho nhóm.

- Khả năng ức chế về hành vi tâm lý và hành vi tay chân.

- Tin tƣởng vào tƣơng lai.

Khi Macarencô đƣa ra những tiêu chuẩn của tập thể, ông mong muốn dựa vào đó để

xác định kiểu làm việc của các nhân cách trong tập thể, và thực tế cho phép biết đƣợc những

đặc trƣng của tập thể bằng những đặc điểm tâm lý xã hội, những đặc điểm tâm lý xã hội này

sẽ hình thành bầu không khí tâm lý của nhân cách. Các quan điểm về lý thuyết của Macarenô

đƣợc ông phát triển chủ yếu nghiên cứu tập thể học sinh.

Vào những năm 50 - 60 của thế kỷ XX có làn sóng nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm

của bầu không khí tâm lý xã hội, mặc dù thuật ngữ này chƣa tìm ra. Ví dụ: E.B. Xopoxoba,

U.C. Maixurov, K.K. Palatonov đã từng nghiên cứu nội hàm bầu không khí tâm lý.

Đối với triết học Mác-xít U.C. Maixurov là ngƣời đầu tiên đã đƣa ra thuật ngữ bầu

không khí tâm lý. Ông đã chú ý tới hiệu quả của công việc phụ thuộc vào bầu không khí tâm

lý. Ngƣời tiếp theo nghiên cứu khái niệm bầu không khí tâm lý là B.M.Sepel. Theo ông bầu

không khí tâm lý là lớp sơn cảm xúc của các mối liên kết tâm lý của con ngƣời trong tập thể,

nó xuất hiện dựa trên cơ sở gần gũi nhau, thiện cảm, sự giống nhau về tính cách, sở thích,

ham mê. Theo ông bầu không khí sản xuất của các mối quan hệ ngƣời với ngƣời đƣợc hình

thành từ ba loại bầu không khí.

Bầu không khí thứ nhất: bầu không khí xã hội đƣợc biểu hiện trong việc ý thức,

những mục đích công việc, bảo đảm sự tuân thủ các quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời công

dân.

Bầu không khí thứ hai: đó là bầu không khí đạo đức, nó xác định đƣợc các định

hƣớng đạo đức trong tập thể và đƣợc mỗi thành viên chấp nhận.

Bầu không khí thứ ba: bầu không khí tâm lý đó là bầu không khí không chính thức

đƣợc hình thành các thành viên trong nhóm khi họ tiếp xúc với nhau. Đó là môi trƣờng

28

vi mô, đó là phạm vi tác động có ý nghĩa đối với từng ngƣời về đạo đức mang tính cục bộ

trong nhân cách.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX xuất hiện các công trình nghiên cứu của T.

Mozenob, M. Unozenuk. Trong các công trình này, các tác giả cho rằng bầu không khí tâm

lý cần phải đƣợc hiểu nhƣ là trạng thái tâm lý của cảm xúc đƣợc hình thành trong nhân cách.

Trong quá trình hoạt động cùng nhau có sự quan hệ lẫn nhau và nó đƣợc hình thành dựa trên

các mối quan hệ lẫn nhau khách quan và chủ quan giữa các thành viên trong nhân cách. Vấn

đề mối tƣơng quan của các điều kiện bên trong và bên ngoài sẽ qui định hành vi và vấn đề

điều khiển chức năng của ý thức và nó có ảnh hƣởng thực đến trọng tâm phần lớn các nghiên

cứu về bầu không khí tâm lý của nhân cách.

Khi phân tích các quan điểm về bầu không khí tâm lý của nhóm phần lớn các tác giả

đều cho rằng cần phải hiểu đúng các đặc điểm tâm lý xã hội của bầu không khí tâm lý. Theo

họ cần phải giải thích bốn câu hỏi sau:

- Bầu không khí tâm lý có bản chất nhƣ thế nào.

- Các dạng biểu hiện khác nhau của bầu không khí tâm lý.

- Cái gì hình thành bầu không khí tâm lý.

- Bầu không khí tâm lý tác động lên phạm vi nào trong hoạt động của nhân cách.

Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu hiện tƣợng bầu không khí tâm lý đều chú ý tới

những điểm mang tính bản chất của chúng.

- Họ đều cho rằng bầu không khí tâm lý xã hội - đó là trạng thái ý thức nhóm. Các

tác giả nhấn mạnh đây không phải là ý thức tƣ tƣởng mà là trạng thái thuộc khoảnh khắc cụ

thể của nhóm. Một trong những trạng thái tâm lý ý thức tƣ tƣởng - đó là một hệ thống tình

cảm, trạng thái ý kiến và tính giáo dục của nhóm tâm lý xã hội trội hơn, chúng đƣợc liên kết

với nhu cầu, hứng thú của nhóm.

Các tác giả khác nhau đều xem bầu không khí tâm lý nhƣ là sự phản ánh tập hợp các

hiện tƣợng liên quan tới sự tác động lẫn nhau của mọi ngƣời. Nó phản ánh điều kiện lao

động đang kích thích các mối quan hệ lẫn nhau của con ngƣời trong quá trình hoạt động và

nó phản ánh trong tâm trạng, trạng thái cảm xúc nhiều hơn là phản ánh trong các dạng hợp lý

khác.

29

Platonov đã định nghĩa bầu không khí tâm lý nhƣ sau: đó là sự tác động lẫn nhau

giữa môi trƣờng xã hội và vật lý và với nhân cách, sự tác động lẫn nhau này đƣợc phản ánh

trong ý thức của nhóm. Nhƣ vậy bầu không khí tâm lý đối với mỗi một thành viên trong

nhóm, đó là hiện thực khách quan mà nó phản ánh vào trong nhóm. Sự phản ánh bầu không

khí tâm lý từ thấp và cùng lúc sự phản ánh chủ quan của hiện thức khách quan đối với các

thành viên trong nhóm.

- Rất nhiều công trình nghiên cứu đã xem những đặc điểm bản chất của bầu không

khí tâm lý nhƣ là bầu không khí tâm lý cảm xúc tâm lý cơ động dựa trên cơ sở một số trạng

thái tâm lý cảm xúc này đƣợc xuất hiện nhƣ là kết quả của các mối quan hệ cảm xúc của con

ngƣời đối với thành viên trong nhóm và đối với tập thể nói chung. Sự mong muốn phản ánh

liên kết bầu không khí tâm lý cảm xúc trên cơ sở mối quan hệ tâm lý giữa các thành viên con

ngƣời và với nhóm.

- Một số các tác giả xem bầu không khí tâm lý nhƣ là trạng thái tâm lý của nhóm. Nó

xác định mối quan hệ liên nhân cách của những ngƣời cùng sống với nhau và họ nhấn mạnh

bầu không khí tâm lý là những trạng thái cơ bản của nhóm, nó là sự phản ánh các mức độ

cảm xúc của nhóm về sự hài lòng chung của nhóm đƣợc biểu hiện bằng thông số kết quả

hoạt động lao động, học tập trong hoạt động sống và bởi mức độ tâm lý tác động lẫn nhau

giữa các nhóm, sự tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau trong nhóm.

Trong một loạt các định nghĩa đã cho thấy bầu không khí tâm lý - là môi trƣờng đƣợc

hình thành giữa con ngƣời với con ngƣời đang trực tiếp tiếp xúc với nhau. Môi trƣờng này có

thể là thuận lợi hay không thuận lợi, có thể tôn trọng lẫn nhau hay không tôn trọng lẫn nhau

vv... Đó là tính chất của các mối quan hệ đƣợc hình thành giữa các thành viên của nhóm

trong gia đình, hoạt động cùng nhau và nó có ƣu thế hơn một cách tƣơng đối. về bầu không

khí tâm lý tâm lý bền vững của nhóm đƣợc xuất hiện trong nhóm và nó sẽ đƣợc kết thành

nhƣ là một kiểu và nhƣ là lối, phong cách, cách thức quan hệ giữa con ngƣời và con ngƣời

với công việc.

Một nhóm tác giả cho rằng bầu không khí tâm lý - đó là bầu không khí tâm lý xã hội

trong nhóm- đƣợc xem xét từ quan điểm tâm lý cùng nhau của các cá nhân trong thành phần

của một nhóm nhỏ không chính thức. Bầu không khí tâm lý tinh thần đƣợc hình thành trong

sự liên kết giữa các thành viên trong nhóm, bầu không khí tâm lý tinh

30

thần của một hệ thống những mối quan hệ thuộc nhóm và ngoài nhóm và mối quan hệ với

lãnh đạo nhóm và với các mối quan hệ xã hội khác của mọi trạng thái xác định này của các

mối quan hệ nhân cách đƣợc xác định tình trạng sức khỏe xã hội của mỗi thành viên trong

nhóm.

Một nhóm các tác giả khác xác định bầu không khí tâm lý nhƣ là trạng thái của

nhóm. Một số tác giả phân biệt trạng thái và cảm xúc của các thành viên, một số khác chú ý

mô tả tâm lý của các thành viên trong nhóm. Nó phản ánh tính chất tác động lẫn nhau giữa

con ngƣời với con ngƣời theo chiều dọc và chiều ngang. Phản ánh điều kiện lao động và

cách thức tổ chức. Một số tác giả đã nhấn mạnh một tập hợp các tính chất của các trạng thái

này, bao gồm các cảm xúc và các tác động của các mối quan hệ liên nhân cách.

Một nhóm các tác giả cho rằng bầu không khí tâm lý nhƣ là một tập hợp các điểm

tâm lý xã hội của từng thành viên trong nhóm. Trong những định nghĩa nhƣ vậy, các tính

chất khác nhau của bầu không khí tâm lý đã va chạm lẫn nhau. Các tập hợp mối quan hệ chủ

quan của các thành viên và hoạt động cùng nhau và các quan điểm chủ quan của các thành

viên tƣơng ứng với phƣơng thức hành vi của họ, đặc biệt trong việc tự giác giữa con ngƣời

với con ngƣời. Sự thử thách tình cảm nhau, đánh giá nhau về ý kiến, việc chuẩn bị thực lực,

các qui định chung và các hành vi của ngƣời xung quanh, đặc điểm của các mối quan hệ lẫn

nhau giữa các thành viên của nhóm, đang trong tình trạng giống nhau về học tập, về phục vụ

giữa ngƣời bị lãnh đạo và ngƣời lãnh đạo, về trạng thái của nhóm trong mối quan hệ với

công việc, quá trình hoạt động và cả với tổ chức của nhóm.

Một loạt công trình nghiên cứu đã đƣa ra quan điểm của họ về bầu không khí tâm lý -

đó là sự thống nhất về tƣ tƣởng, chính trị và đạo đức của các thành viên trong nhóm, đó là sự

đoàn kết, quan hệ lẫn nhau và những ý kiến chung v.v…

Những công trình nghiên cứu bầu không khí tâm lý đã coi nó nhƣ là mối quan hệ lẫn

nhau giữa con ngƣời trong nhóm. Đó là trạng thái quan hệ lẫn nhau thực tế, cảm thấy sự thiếu

thốn trong mối quan hệ lẫn nhau (quan hệ dọc và ngang). Khi xác định đƣợc bầu không khí

tâm lý không thuận lợi, tồn tại những nhân tố tình huống mâu thuẫn trong sự tác động lẫn

nhau giữa các thành viên trong nhóm, trong tập hợp các quan hệ

31

liên nhân cách về mối quan hệ của các thành viên với nhau của nhóm, về đặc điểm quan hệ

lẫn nhau giữa con ngƣời với con ngƣời, về các dạng liên kết với nhau và tác động lẫn nhau

của mọi ngƣời.

Một loạt các tác giả nhấn mạnh một số điểm của bầu không khí tâm lý nhƣ là mối

quan hệ với lao động của các thành viên trong nhóm khi thực hiện các công việc trong điều

kiện sống hoạt động cùng nhau trong sự thống nhất các giá trị xã hội khác nhau của bầu

không khí tâm lý nhóm thống nhất một kiểu chung của sự tác lẫn nhau trong nhóm và giá trị

xã hội của nhóm.

Kết luận: Phần lớn các nghiên cứu đều chú ý tới thuộc tính bản chất của bầu không

khí tâm lý và xem xét chúng nhƣ là trạng thái của ý thức nhóm hoặc nhƣ là trạng thái của

nhóm và của các thành viên trong nhóm, hoặc nhƣ là mối quan hệ lẫn nhau giữa các thành

viên trong nhóm hoặc nhƣ là tổng hợp các nghề của con ngƣời có tính thực tế của xã hội.

Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp này bầu không khí tâm lý đƣợc hiểu nhƣ là trạng thái ý

thức tƣ tƣởng, trong trƣờng hợp khác đƣợc hiểu nhƣ là trạng thái nhóm hay trạng thái của các

thành viên trong nhóm. Điều này dẫn đến sự phức tạp để có thể có đƣợc một định nghĩa

chung, mang tính thống nhất về bầu không khí tâm lí.

Phần lớn các nghiên cứu đều chú ý tới các dạng liên kết lẫn nhau giữa các thành viên

trong nhóm và giữa các nhóm chính thức và không chính thức, giữa các thành viên riêng lẻ,

giữa nhóm với các thành viên của nhóm, giữa các nhóm và nhu cầu, tình thế, động cơ, sự

mong đợi, định hƣớng giá trị, chuẩn mức đạo đức, hứng thú của nhóm của các thành viên

trong nhóm, trạng thái tâm lý xã hội, tình cảm, cách cƣ xử của nhóm, của các thành viên. Các

tập hợp về sinh lý xã hội, tâm lý xã hội của từng thành viên ƣơng nhóm. Sự thống nhất về

định hƣớng giá trị, xu hƣớng, niềm tin, tính ý thức, sự đoàn kết, tính kỷ luật, tính tích cực của

nhóm của các thành viên, các mối quan hệ của từng thành viên của nhóm đối với công việc

với điều kiện hoạt động, và đối với chính nhóm của mình.

- Một số tác giả đã xem xét sự thỏa mãn của các thành viên đối với mối quan hệ lẫn

nhau của các thành viên nhƣ là một dạng xuất hiện bầu không khí tâm lý (theo chiều dọc và

ngang) khác, chính từ các kênh truyền chính thức hay không chính thức

32

bởi các điều kiện chung của hành động, điều kiện của nhóm, trạng thái nhóm tâm lí ý kiến xã

hội về nhóm.

- Một số tác giả khác chú ý tới mối quan hệ của thành viên đối với việc thực hiện

công việc, với tài sản chung, với những kinh nghiệm mang tính tiên phong, với những ngƣời

tiến bộ, với nhóm và các chuẩn mực hành vi trong đó.

- Một số tác giả khác nữa đặt vấn đề rằng bầu không khí tâm lý đƣợc hình thành dƣới

ảnh hƣởng của tập hợp sự liên kết tâm lý xã hội về hình thức và tập hợp liên kết về công việc

và về nội dung trong điều kiện hoạt động cùng nhau của các thành viên trong nhóm và mối

quan hệ lẫn nhau giữa họ.

- Các tác giả khác nhau nhấn mạnh ảnh hƣởng sự tồn tại của tổ chức hoạt động của tổ

chức trả lƣơng nhằm kích thích đối với việc hình thành bầu không khí tâm lí. Các nhóm

nghiên cứu bầu không khí tâm lý trong các nhóm hoạt động lao động và các nhóm không lao

động đều xác định rằng bầu không khí tâm lý của các tổ chức nghiên cứu. Đó là những qui

chế phân biệt rõ ràng trong ngày với mức độ sự tự do của chính quyền (quan liêu hay sát thực

tế). Nó tỷ lệ với khối lƣợng sáng tạo đƣợc hình thành trone lao động, việc tiếp xúc trực tiếp

với hội đồng, hiệu quả của những phƣơng tiện đã lỗi thời, của tiếng ồn thông tin sự tác động

rõ ràng đối với thời gian biểu của các công vụ. Kể cả ở những yêu cầu nhƣ cung cấp vật chất

phục vụ kỹ thuật, quan hệ gia đình, sức khỏe, việc giải quyết các vấn đề quan trọng hàng

ngày.

- Nhiều tác giả đã nghiên cứu đã và đang cố gắng cấu trúc hóa sự tác động lên bầu

không khí tâm lí ở mức vĩ mô và vi mô. Khi nghiên cứu phát triển theo hƣớng này đã cho

thấy những phát hiện nội dung sự tác động vĩ mô có hiệu quả.

Cuối cùng có một số nhóm tác giả chú ý tới sự phát triển lĩnh vực hoạt động sống của

tƣ tƣởng lao động. Họ thƣờng nói tới ảnh hƣởng của bầu không khí tâm lý trong việc đạt

đƣợc hiệu quả cao về kinh tế, hiệu quả luân chuyển của lao động, của công việc, của lao

động và sáng tạo, số phận của các ý tƣởng bầu không khí tâm lý sẽ tạo điều kiện phát triển

các tƣ tƣởng định hƣớng nhằm thực hiện hiệu quả của việc tự giác các thông tin, thực hiện

các ý tƣởng đƣợc biểu hiện qua trạng thái tâm lý xã hội của nhóm, sự hài lòng về công việc,

về vị trí việc làm, sự tác động của nhóm lên nhân cách.

33

Nhƣ vậy, có rất nhiều cách tiếp cận với khái niệm bầu không khí tâm lý và thuật ngữ

để qui định đó là bầu không khí tâm lý đã chứng tỏ đây là vấn đề lớn và phức tạp về cấu trúc

và cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ, sáng tạo và phải xem xét tất cả các hiện tƣợng.

Theo chúng tôi, chúng ta cần phải phân biệt các vùng của bầu không khí tâm lý trong

nhóm. Đó là bầu không khí tâm lý đạo đức, tâm lý, cảm xúc. Nó có thể tồn tại riêng biệt độc

lập nhau trong một tổ hợp các bầu không khí tâm lý của nhóm.

Trong một loạt các trƣờng lớp, các nhà nghiên cứu đã sử dụng thuật ngữ bầu không

khí tâm lí trung tính và khám phá nội dung của nó về bản chất và chỉ nói về bầu không khí

tâm lý thuận lợi. Tuy nhiên khi xác định khái niệm cảm xúc trung lập sẽ dẫn đến việc sử

dụng thuật ngữ không có tính chất trọn vẹn và đầy đủ.

Trong khi đó, nhƣ định nghĩa bầu không khí tâm lý thuận lợi hay không thuận lợi,

dƣờng nhƣ là hợp lý khi sử dụng những thuật ngữ lớp sơn cảm xúc để đánh giá bầu không

khí tâm lý thì quan điểm của bầu không khí tâm lý tƣơng ứng hay không tƣơng ứng với mục

đích về những nhiệm vụ trƣớc nhóm nói chung.

Để tiếp tục nghiên cứ bầu không khí tâm lý cần phải có sự thống nhất liên tục bởi vì:

1. Phải phân tích sự liên kết lẫn nhau của các bầu không khí tâm lý với các ngành

khoa học tâm lý xã hội, xã hội học v. v...

2. Từ việc nghiên cứu ảnh hƣởng của hoạt động sản xuất cơ bản của nhóm, điều kiện

trạng thái bầu không khí tâm lý của nhóm.

3. Làm sáng tỏ vấn đề trong việc sử dụng trong thực tế ảnh hƣởng của bầu không

khí tâm lí nhóm.

Qua phần phân tích trên, chúng ta có thể dựa vào các tiêu chí sau để đánh giá bầu

không khí thuận lợi hay không thuận lợi hay không thuận lợi của tập thể sinh viên, là một tập

thể tƣơng đối đơn giản so với các tập thể lao động khác, đó là tập thể có nhiệm vụ học tập là

chính vì vậy tiêu chí để đo bầu không khí tâm lí của sinh viên sẽ đơn giản hơn.

34

a- Yếu tố trạng thái cảm xúc khi ở trong nhóm. Đó là trạng thái dễ chịu hay khó chịu

khi ở trong nhóm, không những vậy, sự xuất hiện của bản thân sẽ tạo ra cảm xúc nhƣ thế nào

cho các thành viên khác trong nhóm.

b- Yếu tố mong muốn đƣợc tiếp xúc, gặp gỡ, giao tiếp với nhau trong nhóm. Mong

muốn có nhiều cơ hội giao lƣu với nhau cũng là một tiêu chí để đánh giá tình trạng bầu

không khí tâm lí trong nhóm. Nếu bầu không khí tâm lí nặng nề khi ở trong nhóm vì công

việc, không một ai lại mong muốn gặp những ngƣời trong nhóm đã tạo ra bầu không khí tiêu

cực.

c- Sự hiểu biết các thành viên trong nhóm cũng là một tiêu chí để đánh giá. Do có

tâm trạng thoải mái khi gặp gỡ nhau vì vậy họ thƣờng xuyên mong muốn giao tiếp, cùng

tham gia hoạt động với nhau. Chính vì có cơ hội tiếp xúc với nhau nhiều trong các hoạt động

nên các phẩm chất tâm lí cá nhân của mỗi con ngƣời đƣợc bộc lộ rõ giúp họ có sự hiểu biết

các phẩm chất tâm lí của nhau.

35

CHƢƠNG II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU

2.1- Kiểu nhân cách sinh viên sư phạm

2.1.1- Kiểu nhân cách sinh viên sư phạm nói chung

Nhìn vào bảng [1] chúng ta nhận thấy kiểu nhân cách sinh viên Đại học Sƣ phạm nổi

trội hơn cả trong các kiểu nhân cách đó là kiểu "siêu tôi" cao với điểm trung bình 9.1346. Với

số điểm nhƣ vậy, các em sinh viên sƣ phạm là những em có đặc điểm sau: là ngƣời có lƣơng

tâm, bản chất tốt của con ngƣời vẫn đọng lại ở các em, nhờ đƣợc xã hội hóa trong môi trƣờng

gia đình và môi trƣờng Đại học Sƣ phạm. Vì vậy các em là những ngƣời tƣơng đối có trách

nhiệm và biết tuân theo những chuẩn mực đạo đức xã hội, những chuẩn mực này đƣợc lĩnh

hội trong trƣờng phổ thông và đƣợc thể nghiệm trong môi trƣờng sƣ phạm với những phong

cách, lối sống mô phạm cần phải có để chuẩn bị cho nghề thầy giáo tƣơng lai. Là giáo viên

tƣơng lai - phẩm chất lƣơng tâm và tinh thần trtách nhiệm là những phẩm chất không thể

thiếu đƣợc trong nghề thầy giáo. Ngoài ra các em còn tạo đƣợc niềm tin ở mọi ngƣời. Thực

vậy, các thầy cô giáo muốn thành công trong công tác dạy học và giáo dục, họ phải đƣợc học

sinh tin yêu, nếu thiếu nó chúng ta không thể và không bao giờ trở thành ngƣời thầy tốt theo

đúng nghĩa. Đã có câu nói "mất niềm tin là mất tất cả". Ngoài ra các sinh viên Đại học Sƣ

phạm còn có phẩm chất nghiêm khắc về mặt tình cảm. Mặc dù xã hội hôm nay làm cho con

ngƣời tự do hơn, buông thả hơn về mặt tình cảm, thậm chí trong giới sinh viên đã có "lối

sống thử", "hôn nhân thử", thậm chí sa đọa tới mức có những "hợp đồng hôn nhân" làm băng

hoại truyền thống đạo đức của ngƣời Việt Nam. Tuy nhiên phẩm chất tốt đẹp về mặt tình cảm

lại rất nổi trội đối với sinh viên sƣ phạm. Các môn học đặc trƣng cho nghề sƣ phạm nhằm

hình thành ở các em thế giới quan về mối quan hệ thầy giáo nhƣ môn giáo dục học, tâm lí học

ở năm thứ I và năm thứ II đã góp phần không nhỏ giúp các em có đƣợc kiểu nhân cách "siêu

tôi" tốt nổi trội với số điểm trung bình rất cao.

36

Bảng số 1: Thứ bậc kiểu nhân cách sinh viên sư phạm

Số TT Kiểu nhân cách Điểm trung bình Xếp hạng

I- Kém nhạy cảm – Nhạy cảm F- Lo lắng - Vô tƣ

1 G- Siêu tôi thấp - Siêu tôi cao 2 Q3- Ý kiến riêng thấp - Ý kiến riêng cao 3 A- Hƣớng nội - Hƣớng ngoại 4 O- Tự tin - Lo âu 5 Q l - Bảo thủ - Cấp tiến 6 Q4- Mức độ căng thẳng "thấp - cao" 7 M- Thực tế - Lý tƣởng hóa 8 9 10 H- Không cƣơng quyết - Can đảm 11 C- Cái tôi yếu - Cái tôi mạnh 12 L- Cả tin - Hay nghi ngờ 13 Q2- Phụ thuộc nhóm - Độc lập 14 N- Đơn giản - sắc sảo l5 B-Trí tuệ thấp - Trí tuệ cao 16 E- Phục tùng - Thích quyền lực 9.1349 7.8326 7.6790 7.1860 6.7488 6.4512 6.3302 6.3084 6.1535 6.0791 5.8499 5.1589 5.1179 5.0698 4.5538 4.5187 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16

Kiểu nhân cách có thứ bậc 2 trong bảng xếp hạng (xem bảng số 1) của sinh viên sƣ

phạm, đó là yếu tố Q3: " ý kiến riêng thấp- ý kiến riêng cao" với điểm trung bình là 7.836

nó thể hiện các em có phẩm chất ý chí tƣơng đối cao, các em đã có khả năng vạch ra kế

hoạch hành động cho bản thân và cố gắng thực hiện kế hoạch đến cùng. Để làm đƣợc điều

này cần phải nỗ lực ý chí cao. Trong thực tế cuộc sống, có những ngƣời kế hoạch đề ra rất

tốt, hợp lý nhƣng lại không có khả năng thực hiện do ở họ đã thiếu một phẩm chất quan trọng

là sự nỗ lực ý chí để vƣợt qua các trở ngại bên trong cũng nhƣ bên ngoài. Khi vƣợt qua đƣợc

các rào cản, những kế hoạch đề ra mới đƣợc thực hiện. Với số điểm trung bình 7.836 cho

thấy các em cần tiếp tục rèn luyện phẩm chất này của nhân cách thƣờng xuyên hơn nữa. Để

làm tốt điều này, bản thân các em và các giáo viên bộ môn cùng phối hợp giúp các em xây

dựng kế hoạch học tập, thực tập, thực tế vv... thật chi tiết cho từng tháng, từng tuần. Các giáo

viên bộ môn ngoài việc yêu cầu lập kế hoạch cũng nên kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch

hành động của các em, nhỡ vậy các phẩm chất quan trọng của ý chí mới đƣợc hoàn thiện

hơn.

Ngoài các phẩm chất trên, với kiểu nhân cách " kiểu có chính kiến - thiếu chính kiến"

các em sinh viên còn có một phẩm chất quan trọng khác, đó là trong mọi vấn đề dù đúng hay

sai, các em đã có khả năng lập luận và đƣa ra ý kiến của riêng mình, không

37

dựa vào kết luận của ngƣời khác, không a dua theo ngƣời khác. Đây là một phẩm chất rất

quan trọng vì nó giúp con ngƣời không bị lệ thuộc, lƣời suy nghĩ thụ động, thiếu đi sức sáng

tạo trong công việc. Trong cuộc sống cũng rất cần phẩm chất này để tránh hiện tƣợng "gió

chiều nào che chiều đó". Với loại ngƣời này, họ sẽ kìm hãm sự phát triển của nhóm và của cả

xã hội, đó là loại ngƣời không dám đấu tranh, yếu đuối, lệ thuộc, thực chất là con ngƣời ích

kỷ, tham sống sợ chết. Mặc dù các em có quan điểm riêng của mình, nhƣng cần biết điều

chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trƣờng xung quanh chứ không phải là loại ngƣời "ngựa

non háu đá". Chính các giáo viên dạy môn nghiệp vụ sƣ phạm, tâm lí giáo dục và các thầy cô

các bộ môn, trong từng tiết học cần chỉ dẫn những điều này cho sinh viên. Về bản chất đây là

phẩm chất giúp con ngƣời tự hoàn thiện, biết cân bằng về mặt tâm lí và có khả năng thích

nghi cao với môi trƣờng xã hội. Để hoàn thiện phẩm chất này, các em còn phải nỗ lực nhiều

bằng cách mở rộng môi trƣờng giao tiếp, quan sát học hỏi trong cuộc sống để ngày càng có

khả năng thích nghi với môi trƣờng xã hội luôn biến động. Để có thể thích nghi với xã hội

luôn biến đổi một việc khó bởi vì nếu không cẩn thận các em sẽ sang đánh mất chính mình

và chuyển sang một trạng thái khác, đó là "hòa tan" vào xã hội bất kể môi trƣờng xã hội đó

nhƣ thế nào và một khi đã hòa tan nhƣ vậy con ngƣời không còn cá tính, nhân cách trở nên

bị lu mờ, không thể thúc đẩy xã hội phát triển mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Một nét nhân cách nữa của sinh viên sƣ phạm khi có kiểu nhân cách Q3 nổi trội, đó là

manh nha khả năng chỉ huy. Là thầy giáo tƣơng lai và sẽ là giáo viên chủ nhiệm đứng trƣớc

lớp, ngƣời thầy giáo giống nhƣ một nhạc trƣởng, điều khiển các học sinh trong lớp sao cho

mỗi một cá nhân và cùng cả tập thể đều có sự phát triển hài hòa. Trong khi đó mỗi một em

học sinh là một cá tính khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau, mâu thuẫn nhau, nhƣng dƣới sự

chỉ huy khéo léo của ngƣời thầy các em trở nên hài hòa hơn, các tính cách khác nhau lại bổ

sung cho nhau sẽ tạo nên một tập thể vững mạnh. Khi đó lớp học ấm cúng hơn, bầu không

khí tâm lý của lớp thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách của học sinh.

Kiểu nhân cách nổi trội tiếp theo đối với sinh viên năm thứ hai đó là yếu tố A, đó là

kiểu nhân cách " hƣớng nội- hƣớng ngoại". Nhìn vào bảng số 1 nhận thấy sinh viên có điểm

trung bình là 7.679, với số điểm nhƣ vậy có thể nhận xét nhƣ sau: đây là loại ngƣời

38

ƣa giao tiếp rộng rãi. Đó là những con ngƣời sôi nổi, nhiệt tình và thƣờng đi đầu trong các

phong trào của Đoàn của lớp, khoa, trƣờng, là những ngƣời đầy nhiệt huyết đặc biệt nếu gặp

môi trƣờng thuận lợi, nó sẽ giúp các em có thể tự do hơn trong việc mở rộng mối quan hệ

với mọi ngƣời, các em cảm thấy nhƣ mở ra một chân trời mới đối với mình. Trong một

chừng mực nhất định, môi trƣờng sinh viên tự do hơn so với môi trƣờng phổ thông do

thƣờng bị cha mẹ kèm cặp chặt, đặc biệt là ở thành phố vì các bậc phụ huynh sợ con em bị

hƣ.

Trong giao tiếp các em thể hiện sự thân mật, gần gũi, vô tƣ, hiền lành. Điều này dễ

hiểu, cuộc sống của sinh viên có thể thiếu tiền bạc nhƣng giàu về mặt tinh thần, sự va chạm

xã hội chƣa nhiều, các em có vị thế tƣơng đối nhƣ nhau trong nhóm- có tính bình đẳng tƣơng

đối, chƣa có sự cạnh tranh mãnh liệt trong thăng tiến nghề nghiệp sẽ giúp các em vô tƣ hơn

trong quan hệ với ngƣời xung quanh và có tính nhân hậu, nhiệt tình với công việc, biết giúp

đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên vì còn trẻ nên các em có tính cẩu thả. Đối với sinh viên sƣ phạm, các

em có tinh thần hợp tác cao, không vụ lợi, tính toán nhiều trong giao tiếp. Tuy nhiên các vẫn

bị chi phối bởi ngƣời khác, hay nói một cách khác là còn thiếu bản lĩnh và dễ bị những ngƣời

từng trải ám thị khi tƣơng tác với họ. Phẩm chất kiên định phải đƣợc rèn luyện theo năm

tháng của cuộc đời, không thể ngày một, ngày hai. Để hình thành những phẩm chất trên, cần

tạo môi trƣờng cho các em thử thách kèm theo sự hƣớng dẫn của thầy cô giáo, ngƣời thân,

thậm chí của bạn bè. Nếu không kiên trì rèn luyện khi gặp phải môi trƣờng không thuận lợi

hay do bị cú sốc nào đó trong cuộc đời, tính kiên định đang hình thành chƣa ổn định sẽ bị

biến mất.

Phẩm chất nhân hậu cũng là một trong những phẩm chất thể hiện tƣơng đối rõ ở các

em sinh viên sƣ phạm. Đây là phẩm chất quan trọng và cần thiết đối với con ngƣời xã hội

chủ nghĩa nói chung và đối với sinh viên sƣ phạm nói riêng. Phẩm chất này là một trong

những cốt lõi đạo đức để tránh sự bị tha hóa trong cuộc sống đầy biến động sau này. Ngoài

ra các em còn là những ngƣời tƣơng đối vui vẻ, nhƣng các em có đôi chút cẩu thả, thiếu cẩn

thận trong cuộc sống và trong công việc.

Kiểu nhân cách có thứ hạng cao tiếp theo là yếu tố o, đó là kiểu "tự tin - lo âu" với số

điểm trung bình 7.186. Với số điểm này các em sinh viên sƣ phạm có biểu hiện tính cách lo

âu, hay băn khoăn trong các công việc và có cảm giác không tin vào bản

39

thân khi tiến hành các công việc. Thực sự tính tự tin khó giáo dục và phải có biện pháp thích

hợp với từng đối tƣợng. Để làm đƣợc điều này, chúng ta nên giao những công việc vừa sức

cho sinh viên, không yêu cầu quá cao so với khả năng của các em và cũng không quá thấp.

Nếu yêu cầu quá cao so với khả năng sẽ dẫn tới việc không thể vƣợt qua đƣợc trở ngại khó

khăn, sẽ thất bại trong công việc, từ đó sẽ dẫn đến hình thành tính tự ti. Nếu giáo viên biết

giao cho các em những bài tập, những công việc mang tính vừa sức và hƣớng dẫn các em các

biện pháp vƣợt qua các trở ngại, có vậy các em mới có thể hoàn thành tốt công việc, trên cơ

sở đó hình thành tính tự tin trong các em.

Sinh viên sƣ phạm còn có đặc điểm hay lo lắng băn khoăn, đó là một dạng cảm xúc

xuất hiện dựa trên tính không tự tin kèm theo tính ý thức trách nhiệm. Chỉ ngƣời nào có tinh

thần trách nhiệm mới có cảm giác lo lắng đối với công việc và trong trƣờng hợp ngƣợc lại,

con ngƣời sẽ có cảm giác thờ ơ lãnh đạm, hình thành tâm thế xã hội thế nào cũng xong. Điều

này sẽ dẫn tới việc hình thành kiểu ngƣời đƣợc chăng hay chớ, vô tƣ, thiếu trách nhiệm đối

với công việc. Một đặc điểm nữa của sinh viên sƣ phạm, đó là hay tự ái, dễ làm theo cảm

tính. Nó thể hiện một kiểu nhân cách chƣa đƣợc hoàn thiện và vẫn mang một phong cách của

những đứa con trong gia đình đƣợc cha mẹ che chở, bao bọc, chƣa thể hiện rõ phẩm chất của

con ngƣời có cuộc sống độc lập. Môi trƣờng sinh viên thực sự là môi trƣờng có nhiều thử

thách để rèn luyện phẩm chất này. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự tích cực tham

gia của từng em trong các loại hình hoạt động khác nhau và cũng cần phải có sự nhận thức

của bản thân để hoàn thiện nhân cách. Mặc dù là đối tƣợng đang nhận sự giáo dục nhƣng với

lứa tuổi sinh viên, khả năng tự giáo dục là một phẩm chất cần phải có. Muốn tự giáo dục sinh

viên cần có khả năng nhận thức đƣợc vân đề nhờ sự giúp đỡ của giáo viên và bản thân phải

tự nhận thức bằng cách thƣờng xuyên giao tiếp với những ngƣời tốt xung quanh, nó là cơ sở

của khả năng tự đánh giá và để cải tạo tính tự ái, cũng cần lƣu ý rằng phẩm chất của ý chí

không thể thiếu đƣợc để rèn luyện các phẩm chất tâm lý của cá nhân.

Các em sinh viên sƣ phạm vẫn chƣa thật thích nghi với cuộc sống sinh viên nên có

cuộc sống tƣơng đối khép kín. Các đặc điểm này sẽ dần bị mất đi theo năm tháng của cuộc

đời nếu các em biết rèn luyện biết năng động thích nghi với môi trƣờng sinh viên đầy sự lãng

mạn, sinh động và nhiều thử thách mới lạ.

40

Yếu tố có thứ hạng thứ 5, đó là kiểu "bảo thủ - cấp tiến" với số điểm trung bình

6.748, kết quả thể hiện các em đang đứng giữa ngã hai đƣờng. Nó thể hiện sự mâu thuẫn

giữa nét tính cách đƣợc hình thành tƣơng đối ổn định từ môi trƣờng gia đình với một môi

trƣờng mới hơn, đầy năng động hơn của sinh viên, đó là sự đấu tranh giữa quan niệm mới

và" quan niệm cũ, sự nổi trội của kiểu bảo thủ hay kiểu cấp tiến còn phụ thuộc rất nhiều vào

bản thân của em đó, phụ thuộc vào sự năng động, sự nhận thức sức ỳ của tâm lý, sự rèn luyện

của bản thân, điều quan trọng là sự tự nhận thức để tạo ra sự hài hòa trong nhân cách sao cho

kiểu cấp tiến không làm mất đi những nét đẹp truyền thống của dân tộc. Bản sắc dân tộc

trong mỗi con ngƣời Việt Nam là điều hết sức cần thiết, nếu thiếu nó không còn là ngƣời

Việt Nam. Tuy nhiên những giá trị cũ của dân tộc có những cái lỗi thời, lạc hậu cần loại bỏ.

Một con ngƣời không biết hoàn thiện thay đổi bản thân, khƣ khƣ giữ lấy những giá trị đã lỗi

thời sẽ không có khả năng bắt kịp thời đại và khó có thể vƣơn mình lên sao cho phù hợp với

cuộc sống đầy biến động về sự phát triển kinh tế-xã hội.

Yếu tố có thứ hạng thứ 6 đó là yếu tố Q4. Đó là kiểu "mức độ căng thẳng nội tâm

thấp - mức độ căng thẳng nội tâm cao". Các em có điểm trung bình là 6.451 thể hiện sự

lƣỡng lự trong các quvết định, còn tính do dự. Kết quả cho thấy không hẳn các em là ngƣời

yếu đuối, chịu đựng và chậm chạp. Chính do môi trƣờng đại học với thời gian chƣa đủ để rèn

luyện sức chịu đựng của nội tâm ở mức độ cao, phù hợp với thời đại kinh tế tri thức. Kết quả

cũng cho thấy các em đang cố gắng để thích nghi, chững chạc hơn, vững vàng hơn, sự chịu

đựng về tâm lí bền bỉ hơn, tích cực hơn và mãnh mẽ hơn.

Kiểu nhân cách có thứ hạng tiếp theo (thứ bậc 7) đó là kiểu nhân cách "thực tế - lí

tƣởng hóa" với số điểm trung bình là 6,33, là điểm trung bình yếu trong thang điểm. Kết quả

cho thấy, nó thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp của môi trƣờng sống, học tập và sinh hoạt của sinh

viên sƣ phạm. Ở các em chƣa hình thành đƣợc tính ổn định về kiểu thực tế hay lý tƣởng hóa.

Đây là giai đoạn đầy khó khăn đối với các em bởi có lúc các em dựa vào hiện thực khách

quan, vững vàng trong việc đánh giá thực tế, lúc thì mơ mộnơ nhìn sự việc bằng con mắt

mầu hồng do chƣa va chạm nhiều với thực tế của cuộc sống. Vì vậy khi vỡ mộng thƣờng dễ

bị sốc, có lúc dễ dàng khâm phục, không cân

41

bằng, lúc lại bình thản cứng rắn, nhƣng biểu hiện này thể hiện sự chuyển tiếp của môi trƣờng

xã hội. Một số sinh viên đã thoát ly môi trƣờng gia đình, sự ảnh hƣởng của gia đình sẽ bị hạn

chế, tính cứng rắn sẽ phát triển tốt hơn. Ngƣợc lại có những em vẫn ở trong môi trƣờng gia

đình vì vậy các em sinh viên này có sự mâu thuẫn trong các thể hiện mình. Bởi vì các em

thƣờng nhìn đời qua ánh mắt mầu hồng, dƣới con mắt của cha me, các em sinh viên vẫn còn

trẻ ngƣời non dạ, chƣa đáng tin cậy. Điều này làm cho việc hoàn thiện nhân cách của các em

bị ảnh hƣởng.

Với kiểu nhân cách "kém nhạy cảm và nhạy cảm" (yếu tố I), sinh viên sƣ phạm có số

điểm trung bình là 6.301 thể hiện tính trung gian, kiểu nhân cách này chƣa đƣợc định hình rõ

ràng và ổn định. Lúc vững vàng bản lĩnh, lúc thay đổi, hời hợt thiếu nhất quán trong hành

động, dễ bị dao động. Tính vững vàng rất cần thiết để ngƣời thầy sau này giáo dục học sinh.

Nếu là ngƣời có nhiều kinh nghiệm nhờ va chạm nhiều trong cuộc sống xã hội sẽ là ngƣời

luôn hành động thực tế và logic. Là lứa tuổi tràn đầy sức sống, các em sinh viên sƣ phạm đầy

nhiệt huyết, không chú ý tới sức khỏe của bản thân, đó là đặc trƣng chung của lứa tuổi thanh

niên.

Yếu tố có thứ hạng thứ 9, đó là kiểu "lo lắng - vô tƣ" với số điểm trung bình 6.748, là

mức điểm trung gian nó cũng thể hiện sự hình thành kiểu nhân cách này chƣa rõ ràng, còn

đang ở dạng trung tính lúc thế này, lúc thế kia, biểu hiện lúc im lặng, lúc lại nói nhiều, lúc ân

cần với mọi ngƣời, lúc lại vô tƣ quá đáng.

Trong công việc có lúc các em cẩn thận tới mức chậm chạp vì thiếu tự tin do chƣa

đƣợc thử sức mình trong cuộc sống nên rất thận trọng, nhƣng vì đã và đang sống trong môi

trƣờng sinh viên - môi trƣờng khác hẳn với môi trƣờng gia đình, môi trƣờng sôi động, năng

động, hoạt náo, thân thiện. Nhờ môi trƣờng sƣ phạm luôn trong sáng, ít có sự bon chen, nó

khó bộc lộ trong môi trƣờng sƣ phạm, điều này làm các em nhiều lúc tỏ ra sôi nổi, thoải mái.

v.v.

Yếu tố có thứ hạng thứ 10 đó là yếu tố H. Đó là kiểu "không cƣơng quyết - can đảm",

với số điểm trung bình 6.079 là số điểm biểu hiện tính không xác định, chƣa hình thành rõ nét

kiểu nhân cách này. Phẩm chất này phụ thuộc nhiều vào môi trƣờng sống những em ra đời

sớm có cuộc sống tự lập sớm sẽ có tính tháo vát can đảm hơn so với những em sống trong

vòng tay gia đình. Với tính cách ngƣợng ngùng, các em ít khi

42

đƣợc giao tiếp với bạn bè, thƣờng sống khép kín. Kiểu lƣỡng cực nhƣ vậy rất khó để ứng xử

cho phù hợp và khó trong cách dự đoán hành vi của họ trong các tình huống khác nhau. Để

rèn luyện đƣợc (kiểu can đảm) với tính kiên định nhƣng giàu tình cảm giàu lòng nhân ái, cần

phải đƣợc rèn luyện không chỉ trong môi trƣờng gia đình mà còn trong môi trƣờng xã hội đa

dạng và phong phú.

Kiểu nhân cách có thứ hạng tiếp theo là yếu tố c, đó là kiểu " cái tôi yếu-cái tôi

mạnh" với số điểm trung bình 5.8149. Kiểu nhân cách này đối với sinh viên sƣ phạm thể

hiện rõ cái tôi yếu, đƣợc biểu hiện bởi cảm xúc không bền vững dễ bị tình cảm chi phối, là

loại ngƣời hay thay đổi, khi phiền muộn thƣờng mất cân bằng về tinh thần. Nguyên nhân do

tuổi còn trẻ chƣa qua nhiều kinh nghiệm, tính cách bồng bột, nhiều nhiệt huyết, tràn đầy sức

sống nên ở các em có xu hƣớng hay tham gia tranh luận. Các em có tính lo lắng về các mối

quan hệ do thiếu vốn sống, chƣa từng trải, các hứng thú của các em nhìn chung không bền

vững, tính dễ nhân nhƣợng, thiếu tính kiên định. Phải chăng trong môi trƣờng sinh viên các

em vẫn đƣợc chăm lo "đầy đủ" chƣa phải bƣơn chải nhiều nên chƣa thể rèn luyên để hình

thành "cái tôi" mạnh mẽ hơn, bình thản hơn, tình cảm bền vững hơn.

Với kiểu nhân cách "cả tin-hay-nghi ngờ" (yếu tố L), với điểm trung bình 5.158

thể hiện nhân cách yếu đuối, dễ buông trôi, là loại ngƣời vô tƣ, không nghi kỵ, dễ quên khó

khăn, có cảm giác mình là ngƣời vô duyên, làm việc gì cũng khó thành công, ít đƣợc ngƣời

lớn tín nhiệm. Vì là ngƣời nhƣ vậy nên ở các em sinh viên có ƣu điểm dễ tha thứ cho ngƣời

khác, biết thông cảm chịu đựng. Do bản thân chƣa thành đạt, không vƣợt trội nên là ngƣời dễ

tính và cũng dễ nhân nhƣợng trong mọi công việc.

Kiểu nhân cách có thứ hạng tiếp theo (thứ bậc 13) đó là kiểu nhân cách "phụ thuộc

nhóm - độc lập". Với điểm trung bình 5.119, kết quả cho thấy các em sinh viên quá phụ

thuộc vào nhóm, thiếu chính kiến, sự hiểu biết xã hội ít và thƣờng xuyên cần sự giúp đỡ của

ngƣời khác. Điều này thể hiện tính tự lập của các em còn yếu, sống thụ động thiếu nhiều

phẩm chất tâm lí cần thiết để sau này trở thành một ngƣời bản lãnh, độc lập. Là các thầy cô

giáo tƣơng lai, đa số thời gian phải đứng trƣớc học sinh với biết bao tình huống sƣ phạm cần

phải độc lập xử lý. Ngƣời thầy cần phải có bản lĩnh để có thể giải quyết nhanh, khéo léo các

tình huống sƣ phạm phức tạp.

43

Với điểm trung bình 5.06, kiểu nhân cách có thứ hạng tiếp theo là yếu tố N đó là kiểu

"đơn giản-sắc sảo" với số điểm trung bình thấp, các em sinh viên đã thể hiện sự thẳng thắn

bộc trực, tự nhiên. Tuy nhiên khả năng giao tiếp kém nên thiếu sự tế nhị dẫn đến việc thiếu

khéo léo trong giao tiếp, là loại ngƣời ƣa giao tiếp rộng rãi và dễ biểu lộ tình cảm, óc thẩm

mỹ của các em chỉ ở mức độ trung bình. Chƣa có khả năng phân tích các nguyên nhân của

các sự kiện vì kinh nghiệm và vốn sống còn quá ít. Đối với các em những gì đang có là đƣợc

và bằng lòng với nó (với nghề thầy giáo). Chính vì vậy nhu cầu vƣơn lên để thành đạt thể

hiện không cao, là loại nsƣời muốn bình yên không thích bon chen, là loại ngƣời dễ tin ngƣời

một cách mù quáng. Sự biểu hiện này cho thấy các em còn va chạm quá ít trong cuộc sống dễ

bị những biểu hiện bên đánh lừa.

Về mặt trí tuệ các em chƣa thể hiện ở mức độ cao và chƣa có khả năng tập ĩầung tƣ

tƣởng cao.

Kiểu có điểm số trung bình thấp nhất, đó là kiểu "phục tùng- thích quyền lực". Với số

điểm trung bình 4.518, các em sinh viên sƣ phạm nhình chung là loại ngƣời ngoan ngoãn, dễ

bảo, dịu dàng, hay giúp đỡ ngƣời khác, là loại ngƣời nhã nhặn, rất phù hợp với nghề thầy

giáo, là loại ngƣời khiêm tốn và là ngƣời hay bối rối trƣớc lãnh đạo, biết phục tùng ngƣời

khác, nhƣng trong ngƣời các em có một chút kiêu hãnh ngoại giao, khách sáo, chƣa sự chân

thành. Tuy nhiên trong giao tiếp các em sê biêu lộ tình cảm thực, chƣa có khả năng che dấu

tình cảm của mình.

2.1.2- Sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa các nhóm sinh viên sư phạm

Bảng số 2: Sự khác nhau giữa kiểu nhân cách sinh viên theo giới

Kiểm nghiệm

Tiêu chí

F

p

2.1.2.1- Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa nam và nữ sinh viên

1

A: Hƣớng nội - Hƣớng ngoại

12.681

0.000

2

C: Cái tôi yếu - Cái tôi mạnh

3.670

0.058

3

G: Siêu tôi thấp - Siêu tôi cao

6.600

0.011

4

H: Không cƣơng quyết - Can đảm

5.727

0.017

Số thứ tự

44

Nhìn vào bảng số 2 chúng ta nhận thấy yếu tố A "hƣớng nội-hƣớng ngoại” điểm

trung bình của nam thấp hơn so với điểm trung bình của nữ. Sự thấp hơn này là có ý nghĩa

(F= 12.681; P = 0.000). Kết quả này cho thấy các em nam sinh viên sƣ phạm thể hiện hƣớng

nội hơn các em nữ, vì vậy trong nhân cách của mình các em nam biểu hiện tính kiên định

hơn, vững chắc hơn, khó lay chuyển hơn trong công việc cũng nhƣ trong cuộc sống, đồng

thời thể hiện tính lạnh lùng, đôi khi thô bạo. Tính kiên định là một phẩm chất cần thiết của

các em nam sinh viên. Nhân cách con ngƣời là một thể thống nhất, thƣờng sự kiên định

cũng đi kèm theo sự "lạnh", thẳng hay nói một cách khác nó mang nặng yếu tố lý tính nhiều

hơn. Trong cuộc sống, cái lý thƣờng phải đi kèm theo với tình. Nhƣ vậy nam sinh viên sƣ

phạm cần phải đạt đƣợc sự hoàn thiện nhân cách đó là bổ sung sự mềm dẻo và linh hoạt, nó

cần phải đƣợc rèn luyện theo năm tháng trong môi ƣƣờng sƣ phạm. Hy vọng rằng, khi trở

thành những ngƣời thấy giáo trong tƣơng lai các em sẽ mềm dẻo hơn trong cung cách ứng

xử, xử lý các tình huống trong công việc và trong cuộc sống.

Một đặc điểm nổi trội ở các em nam sinh viên sƣ phạm đó là tính ƣa phê phán. Đó là

sự biểu hiện của tính mạnh dạn, trung thực của nam sinh viên Đại học Sƣ phạm. Nhƣng kèm

theo nó các em lại có tính bảo thủ, khăng khăng bảo vệ ý kiến của riêng mình. Do còn trẻ,

tính "hiếu thắng" nên các em nam sinh viên thể hiện phẩm chất nhƣ vậy. Nhƣ đã biết khi

xem xét nhân cách, ta không thể xem xét chúng một cách riêng lẻ mà xét chúng trong mối

quan hệ với những nét khác. Chính vì vậy khi kết hợp nét tính cách này với nét tính cách

khác có thể hình thành nên một kiểu nhân cách xấu, nhƣng khi kết hợp với nét tính cách

khác nữa có thể lại hình thành nên một nhân cách tốt. Nếu tính phê phán biết kết hợp với tính

mềm dẻo trong việc biết tiếp thu góp ý của những ngƣời xung quanh một cách thấu tình đạt

lý, điều này sẽ rất tốt cho các em do kiểu nhân cách nhƣ vậy rất phù hợp với nghề thầy giáo.

Một nét khác nổi bật của các em nam sinh viên Đại học sƣ phạm đó là các em dễ nóng

giận khó tính hơn so với các em nữ sinh viên. Đây cũng là đặc điểm riêng, đặc trƣng của giới

tính. Đƣợc kế thừa từ một nền văn hóa phƣơng đông, ngƣời nam Việt Nam thƣờng gia

trƣởng hơn nhiều dù có đƣợc xã hội hóa ở những môi trƣờng khác sau này tính cách mang

tính truyền thống vẫn rõ nét. Sự khó tính, gia trƣởng, cáu kỉnh ở

45

phái nam rõ hơn so với phái nữ tại Việt Nam cũng là một nét đặc trƣng của tính cách dân tộc.

Xét về nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm, nét nổi trội hơn so với nam sinh viên đó là tính

cách hiền lành, vô tƣ. Nét tính cách này rất đặc trƣng cho giới nữ, đặc biệt là phụ nữ Việt

Nam. Ngoài ra, nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm còn có tính cách giàu lòng nhân hậu, tính cả

tin, dễ bị chi phối. Tính dễ bị chi phối là kết quả của một con ngƣời thiếu kiên định, thiếu

phẩm chất của ý chí, nhƣng đây là một nét đác trƣng của truyền thống phụ nữ Việt Nam. Nét

tính cách này không còn phù hợp với thời đại công nghiệp hóa đất nuớc. Bất cứ nét tính cách

nào cũng vậy, trong quá trình biểu thị thái độ trong hiện thực khách quan cũng phải cần có sự

điều chỉnh cần thiết và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, môi trƣờng sẽ phát huy hết tác dụng

của chúng. Nếu chúng ta không có khả năng điều chỉnh thì mặc dù nó có thể tốt trong trƣờng

hợp này nhƣng nó sẽ bị phản tác dụng khi ở hoàn cảnh khác. Theo năm tháng, các em nữ

sinh viên Đại học Sƣ phạm sẽ rèn luyện tiếp theo các phẩm chất của nhân cách, hoàn thiện

chúng trong môi trƣờng sƣ phạm, với tƣ cách là ngƣời giáo viên chứ không phải là tƣ cách

ngƣời sinh viên sƣ phạm. Một phẩm chất nổi trội của nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm so với

các em nam sinh viên, đó là tính nhiệt tình, vui vẻ và dịu dàng. Đây là đặc điểm thể hiện giới

tính. Trong nghề sƣ phạm nên có sự cân bằng giữa nam và nữ, không nên cho rằng nghề sƣ

phạm chỉ dành cho phái yếu. Hơn nữa, trong giáo dục có phần giáo dục giới tính, giới của

giáo viên cũng góp phần ảnh hƣởng tới giới của học sinh trong quá trình giáo dục. Học sinh

của chúng ta trong nhà trƣờng bao gồm cả các em nam và nữ, nếu trong trƣờng sƣ phạm đa

phần là nữ, thậm chí trong trƣờng tiểu học và mầm non toàn là nữ sẽ dẫn đến việc nữ tính

hóa trong quá tình giáo dục. Giới nam và nữ sẽ có những nét tính cách bổ sung, hỗ trợ cho

nhau trong quá trình dạy và giáo dục học sinh.

Đối với nam sinh viên, từ bảng kết quả nghiên cứu [bảng 2 ] chúng ta thấy có sự khác

biệt giữa nam sinh viên và nữ sinh viên về kiểu nhân cách "cái tôi mạnh- cái tôi yếu" sự khác

biệt này có ý nghĩa (F = 3.670; p = 0.050) cho phép ta thấy tính cách của nam sinh viên Đại

học Sƣ phạm mạnh mẽ, có tính quyết đoán và là loại ngƣời nghiêm khắc về mặt tình cảm.

Các em đã tƣơng đối chững chạc, có lƣơng tâm, có trách nhiệm, biết tuân theo những chuẩn

mực của đạo đức xã hội. Kết quả nghiên cứu cho phép kết

46

luận nam sinh viên Đại học Sƣ phạm có những phẩm chất ý chí phát triển ở mức độ cao, điều

này đã giúp các em hình thành một số phẩm chất cần thiết. Các phẩm chất tâm lý có đƣợc

hoàn thiện hay không phụ thuộc vào ý chí của con ngƣời, một con ngƣời hoàn thiện về nhân

cách của mình là con ngƣời có ý chí cao, thiếu ý chí con ngƣời sẽ tỏ ra bạc nhƣợc, mặc dù có

thể là những con ngƣời đã nhận thức đƣợc vấn đề tốt xấu nhƣng không vƣợt qua đƣợc những

trở ngại khó khăn phấn đấu để nhân cách càng hoàn thiện hơn. Nhân cách con ngƣời đƣợc

biểu hiện thông qua hành động và hoạt động chứ không phải thông qua lời nói. Với một xã

hội ngày càng yêu cầu cao về các phẩm chất tƣơng ứng với từng ngành, từng nghề, phẩm

chất ý chí không thể thiếu đƣợc để rèn luyện bản thân đáp ứng yêu cầu của công việc.

Kiểu nhân cách nổi trội tiếp theo của nam sinh viên Đại học Sƣ phạm đó là kiểu "siêu

tôi thấp- siêu tôi cao". Các em nam sinh viên có đƣợc lòng tin của mọi ngƣời, biết giữ lời

hứa, có sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Đây là phẩm chất rất cần thiết cho nghề sƣ

phạm, vì muốn dạy và giáo dục học sinh ngƣời thầy phải đƣợc các em tin yêu và mến phục,

nếu mất niềm tin sẽ mất tất cả. Ngoài ra, để ngƣời khác tin cậy cũng cần có sự vững chãi

chắc chắn trong công việc trong cuộc sống để mọi ngƣời có cơ sở đặt niềm tin vào mình và

cần phải thƣờng xuyên hoàn thành tốt công việc đƣợc giao. Chúng ta chỉ tin vào những

ngƣời luôn hoàn thành công việc đƣợc giao chứ không thể tin và không dám tin vào những

ngƣời làm đâu hỏng đó. Để có thể có đƣợc lòng tin đối với ngƣời khác, ngoài khả năng của

bản thân giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, còn đòi hỏi lƣơng tâm và trách nhiệm. Thực sự

đây là những phẩm chất quan trọng của con ngƣơi trong thời đại mới.

Kiểu nhân cách nổi trội cuối cùng của nam sinh viên Đại học Sƣ phạm, đó là "không

cƣơng quyết- can đảm", ( F = 5.727; p = 0.017) nam sinh viên biết tuân theo những phẩm

chất đạo đức. Là những thầy giáo tƣơng lai các em biết rèn luyện mình để sau này trở thành

ngƣời thầy giáo theo đúng nghĩa của nó. Mặc dù trong thời buổi kinh tế thị trƣờng hiện nay,

đạo đức đang bị xuống cấp nghiêm trọng nhƣng các em vẫn giữ đƣợc mình, khônh những

vậy còn tự rèn luyên bản thân tốt hơn để tránh khỏi bị sa ngã.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng các em nam sinh viên sƣ phạm có sự nổi trội

hơn về phẩm chất ý chí. Đây cũng là phẩm chất đặc trƣng cho nam so với nữ giới. Đối

47

với sinh viên nữ Đại học Sƣ phạm có điểm số thấp hơn (có ý nghĩa) so với nam sinh viên

Đại học Sƣ phạm. Điều này cho thấy phẩm chất ý chí của các bạn nữ sinh viên thấp hơn đã

kéo theo các phẩm chất khác của các em cũng thấp theo vì để có đƣợc những phẩm chất nhƣ

các bạn nam sinh viên, các bạn nữ sinh viên phải có sự nỗ lực ý chí hơn nữa.

Nam sinh viên tháo vát, nhanh nhẹn, dũng cảm hơn nữ sinh viên. Tuy nhiên ở các em

nam lại có nhƣợc điểm là kém tính nhạy cảm. Trong khí đó các bạn nữ sinh viên Đại học sƣ

phạm lại có đặc điểm ngƣợng ngùng, e lệ và thiếu cƣơng quyết. Các em thƣờng dè dặt hơn,

lo sợ hơn và thận trọng hơn trƣớc khi quyết định làm một điều gì đó. Sự khác biệt rõ nét giữa

nam và nữ (khác biệt mang tính trái ngƣợc nhau) trong một chừng mực nào đó lại bù trừ cho

nhau trong công việc. Ví dụ tháo vát dũng cảm là cần thiết nhƣng đôi lúc lại tỏ ra hơi liều

mạng và thiếu thận trọng nhƣ vậy phải có loại ngƣời thứ hai dè dặt, thận trọng bù đắp lại

những thiếu sót. Nếu cả hai giới sinh viên biết phối hợp nhịp nhàng trong công việc, tận

dụng thế mạnh của mỗi bên sẽ giúp các em dễ dàng thành công trong công việc vì các em để

có một môi trƣờng làm việc chung, đó là trƣờng học với đàn học sinh thân yêu.

Nhận xét: Sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa nam và nữ sinh viên rất đặc trƣng cho

giới tính.

2.1.2.2- So sánh sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa năm thứ II và III

Nhìn vào bảng số 3 ta nhận thấy kiểu nhân cách "vô tƣ - lo lắng" có sự khác biệt có ý

nghĩa giữa sinh viên năm II và sinh viên năm III (F= 5.020; R= 0.026). Kết quả nghiên cứu

cho thấy, các em sinh viên năm thứ hai vô tƣ hơn, sôi nổi, thoải mái và ƣa các hoạt động có

tính hoạt náo hơn, tình cảm bộc lộ rõ ràng. Tại thời điểm nghiên cứu các em sinh viên đang ở

giai đoạn học kỳ I năm thứ hai, nên chất vô tƣ vẫn còn đọng trong con ngƣời các em. Sinh

viên năm thứ hai vẫn còn mang những nét của học sinh phổ thông, còn vô tƣ trong trắng,

thuộc loại ngƣời chỉ biết học chứ chƣa biết lo, mọi cái đang còn ở phía trƣớc ngƣợc lại, với

sinh viên năm thứ ba các em đã có chiều sâu nên trầm tĩnh hơn, suy tƣ hơn, nhiều lo toan hơn

vì chẳng bao lâu nữa các em sẽ ra trƣờng, cuộc sống tự lập sẽ bắt đầu. Làm sao có thể xin

việc, liệu công việc có đúng ngành nghề mà bản thân đã đƣợc học trong trƣờng hay không?

Các em sinh viên năm thứ ba có nhiều trăn

48

trở hơn với con đƣờng sự nghiệp rộng mở trƣớc mắt nhƣng cũng không ít những khó khăn

trở ngại lớn đang chờ đợi các em ở phía trƣớc. Liệu sự nỗ lực hết sức của bản thân có giúp

các em vƣợt qua đƣợc những rào cản mang tính cơ chế của xã hội hay không? Đó là sự trăn

trở của sinh viên năm thứ ba. Các em sinh viên năm thứ ba dƣờng nhƣ nghiêm túc hơn, ít nói

hơn, thận trọng hơn, thể hiện sự chín chắn chững chạc của sinh viên không bao lâu nữa sẽ

vào đời, sẽ là những thầy cô giáo tƣơng lai của học sinh bậc trung học. Các em sinh viên năm

thứ ba thể hiện tính ân cần hơn các em sinh viên năm thứ hai trong khi các em năm thứ hai

Bảng số 3: Sự khác biệt kiểu nhân cách của sinh viên

vô tƣ hơn.

Kiểm nghiệm Số thứ tự Tiêu chí

1 2 Lo lắng - Vô t ƣ Siêu tôi thấp - Siêu tôi cao F 28.833 21.028 P 0.000 0.000

Trên cơ sở phân tích yếu tố G, kiểu "siêu tôi thấp- siêu tôi cao", kết quả nghiên cứu

cho thấy sinh viên năm thứ ba có cái siêu tôi cao hơn. Tính cách mạnh biểu hiện ở họ sự tận

tụy, kiên trì. Đa số các em thi vào ngành sƣ phạm do truyền thống gia đình và do hoàn cảnh

khó khăn, nên sau một thời gian ổn định các em bắt đầu tìm việc làm, thƣờng là việc dạy

kèm. Để làm nghề gia sƣ (dạy và giáo dục), các em sinh viên cần phải có sự tận tâm, kiên trì.

Dạy kèm nhiều khi bỏ công sức của mình nhƣng vẫn phải rơi nƣớc mắt vì có những gia chủ

đã coi trọng đồng tiền mà không coi trọng nhân cách con ngƣời. Vì lý do đó sinh viên năm

thứ ba thể hiện sự già dặn hơn sinh viên năm thứ hai, các em chững chạc hơn, chắc chắn hơn

trong công việc và trong cuộc sống đã có tính trách nhiệm hơn, đã biết dùng ý chí để điều

chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Nói cách khác các em đã hoàn

thiện hơn kiểu nhân cách so với các em sinh viên năm thứ hai. Đây là điều rất tốt, tuy nhiên

lẽ ra phải có sự khác biệt nhiều thông số hơn nữa nhƣng kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có

sự khác biệt hai kiểu nhân cách. Nhƣ vậy, sinh viên năm thứ III Đại học Sƣ phạm cần phải

rèn luyện nhiều hơn nữa để có sự nổi trội những nét tính cách phù hợp với yêu cầu xã hội

ngày nay.

49

2.1.2.3- Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa các khối về kiểu nhân cách

Từ kết quả nghiên cứu trong bảng số 4 ta thấy yếu tố A với kiểu nhân cách " hƣớng

nội- hƣớng ngoại" có sự khác biệt ý nghĩa giữa khối xã hội, ngoại ngữ và tự nhiên.

Kết quả nghiên cứu cho thấy khối xã hội và khối ngoại ngữ có sự khác biệt ý nghĩa

(MD = 0.85; P = 0.004). Nhƣ vậy các em sinh viên khối xã hội tỏ ra hƣớng ngoại nhiều hơn,

rõ hơn, thích giao tiếp rộng rãi hơn và chú ý tới ngƣời khác so với sinh viên khối ngoại ngữ.

Ngoài ra các em khối xã hội có tính sẵn sàng hợp tác, dễ thích nghi nhƣng dễ bị chi phối hơn

Bảng số 4: Sự khác biệt giữa các khối về kiểu nhân cách

khối ngoại ngữ. Khối xã hội cũng thể hiện sự nhiệt tình hơn sinh viên khối ngoại ngữ.

J MD = I.J

Tiêu chí

Ngoại ngữ P 0.004 MD 0.85

I I Xã hội Xã hội Xã hội Ngoạingữ Ngoại ngữ

Tự nhiên P 0.021 0.020 0.034 0.001 0.001 0.008

Ngoại ngữ 0.000 Hƣớng nội - Hƣớng ngoại Phục tùng - Quyền lực Lo lắng - Vô tƣ Kém nhay cảm - Nhạy cảm Phụ thuộc nhóm - Độc lập Căng thẳng cao - Căng thẳng thấp Xã hội MD 0.671 -0.621 0.571 0.935 0.742 0.785 1.042

Giữa sinh viên khối xã hội và sinh viên các khối tự nhiên cũng có sự khác biệt ý nghĩa

(MD = 0.671; P = 0.021). Các em khối xã hội có kiểu nhân cách hƣớng ngoại nhiều hơn so

với sinh viên khối tự nhiên. Sinh viên khối tự nhiên không ƣa giao thiệp rộng, có vẻ hơi lạnh

lùng, xa cách, ƣa sự chính xác và khách quan, có một chút bảo thủ, thích lập luận và phê

phán. Nhƣ vậy, kết quả cho thấy tính chất của môn học phần nào cũng ảnh hƣởng đến kiểu

nhân cách của các em sinh viên. Bản thân môn học xã hội buộc các em sinh viên phải tìm

hiểu sự hiểu biết trong cuộc sống, đó cũng là một phần trong nội dung môn học để bổ xung

những kiến thức môn học. Điều này đã giúp các em rất nhiều trong việc mở rộng các mối

quan hệ để hiểu biết thêm về cuộc sống. Kiến thức xã hội là sự lập luận dựa trên nhiều góc

độ khác nhau của cuộc sống, nên một tình huống xã hội có rất nhiều đáp án khác nhau, điều

này giúp các em sinh viên khối xã

50

hội dễ linh hoạt hơn, dễ thích nghi hơn trong cuộc sống do nội dung môn học yêu cầu phải

hiểu biết nhiều kiến thức từ thực tế cuộc sống và cần phải có nhiều cách giải quyết vấn đề

khác nhau. Chính điều này đã giúp các em trở nên vui vẻ hơn, nhiệt tình hơn trong công việc

cũng nhƣ trong cuộc sống hàng ngày. Đối với các em sinh viên khối tự nhiên và ngoại ngữ,

do môn học yêu cầu tính chính xác cao, và chủ yếu từ kiến thức sách vở, không đòi hỏi nhiều

lắm kiến thức từ cuộc sống nên các em tỏ ra lạnh nhạt hơn, xa cách hơn. Trong mọi việc các

em thƣờng tỏ ra yêu cầu chính xác và khách quan.

Yếu tố thứ hai thể hiện sự khác biệt giữa sinh viên khối xã hội và khối tự nhiên là yếu

tố E, với kiểu nhân cách "phục tùng và quyền lực" Nhìn bảng 4 cho thấy (MD = -0.6214; P =

0.020). Kết quả cho thấy sinh viên khối tự nhiên thích quyền lực hơn, thể hiện kiểu tính cách

cứng rắn, kiên trì, bƣớng bỉnh. Đây là sự biểu hiện của phẩm chất ý chí và các phẩm chất này

là cần thiết cho sự hoàn thiện nhân cách, nhƣng nếu không biết tự điều chỉnh cho phù hợp

với từng tình huống sẽ không đạt hiệu quả. Ví dụ quá cứng rắn, quá nguyên tắc và rập khuôn

trong việc xử lý tình huống sẽ nhận đƣợc kết quả phản tác dụng. Kết quả nghiên cứu này có

đƣợc một phần do đặc điểm môn học và đặc điểm giới tính (sinh viên khối học tự nhiên có số

nam sinh viên nhiều hơn nữ sinh viên). Trong cuộc sống ngƣời ta vẫn thƣờng nói ngƣời

nghiên cứu khoa học tự nhiên thƣờng khô khan, lúc nào trƣớc mắt cũng chỉ những con số

cứng nhắc, họ là những ngƣời rất bản lĩnh trong công việc nhƣng lại là ngƣời giao tiếp kém,

thiếu sự uyển chuyển mềm dẻo trong cuộc sống đa dạng, muôn hình muôn vẻ. Trong khi đó

các sinh viên thuộc khối xã hội có kiểu nhân cách mềm mỏng hơn, ý chí kém hơn, đó là loại

ngƣời dễ bảo, dễ phục tùng và sự biểu lộ tình cảm của họ rất rõ ràng, nhờ vậy ta dễ đoán

đƣợc cảm xúc con ngƣời. Kết quả nghiên cứu thực sự cũng cho thấy kiểu nhân cách của hai

nhóm sinh viên khoa học tự nhiên và xã hội trái ngƣợc nhau. Sinh viên khoa học xã hội nhìn

chung mềm mỏng hơn trong tính cách thì sinh viên khối tự nhiên lại rất cứng rắn, thậm chí

rất hay gây sự (lý sự) trong mọi việc.

Yếu tố có sự khác biệt tiếp theo giữa sinh viên khối xã hội và khối tự nhiên là yếu tố

F, kiểu nhân cách "hay lo lắng- vô tƣ" (MD = 0.5714; P = 0.034). Một lần nữa ta thấy có sự

khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm thuộc lĩnh vực khối tự nhiên và khối xã

51

hội. Sinh viên khối xã hội có kiểu tính cách vô tƣ hơn, rất dễ hƣng phấn phấn khởi, là loại

ngƣời nói nhiều, kèm theo tính không cẩn thận, thậm chí đôi khi cẩu thả. Trong khi đó sinh

viên khối tự nhiên trái ngƣợc hẳn với sinh viên khối xã hội, rất hay lo lắng là loại ngƣời ít lời,

rất cẩn thận trong mọi việc và nhìn chung là những ngƣời nghiêm túc. Khi hỏi các em sinh

viên khối tự nhiên "có thích các hình thức sinh hoạt của sinh viên không?" các em đã trả lời

không thích, chẳng có gì hấp dẫn, nếu cần phải tham gia theo yêu cầu thì tham gia nhƣng

không có sự hứng thú. Các em nói rằng môn học tự nhiên khó, nhiều bài, theo kịp bài rất

mệt, rất căng, không còn thời gian sức lực để theo các phong trào. Phải chăng khối lƣợng

kiến thức sách vở quá nhiều của khoa học tự nhiên (do yêu cầu môn học) so với khoa học xã

hội đã làm các em sinh viên khối tự nhiên xuất hiện kiểu ngƣời hay lo lắng, thiếu thoải mái

và ngại giao tiếp.

Yếu tố có sự khác biệt tiếp theo là yếu tố I, thể hiện kiểu "nhạy cảm hay kém nhạy

cảm". Nhìn bảng 4, ta thấy khác biệt ý nghĩa giữa khối ngoại ngữ và tự nhiên (MD = 0.9357;

P = 0.001). Kết quả nghiên cứu cho thấy các em sinh viên khối ngoại ngữ nhạy cảm hơn, vị

tha, mẫn cán và phụ thuộc, quá cẩn thận, trong khi sinh viên khối tự nhiên kém nhạy cảm,

khô khan. Kết quả này phải chăng do các em sinh viên khối tự nhiên không ƣa giao tiếp. Tính

nhạy cảm là một phẩm chất tâm lý, không tự có mà phải đƣợc rèn luyện trong môi trƣờng

tƣơng ứng, đó là sự giao tiếp rộng rãi sẽ giúp mỗi con ngƣời nhạy cảm hơn với tâm tƣ

nguyện vọng của ngƣời khác đƣợc biểu hiện bằng những phƣơng tiện phi ngôn ngữ.

Yếu tố có sự khác nhau tiếp theo là yếu tố Q2, đó là kiểu nhân cách "phụ thuộc nhóm

- độc lập". Ta nhận thấy sự khác biệt giữa sinh viên khối ngoại ngữ và khối tự nhiên (MD =

0.7429; P = 0.010). Kết quả cho thấy sinh viên khối ngoại ngữ có tính độc lập tự chủ hơn,

ngƣợc lại sinh viên khối tự nhiên phụ thuộc vào nhóm nhiều hơn, ít có sự hiểu biết xã hội nên

các vấn đề về xã hội các em này thƣờng phải hƣớng tới sự giúp đỡ của nhóm, phụ thuộc vào

nhóm. Đây là loại ngƣời khó thích nghi với môi trƣờng xã hội có những con ngƣời phức tạp.

Kết quả này là hệ quả của những kết quả nghiên cứu đã phân tích ở trên.

Yếu tố có sự khác biệt cuối cùng giữa các nhóm sinh viên là yếu tố Q4, đó là mức độ

căng thẳng nội tâm. Kết quả nghiên cứu cho ta thấy cả sinh viên khối xã hội và khối

52

ngoại ngữ đều có sự khác biệt có ý nghĩa đối với sinh viên khối tự nhiên (MD = 0.7857; P =

0.008 và MD = 1.0429; P = 0.009). Nhƣ vậy, sinh viên khối tự nhiên chịu đƣợc sức ép nội

tâm cao hơn, bền bỉ hơn, tuy nhiên sinh viên, khối tự nhiên lại dễ cáu giận hơn. Có lẽ do áp

lực các môn học rất căng thẳng đã rèn các em sức chịu đựng của hệ thần kinh tốt hơn. Trong

năm học các em phải làm bài tập liên tục, rất nhiều môn học tự nhiên có tính kế thừa rất chặt

chẽ, hổng kiến thức một chút sẽ không thể theo kịp các bài sau. Với cƣờng độ cao và liên tục

nhƣ vậy các em sinh viên khối tự nhiên có khả năng chịu đựng sự căng thẳng tâm lý tốt hơn.

nhƣng khi có dịp các em cũng "xả" ngay sự căng thẳng tâm lý đó ra bên ngoài để giảm bớt

sự căng thẳng trong ngƣời. Trong khi đó sinh viên khối xã hội và khối ngoại ngữ thể hiện sự

căng thẳng nội tâm thấp. Các em điềm tĩnh hơn, thƣ thái hơn, vì vậy các em ít biểu lộ sự khó

chịu.

Nhận xét: Sinh viên khối xã hội là loại ngƣời hƣớng ngoại, trong khi đó sinh viên

khối tự nhiên là loại ngƣời ƣa quyền lực hơn khối xã hội. Sinh viên khối ngoại ngữ là loại

ngƣời có kiểu nhân cách nhạy cảm và độc lập hơn khối tự nhiên, ngƣợc lại sinh viên khối tự

nhiên lại là loại ngƣời chịu sự căng thẳng cao hơn hai khối còn lại.

2.2- Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sư phạm

2.2.1- Kiểu quan hệ liên nhân cách nói chung của sinh viên sư phạm

Nhìn vào bảng 5a, nhận thấy có tới 2/3 số sinh viên sƣ phạm có kiểu quan hệ liên

nhân cách quyền uy ở mức độ 1, mức độ này thể hiện quyền uy có thể chấp nhận đƣợc. Đó là

loại ngƣời khi quan hệ với ngƣời khác không cần thiết phải chứng tỏ quyền lực của mình và

cũng không cần phải chứng tỏ mình là thủ lĩnh, hơn ngƣời. Trong quan hệ xã hội, các em lại

thể hiện rõ tính tự ti đã tạo ra cảm giác khó chịu với đối tƣợng giao tiếp, thậm chí bị thƣơng

hại. Tuy nhiên cũng có gần 1/3 số lƣợng sinh viên trong mối quan hệ với ngƣời khác lại

mong muốn thể hiện kiểu ngƣời là một thủ lĩnh có uy tín bằng những phẩm chất thật và "ảo"

của bản thân. Những em này mong muốn mình là ngƣời thành công trong công việc với kiểu

hãnh tiến, muốn ngƣời khác phải sợ mình. Khi quan hệ trong nhóm luôn tỏ vẻ ta đây, thƣờng

đƣa ra lời khuyên với những ngƣời xung quanh và yêu cầu ngƣời khác phải kính trọng mình.

Kiểu quan hệ liên nhân cách nhƣ vậy là cần thiết nếu bản thân họ có phẩm chất hơn ngƣời,

biết thể hiện quyền uy đúng lúc, đúng chỗ. Họ sẽ là tuýp ngƣời lãnh đạo trong tƣơng lai. Tuy

nhiên, mỗi kiểu

53

quan hệ liên nhân cách đều có mặt phải, mặt trái của nó, nếu không nhận thức đúng và không

có khả năng điều chỉnh hành vi phù hợp với từng tình huống cụ thể nó sẽ trở thành kiểu quan

hệ liên nhân cách tiêu cực. Đó là loại ngƣời không có một tài năng đặc biệt, nhƣng rất thích

giƣơng oai, dễ trở thành ngƣời hãnh tiến, đứng trên mọi ngƣời với những phẩm chất giả tạo,

trong tâm lý học gọi là vị trí "ảo". Thật sự nguy hiểm khi loại ngƣời này "lên mặt dạy đời"

khi bản thân không có phẩm chất gì đáng kể đó là loại ngƣời luôn tìm cách kéo chân ngƣời

khác xuống nếu cảm thấy họ hơn mình. Chỉ với một tập thể rất đoàn kết, vững mạnh, bênh

vực lẽ phải, có khả năng đấu tranh quyết liệt với những sai trái và phải dùng dƣ luận tập thể

mới có thể giáo dục loại ngƣời "trong quan hệ với ngƣời khác luôn muốn hơn ngƣời". Loại

ngƣời này luôn kìm hãm sự phát triển của tập thể, làm cho tập thể yếu đi là sẽ làm xói mòn

lòng tin đạo đức của các thành viên khác trong tập thể. Nếu trong nhóm có 1/3 số ngƣời có

kiểu quan hệ liên nhân cách "bắt buộc mọi ngƣời thừa nhận phẩm chất ảo của mình" chúng ta

rất khó dự đoán tƣơng lai của tập thể đó. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy cần phải có ngƣời

lãnh đạo tốt, có tài, có đức mới phát huy sức mạnh của tập thể, tập hợp đƣợc mọi ngƣời, đấu

tranh không khoan nhƣợng với phẩm chất "ảo" để tập thể phát triển theo chiều hƣớng tích

cực

Bảng số 5a : Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sư phạm Kiểu quan hệ liên nhân cách

Số sinh viên Xếp hạng

Số thứ t ự

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Quyền uy mức độ 1 Quyền uy mức độ 2 Quyền uy mức độ 3 Ích kỷ mức độ 1 Ích kỷ mức độ 2 Ích kỷ mức độ 3 Gây hấn mức độ 1 Gây hấn mức độ 2 Gây hấn mức độ 3 Đa nghi mức độ 1 Đa nghi mức độ 2 Đa nghi mức độ 3 595 265 0 582 214 4 580 211 11 587 208 15 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3

Kiểu quan hệ liên nhân cách tiếp theo đó là kiểu ích kỷ. Số liệu cho thấy 2/3 số sinh

viên tham gia nghiên cứu có ở mức độ 1. Những em này có các biểu hiện ganh đua và định

hƣớng vào chính mình trong quan hệ với ngƣời khác. Trong thực tế mỗi ngƣời

54

chúng ta ai cũng có một nghĩ về bản thân ít nhiều trong quan hệ liên nhân cách điều này

không thể tránh khỏi. Nhƣng điều đó không có nghĩa là họ không bao giờ nghĩ về ngƣời

khác. Họ biết vì mọi ngƣời khi cần thiết, đó là những con ngƣời luôn hƣớng thiện có đức tính

hy sinh. Nhƣ vậy kiểu quan hệ liên nhân cách ích kỷ ở mức độ 1 có thể chấp nhận đƣợc trong

thời mở cửa. Trong nền kinh tế tế thị trƣờng, cần phải nghĩ cho riêng mình, nếu không sẽ bị

mọi ngƣời lợi dụng và khó tồn tại. Đây là khả năng thích nghi của sinh viên, nhìn chung kiểu

quan hệ nhƣ vậy không bị coi là xấu, thậm chí trong nhiều trƣờng hợp, quan hệ nhƣ vậy với

mọi ngƣời là cần thiết, điều quan trọng phải biết điều chỉnh cho phù hợp giữa lợi ích cá nhân

và lợi ích xã hội.

Thật đáng tiếc có 1/3 số sinh viên trong tổng số các em tham gia nghiên cứu mang lại

kết quả cho thấy rất ích kỷ trong quan hệ với ngƣời khác. Các em này mong muốn mình luôn

đứng trên ngƣời khác, cho rằng bản thân mình là nhất, sự hình thành "cái tôi" rất yếu, họ có

xu hƣớng đứng tách ra khỏi mọi ngƣời xung quanh, họ say mê chính họ. Đó là loại ngƣời ích

kỷ trong mọi công việc, trong giao tiếp với mọi ngƣời luôn thể hiện tính chủ nghĩa cá nhân,

chỉ nghĩ nhiều về mình, không những vậy họ còn thể hiện sự xa lạnh, kênh kiệu, khi gặp khó

khăn lập tức họ chuyển khó khăn đó cho ngƣời khác, đó là những ngƣời tự kiêu. Rất nguy

hiểm khi có tới 1/3 sinh viên tham gia nghiên cứu có kiểu quan hệ nhƣ vậy. Phải chăng môi

trƣờng xã hội đã làm cho các em thay đổi và đang định hình một kiểu quan hệ liên nhân cách

không tốt. Đặc biệt nghiêm trọng khi họ là những nhà giáo tƣơng lai, họ sẽ dạy đƣợc ai khi

bản thân họ có cung cách nhƣ vậy với mọi ngƣời khi vận hành các quan hệ xã hội. Các em

học sinh thân yêu với tâm hồn còn "trong trắng ngây thơ" sẽ nghĩ nhƣ thế nào, nếu sau này

họ đứng trên bục giảng, họ sẽ ảnh hƣởng tới sự hình thành nhân cách học sinh nhƣ thế nào?

Một kiểu quan hệ liên nhân cách nữa đó là kiểu "gây hấn". Kết quả nghiên cứu bảng

5a cho thấy 2/3 số sinh viên trong quan hệ với mọi ngƣời ở mức độ 1. Các em sinh viên này

thể hiện sự nhẫn nại, kiên nhẫn, tích cực trong giao tiếp. Kiểu quan hệ liên nhân cách nhƣ

vậy cần thiết đối với sinh viên sƣ phạm. Để có thể trở thành nhà sƣ phạm, sự nhân hậu, kiên

nhẫn, bình tĩnh đối với ngƣời khác là phẩm chất tâm lý cần thiết không thể thiếu đƣợc đối với

các em. Tuy nhiên trong tổng số em tham gia nghiên cứu có tới 1/3 số sinh viên có kiểu quan

hệ với ngƣời khác ở mức độ 2. Nó biểu hiện sự

55

thẳng tính, cởi mở, nghiêm khắc, mạnh mẽ trong giao tiếp và dễ dẫn tới sự mếch lòng đối

tƣợng giao tiếp, họ là ngƣời yêu cầu cao. Ở họ có nhƣợc điểm quá khắt khe khi đánh giá

những ngƣời xung quanh, không biết khoan nhƣợng, hay giễu cợt, mỉa mai và hay nổi nóng.

Với 1/3 số sinh viên có kiểu quan hệ liên nhân cách nhƣ vậy, ta thấy kiểu nhân cách này có

những ƣu, nhƣợc của nó. Nếu không ở vị trí là thầy cô giáo kiểu quan hệ liên nhân cách nhƣ

trên là chấp nhận đƣợc, đặc biệt trong vai trò đấu tranh với những mặt sai trái, tiêu cực của

xã hội thì kiểu quan hệ liên nhân cách này là cần thiết nếu không nói là phẩm chất quan

trọng, nhƣng là giáo viên tƣơng lai, trong quan hệ với học sinh, khi giáo dục, nhắc nhở các

khuyết điểm của các em lại nói bằng giọng mỉa mai hay giễu cợt thì đó là một tai họa cho

ngành giáo dục. Điều quan trọng, sinh viên sƣ phạm cần phải biết khéo léo điều chỉnh giọng

nói cho phù hợp với từng tình huống và từng đối tƣợng. Ví dụ, tính hài hƣớc trong phê bình

ngƣời khác là cần thiết nhƣng trong đấu tranh một mất một còn, tính hài hƣớc có khi phản

tác dụng. Việc đấu tranh với những cái sai trái, sự không khoan nhƣợng, khắt khe là tốt,

nhƣng với các em học sinh thể hiện sự chiến thắng, một ăn một thua với các em là điều

không nên, cần phải biết khoan dung độ lƣợng với các em, đôi khi phải biết tha thứ và trong

việc phê bình học sinh có thể pha một chút hài hƣớc để các em dễ tiếp thu khuyết điểm nhờ

vậy giáo dục đạt đƣợc hiệu quả cao. Biết khen chê kịp thời, đúng lúc và biết cách khen chê

sẽ tạo đƣợc mối quan hệ tốt là một nghệ thuật giao tiếp.

Cũng nhƣ các kiểu quan hệ liên nhân cách trên, số liệu nghiên cứu cho thấy khoảng

2/3 số sinh viên là khách thể nghiên cứu thể hiện đa nghi ở mức độ 1. Đó là những em biết

đặt niềm tin đúng chỗ. Cách biểu hiện của họ nhƣ sau: khi thấy điều gì không đúng, họ

thƣờng thẳng thắn phê phán không rào trƣớc đón sau. Nhƣng khi cần thiết họ có thể thận

trọng trong lời phê của mình. Cũng đáng tiếc khi có 1/3 tổng số sinh viên tham gia nghiên

cứu thể hiện sự đa nghi rất mạnh mẽ. Liệu đây có phải do yếu tố môi trƣờng xã hội đã quyết

định đến tính đa nghi trong quan hệ liên nhân cách. Những sinh viên ở miền quê yên tĩnh

thƣờng tin ngƣời trong các quan hệ, nhìn chung họ sống chân thật, hòa đồng, thật tình. Sau

một thời gian sống ở thành phố, nếu chẳng may các em thƣờng xuyên gặp phải những ngƣời

hay lợi dụng, đó chính là mảnh đất mầu mỡ cho tính đa nghi phát triển mạnh. Tính đa nghi

thƣờng biểu hiện trong môi trƣờng làm ăn

56

trong đó mối quan hệ thƣờng dựa vào tiền bạc. Tính đa nghi biểu hiện ở ngƣời thành phố

nhiều hơn, mức độ cao hơn so với ngƣời nông thôn. Do tính đa ở mức độ 2 nên các em sinh

viên này thƣờng sống khép kín, có tâm lí đề phòng, thƣờng lo ngại khi buộc phải vận hành

các mối quan hệ xã hội. Để cải thiện tình hình này, môi trƣờng tập thể tích cực có tác dụng

tốt hơn môi trƣờng vĩ mô. Các em sinh viên cần phải rèn luyện khả năng nhạy cảm với bạn

bè và đồng nghiệp để sáng suốt biết đặt niềm tin đúng chỗ. Nếu tính đa nghi có cơ hội phát

triển mạnh, sinh viên luôn có cảm giác sợ ngƣời khác lừa điều này sẽ kìm hãm sự phát triển

nhân cách toàn diện. Là giáo viên tƣơng lai sinh viên sƣ phạm cần phải tin tất cả học sinh cá

biệt đều có thể giáo dục đƣợc nếu chúng ta tận tâm và biết đặt niềm tin vào học sinh. Nhìn

chung, các em học sinh đều có lòng tự trọng (cho dù là học sinh cá biệt) đều không muốn

phụ lòng tin nơi thầy cô tin yêu mình vì vậy, họ sẽ cố gắng phấn đấu hoàn thiện bản thân

Bảng số 5b: Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sư phạm

hơn.

Số thứ tự Kiểu quan hệ liên nhân cách Số sinh viên Xếp hạng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Lệ thuộc mức độ 1 Lệ thuộc mức độ 2 Lệ thuộc mức độ 3 Phụ thuộc mức độ 1 Phụ thuộc mức độ 2 Phụ thuộc mức độ 3 Hòa thuận mức độ 1 Hòa thuận mức độ 2 Hòa thuận mức độ 3 Vị tha mức độ 1 Vị tha mức độ 2 Vị tha mức độ 3 560 228 22 472 348 80 162 572 166 304 368 138 1 2 3 1 2 3 1 2 3 1 2 3

Tiêu chí tiếp theo là sự lệ thuộc vào ngƣời khác trong mối quan hệ liên nhân cách. Kết

quả nghiên cứu cho thấy 3/4 số sinh viên có mức độ lệ thuộc ngƣời khác ở mức độ 1. Đó là

loại ngƣời biết đƣợc lúc nào phải lệ thuộc, lúc nào không. Nhƣ chúng ta đã biết, con ngƣời

luôn ở thế cân bằng là cách tốt nhất để tồn tại một cách đàng hoàng trong nhóm. Cần phải

biết điều chỉnh hành vi khi nào nên "lệ thuộc", lúc nào cần "độc lập". Sự lệ thuộc nhiều khi có

lợi cho nhóm nhƣng quá lệ thuộc vào nhóm con ngƣời sẽ trở thành rào cản cho sự phát triển

của tập thể. Những em này biểu hiện dịu dàng, chờ

57

đợi sự giúp đỡ và lời khuyên của ngƣời khác, tin rằng lời khuyên và sự đáp đỡ sẽ giúp ích rất

nhiều trong cuộc sống. Các em này có xu hƣớng khâm phục những ngƣời xung quanh và có

thái độ lễ độ đối với mọi ngƣời trong nhóm. Là sinh viên sƣ phạm việc ý thức là một ngƣời

giáo viên tƣơng lai đã giúp các em trong một chừng mực nào đó hình thành kiểu quan hệ liên

nhân cách nhƣ vậy. Điều này có tác dụng tốt đối với sinh viên nhƣng cần tiếp tục học cách

điều chỉnh bản thân để sao cho kiểu quan hệ liên nhân cách này mềm dẻo phù hợp với từng

tình huống cụ thể. Trong thực tế, nếu quá lệ thuộc vào ngƣời khác là điều không tốt. Ngƣời

giáo viên tƣơng lai cần phải có bản lĩnh, tính độc lập, tính quyết đoán của riêng mình chứ

không phải mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống chờ ngƣời khác giúp đỡ xử lý. Trong ứng xử sƣ

phạm, ngƣời giáo viên phải nhanh nhạy, khéo léo và dịu dàng, độc lập ứng xử nhanh các tình

huống sƣ phạm phức tạp và không thể chờ đợi sự giúp đỡ của tập thể giáo viên, đặc biệt

trong tình huống cấp bách.

Còn lại khoảng 1/4 số em sinh viên tham trong quan hệ liên nhân cách thể hiện lệ

thuộc mức độ 2. Đó là những con ngƣời rụt rè, yếu đuối, không biết biểu hiện sự phản kháng

của bản thân, là loại ngƣời ngoan ngoãn, dễ bảo, vâng lời, nhút nhát trong quan hệ liên nhân

cách. Đây là những em ít tham gia hoạt động xã hội, ít va chạm, sống khép kín, chỉ có môi

trƣờng mới có thể rèn luyện đƣợc những em này. Những em này có thể đƣợc mô tả nhƣ "gà

công nghiệp" hay "mọt sách", chỉ biết đến những kiến thức sách vở ít biết hoặc không hề biết

đến những kiến thức thực tế. Nhƣ chúng ta đã biết hai loại kiến thức này rất xa nhau, và

chúng bổ sung cho nhau. Những kiến thức thực tế thực sinh động, đa dạng, phong phú mà

bản thân mỗi ngƣời nhiều khi học đƣợc ngoài đời còn nhiều hơn trong sách vở vì cuộc sống

luôn biến động, phát triển không ngừng. Nó có nhiều dạng muôn hình muôn vẻ, nếu ai đó

không bắt kịp sẽ trở thành ngƣời lạc hậu so với thời đại.

Kết quả nghiên cứu cho thấy 1/2 số sinh viên tham gia nghiên cứu biểu hiện quan hệ

liên nhân cách phụ thuộc ở mức độ 1, những em này có những biểu hiện cụ thể nhƣ thƣờng

xuyên chờ đợi lời khuyên của ngƣời khác và có khuynh hƣớng thán phục những ngƣời xung

quanh nếu thấy ở họ có những phẩm chất đáng để học tập. Đó là những ngƣời có lợi cho

nhóm. Tuy nhiên cũng có gần 1/2 số em sinh viên lại quá phụ thuộc vào nhóm quá mức vì

vậy không biết phản kháng bảo vệ ý kiến của mình và phụ

58

thuộc vào ý kiến của ngƣời khác, thậm chí thƣờng chân thành cho rằng mọi ngƣời đều đúng.

Với kiểu quan hệ liên nhân cách hòa thuận chƣa tới 1/4 tổng số em tham gia nghiên

cứu có mức độ hòa thuận 1. Đó là những em luôn mong tạo ra một bầu không khí thuận lợi

dễ chịu trong nhóm, những em này có khuynh hƣớng đoàn kết, hợp tác mềm dẻo, biết

nhƣợng bộ khi giải quyết xung đột, các em là "ngƣời tốt giọng" trong mối quan hệ với ngƣời

khác. Rất nhiệt tình và chủ động để đạt đƣợc mục đích của nhóm là ngƣời đầm ấm, cởi mở,

đầm ấm, hữu nghị trong các mối quan hệ vì vậy là ngƣời có lợi cho nhóm.

Hơn 3/4 tổng số sinh viên có mức độ hòa thuận 2 và 3. Đó là loại ngƣời tốt với tất cả

mọi ngƣời không kể đến hoàn cảnh, lịch thiệp với tất cả. Kiểu quan hệ lên nhân cách nhƣ vậy

chƣa hẳn là đã tốt đặc biệt trong nhóm xuất hiện xung đột. Họ không muốn ai bị mếch lòng

dẫn đến việc làm mếch lòng tất cả mọi ngƣời, vì họ là ngƣời ba phải. Sinh viên sƣ phạm cần

phải điều chỉnh kiểu quan hệ liên nhân cách này, nếu không nó chính là nguyên nhân tạo ra

bầu không khí tiêu cực trong nhóm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng 1/4 tổng số sinh viên có lòng vị tha ở mức độ 1.

Đó là loại ngƣời có trách nhiệm trong mối quan hệ với ngƣời khác, nhân hậu, dịu dàng, biết

chăm sóc quan tâm tới ngƣời khác đây là kiểu ngƣời có lợi cho nhóm.

Tuy nhiên có tới hơn 3/4 số sinh viên có kiểu quan hệ liên nhân cách vị tha ở mức độ

2 và 3. Với loại ngƣời này có những biểu hiện sau: tích cực quá đáng trong các mối quan hệ,

sự việc tuy nhỏ nhƣng thƣờng lăn xả vào giúp đỡ và sẵn sàng nhận trách nhiệm về bản thân

mặc dù không thích hợp, đó là ngƣời mâu thuẫn vì vậy cản trở sự phát triển của nhóm. Tính

vị tha là một kiểu quan hệ nhân cách tốt nhƣng nó chỉ phù hợp một khi ta biết điều chỉnh bản

thân để tính vị tha đƣợc biểu hiện đúng lúc, đúng chỗ. Tính vị tha là cơ sở để xây dựng lòng

nhân ái, đó là một phẩm chất quan trọng của đạo đức và đây là đức tính rất cần đối với sinh

viên ngành sƣ phạm. Tuy nhiên nhƣ đã nói ở trên mọi cái đều có những giới hạn của nó. Nếu

chúng ta biết tha thứ đúng chỗ nó sẽ phát huy tác dụng cao của phẩm chất này, ngƣợc lại nếu

nó không đƣợc sử dụng đúng sẽ có hại cho chính bản thân mình mà còn có hại cho những

ngƣời đƣợc tha thứ. Trong công tác giảng

59

dạy, ngƣời thầy giáo cần phải kết hợp việc tha thứ với tính nghiêm khắc nhờ vậy mới làm

tròn chức năng của bản thân là vừa dạy vừa giáo dục. Giáo dục phải vừa thƣờng vừa nghiêm,

nếu chỉ thƣơng mà không nghiêm học sinh sẽ lờn mặt, ngƣợc lại nếu chỉ nghiêm khắc, khắt

khe quá mà không thƣơng thì biện pháp nghiêm khắc cũng không phát huy hiệu quả thậm chí

nhiều khi phản tác dụng.

Nhận xét: kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sƣ phạm có nhữnơ ƣu và nhƣợc

của nó, điều quan trọng các em cần phải tiếp tục rèn luyện sao cho cung cách ứnơ xử và thái

độ trong giao tiếp phải phù hợp trong nhóm với từng đối tƣợng và từng hoàn cảnh.

2.2.2- Sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách giữa các nhóm sinh viên

2.2.2.1- Sự khác biệt về kiểu quan hệ liên nhân cách giữa sinh viên nam và nữ

Bảng số 6: Sự khác biệt giữa nam và nữ sinh viên trong mối quan hệ liên nhân cách

Số

Kiểm nghiệm

Tiêu chí

thứ tự

F

P

1 2 3 4

Đa nghi Lệ thuộc Phụ thuộc Hậu thuẫn

10,219 7,584 5,944 4,235

0,001 0,006 0,015 0,040

Kiểu quan hệ đa nghi có sự khác biệt ý nghĩa giữa nam sinh viên và nữ sinh viên sƣ

phạm (F= 0.219; P = 0.001 ). Điểm số cho thấy nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm đa nghi hơn

nhiều so với nam sinh viên khi giao tiếp. Trong cuộc sống, tính đa nghi bản thân nó không

phải là tính xấu, nhƣng nó sẽ làm hỏng tất cả các mối quan hệ một khi ta nghi ngờ tất cả.

Nghi ngờ cần phải có cơ sở, đó là sự hiểu biết có đƣợc nhờ những kiến thức cơ bản và kinh

nghiệm sống cuộc sống đa dạng muôn hình muôn vẻ sôi động và đầy biến đổi. Ở mục trên ta

đã thấy tính nổi trội của nữ sinh viên sƣ phạm là tính rụt rè, nhút nhát, ngại vận hành các mối

quan hệ, vốn sống ít nên thƣờng có tâm lí đề phòng, đa nghi. Phƣơng châm của các em là thà

nghi ngờ sai hơn là bị lừa mà sự trả giá đôi khi rất đắt. Trong khi các em nam sinh viên biết

đặt niềm tin vào ngƣời khác và cũng biết phê phán các vấn đề quyết liệt nếu thấy không hợp

lí. Biết đƣợc điểm yếu của mình, các em nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm cần năng động hơn,

tham gia nhiều các loại hình hoạt

60

động hơn nhằm tăng vốn sống để có khả năng nhận biết các hiện tƣợng xã hội một cách

chính xác. Bởi vì khi nhận xét một sự kiện xã hội nào đó mỗi ngƣời chúng ta cần phải có

kinh nghiệm, khả năng phân tích tổng hợp một cách toàn diện, khoa học, nhờ vậy mới có

đƣợc cái nhìn đầy đủ, chính xác hơn về chúng, trên cơ sở đó có thể biết đƣợc lúc nào nên tin,

lúc nào không. Có vậy chúng ta có thể thành công trong cuộc sống nói chung và sự nghiệp

nói riêng.

Phẩm chất có sự khác biệt ý nghĩa tiếp theo là kiểu "lệ thuộc" (F = 7.584; P = 0.006).

Số điểm cho thấy nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm có khuynh hƣớng nhƣờng nhịn mọi ngƣời

hơi quá mức, hơi bị nhu nhƣợc và có khuynh hƣớng tìm sự mạnh mẽ của ngƣời khác làm

điểm tựa. Thật sự không tốt nếu các bạn nữ có nhƣợc điểm này trong cuộc sống cũng nhƣ

trong công việc. Nếu trong cuộc sống gia đình theo truyền thống gia đình Việt Nam xƣa kia,

ngƣời chồng thƣờng làm điểm tựa cho phụ nữ. Nhƣng vai trò của phụ nữ ngày nay đã khác

xƣa. Trong các hoạt động ngoài phạm vi gia đình, thậm chí trong gia đình, nữ sinh viên sƣ

phạm cần có phẩm chất độc lập hơn, tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào ngƣời khác, (sự lệ thuộc

thƣờng có cái giá của nó), cần phải đứng bằng chính đôi chân của mình, nếu không nó sẽ là

điểm yếu của nữ giới nếu những ngƣời xung quanh không cho ta dựa vào họ, khi đó sẽ bị trả

giá rất đắt.

Ngƣợc lại với nữ sinh viên, các em nam sinh viên Đại học Sƣ phạm có tính độc lập,

có chính kiến riêng của mình trong giao tiếp. Điều này thật cần thiết trong thời đại ngày nay

và chúng ta hiểu rằng tính độc lập không có nghĩa là khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình

mặc mọi ngƣời phân tích lý lẽ cho thấy lý lẽ của mình là không đúng và cũng biết cách từ bỏ

ý kiến của mình nếu thấy nó sai, không phản ánh đúng với thực tế.

Kiểu quan hệ liên nhân các có sự khác biệt ý nghĩa tiếp theo đó là kiểu "hòa thuận"

với (F = 4.235; P = 0.040), nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm có kiểu quan hệ liên nhân cách

hòa thuận hơn so với các nam sinh viên. Họ có xu hƣớng thích đoàn kết với nhau hơn, cởi

mở trong nhóm, đầm ấm, hữu nghị trong các mối quan hệ và hợp tác, trong giao tiếp. Kiểu

quan hệ này rất cần thiết cho cuộc sống cũng nhƣ cho công việc bất kể đó là công việc gì.

Đây là loại ngƣời rất cần cho các loại nhóm, tạo cho nhóm có sự đoàn kết, thúc đẩy nhóm

phát triển ở mức độ cao. Ngƣợc lại các em nam sinh viên có tính hòa thuận kém hơn, hay

tranh cãi hơn, hay lý sự hơn, và đặc biệt thƣờng tìm cách chứng tỏ

61

bản thân, vì vậy sự hòa thuận trong nhóm bị giảm sút. Các em nam sinh viên cần phải cân

bằng, điều chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trƣờng xung quanh.

Nhận xét: sự khác biệt trong kiểu quan hệ liên nhân cách rất đặc trƣng cho giới tính và

nó có thể bù trừ cho nhau nếu trong nhóm số lƣợng nam nữ tƣơng đƣơng. Tuy nhiên cả giới

nam và nữ cần phải điều chỉnh quan hệ liên nhân cách cho phù hợp với xã hội hiện đại.

2.2.2.2- Sự khác biệt kiểu quan hệ nhân cách giữa sinh viên năm II và năm III

Sinh viên Đại học Sƣ phạm năm thứ hai trong giao tiếp lại thể hiện quyền uy bản thân

rõ hơn so với sinh viên năm ba (F = 28.833; P = 0.000). Các sinh viên này thể hiện quyền lực

của mình bằng cách răn dạy ngƣời khác, chỉ bảo ngƣời khác và nhìn chung không tiếp nhận

lời khuyên của ngƣời khác. Sinh viên năm thứ hai trong quan hệ với mọi ngƣời thể hiện ta

đây. Có lẽ đây là kiểu kiểu trẻ con muốn "chứng tỏ mình là ngƣời lớn". Bản thân các em chƣa

có đầy đủ phẩm chất của một ngƣời đã trƣởng thành thực sự nên có những biểu hiện bên

ngoài để chứng tỏ mình đã lớn và có quyền lực nhất định. Là một ngƣời có uy tín thực sự chắc

chắn không cần chứng tỏ cho ngƣời khác biết quyền lực của mình. Ngƣợc lại các em sinh viên

năm thứ ba trong giao tiếp thƣờng yêu cầu ngƣời khác tôn trọng mình và không cần chứng

minh quyền của bản thân. Đây là sự thể hiện sự trƣởng thành về mặt xã hội của sinh viên năm

thứ ba, nghĩa là các em biết biểu hiện quan hệ liên nhân cách hợp lí, biết đƣa ra những lời

khuyên đúng lúc, đúng chỗ và đó cũng là thể hiện sự chín chắn của bản thân các em, đó chính

là quyền uy thực sự của mình. Điều này hoàn toàn khác sinh viên năm thứ hai một khi càng

chứng tỏ quyền lực của mình thì càng bất lực vì không đƣợc mọi ngƣời xung quanh thừa nhận

Bảng số 7: Sự khác biệt kiểu quan hệ nhân cách giữa sinh viên năm hai và năm ba

Kiểm nghiệm

Số thứ tự

Tiêu chí

Quyền uy Ích kỷ Gây hấn

F 28.833 21.028 15.352

p 0.000 0.000 0.000

1 2 3 4 5 6

Đa nghi Phu thuộc Hòa thuận

21.970 21.402 9.173

0.000 0.000 0.003

quyền uy này.

62

Với kiểu quan hệ liên nhân cách "ích kỷ" sinh viên năm thứ hai thể hiện rõ sự ích kỷ

hơn sinh viên năm thứ ba ở chỗ các em thƣờng nghĩ nhiều về chính mình và hay đẩy khó

khăn của mình sang những ngƣời khác. Sự khác biệt này là có ý nghĩa (F= 11.028; P =

0.000). Các em năm thứ hai có thái độ lạnh nhạt đối với những ngƣời xung quanh, những

ngƣời trong nhóm. Ngƣợc lại, các em sinh viên năm thứ ba thể hiện ở sự ganh đua với bạn

bè. Nhƣ vậy mức độ ích ích kỷ của con ngƣời trong quan hệ liên nhân cách đối với những

ngƣời xung quanh của các em sinh viên năm thứ ba đã có sự điều chỉnh tốt và phù hợp hơn

so với sinh viên năm thứ hai.

Với kiểu quan hệ liên nhân cách "gây hấn", có sự khác biệt ý nghĩa giữa sinh nên năm

II và sinh viên năm III với F = 15.352; P = 0.000 (bảng 7). Kiểu quan hệ liên nhân cách này

thƣờng tạo ra bầu không khí tâm lý căng thẳng trong mối quan hệ với những ngƣời xung

quanh.

Từ kết quả nghiên cứu chúng ta nhận thấy sinh viên năm thứ hai có kiểu nói rất "gây

hấn", nó biểu hiện trong cách nói cục cằn, sỗ sàng và hay công kích những ngƣời xung

quanh làm cho ngƣời cùng đối thoại cảm thấy khó chịu. Cảm giác của ngƣời đƣợc đối thoại

nhƣ bị chọc tức, thù địch với mọi ngƣời dù sinh viên năm II đang ở vị trí nào trong nhóm.

Sinh viên năm II hay giễu cợt, chế nhạo ngƣời khác nên ít đƣợc mọi ngƣời xung quanh hài

lòng. Họ lại dễ nổi nóng, tức giận. Nếu trong nhóm nhiều thành viên có kiểu giao tiếp gây

hấn sẽ tạo ra bầu không khí tâm lí tiêu cực và kìm hãm sự phát triển của nhóm. Ngƣợc lại,

điểm số của sinh viên năm thứ ba cho chúng ta biết, trong quan hệ với những ngƣời xung

quanh, các em biết điều chỉnh hành vi của mình nên có những cách cƣ xử mềm mỏng hơn,

hòa nhã hơn, cởi mở hơn các em sinh viên năm thứ hai. Sự tiến bộ trong kiểu quan hệ liên

nhân cách của sinh viên năm thứ ba rất cần thiết cho nghề sƣ phạm sau này. Là những thầy

cô giáo trong tƣơng lai các em sinh viên Đại học Sƣ phạm không đƣợc phép có kiểu quan hệ

gây hấn nó sẽ luôn tạo ra sự căng thẳng và hình thành bầu không khí tâm lý tiêu cực trong

nhóm đồng nghiệp và nhóm học sinh. Với học sinh ngƣời thầy giáo phải hết sức nhẹ nhàng,

có vậy các em mới mến, mới phục và từ đó mới có thể tạo mối quan hệ tốt giữa thầy và trò.

Chỉ khi nào dựa vào mối quan hệ thầy trò tích cực, tạo đƣợc bầu không khí hòa thuận trong

lớp học, giáo viên mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học và giáo dục của bản thân.

63

Kiểu quan hệ liên nhân cách có sự khác biệt ý nghĩa tiếp theo giữa sinh viên năm II

và sinh viên năm III đó là kiểu "đa nghi" với F = 21.970- P= 0.000 (bảng 7). Sinh viên năm

thứ hai thể hiện tính đa nghi trong giao tiếp mức độ cao hơn so với sinh viên năm thứ ba. Các

em năm II rất nghi ngờ những ngƣời xung quanh, chính vì vậy họ có tâm lý đề phòng ngƣời

khác, xa cách mọi ngƣời xung quanh và cố gắng tạo ra một khoảng cách đối với ngƣời đang

giao tiếp. Nhƣng đối với sinh viên năm thứ ba mọi chuyện trở nên tốt hơn, tính đa nghi trong

giao tiếp của các em đã giảm hẳn các em đã biết đặt niềm tin vào đúng chỗ nhờ các em có

kinh nghiệm sống phong phú và nhìn cuộc sống bằng con mắt hiểu biết hơn trƣớc và có cái

nhìn sự vận động của xã hội xã hội một cách khoa học. Cũng nhờ biết đa nghi đúng chỗ,

đúng lúc, đúng nơi các em sẽ tránh đƣợc sự thất bại không đáng có, tạo đƣợc cơ hội thành

công và tạo đƣợc sự tin tƣởng ở ngƣời đang giao tiếp với mình.

Kết quả nghiên cứu ở bảng 7 cho thấy kiểu quan hệ liên nhân cách "phụ thuộc " có sự

khác biệt có ý nghĩa giữa sinh viên năm II và năm III của trƣờng Đại học Sƣ phạm với (F=

21.402; P= 0.000). Số điểm cho thấy sinh viên năm hai trong mối quan hệ với ngƣời khác

thƣờng hay lo lắng, không biết biểu hiện sự không hài lòng và phản kháng của mình thƣờng

chân thành cho rằng mọi ngƣời đều đúng. Các em thiếu chính kiến, nếu có lại rụt rè, lo ngại

không biết ý kiến của mình có đƣơc chấp nhận hay không nên trở thành ngƣời e ngại, nhút

nhát trong giao tiếp. Dƣờng nhƣ kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên năm thứ hai

chứng tỏ các em còn yếu đuối, thiếu bản lĩnh. Trong khi đó điểm số của sinh viên năm thứ ba

cho thấy các em có tính độc lập tƣơng đối cao, có chính kiến riêng, biết bảo vệ những ý kiến

của mình nếu bản thân cảm thấy đúng. Khi giao tiếp với những em này, ngƣời giao tiếp sẽ

cảm nhận đƣợc sự chững chạc, tự tin của các em sinh viên năm thứ ba. Nhƣ vậy môi trƣờng

sƣ phạm đã giúp các em sinh viên rất nhiều trong việc hoàn thiện các phẩm chất tâm lý của

mình.

Tiêu chí tiếp theo có sự khác biệt ý nghĩa, đó là kiểu "hòa thuận". Từ kết quả nghiên

cứu tiêu chí này nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa sinh viên năm thứ hai và thứ ba (F -

9.173; P = 0.00). Các em sinh viên năm thứ II hòa thuận với tất cả mọi ngƣời bất kể đúng sai,

nếu trong nhóm xảy ra mâu thuẫn các em lại tìm cách né tránh hay lảng tránh. Nhƣ vậy trong

con ngƣời sinh viên năm hai chứa đựng nhiều mâu thuẫn về kiểu

64

quan hệ liên nhân cách. Các em sinh viên năm thứ hai, trong giao tiếp là loại ngƣời hay gây

hấn, nhƣng trong nhóm có sự bất hòa lại ngại va chạm lại lảng tránh, tránh đối mặt lực diện.

Nếu mâu thuẫn trong nhóm phát sinh, sự né tránh nó không phải là biện pháp tốt nhất bởi vì

nếu không giải quyết tới cùng thì mâu thuẫn càng sâu sắc, sự bùng nổ của nó rất dữ dội và

kết quả sẽ tạo ra bầu không khí tâm lý tiêu cực hơn. Có lẽ nhờ những kinh nghiệm sống của

đời sống sinh viên những năm trƣớc nên sang năm thứ ba các em sinh viên đã biết điều chỉnh

kiểu quan hệ, đã có sự mềm dẻo linh hoạt trong mối quan hệ với những ngƣời khác, biết cách

giải quyết xung đột, biết lúc nào thỏa hiệp lúc nào nên đấu tranh và có biện pháp đấu tranh để

mang lại kết quả cao. Họ biết xử lý tốt các mâu thuẫn phát sinh nên các mâu thuẫn trong

nhóm giảm dần, dần dần đƣợc mọi ngƣời tin tƣởng. Kiểu quan hệ nhƣ vậy nhìn chung mang

lại sự đầm ấm hữu nghị, để lại trong lòng mọi ngƣời sự dễ chịu, cảm mến, dễ gần. Đó là

những ngƣời có lợi cho sự tồn tại và phát triển của nhóm.

Nhận xét: Từ năm thứ hai sang năm thứ ba, chỉ có một năm nhƣng các em sinh viên

Đại học Sƣ phạm đã trƣởng thành hơn, hoàn thiện hơn trong mối quan hệ với những ngƣời

xung quanh. Nhƣ vậy môi trƣờng sƣ phạm trong một chừng mực nào đó đã giúp các em tự

hoàn thiện bản thân mình. Các em biết điều chỉnh mình trong các mối quan hệ, sống hòa

thuận hơn, biết giảm bớt sự châm chọc những ngƣời khác, từ đó trở thành những ngƣời vui

vẻ, đáng yêu hơn.

2.3- Bầu không khí tâm lí trong nhóm sinh viên sư phạm

2.3.1. Đặc điểm bầu không tâm lí sinh viên sư phạm Nhìn vào bảng 8 chúng ta nhận thấy có hơn 1/2 tổng số sinh viên tham gia trả lời cho

rằng bản thân có cảm xúc dễ chịu trong nhóm, đó là kết quả của mối quan hệ giữa con ngƣời

với con ngƣời đối với các thành viên trong nhóm và đối với nhóm tập thể nói chung. Nhờ có

cảm xúc tích cực trong nhóm nên các thành viên trong nhóm mong muốn nhóm của mình

liên kết, hòa đồng, đoàn kết với nhau. Điều này đƣợc thể hiện ở mức độ hài lòng của các

thành viên trong nhóm, và đây là chất xúc tác quan trọng giữa các thành viên là điều kiện để

các thành viên cùng nhau thi đua, hoạt động đạt kết quả cao vì mục đích chung của cả nhóm.

Là những thầy cô giáo tƣơng lai, các em cần phải xây

65

dựng một tập thể giáo viên có bầu không khí tâm lý lành mạnh để thúc đẩy công việc và làm

gƣơng cho học sinh.

Tuy nhiên nhìn vào bảng 8 chúng ta cũng thấy gần 1/2 số sinh viên rơi vào trạng thái

không xác định cảm xúc bản thân, nghĩa là không cảm nhận đƣợc bầu không khí tâm lý trong

lớp tiêu cực hay tích cực. Hơn nữa, các em này có cuộc sống dƣờng nhƣ xa rời tập thể, không

thật sự tham gia vào các hoạt động chung của cả lớp sống hơi cách biệt. Nguyên nhân một

phần do bản thân các em phải làm thêm hoặc do kiểu nhân cách và kiểu quan hệ, các em chỉ

tham gia cùng nhau vì công việc chung của lớp thực sự nếu thấy cần thiết. Nếu lớp không

thƣờng xuyên tổ chức các hoạt động phong trào có ý nghĩa để lôi kéo các em có kiểu nhân

cách và kiểu quan hệ liên nhân cách "đặc biệt" cùng tham gia thì bản thân các em rất khó xác

định mình đang ở trong bầu không khí tâm lý nhƣ thế nào? Bởi vì bầu không khí tâm lí có

đặc điểm xã hội, nghĩa là nó chỉ hình thành trong một nhóm ngƣời khi nhóm ngƣời đó có sự

tƣơng tác với nhau, nó là chất keo gắn kết hay đẩy lùi các thành viên trong nhóm khi cùng

nhau tham gia hoạt động. Với những em này, cần phải lôi kéo các em vào những phong trào

chung của cả lớp. Để thực hiện đƣợc điều trên cần phải chú ý vai trò của ban cán sự lớp, giáo

Bảng 8 : Bầu không khí tâm lý của sinh viên sư phạm

viên chủ nhiệm, và vai trò của ban chủ nhiệm khoa trƣờng cũng không kém phần quan trọng.

Số TT Bầu không khí tâm lý

1 2 3 4 5 6 7 8 9 Cảm xúc tích cƣc Cảm xúc không xác định Cảm xúc tiêu cức Găp gỡ tích cƣc Găp gỡ không xác định Gặp gỡ tiêu cức Hiểu biết nhau Hiểu biết không xác đinh Không hiểu biết nhau Số sinh viên 448 218 34 782 11 7 632 76 92 Xếp hạng 1 2 3 1 2 3 1 2 3

Nhìn bảng 8, nhận thấy cảm xúc tiêu cực của bầu không khí tâm lý chỉ 34 em, một

con số rất nhỏ không đáng kể.

Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy nhiều em sinh viên mong muốn gắn bó với tập

thể lớp của mình, chính vì lẽ đó các em rất muốn gặp bạn bè trong lớp khi có dịp

66

(có thời gian rỗi và các hoạt động bổ ích). Nhƣ vậy có thể thấy các em sinh viên luôn

mong muốn có nhu cầu đƣợc giao tiếp, đƣợc sống trong môi trƣờng hòa thuận đặc biệt rất

muốn có cơ hội để gần gũi nhau hơn, qua đó trao đổi với nhau những tâm tƣ nguyện vọng,

sở thích và cả tình cảm. Tuy nhiên việc yêu thích là một chuyện còn việc có cơ hội gặp gỡ

hay không lại là chuyện khác. Do sinh viên phải làm thêm nhiều, thời gian dành cho học

tập không còn nhiều nên các em không thể tham gia đầy đủ các hoạt động sinh hoạt của

lớp, của Đoàn v.v… Cũng vì bị hạn chế về thời gian nên sự tham gia của các em vào mục

đích chung của nhóm bị giảm sút cho thấy cơ sở vật chất cũng là điều kiện cần thiết để

giúp các em tạo ra đƣợc bầu không khí tâm lý tích cực nhằm thúc đẩy các em năng động

hơn, nhiệt tình hơn, sáng tạo hơn trong việc tham gia các hoạt động chung của lớp, của

nhóm, có vậy nhân cách của các em mới có thể phát triển một cách hài hòa. Vấn đề này đã

đƣợc nhiều tác giả với nhiều quan điểm khác nhau về bầu không khí tâm lý đánh giá và

nhận định nhƣ nhau. Nhƣ vậy không chỉ trong môi trƣờng hoạt động lao động mà ngay cả

trong môi trƣờng sinh viên, yếu tố vật chất không thể bị loại trừ trong việc tạo ra bầu

không khí tâm lý tích cực hoặc tiêu cực. Biết đƣợc điều này các nhà chuyên môn phải chú

ý tới biện pháp vật chất để kích thích phát triển bầu không khí tâm lý trong nhóm vì chúng

ta cũng đã hiểu rõ vai trò của bầu không khí tâm lý tích cực đối với hoạt động con ngƣời

trong mọi lĩnh vực. Nó giúp con ngƣời nâng cao khả năng sáng tạo, nhờ vậy xã hội ngày

càng phát triển nếu trong xã hội hình thành đƣợc nhiều nhóm có bầu không khí tích cực.

Với trạng thái không muốn gặp bạn bè trong lớp khi có điều kiện chỉ có một số ít

em đó là con số không đáng để chúng ta phải bàn luận về nó.

Gần 3/4 sinh viên cho rằng bản thân có khả năng nhận xét tƣơng đối chính xác về

ngƣời khác. Hiểu ngƣời khác là một việc không dễ, phải có sự tƣơng tác với nhau trong

công việc. Kết quả này cho thấy 3/4 số sinh viên này trong chừng mức nào đó đã cố gắng

tham gia công việc chung của cả lớp. Do có sự va chạm trong quá trình tƣơng tác với nhau

trong mọi hoạt động, nhờ vậy tính cách của các em đã đƣợc bộc lộ ít nhiều. Các em đã có

sự quan tâm tìm hiểu lẫn nhau chứ không phải dạng thờ ơ lạnh nhạt, lớp muốn làm gì thì

làm còn mình không vi phạm nội qui nhà trƣờng là đủ. Bởi vì nếu có cách nghĩ nhƣ vậy có

thể thấy ngay đó là bầu không khí hết sức tiêu cực và không có lợi cho

67

hoạt động của tập thể. Việc hiểu nhau cũng giúp cho công việc chung đƣợc tốt hơn biết để bổ

xung cho nhau về tính cách, năng lực, biết phối hợp với nhau trong công việc một cách nhịp

nhàng, từ đó tập thể phát triển càng mạnh mẽ hơn, tốt đẹp hơn. Đây là một yêu cầu quan

trọng đối với tập thể nói chung và tập thể giáo viên nói riêng. Ngạn ngữ đã có câu "biết ngƣời

biết ta, trăm trận trăm thắng". Hiểu nhau không chỉ bổ xung cho nhau trong hoạt động, mà

còn có thể giúp nhau trong những lúc cần thiết. Chữ "hiểu nhau" ở đây còn có ý nghĩa giúp

các thành viên của nhóm biết cách ngày càng hoàn thiện chính bản thân của mình.

Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 1/4 số sinh viên ở trong tình trạng không

xác định, thậm chí không thể xác định đƣợc những phẩm chất của ngƣời trong nhóm. Kết quả

thu đƣợc nhƣ vậy do một phần do kinh nghiệm, vốn sống chƣa thật phong phú nên các em

chƣa thể đánh giá đƣợc mọi ngƣời trong nhóm, tiếp theo do tính tính đa nghi do có những bạn

trong lớp có những biểu hiện lời nói và hành động không trùng khớp. Một số em cho rằng,

các bạn trong lớp thƣờng xuyên đóng kịch và nhập vai, thậm chí nhập vai rất tốt nên các em

không thể xác định đƣợc phẩm chất của các thành viên trong lớp.

Nếu sinh viên chịu khó quan sát, phân tích các hành động lời nói trong quá trình hoạt

động cùng nhau chúng ta sẽ phát hiện ra đƣợc nhiều điều. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa

phần các em chỉ biết đƣợc phần lớn các phẩm chất về công việc, còn phẩm chất cá nhân do

điều kiện, hoàn cảnh các em không thể bộc lộ ra nên khó nhận biết. Kết quả nghiên cứu cũng

cho chúng ta thấy một điều, các thành viên trong lớp chƣa thực sự gắn bó chặt chẽ với nhau,

họ chƣa thực sự tạo thành một tập thể mạnh và phát triển theo đúng nghĩa của nó, điều này

hạn chế rất nhiều tới kết quả hoạt động của cả nhóm. Vì nhóm là tế bào của xã hội, xã hội có

tốt có lành mạnh hay không phụ thuộc vào các nhóm nhỏ đƣợc hình thành nhƣ thế nào, nếu là

một nhà sƣ phạm chúng ta cần phải chú ý điều này để tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tạo

đƣợc trong tập thể học sinh một sự năng động sáng tạo, tinh thần tƣơng trợ lẫn nhau, hoạt

động vì mục đích chung của cả nhóm để đƣa nhóm phát triển ở mức độ cao hơn.

Nhận xét: Các tập thể sinh viên của trƣờng Đại học sƣ phạm rất mong muốn có cơ hội

gần gũi nhau, gặp gỡ nhau, tìm hiểu nhau. Đây là một nhu cầu giao tiếp chứng tỏ

68

các em đang ở trong bầu không khí tâm lý tƣơng đối thuận lợi. Tuy nhiên do hạn chế về thời

gian và do chƣa biết tổ chức các phong trào hấp dẫn, bổ ích nên sự tham gia của sinh viên

còn bị hạn chế nhiều dẫn tới các em chƣa thật sự hiểu nhau đặc biệt là các phẩm chất về cá

nhân. Nhà trƣờng cần tạo điều kiện để hình thành các sân chơi lành mạnh cho sinh viên, tổ

chức lôi kéo các em vào hoạt động chung của nhóm để tạo điều kiện hình thành những bầu

không khí tâm lý tích cực. Trong việc này chúng ta không thể loại trừ khả năng tổ chức của

ngƣời lãnh đạo và điều kiện về cơ sở vật chất đó là những yếu tố quan trọng, nhiều khi là yếu

tố quyết định hình thành bầu không khí tâm lý tích cực.

2.3.2. Sự khác biệt về bầu không khí tâm lí

2.3.2.1- Sự khác biệt về bầu không khí tâm lí theo giới tính Yếu tố cảm xúc tích cực, có sự khác biệt ý nghĩa giữa nhóm nam sinh viên và nữ sinh

viên Đại học Sƣ phạm (F = 16.765; P = 0.000). Trong tập thể nhóm, tâm trạng dễ chịu đối với

nhóm và tập thể lớp đối với các em nữ sinh viên cao hơn nhiều. Các em nữ sinh viên cảm

thấy hài lòng trong tập thể lớp của mình nhiều hơn so với các em nam sinh viên. Sự khác biệt

này có ý nghĩa. Ngƣợc lại với nữ, các bạn nam sinh viên lại ít hài lòng với tập thể lớp của

mình. Một điều cần lƣu ý trong môi trƣờng sƣ phạm, nữ sinh viên bao giờ cũng đông hơn

Bảng số 9: Sự khác biệt về bầu không khí tâm lý của giới tính

nam sinh viên, đặc biệt tại các khoa xã hội và ngoại ngữ.

Số thứ tự Tiêu chí

1 2 3 4 5 Cảm xúc tích cƣc Cảm xúc không xác định Cảm xúc tiêu cƣc Hiểu biết nhau Hiểu biết không xác đinh Kiểm nghiệm P F 0.000 16.765 0.000 18.246 0.000 12.433 0.000 11.853 0.000 24.786

Tại các khoa tự nhiên số lƣợng các em nam sinh viên và nữ sinh viên xấp xỉ bằng

nhau. Phải chăng các bạn nữ đã "lấn át" các bạn nam, trong các hoạt động chung, ngƣợc lại

cảm xúc âm tính của các em nam sinh viên Đại học Sƣ phạm cao hơn ở mức độ có ý nghĩa

(F= 16.765; P = 0.000) so với các em nữ sinh viên sƣ phạm. Các hoạt động chung của nhóm

đã bị các sinh viên nữ chiếm sân quá nhiều nên nam sinh viên không

69

phát huy đƣợc vai trò giới của mình. Trong lớp học có quá đông nữ, nam sinh viên Đại học

sƣ phạm có muốn chứng tỏ "đấng nam nhi" của mình cũng rất khó. Một ví dụ cho thấy trong

lớp tiểu học có 70 sinh viên mà chỉ có 2 em nam sinh viên thì thực sực các em nam đã bị "lép

vế", khó thắng nổi các em nữ có số lƣợng áp đảo, khó có thể thoải mái trong một lớp học, khi

mà mọi phong trào trong lớp đều do giới nữ chủ xƣớng và điều khiển. Đây là một nguyên

nhân đặc biệt dẫn đến kết quả các nam sinh viên cảm thấy cảm xúc trong lớp tiêu cực hơn so

với nữ sinh viên Đại học Sƣ phạm.

Với yếu tố hiểu biết các thành viên trong nhóm, có sự khác biệt ý nghĩa giữa nhóm

nam sinh viên và nữ sinh viên (F= 11.853; P= 0.001). Khả năng hiểu biết của các bạn nam

sinh viên trong lớp lại cao hơn nữ sinh viên, trong khi đó nữ sinh viên kém hiểu biết về các

bạn cùng lớp hơn các bạn nam cùng lớp. Nhƣ vậy, nữ ồn ào náo nhiệt, thoái mái hơn trong

lớp học đa phần là nữ, vì vậy sẽ bộc lộ bản thân rõ hơn và đƣợc nam sinh viên đứng ngoài

"quan sát", nhận xét chính xác hơn so với nữ sinh viên. Ngƣợc lại, nữ sinh viên sƣ phạm mặc

dù tham gia hoạt động nhiều hơn nhƣng lại kém khả năng quan sát, hơn nữa các bạn nam sinh

viên sƣ phạm giữ vai trò thụ động hơn nên các phẩm chất tâm lí ít có cơ hội bộc lộ ra để

ngƣời khác có thể "quan sát" đƣợc.

Nhận xét: Sinh viên nữ sƣ phạm hài lòng với nhóm hơn nam sinh viên trong khi đó

nam sinh viên lại hiểu các bạn cùng lớp tốt hơn nữ sinh viên.

2.3.2.2- Sự khác biệt bầu không khí tâm lý giữa sinh viên năm II và năm III Sinh viên Đại học Sƣ phạm năm thứ hai có cảm xúc tiêu cực hơn sinh viên năm thứ

ba. Điều này dễ hiểu vì với kiểu nhân cách nhƣ đã phân tích trên, đặc biệt là kiểu nhân cách

gây hấn, không biết tạo không khí hòa thuận đƣơng nhiên dẫn tới cảm xúc tiêu cực. Ngƣợc

lại, các em sinh viên Đại học Sƣ phạm năm thứ ba có cảm xúc tích cực của mình trong tập

thể cao hơn, trong khí đó số sinh viên có cảm xúc tiêu cực ít hơn. Sự khác biệt này (F =

9.207; P= 0.03) thật có ý nghĩa và đây là hệ quả của kiểu quan hệ liên nhân cách nhân cách

của các em.

Với tiêu chí "mong muốn gần gũi các bạn trong lớp", kết quả cho thấy có sự khác biệt

ý nghĩa giữa sinh viên năm hai và năm ba, nhìn vào bảng số 10 ta thấy (F= .9.299; P= 0.000).

Nhƣ vậy số lƣợng sinh viên năm thứ hai không xác định đƣợc có nên iếp xúc với các bạn

trong lớp khi có dịp nhiều hơn sinh viên năm ba. Kết quả của kiểu

70

nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân cách của hai nhóm sinh viên đƣợc phân tích ở trên cho

thấy, nếu kiểu quan hệ không đƣợc tốt, dĩ nhiên con ngƣời sẽ không thật sự muốn gần gũi

nhau. Mọi ngƣời trong nhóm mong muốn gần gũi nhau khi các thành viên trong nhóm biết

ứng xử hợp lí trong từng tình huống cụ thể. Có muốn gặp nhau hay không phụ thuộc nhiều

Bảng số 10: Sự khác biệt về bầu không khí tâm lý giữa sinh viên năm thứ II và III

vào kiểu nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân cách của các thành viên trong nhóm.

Tiêu chí Kiểm nghiệm

F P

Số thứ tự 1 2 3 4 Cảm xúc tiêu cực Gặp gỡ không xác đinh Hiểu biết nhau Không hiểu biết nhau 9.207 19.299 4.170 6.087 0.003 0.000 0.042 0.014

Với tiêu chí "hiểu biết nhau trong nhóm". Kết quả bảng [10] cho thấy sự khác biệt có

ý nghĩa giữa các nhóm sinh viên Đại học Sƣ phạm năm thứ hai và thứ ba (F=4.170; P =

0.014). Nhƣ vậy với sinh viên năm thứ ba, việc hiểu biết nhau trong nhóm cao hơn so với

sinh viên năm thứ hai. Để đạt đƣợc điều này, sinh viên năm II cần cố gắng gần gũi nhau,

tƣơng tác với nhau và cùng nhau tham gia vào các hoạt động chung, nhờ vậy mới có cơ hội

hiểu biết đƣợc những cá tính của nhau.

Nhận xét: nhóm sinh viên năm ba có bầu không khí trong lớp tích cực hơn, hòa thuận

và ấm cúng hơn so với sinh viên năm hai. Đó là kết quả của sự trƣởng thành về nhân cách

của các em sinh viên sƣ phạm, phần lớn nhờ đƣợc học tập và rèn luyện trong trƣờng Đại học

Sƣ phạm giúp các em ý thức các phẩm chất tâm lí nào cần phải rèn luyện phù hợp với nghề

nghiệp sau này.

2.3.2.3- Sự khác biệt và bầu không khí tâm lý giữa các khối sinh viên Kết quả nghiên cứu từ bảng số 11 cho ta thấy cảm xúc tích cực đối với lớp của mình

có sự khác biệt có ý nghĩa giữa sinh viên khối ngoại ngữ và khối tự nhiên (MD= - 0.128; P =

0.031). Nhƣ vậy số sinh viên khối tự nhiên có cảm xúc tích cực đối với nhóm nhiều hơn so

với sinh viên khối ngoại ngữ. Không chỉ có vậy, sinh viên khối tự nhiên có cảm xúc dễ chịu

với nhóm nhiều hơn, cao hơn sinh viên khoa xã hội (MD = - 0.136; P =

71

0.023). Nói một cách khác sinh viên khối tự nhiên hài lòng với nhóm của mình hơn so với

sinh viên khối xã hội và khối ngoại ngữ.

Sinh viên khối xã hội mong muốn gặp bạn bè khi có dịp, trong khi đó khối tự nhiên

Bảng số 11: Sự khác biệt về bầu không khí tâm lý giữa các khối sinh viên

lại ngƣợc lại, sống khép kín hơn.

Tiêu chí J MD = I - J

Tự nhiên

Ngoại ngữ P 0.031 MD -0.128 Cảm xúc tích cực Xã hội MD -0.136 P 0.023

I I Xã hội Gặp gỡ tích cực 0.1143 0.050

Không hiểu biết Ngoại ngữ 0.137 0.024

nhau

Một sự khác biệt cuối cùng có ý nghĩa là sự khác biệt về mức độ hiểu biết các thành

viên trong nhóm giữa khối ngoại ngữ và tự nhiên (MD = 0.13; P = 0.24). Sinh viên khối

ngoại ngữ có nhiều ngƣời không hiểu bạn bè hơn sinh viên khối tự nhiên.

Nhận xét: Sinh viên khối tự nhiên có bầu không khí tâm lý tốt hơn, tích cực hơn, cảm

xúc dƣơng tính nhiều hơn, hiểu các thành viên trong nhóm hơn so với những khối còn lại.

Nhƣ vậy, sinh viên khối tự nhiên nhìn nhận vấn đề xã hội đơn giản hơn, các mối quan hệ xã

hội hẹp và khi vận hành đơn giản hơn, con ngƣời ít cá tính về xã hội hơn. Điều này làm cho

tập thể khối tự nhiên dƣờng nhƣ đơn giản hơn, tốt hơn, tích cực hơn, dễ chịu hơn so với các

khối khác.

2.4- Ảnh hưởng kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu

không khí tâm lí nhóm sinh viên

2.4.1- Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khi tâm lí nhóm sinh viên Từ kết quả nghiên cứu bảng 12 ta thấy nếu sinh viên có kiểu nhân cách hƣớng ngoại

ƣa giao thiệp rộng, dễ thích nghi, nhiệt tình vui vẻ sẽ tạo ra trong nhóm bầu không khí tâm lý

tích cực với R = - 0.16; P = 0.029 (mức độ có ý nghĩa, xem bảng 12). Nhƣ vậy nếu trong

nhóm nhiều ngƣời có tính hoạt náo, vui vẻ, nhân hậu, có khả năng sẵn sàng hợp tác sẽ tạo ra

trong nhóm một bầu không khí tâm lý tích cực. Với yếu tố B đó là kiểu "trí tuệ thấp - trí tuệ

cao". Kết quả cho thấy nhóm sinh viên nào có nhiều thành viên có trí tuệ cao, có khả năng

tập chung tƣ tƣởng, sáng dạ, biết cách giải quyết nhanh các vấn đề của nhóm, sẽ tạo ra trong

nhóm sự phấn khởi, dễ chịu,

72

phấn khích trong quá trình hoạt động cùng nhau. Do đạt đƣợc kết quả cao tron" việc dùng sự

hiểu biết của mình giải quyết các vấn đề phức tạp của nhóm sẽ giúp các thành viên trong

nhóm phấn khởi, hào hứng, đoàn kết và gần gũi nhau hơn. Từ bảng 14 ta thấy có sự tƣơng

quan rõ nét với R = 0.118; P = 0.015. Ngƣợc lại, nếu trong nhóm có những thành viên thụ

động, giải quyết công việc thiếu tri thức, thiếu sự sáng tạo, không có tính quyết đoán đối với

các hoạt động trong nhóm khi cùng làm việc, kết quả hoạt động không đạt hiệu quả sẽ tạo ra

cảm xúc âm tính trong nhóm. Bầu không khí tâm lý là kết quả của những hoạt động cùng

nhau trong nhóm. Nếu kết quả hoạt động cùng nhau đạt chất lƣợng cao nhờ hoạt động trí tuệ,

bầu không khí tâm lý tạo đƣợc sẽ là tích cực, ngƣợc lại do không có ngƣời trong nhóm có

năng lực giải quyết hiệu quả công việc, bầu không khí trong nhóm sẽ dễ trở thành bầu không

Bảng số 12: Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khí tâm lí sinh viên

khí tâm lý tiêu cực.

Tiêu chí

Phục tùng quyền uy R

P

Hƣớng nội hƣớng ngoại P R 0.029 - 0.16

Cái tôi "yếu-mạnh" R 0.147 - 0.107 - 0.126

P 0.002 0.028 0.010

0.03 0.098

0.152 - 0.098 - 0.118

0.002 0.045 0016

Cảm xúc tích cực Cảm xúc không xác định Cảm xúc tiêu cực Gặp gỡ tích cực Găp gỡ không xác định Găp gỡ tiêu cực Hiểu biết nhau Hiểu biết không xác định Không hiểu biết nhau

0.150 - 0.108 - 0.113

0.002 0.027 0.021

Yếu tố tiếp theo ảnh hƣởng tới bầu không khí trong nhóm đó là yếu tố C với kiểu

0.142 - 0.101

nhân cách "cái tôi yếu - cái tôi mạnh". Nhìn bảng 12 ta thấy với R = 0.147; P = 0.002, nhƣ

vậy cái tôi càng mạnh thì cảm xúc của các thành viên trong nhóm càng cao. Đây là những

ngƣời có cảm xúc mạnh, bền vững, nhƣng biết kiềm chế cảm xúc của mình, bản thân tỉnh táo

nhìn nhận sự việc không nóng vội, vì vậy đã ảnh hƣởng tới việc hình thành xúc cảm tích cực

trong nhóm, tạo ra tâm trạng thoải mái. Ngƣợc lại những ngƣời có cái tôi yếu cảm xúc tiêu

cực thất thƣờng hay phiền muộn, cau có, hay thay đổi, sẽ ảnh hƣởng tới bầu không khí nhóm,

dẫn đến việc hình thành bầu không khí tiêu cực trong nhóm (R= - 0.126; P = 0.010). Kết quả

nghiên cứu cho thấy rất rõ kiểu nhân cách mạnh

73

mẽ dứt khoát rõ ràng sẽ rất có lợi cho nhóm, làm cho các thành viên trong nhóm vui vẻ phấn

khởi, tạo điều kiện tốt cho các thành viên trong nhóm cùng tham gia hoạt động với nhau một

cách tích cực.

Ảnh hƣởng của những ngƣời có "cái tôi" mạnh mẽ, bền vững còn thể hiện ở chỗ

không những chỉ tạo ra cảm xúc tích cực trong nhóm mà còn giúp cho họ hiểu đƣợc những

phẩm chất của các thành viên trong nhóm không chỉ về công việc mà cả những phẩm chất cá

nhân (với R = 0.150; P = 0.002). Nhờ có cách nhìn nhận các vấn đề một cách bình tĩnh, tỉnh

táo, không nóng vội, không chụp mũ một cách vội vàng, sáng suốt trong đánh giá mà kiểu

nhân cách này đã giúp cho các em sinh viên hiểu bạn bè trong lớp của mình một cách thấu

đáo, trên cơ sở đó sẽ biết cách ứng xử phù hợp trong những tình huống khác nhau, trong công

việc, trong hoạt động chung của cả nhóm.

Khi phân tích yếu tố E đặc trƣng cho kiểu nhân cách "quyền lực và phục tùng", kết

quả nghiên cứu chỉ ra sự tƣơng quan nghịch giữa kiểu nhân cách này với sự mong muốn gặp

bạn bè trong lớp (R = - 0.101; P = 0.038). Nhƣ vậy, em nào có kiểu nhân cách thích quyền

uy, bƣớng bỉnh, hay gây sự sẽ ảnh hƣởng tới sự tƣơng tác trong nhóm. Các thành viên sẽ

trong lớp không muốn gặp gỡ nhau khi có dịp nếu trong nhóm có quá nhiều ngƣời trong giao

tiếp thiếu sự hòa đồng mà luôn mong muốn ở trên mọi ngƣời vì những ngƣời này đã tạo ra

cảm xúc âm tính cho các bạn cùng lớp, đó là ngƣời có kiểu hay thù oán, hay để bụng, đòi

ngƣời khác khâm phục mình, nó sẽ tạo ra cảm xúc âm tính ở các bạn trong cùng nhóm (R =

0.14; P = 0.03). Chính vì những lý do này mà các bạn không muốn tiếp xúc với những thành

viên trong nhóm vì sự xuất hiện của họ sẽ làm bầu không khí của nhóm lập tức trùng xuống,

không thể vui vẻ dù là sự gƣợng gạo, đây là nguyên nhân đã dẫn đến kết quả nghiên cứu ở

trên.

Yếu tố đƣợc tiếp theo (yếu tố F) đặc trƣng cho kiểu nhân cách lo lắng - vô tƣ. Kết quả

nghiên cứu cũng cho thấy nếu nhóm nào có nhiều sinh viên có kiểu nhân cách vô tƣ với đặc

tính lƣỡng lự, không có tính dứt khoát nên khi đƣợc hỏi nếu có dịp gặp các bạn trong lớp thì

có muốn gặp không? Câu trả lời của họ cũng thiếu tính dứt khoát với (R = - 0.115; P = 0.19)

và cũng chính những em đó cũng không xác định bản thân có hiểu bạn cùng lớp hay không

(R = 0.104; P = 0.033).

74

Với kiểu nhân cách lo lắng nổi trội hơn thì các em sinh viên càng hiểu bạn bè trong

Bảng số 13: Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khí tâm lí sinh viên

nhóm (R= -0.112; P= 0.021) hơn so với kiểu vô tƣ.

Lo lắng - vô tƣ Tiêu chí Không cƣơng quyết - Can đảm Kém nhạy cảm Nhay cảm cao

P

Cảm xúc tiêu cực Găp gỡ tích cực Găp gỡ không xác định Găp gỡ tiêu cực Hiểu biết Hiểu biết không xác định Không hiểu biết R - 0.115 0.104 - 0.112 0.019 0.033 0.021 R - 0.106 0.105 - 0.182 P 0.030 0.031 0.000 R - 0.160 0.173 - 0.151 0.282 P 0.001 0.000 0.002 0.000

Trong bảng kết quả nghiên cứu, yếu tố H đƣợc đặc trứng cho kiểu nhân cách "không

cƣơng quyết - can đảm". Từ bảng 13 kết quả nghiên cứu cho ta thấy có sự tƣơng quan nghịch

giữa kiểu nhân cách "không cƣơng quyết - can đảm" với xúc cảm tiêu cực trong nhóm (R = -

0.106; P = 0.30). Ở đây, con số có ý nghĩa cho phép ta nhận xét, sinh viên nào càng can đảm,

ƣa giao thiệp rộng thƣờng ảnh hƣởng tới việc hình thành cảm xúc tích cực trong nhóm.

Trong một tập thể cùng nhau hoạt động vì một mục đích nào đấy, nếu tình huống có vấn đề

xảy ra, điều quan trọng phải quyết đoán trong giải quyết, không đƣợc phép giải quyết một

cách nửa vời, thiếu quyết tâm. Nhiều ngƣời cũng đã cho rằng cách giải quyết nửa vời là cách

xử lý êm thấm, dung hòa nhƣng thực sự nguy hiểm vì với cách giải quyết đó thƣờng có cảm

tƣởng ai cũng nhận đƣợc một chút thỏa đáng nhƣng thực chất lại khoét thêm mâu thuẫn, vì

mọi ngƣời trong nhóm mong muốn giải quyết vấn đề đúng sai thật minh bạch. Ngƣợc lại, nếu

tìm mọi cách xoa dịu mọi ngƣời sẽ góp phần hình thành cảm xúc tiêu cực trong nhóm. Cảm

xúc âm tính đó không mất đi theo thời gian mà nó âm ỉ tới một lúc nào đó đủ sức bùng phát

rất mạnh gây hậu quả cho hoạt động và sự phát triển chung của nhóm.

Cùng là yếu tố H nhƣng nếu là ngƣời can đảm, dứt khoát, dũng cảm trong việc giải

quyết các tình huống, họ sẽ giúp các thành viên trong nhóm hiểu nhau hơn thông qua hoạt

động của mình (R = 0.10; P = 0.31). Ngƣợc lại ngƣời nào có kiểu tính cách thiếu sự dứt khoát

trong cách giải quyết sự việc, họ trở thành ngƣời khó hiểu đối với các

75

bạn trong nhóm, đó là ngƣời thiếu tính thống nhất, vì vậy khó dự đoán đƣợc cung cách ứng

xử của họ trong các tình huống (R = -0.182; p = 0.000)

Kiểu nhân cách "kém nhạy cảm- nhạy cảm cao" đƣợc đặc trƣng bởi yếu tố L thể hiện

trong bảng kết quả nghiên cứu. Sinh viên nào có kiểu nhân cách "cả tin" sẽ có các nét nhân

cách dễ thông cảm, chịu đựng, ít để ý đến nhận xét, góp ý. Kết quả nghiên cứu cho thấy (R=

0.160; p= 0.001). Họ là ngƣời muốn gặp bạn bè khi có dịp và ngƣợc lại do đó họ là những

ngƣời tạo ra bầu không khí tích cực cho nhóm hoặc ít nhất họ cũng còn muốn gặp mặt nhau

khi có dịp. Ngƣợc lại nếu sinh viên nào có kiểu nhân cách hay "nghi ngờ", đó là ngƣời có

những nét: chú ý tới thất bại, đợi ngƣời khác phải chịu trách nhiệm về sai lầm, kiểu ngƣời đó

không ai muốn gặp bản thân họ cũng không muốn gặp mặt mọi ngƣời trong nhóm. ít gặp

nhau, khó có thể tạo đƣợc bầu không khí tâm lý hòa thuận để nhóm phát triển (R= - 0173; P=

0.000).

Tuy nhiên, vẫn yếu tố L nếu ngƣời nào kém nhạy cảm sẽ dễ tin rằng mình hiểu ngƣời

khác và ngƣời khác cũng hiểu mình, kết quả cho thấy R = -0.151; P= 0.002. Ngƣợc lại sinh

viên nào nhạy cảm biểu hiện, nóng tính lại là ngƣời cẩn trọng hơn trong việc đánh giá về

mức độ hiểu các bạn trong nhóm (R= 0.282; P = 0.000), các em tự đánh giá không hiểu các

Bảng 14. Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khí tâm lý sinh viên

bạn trong nhóm. Chính vì vậy kết quả cho thấy có sự tƣơng quan thuận.

Tiêu chí

Cảm xúc tích cực Trí tụê "thấp cao" P 0.015 R 0.118 Tự tin - không tự tin Bảo thủ - Cấp tiến P R 0.129 P 0.008 R

0.111 0.023 Cảm xúc không xác định

Găp gỡ tích cực - 0.097 0.046

Yếu tố có sự tƣơng quan nghịch tiếp theo là yếu tố O, đặc trứng cho kiểu nhân cách

"tự tin -không tự tin", kết quả nghiên cứu cho thấy ngƣời nào càng có tự tin sẽ có đặc điểm

yêu đời, vui vẻ, mạnh mẽ, không sợ hãi và là loại ngƣời ảnh hƣởng tới việc hình thành cảm

xúc tích cực trong nhóm (R = 0.129; P = 0.008). Ngƣợc lại, sinh viên nào càng hay lo âu,

thiếu tự tin sẽ tạo cơ sở hình thành cảm xúc tiêu cực trong nhóm. (R =

76

0.111; P=0.023). Nhƣ đã biết, ngƣời yêu đời, vui vẻ, tự tin thƣờng là ngƣời đi đến đâu cũng

sẽ tạo ra sự phấn khích cho nhóm, ảnh hƣởng tích cực tới nhóm và làm cho các thành viên

trong nhóm cảm thấy dễ gần nhau hơn, phấn khởi hơn, vui vẻ hơn dễ chịu hơn trong các hoạt

động chung. Ngƣợc lại, loại ngƣời ƣu tƣ, hay lo lắng sẽ ảnh hƣởng tới cảm xúc của nhóm

dƣới dạng tạo ra những cảm xúc tiêu cực chán chƣờng cho những ngƣời xung quanh, sẽ là

những ngƣời không có lợi cho nhóm, đặc biệt trong tình huống gay go, phức tạp.

Yếu tố tiếp theo yếu tố O là yếu tố Q1, đặc trƣng cho kiểu nhân cách "bảo thủ - cấp

tiến". Kết quả nghiên cứu cho ta thấy nếu sinh viên càng bảo thủ là loại ngƣời thích cái cũ,

nghi kỵ những cái mới. Vì vậy ta có thể thấy ngƣời bảo thủ là ngƣời có xu hƣớng mong muốn

gặp lại các bạn quen cũ khi có dịp (R = - 0.97; P = 0.46), và họ cũng là ngƣời không thích

giao du gặp lại những ngƣời bạn bè mới. Loại ngƣời này sẽ để lại cả những mặt tích cực lẫn

tiêu cực cho sự phát triển của nhóm.

Một yếu tố nữa tiếp theo đặc trƣng cho kiểu nhân cách "phụ thuộc nhóm - độc lập" là

yếu tố Q2. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên càng phụ thuộc vào nhóm, tâm trạng họ

càng phấn khởi (R = - 0.238; P = 0.000). Họ là những ngƣời cần đến nhóm và ngƣợc lại. Các

em sinh viên nào có kiểu nhân cách phụ thuộc trội hơn sẽ càng có lợi cho bầu không khí tâm

lý của nhóm hơn so với những em sinh viên có kiểu nhân cách độc lập. Sự tự chủ, nhanh trí,

có thể chỉ huy, không cần sự giúp đỡ chƣa chắc có lợi cho bầu không khí tâm lý vì sự xuất

hiện của họ có thể sẽ làm cho các thành viên trong nhóm ở tình trạng không xác định đƣợc

cảm xúc của mình (R = 0.240; P = 0.000).

Cũng với yếu tố Q2 ta có thể nhận thấy, sinh viên có kiểu nhân cách càng phụ thuộc

vào nhóm rất mong muốn gặp gỡ bạn bè khi có dịp (R = - 0.165; P = 0.001), trong khi đó

sinh viên càng có kiểu nhân cách độc lập, tự chủ, nhanh trí, không cần sự giúp đỡ của nhóm

thì càng lƣỡng lự (R = 0.104; P = 0.032), thậm chí không muốn gặp lại bạn bè khi có dịp (R=

0.136; P = 0.005). Nhƣ vậy tính độc lập cao dẫn tới việc gắn kết với nhóm thấp và sự gắn kết

thấp này sẽ tạo ra trạng thái tình cảm tiêu cực, từ đó cho thấy, kiểu nhân cách này rõ ràng

không có lợi cho nhóm và điều quan trọng là sinh viên phải biết điều chỉnh hành vi của bản

thân. Không nên vì sự "giỏi giang" của mình mà quên đi mình là thành viên của nhóm.

77

Bảng số 14: Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khí tâm lí sinh viên

Phụ thuộc độc lập Ý kiến riêng thấp Ý kiến riêng cao

Tiêu chí

Cảm xúc tích cực

R - 0.238

P 0.000

P 0.013

R 0.121

Căng thắng thấp Căng thẳng cao R

P

Cảm xúc không xác định

0.210

0.00

Cảm xúc tiêu cực

- 0.128

0.090

Găp gỡ tích cực

- 0.165

0.001

0.097

0.048

Găp gỡ không xác định

0.104

0.032

- 0.115

0.019

Gặp gỡ tiêu cực

0.136

0.005

Hiểu biết

- 0.132

0.070

0.189

0.00

0.111

0.023

Không hiểu biết

0.139

0.004

- 0.170

0.000

_

Kết quả nghiên cứu ở bảng 14 cho thấy sinh viên có kiểu nhân cách lệ thuộc vào

nhóm là những ngƣời mong muốn gần gũi các thành viên trong nhóm nhờ vậy họ có nhiều

điều kiện hiểu biết thấu đáo các thành viên trong nhóm về phẩm chất tâm lý (R = - 0.132; P =

0,007). Ngƣợc lại sinh viên càng độc lập, không cần sự giúp đỡ của ngƣời khác sẽ càng

không muốn gặp bạn bè trong nhóm khi có dịp, sự gắn kết với nhóm của họ sẽ thấp. Do vậy,

những sinh viên này không hiểu đƣợc các thành viên trong nhóm và nhóm cũng không hiểu

về họ (R= 0.139; P = 0.004) và dẫn đến việc tạo ra trạng thái tâm lý tiêu cực. Đó là những

ngƣời thiếu sự gắn bó với nhóm trong mọi hoạt động, sống độc lập, tách biệt. Kiểu ngƣời này

cần thiết cho một số dạng hoạt động, nhƣng lại không có lợi cho nhóm nhỏ. Chính vì vậy

nhiệm vụ của công tác giáo dục trong trƣờng Sƣ phạm cụ thể là vai trò của giáo viên chủ

nhiệm và ban cán sự lớp cần phải lôi kéo, giúp đỡ giáo dục những em này biết hợp tác trong

nhóm. Ngoài ra, nhóm cần phải có những hoạt động vui chơi sinh hoạt bổ ích, hấp dẫn lôi

kéo các em sinh viên vào kiểu nhân cách này trở về với nhóm, gắn kết với nhóm. Việc thiết

kế những hoạt động, đòi hỏi sức mạnh đoàn kết tập thể mới thành công là rất cần thiết nhằm

tạo điều kiện cho các em sinh viên kiểu này ý thức đƣợc vai trò của nhóm đối với bản thân và

ngƣợc lại, từ đó giúp các em ý thức tốt hơn về trách nhiệm tập thể mình đang sinh hoạt, gắn

bó với nhóm hơn, có nhƣ vậy mới tạo đƣợc bầu không khí tâm lý tích cực cho nhóm.

Yếu tố Q3 là yếu tố đặc trƣng cho kiểu nhân cách "có chính kiến - không có chính

kiến". Nhìn vào bảng kết quả nghiên cứu ta nhận thấy những em sinh viên nào càng có chính

kiến rõ ràng dứt khoát sẽ tạo ra đƣợc một trạng thái tâm lý tích cực cho nhóm. Đó

78

là con ngƣời có lập trƣờng, có quan điểm sống, làm việc gì cũng theo kế hoạch đã đƣợc vạch

ra từ trƣớc và là loại ngƣời có ý chí cao. Khi loại ngƣời này xuất hiện trong nhóm sẽ làm các

thành viên trong nhóm có tâm trạng tích cực (R= 0.121; P = 0.013). Kết quả nghiên cứu cho

thấy rõ ràng các thành viên rất thoải mái với những ngƣời có chính kiến có bản lĩnh, thể hiện

sự trung thực, dứt khoát. Đây là loại ngƣời có lợi cho hoạt động và phát triển của nhóm.

Ngƣợc lại, nếu sinh viên càng thiếu quan điểm (kiểu nhân cách không có chính kiến riêng),

biểu hiện ở những nét thiếu trách nhiệm, cẩu thả không chính xác, khả năng tự kiểm tra kém.

Sự xuất hiện của họ trong nhóm sẽ làm những ngƣời khác khó chịu vì kiểu nhân cách của họ

không thể nào góp sức tạo ra sức phát triển cho nhóm (R = - 0.128; P = 0.09). Nhƣ vậy, đây

là loại ngƣời không cần thiết cho nhóm, không giúp đƣợc cho sự phát triển của nhóm và

chính họ sẽ là ngƣời tạo ra bầu không khí tâm lý tiêu cực cho nhóm.

Cũng vẫn yếu tố Q3 nhƣng khi ta xét tới sự tƣơng quan với trạng thái không xác định

(có nên gặp bạn cùng lớp hay không khi có dịp). Kết quả bảng [15] cho thấy R = - 0.115; P =

0,019. Sinh viên nào càng không có chính kiến riêng của bản thân càng hay lƣỡng lự không

muốn gặp bạn bè cùng lớp khi có điều kiện. Bản thân những em sinh viên này đã cảm nhận

đƣợc sự không hài lòng của các thành viên trong nhóm đối với mình. Họ có thể muốn gặp gỡ

nhƣng cảm xúc âm tính trong nhóm đã làm cho họ không muốn gặp các bạn khi có dịp.

Khi xem xét sự hiểu biết của các thành viên trong nhóm, kết quả nghiên cứu cho thấy

sinh viên nào càng có chính kiến càng hiểu rõ bạn bè (R = 0.189; P = 0.007). Đó là những

ngƣời ƣa sự chính xác, sự rõ ràng, không thích mập mờ, mong muốn hiểu mọi điều thật rõ

ràng trong đó có cả con ngƣời. Ngƣợc lại, ngƣời nào càng thiếu chính kiến, lập trƣờng bao

nhiên thì càng ít hiểu rõ về ngƣời khác bấy nhiêu (R = - 0.170; P = 0.000).

Tiêu chí cuối cùng Q4 đặc trƣng cho kiểu nhân cách có mức độ căng thẳng nội tâm

cao và mức độ căng thẳng nội tâm thấp. Từ những kết quả nghiên cứu trong bảng [14] ta thấy

sinh viên càng yếu đuối, chịu đựng lại càng mong muốn gặp các bạn trong lớp (R = 0.970; P

= 0.048), trong khi đó em nào càng chững chạc, sôi nổi càng hiểu biết các bạn trong nhóm

của mình (R = 0.111; P = 0.023).

79

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, kiểu nhân cách ảnh hƣởng mạnh mẽ đến bầu

không khí tâm lí trong tập thể lớp ở các mức độ khác nhau. Có những kiểu nhân cách thích

hợp với công việc nhƣng chƣa chắc thích hợp khi nó biểu hiện trong nhóm và ngƣợc lại. Điều

quan trọng sinh viên cần phải biết rèn luyện các phẩm chất và biết điều chỉnh bản thân cho

phù hợp trong từng tình huống cụ thể, có nhƣ vậy họ mới có thể trở thành thích nghi đƣợc với

cuộc sống hiện đại, điều này giúp họ thành công trong cuộc sống cũng nhƣ trong sự nghiệp.

2.4.2- Ảnh hưởng kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lý Từ kết quả nghiên cứu của bảng [15] ta có thể thấy kiểu quan hệ liên nhân cách quyền

uy là kiểu nhân cách không có lợi cho hoạt động của nhóm. Ngƣời nào trong nhóm càng thể

hiện tính cách quyền uy bao nhiêu sẽ càng làm cho nhóm có cảm xúc tiêu cực bấy nhiêu, ở

những con ngƣời này còn thể hiện sự hống hách, hách dịch nên đã mang lại cảm xúc âm tính

cho các thành viên của nhóm (R = - 0.102; P = 0.038). Đây là loại ngƣời "ta đây", muốn đứng

trên mọi ngƣời, thiếu sự tôn trọng và sự cƣ xử bình đẳng trong nhóm, là kiểu liên nhân cách

rất có hại cho nhóm. Không những vậy, họ cho rằng họ biết ngƣời (R = 0.119; P = 0.015) và

mọi ngƣời cũng cần phải biết họ là ai. Họ là ngƣời ƣa giáo huấn, ƣa dạy dỗ ngƣời khác,

Bảng số 15: Ảnh hưởng kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lí

nhƣng lại không biết lắng nghe và tiếp nhận lời khuyên của ngƣời khác.

Quyền uy Ích kỷ Vị tha Tiêu chí

R P R P R P

Cảm xúc tích cực 0.150 0.002

Cảm xúc không xác định 0.103 0.035 - 0.127 0.009

Cảm xúc tiêu cực 0.102 0.037 - 0.103 0.035

0.145 0.003 Gặp gỡ tích cực

0.122 0.120 Hiểu biết nhau 0.119 0.015

- 0.133 0.007 Không hiểu biết nhau

Kiểu quan hệ liên nhân cách thứ hai là kiểu ích kỷ. Kết quả nghiên cứu ở bảng 15 cho

thấy ngƣời nào càng ích kỷ càng gây cảm xúc âm tính cho nhóm (R = -0.103; P = 0.035). Đó

là loại ngƣời muốn tách mình ra khỏi tập thể, đứng trên mọi ngƣời, không hòa đồng vào

nhóm mà chỉ say mê chính mình. Với kiểu liên nhân cách bệnh hoạn nhƣ

80

vậy, họ không thể là ngƣời có lợi cho nhóm, trong khi đó nếu con ngƣời biết bớt đi một chút

ích kỷ thì trạng thái tâm lý trong nhóm sẽ bớt đi sự tiêu cực và sẽ chuyển sang lƣỡng lự ( R =

0.103; P = 0.035). Nhƣ vậy, sinh viên có kiểu quan hệ liên nhân cách ích kỷ sẽ không có lợi

cho hoạt động và sự phát triển của nhóm.

Kiểu quan hệ liên nhân cách thứ tƣ là tính đa nghi. Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 15

ta có thể nhận thấy rằng nếu trong một nhóm sinh viên càng nhiều thành viên đa nghi bao

nhiêu thì trạng thái tâm lý trong nhóm càng âm tính bấy nhiêu (R= - 0.103; P = 0.035) hoặc ở

dạng lƣỡng lự (R = -0.116; P = 0.017). Trong giao tiếp giữa ngƣời với ngƣời trong nhóm mà

không đƣợc ngƣời đối thoại tin tƣởng, không đƣợc bạn bè tin tƣởng sẽ tạo ra bầu không khí

tâm lý tiêu cực, mọi ngƣời trong nhóm sẽ cảm thấy khó chịu không thoải mái do bị ngƣời

khác nghi ngờ. Về sự hiểu biết lẫn nhau trong nhóm kết quả nghiên cứu cho thấy nếu càng đa

nghi quan hệ càng xa cách nên sự hiểu biết đặc điểm tâm lý của các thành viên trong nhóm

rất kém (R = - 0.137; P = 0.005). Nếu các thành viên bớt đa nghi trong quan hệ, các bạn trong

nhóm sẽ xích lại gần nhau nhờ vậy sẽ giúp các thành viên trong nhóm hiểu rõ về nhau hơn (R

Bảng số 16: Ảnh hưởng kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lí

= 0.179; P = 0.000).

Đa nghi Lệ thuộc Phụ thuộc II. Tiêu chí

R P R P R P

-0.103 -0.116 0.035 0.017

0.275 0.000

Cảm xúc tích cực Cảm xúc không xác định Cảm xúc tiêu cực Gặp gỡ tiêu cực Không hiểu biết Hiểu biết nhau 0.179 - 0.137 0.000 0.005 -0.129 0.008 0.134 0.006 0.128 0.009 0.128 0.009

Một kiểu quan hệ liên nhân cách nữa mà ta cần xem xét đó là kiểu lệ thuộc. Kết quả

nghiên cứu ở bảng 16 cho thấy loại ngƣời bạc nhƣợc và có khuynh hƣớng nhƣờng nhịn mọi

ngƣời không có lợi cho nhóm và tạo ra cảm xúc tiêu cực cho nhóm (R = 0.128; P = 0.009).

Các em sinh viên mong muốn các thành viên trong nhóm của mình phải là những ngƣời có

chính kiến, mạnh mẽ. Họ không thích thậm chí không chấp nhận và rất khó chịu với loại

ngƣời a dua, bạc nhƣợc. Đây là loại ngƣời không có lợi cho nhóm mặc dù họ có vẻ hiền lành

nhƣng thực chất họ là nhân tố tạo ra sự cản trở cho sự phát triển của nhóm làm cho nhóm

chậm phát triển, đặc biệt khi trong nhóm có sự mâu thuẫn.

81

Ngoài ra kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nếu sinh viên càng lệ thuộc thì sinh viên

càng không hiểu các bạn trong nhóm (R = 0.128; P = 0.009).

Tiêu chí cuối cùng đƣợc xem xét ở đây là sự hòa thuận trong mối quan hệ liên nhân

cách. Nếu ngƣời có kiểu nhân cách kiểu liên nhân cách này trội sẽ là "ngƣời tốt giọng" đối

với nhóm, mong muốn thỏa mãn nhu cầu ngƣời khác, và họ sẽ mong muốn gặp các bạn trong

nhóm (R = 0.112; P = 0.022).

Nhận xét: Kiểu quan hệ liên nhân cách cũng có ảnh hƣởng với các mức độ khác nhau

tới bầu không khí tâm lí của nhóm. Cũng nhƣ kiểu nhân cách, không hẳn những ngƣời hay

nhƣờng nhịn mọi ngƣời sẽ tạo bầu không khí tâm lí tích cực. Điều này cho thấy xã hội yêu

cầu sinh viên phải biết điều chỉnh bản thân trong quá trình giao tiếp sao cho có lợi cho nhóm

để thúc đẩy sự phát triển của nhóm.

82

KẾT LUẬN

1.1. Kiểu nhân cách của sinh viên sư phạm

Kiểu nhân cách nổi trội của sinh viên sƣ phạm là kiểu "siêu tôi cao" với các nét nhân

cách có những ƣu điểm sau: là loại ngƣời có lƣơng tâm, có trách nhiệm biết tuân theo các

chuẩn mực đạo đức. Trong giao tiếp, có khả năng tạo đƣợc niềm tin ở đối tƣợng giao tiếp. Về

tình cảm thể hiện sự nghiêm túc. Tuy nhiên còn rất nhiều nét nhân cách chƣa hoàn thiện,

thậm chí ở mức độ thấp, nó thể hiện ở chỗ các em chƣa có khả năng tập trung trí tuệ ở mức

độ cao, chƣa biết che dấu tình cảm, sống thụ động và phụ thuộc vào nhóm. Nhìn chung nhiều

nét nhân cách còn đang hình thành. Điều quan trọng các em cần phải có khả năng điều chỉnh

bản thân sao cho thái độ phù hợp với từng tình huống cụ thể với những con ngƣời cụ thể.

Nhờ vậy mới giúp thành công trong hoạt động.

1.2. Sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa các nhóm sinh viên

1.2.1. Sự khác biệt về kiểu nhân cách giữa nam và nữ sinh viên

Nữ sinh viên thích giao tiếp hơn.

Nữ hiền lành, thiếu sự kiên định, kém ý chí hơn nam và dễ bị tình cảm chi phối, vui

vẻ, dịu dàng, ngƣợng ngùng, e lệ, thiếu cƣơng quyết, rất thận trọng, hay lo sợ, tính đa nghi.

Các em nam sinh viên có kiểu hƣớng nội, đằm tính hơn, mạnh mẽ, có chính kiến, bảo

thủ, dễ nóng giận, quyết đoán, nghiêm khắc. Ý chí cao hơn nữ, nhanh nhẹn dũng cảm, biết

giữ lời hứa, biết đặt niềm tin đúng chỗ.

1.2.2. Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa sinh viên năm II và III

Sự cách biệt chỉ giới hạn trong một năm nên sự khác biệt về kiểu nhân cách không

nhiều nhƣng kết quả cho thấy có sự trƣởng thành về nhân cách. Sinh viên năm III biết lo lắng

hơn nghiêm túc hơn, chín chắn và chững chạc hơn. Nó thể hiện sự trƣởng thành về mặt xã hội

của các em. Đây là sự cần thiết để chuẩn bị bƣớc vào đời với một môi trƣờng lao động khác

hẳn môi trƣờng học tập. Ngoài ra sinh viên năm III có tính kiên trì tận tụy hơn các em năm II.

Các nét tính cách này rất cần thiết đối với nghề sƣ phạm.

83

1.2.3. Sự khác biệt kiểu nhân cách giữa các khối sinh viên

Sinh viên khối xã hội là loại ngƣời hƣớng ngoại, trong khi đó sinh viên khối tự nhiên

là loại ngƣời ƣa quyền lực hơn khối xã hội. Sinh viên khối ngoại ngữ có kiểu nhân cách nhạy

cảm và độc lập hơn khối tự nhiên, ngƣợc lại sinh viên khối tự nhiên lại là loại ngƣời chịu sự

căng thẳng cao hơn hai khối còn lại. Sự khác biệt này do đặc điểm của môn học, nó là một

trong những nguyên nhân tạo ra sự khác biệt này.

2.1. Kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên sư phạm

Nhìn chung đa số sinh viên có kiểu quan hệ liên nhân cách chấp nhận đƣợc. Tuy

nhiên cũng giống kiểu nhân cách, trong giao tiếp, có cung cách cho từng tình huống cụ thể.

Trong giao tiếp cần phải thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cung cách ứng xử.

2.2. Sự khác biệt kiểu quan hệ liên nhân cách của sinh viên

2.2.1. Sự khác biệt kiểu quan hệ liên nhân cách theo giới tính

Nữ sinh viên sƣ phạm, trong giao tiếp thể hiện mức độ đa nghi, lệ thuộc, phụ thuộc và

hòa thuận ở mức độ cao hơn nam sinh viên. Chính vì vậy có sự khác biệt giữa nam và nữ về

một số đặc điểm sau: nữ có tính đa nghi, nhƣờng nhịn quá mức, hơi bị nhu nhƣợc. Tuy nhiên

trong nhóm họ có khuynh hƣớng cởi mở, đoàn kết.

Nam sinh viên có khả năng đặt niềm tin đúng chỗ và nghi ngờ có cơ sở. Trong quá

trình vận hành mối quan hệ, các em có tính độc lập tƣơng đối. Nó sẽ bổ sung cho nhau rất tốt,

nếu trong nhóm có cả hai giới với số lƣợng tƣơng đƣơng nhau.

2.2.2. Sự khác biệt kiểu quan hệ liên nhân cách theo năm

Sinh viên năm III đã biết điều chỉnh kiểu quan hệ liên nhân cách của bản thân hài hòa

hơn. Cụ thể năm III biết thể hiện uy quyền bằng uy tín chứ không phải bằng phẩm chất "ảo"

nhƣ năm II. Sinh viên năm III tỏ ra mềm mỏng trong giao tiếp, biết đặt niềm tin đúng chỗ, có

tinh thần trách nhiệm, có khả năng thực hiện công việc nghiêm túc hơn sinh viên năm II,

đồng thời các em cởi mở, đầm ấm, hữu nghị trong các quan hệ và nhiệt tình trong hoạt động

nhằm đạt đƣợc mục đích của nhóm.

Trong giao tiếp sinh viên năm II thể hiện sự cứng nhắc, không biết khoan nhƣợng,

nhƣng khi nhóm xảy ra xung đột lại né tránh, muốn thỏa mãn yêu cầu của mọi ngƣời để cuối

cùng mâu thuẫn trong nhóm ngày càng tăng.

84

Chỉ một năm, nhƣng quan hệ liên nhân cách của sinh viên sƣ phạm có bƣớc chuyển

biến rõ rệt, để có đƣợc điều này các em đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội với những

vị trí, vai trò khác nhau, qua đó giao tiếp đƣợc vận hành giúp các em học hỏi đƣợc nhiều kinh

nghiệm trong cuộc sống. Chính vì vậy sinh viên trƣởng thành hơn.

4.1. Bầu không khí tâm lí sinh viên sư phạm

Nhìn chung bầu không khí tâm lí sinh viên của sinh viên sƣ phạm là tích cực. Đa số

các em có cảm xúc tích cực khi ở trong nhóm, muốn gặp gỡ nhau khi có dịp. Nhìn chung sinh

viên có sự hiểu biết lẫn nhau.

4.2. Sự khác biệt về bầu không khí tâm lí nhóm

Nữ sinh viên có cảm xúc tích cực hơn nam sinh viên trong khi đó nam sinh viên lại

hiểu biết các thành viên trong nhóm hơn giới nữ.

Số lƣợng sinh viên năm II có cảm xúc tiêu cực với lớp nhiều hơn năm III, đồng thời

số lƣợng sinh viên năm III có khả năng hiểu bạn bè trong lớp nhiều hơn năm II.

Sinh viên khối tự nhiên và ngoại ngữ có cảm xúc dƣơng tính nhiều hơn khối xã hội.

Nhƣng khối xã hội lại mong gặp bạn bè cùng lớp hơn khối tự nhiên. Số lƣợng sinh viên khối

ngoại ngữ không hiểu bạn bè cùng lớp nhiều hơn khối tự nhiên.

5.1. Ảnh hưởng kiểu nhân cách tới bầu không khí tâm lí sinh viên

Những kiểu nhân cách sau đây ảnh hƣởng tích cực tới bầu không khí tâm lí nhóm ở

các mức độ khác nhau: đó là kiểu hƣớng ngoại, cái tôi mạnh, lo lắng, nhạy cảm cao, can đảm,

trí tuệ cao, tự tin, cấp tiến, phụ thuộc, có chính kiến rõ ràng, khả năng chịu đựng sự căng

thẳng cao. Ngƣợc lại kiểu nhân nhân cách đối lập trong các cặp kiểu nhân cách ảnh hƣởng

tiêu cực tới bầu không khí tâm lí trong nhóm.

Nhƣ vậy trong 16 cặp kiểu nhân cách có đến 12 cặp ảnh hƣởng tới bầu không khí tâm

lí trong nhóm hoặc tiêu cực ở các mức độ khác nhau. Điều này cho thấy, kiểu nhân cách của

các thành viên trong nhóm có vai trò lớn trong việc hình thành bầu không khí với những dạng

và mức độ khác nhau.

5.2. Ảnh hưởng kiểu quan hệ liên nhân cách tới bầu không khí tâm lí sinh

viên

Cũng nhƣ kiểu nhân cách, trong 8 kiểu quan hệ liên nhân cách có tới 6 kiểu quan hệ

ảnh hƣởng tới bầu không khí tâm lí nhóm. Ở đây không có kiểu nào tối ƣu hay quá

85

xấu. Điều quan trọng sinh viên phải biết mềm dẻo linh hoạt, mềm dẻo trong giao tiếp để đạt

đƣợc kết quả khi quá trình tƣơng tác lẫn nhau trong hoạt động chung.

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC VÀ KIẾN NGHỊ

1. Biện pháp giáo dục

- Kiểu nhân cách của sinh viên sƣ phạm còn nhiều nhƣợc điểm và nhiều mặt chƣa

hoàn thiện vì vậy để hình thành và rèn luyện chúng phải có môi trƣờng tƣơng ứng. Muốn vậy

trƣờng, khoa, giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức nhiều loại hình hoạt động đa dạng phong phú,

bổ ích, hấp dẫn tƣơng ứng với các kiểu nhân cách cần hình thành lôi cuốn và yêu cầu các em

tham gia mang tính bắt buộc.

- Trong quá trình dạy học, giáo viên không nên chỉ dạy chữ mà còn cần dạy sinh viên

cung cách ứng xử trong các tình huống đa dạng, muốn vậy họ phải là ngƣời có uy tín với sinh

viên trên nhiều phƣơng diện. Công cụ dạy học và giáo dục học sinh của ngƣời giáo viên

không ngoài gì khác là nhân cách của chính mình. Để làm đƣợc điều ấy bản thân các giáo

viên phải không ngừng phấn đấu về chuyên môn và mặt đạo đức.

- Với sinh viên khối tự nhiên, có xu hƣớng ngại giao tiếp vì vậy cần chú ý lôi kéo các

em này tham gia nhiều hơn vào các hoạt động chung, bởi vì đối tƣợng trong nghề dạy học là

con ngƣời.

- Về quan hệ liên nhân cách: nhìn chung có nhƣợc điểm nhƣng có sự trƣởng thành

theo năm học. Tuy nhiên, trƣớc hết sinh viên cần phải học đƣợc cung cách ứng xử ngay ở các

thầy cô trong Ban chủ nhiệm khoa, thầy cô chủ nhiệm, bộ môn, phòng ban v.v... Nhƣ vậy

không chỉ giáo viên đứng lớp mà tất cả những ngƣời phục vụ trong ngành sƣ phạm cần phải

trở thành tấm gƣơng cho các em noi theo.

Nhìn chung không có một kiểu nhân cách hay quan hệ liên nhân cách quá xấu hay quá

tốt mỗi một nét đều có điểm ƣu và nhƣợc của nó. Điều quan trọng là phải biết mềm dẻo, linh

hoạt trong cuộc sống. Ngƣời giáo viên phải dạy sinh viên điều này. Nhƣng bất luận trong mọi

tình huống không đƣợc đánh mất chính mình. Cụ thể trong mọi tình huống của cuộc sống

phải thể hiện tính trách nhiệm, tận tâm, nhiệt tình, công bằng, biết tôn trọng ngƣời khác, có

lòng tự trọng, lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau.

86

Bầu không khí tâm lí ảnh hƣởng rất rõ tới kết quả hoạt động của nhóm. Các kiểu nhân

cách và kiểu quan hệ liên nhân cách ảnh hƣởng tới bầu không khí tâm lí. Chính vì vậy nếu

các em sinh viên hình thành đƣợc kiểu nhân cách, kiểu quan hệ liên cách hài hòa nó sẽ ảnh

hƣởng tới kết quả hoạt động của nhóm.

2. Kiến nghị

Để có thể làm điều trên việc đầu tiên là các thầy cô giáo phải dồn nhiều công sức cho

việc dạy và học muốn vậy cần phải tăng thu nhập cho giáo viên.

Tăng kinh phí dành cho các hoạt động bổ ích cho sinh viên.

Môn Tâm lí - Giáo dục cần xây dựng chƣơng trình thực hành xử lí các tình huống

trong cuộc sống. Sinh viên tự đọc phần lí thuyết, trên lớp giáo viên chỉ hƣớng dẫn thực hành

phần ứng xử.

Khi tuyển sinh nhà trƣờng nên chú ý cân bằng tƣơng đối về giới trong các khoa. Kiểu

nhân cách và kiểu quan hệ liên nhân cách bao giờ cũng thể hiện giới của mình, chúng không

nên bị mất đi trong quá trình giáo dục. Tính cách mang đặc điểm giới sẽ bổ sung cho nhau

trong hoạt động chung tạo ra sự phát triển hài hòa của nhân cách.

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Hiệp. Tâm lí học xã hội mấy vấn đề lí luận. NXBKHXH, 1999

2. E.C Kudờmin. Những vấn đề tâm lí học xã hội. L., 1976

3. Miaxisép V.N. Nhân cách và hệ thần kinh. L., 1980.

4. Miaxisép V.N. Khoa học tâm lí ở Liên Xô. T.II. M1960

5. Bueva L. P. Môi trƣờng xã hội và ý thức nhân cách. M., 1967

6. Bôđalev A.A. Tri giác xã hội. L., 1987

7. Bôđalev A.A. Nhân cách và giao tiếp. M., 1983

8. Bôlodina E.B. Bầu không khí đạo đức và sự tham gia của thanh niên trong công

việc điều khiển sản xuất. M., 1974.

9. I.I. Lapin. Bầu không khí tâm lí tập thể. NXBGD. 1974

10. Lepeđev B.I. Bầu không khí đạo đạo đức của tập thể. NXBTT. 1976

11. Leônchév A.A. Tâm lí học giao tiếp. M., 1976

12. Leônchév A.A. Giao tiếp là đối tƣợng nghiên cứu của tâm lí học. M., 1975

13. Leônchév A.N. Những vấn đề phát triển tâm lí. M., 1986

14. Lomốv B. Ph. Giao tiếp là vấn đề của tâm lí đại cƣơng. M., 1975

15. Tâm lí học nhân cách và tâm lí nhóm nhỏ - Tuyển tập tâm lí học thực nghiệp. Tập

6 và 8. L., 1977.

16. Serkovich I. A. Các ý tƣởng nghiên cứu bầu không khí tập thể. M., 1975

17. Sorôkhốva E; Platonov K.K. Tập thể và nhân cách M.,1975.

18. Kolominxki I. A. Tâm lí học quan hệ lẫn nhau trong nhóm nhỏ.

19. Obozov N.N. Quan hệ liên nhân cách. L., 1979.

88

2

HƯỚNG DẪN CÁCH TRẢ LỜI PHIẾU THĂM DÒ SỐ 1 Trƣớc mắt bạn là một loạt các câu hỏi, mà chúng có thể giúp chúng ta xác định đƣợc một vài phẩm chất nhân cách của bạn. Đây không có các câu trả lời "đúng đắn" hoặc "sai trái". Quan điểm có thể khác nhau nhƣng mỗi ngƣời đều có thể phát biểu ý kiến của mình. Bạn hãy cố gắng trả lời chân thành và chính xác. Bạn hãy ghi họ tên của mình và các thông số khác về mình ở phần trên của phiếu câu hỏi.

Khi trả lời từng câu hỏi, bạn phải chọn một trong ba câu hỏi đƣợc đặt ra cho bạn. Đó là câu trả lời phù hợp nhất đối với cách nhìn của bạn và ý kiến của bạn về bản thân mình. Cần phải trả lời theo cách sau: đánh dấu thập rõ ràng vào ô tƣơng ứng trong phiếu in câu trả lời (ô trái tƣơng ứng với câu trả lời. "a", ô giữa tƣơng ứng với "b", ô phải ứng với “c”).

KHÔNG VIẾT GÌ VÀ KHÔNG GẠCH DƢỚI TRONG PHIẾU HỎI ĐÁP Nếu bạn không rõ điều gì, hãy hỏi ngƣời tiến hành thử nghiệm. Khi trả lời câu hỏi bạn hãy luôn nhớ bốn nguyên tác sau đây: 1. KHÔNG CẦN BỎ NHIỀU THỜI GIAN ĐỂ NGẪM NGHĨ CÂU TRẢ LỜI. HÃY ĐƢA RA CÂU TRÀ LỜI XUẤT HIỆN ĐẦU TIÊN TRONG ĐẦU BẠN

Tất nhiên là các câu hỏi sẽ thƣờng đƣợc viết không cụ thể nhƣ bạn muốn. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, khi trả lời, bạn hãy cố gắng hình dung một tình trạng trung gian, có tính đặc trƣng nhất mà phù hợp với ý nghĩa của câu hỏi, và trên cơ sở đó bạn hãy chọn câu trả lời. Cần phải trả lời sao cho có thể chính xác hơn, nhƣng không quá chậm chạp, khoảng 1 phút cho 5 - 6 câu hỏi. Bạn phải trả lời hết các câu hỏi trong vòng không quá 30 phút. 2. hãy cố gắng đừng sử dụng quá nhiều các câu trả lời trung gian không xác định, kiểu

nhƣ "tôi không biết", "một cái gì đó trung gian" v.v... 3. HÃY TRẢ LỜI TẤT CẢ CÁC CÂU HỎI MỘT CÁCH BẮT BUỘC THEO THỨ TỰ, KHÔNG BỎ QUA THỨ GÌ

Có thể là một vài câu hỏi đối với bạn tỏ ra là không phù hợp lắm, nhƣng cả trong trƣờng hợp này bạn hãy cố gắng tìm ra câu trả lời tốt nhất, chính xác nhất. Một vài câu hỏi có thể mang tính cá nhân, nhƣng bạn có thể tin tƣởng là câu trả lời của bạn sẽ không bị tiết lộ. Các câu trả lời chỉ có thể đƣợc giải mã nhờ sự trợ giúp của "chìa khóa" đặc biệt, nằm trong tay của ngƣời tiến hành thử nghiệm. Hơn nữa, các câu trả lời cho từng câu hỏi riêng biệt nói chung sẽ không đƣợc xem xét: chúng ta chỉ quan tâm đến các chỉ số đã đƣợc tổng quát hóa mà thôi.

4. HÃY TRẢ LỜI TRUNG THỰC VÀ CHÂN THÀNH Bạn hãy đừng cố gắng gây ấn tƣợng tốt bằng các câu trả lời của mình, chúng phải phù hợp với thực tế. Trong trƣờng hợp này:

1) Bạn có thể nhận biết bản thân tốt hơn; 2) Bạn sẽ giúp chúng tôi rất nhiều trong công trình của chúng tôi. Xin cảm ơn bạn

trƣớc vì bạn đã giúp chúng tôi trong việc xây dựng phƣơng pháp nghiên cứu. Chúng tôi xin đề nghị bạn không lật trang giấy khi không đƣợc phép.

3

PHIẾU THĂM DÒ SỐ 1

a) đúng b) khó nói

b) đôi khi c) không a) đúng

1. Tôi nghĩ rằng trí nhớ của tôi hiện nay tốt hơn trƣớc c) không 2. Tôi hoàn toàn có thể sống một mình, xa cách mọi ngƣời 3. Nếu nhƣ tôi nói rằng bầu trời nằm "bên dƣới" và rằng mùa đông "nóng nực", thì tôi sẽ gọi kẻ phạm tội là:

a) tên cƣớp b) vị thánh c) mây đen

4. Khi nằm xuống ngủ

a) tôi thiếp đi nhanh b) giữa chừng c) tôi thiếp đi một cách khó khăn

5. Nếu nhƣ lái xe trên đƣờng có nhiều xe lƣu hành, tôi thích:

a) nhƣờng cho đa số xe qua b) không biết c) vƣợt qua tất cả các xe đi trƣớc

6. Khi tụ họp tôi để cho ngƣời khác đùa cợt và kể đủ loại chuyện

a) đúng b) đôi khi c) không

7. Đối với tôi là quan trọng, sao cho ở mọi nơi xung quanh tôi không có sự lộn xộn

a) chính xác b) khó nói c) không chính xác

b) đôi khi c) không a) đúng

8. Đa số mọi ngƣời, thƣờng hay chơi trong nhóm với tôi, chắc chắn là vui mừng khi gặp tôi 9. Đúng ra là tôi nên tập môn:

a) đấu kiếm và khiêu vũ b) khó nói c.) vật và bóng rổ

a) đúng c) không

a) luôn luôn b) đôi khi c) hiếm khi

a) đúng

10. Tôi cảm thấy buồn cƣời vì những gì ngƣời ta làm hoàn toàn không giống những gì mà sau này ngƣời ta kể về chúng b) đôi khi 11. Đọc về một chuyện gì đó xảy ra tôi quan tâm đến tất cả các tình tiết 12. Khi bạn bè trêu chọc, tôi thƣờng cƣời đùa cùng với họ và hoàn toàn không bực tức. b) không biết c) không đúng 13. Nếu nhƣ bị ai đó nói lời tục tằn, tôi có thể nhanh chóng quên ngay chuyện đó.

a) chính xác b) tôi không biết c) không chính xác

14. Tôi thích nghĩ ra những phƣơng pháp mới trong việc thực hiện một công việc gì đó hơn là duy trì các cách làm cũ.

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

4

a) chính xác b) đôi khi c) không

15. Khi lập kế hoạch cho một việc gì đó, tôi thích tự mình làm không cần đến sự giúp đỡ của ngƣời khác. l6. Tôi nghĩ là tôi nhạy cảm và dễ xúc động hơn đa số mọi ngƣời c) không chính xác a) chính xác b) khó trả rời

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

17. Những ngƣời không thể nhanh chóng đƣa ra quyết định làm cho tôi khó chịu

Hết cột thứ nhất trong bảng in sẵn-dành cho các câu trả lời

18. Thỉnh thoảng, có khi nhất thời trong tôi xuất hiện những cảm giác bực mình với cha mẹ

a) có c) không

b) không biết 19. Đáng ra tôi nên tiết lộ những ý nghĩ thầm kín của mình

a) cho các bạn thân của tôi b) không biết c) vào cuốn nhật ký

a) không cẩn thận b)kỹ càng c)tƣơng tự

b) khó nói c) không a) đúng

20. Tôi nghĩ là câu nói đứng ngƣợc theo nghĩa đối chọi của câu "không chính xác" là: 21. Tôi luôn có đủ sức lực khi tôi cần nó 22. Những ngƣời làm tôi rất khó chịu, đó là những ngƣời

a) làm ngƣời khác ngƣợng chín ngƣời vì những câu đùa thô lỗ b) khó nói c) tạo ra cho tôi những bất tiện khi chậm trễ đến nơi hẹn ƣớc trƣớc

23. Tôi rất thích mời khách đến chơi và làm họ vui

a)chính xác b) tôi không biết c) không chính xác

24. Tôi nghĩ rằng

a) không phải mọi thứ đều phải làm cẩn thận nhƣ nhau b) khó nói c) việc bất kỳ nào cũng phải thực hiện cẩn thận nếu bạn đã nhận làm

25. Tôi luôn luôn phải vƣợt qua sự bối rối

b) có thể c) không

a) đúng 26. Các bạn tôi thƣờng a) hỏi ý kiến tôi b) hỏi ý kiến và cho lời khuyên c) cho tôi lời khuyên

27. Nếu một ngƣời bạn lừa dối tôi những chuyên vặt vãnh, chắc là tôi sẽ làm ra vè nhƣ không biết gì, hơn là vạch mặt anh ta b) không c) không a) đúng

5

28. Tôi thích ngƣời bạn:

a) có sở thích mang tính công việc và thực tế b) không biết c) khác biệt bởi các quan điểm sâu sắc về cuộc sống

29. Tôi không thể bình tâm nghe ngƣời khác phát biểu ý kiến đối nghịch với những điều mà tôi tin tƣởng vững chắc.

a) chính xác b) khó trả lời c) không chính xác

a) đúng b) không biết

c) môn ném gậy

30. Những hành động và lỗi lầm trong qáu khứ làm tôi lo lắng c) không 31. Nếu nhƣ tôi chơi giỏi nhƣ nhau cả môn này lẫn môn kia, thì tôi thích chơi hơn môn: a) đánh cờ b) khó nói 32. Tôi thích những ngƣời cởi mở, ƣa quảng giao hội hè a) đúng b) không biết c) không 33. Tôi cẩn thận và thực tế đến độ mà tôi ít gặp những bất ngờ khó chịu hơn so với ngƣời khác.

a) đúng b) khó nói c) không

34. Tôi có thể quên đi những lo âu và trách nhiệm khi tôi cần thế.

a) đúng b)đôi khi c)không

Hết cột thứ hai trong bảng in sẵn dành cho các câu hỏi

35. Tôi có lúc thấy khó thú nhận rằng tôi đã không đúng. b) đôi khi c) không a) đúng

36. Trong xí nghiệp tôi thấy thú vị hơn khi đƣợc:

a) làm việc với máy móc cơ khí và tham gia sản xuất chính b) khó nói c) làm công tác xã hội, trò chuyện với mọi ngƣời

37. Từ nào không gắn kết với hai từ kia

a) con mèo cái b) ở gần c) mặt trời

38. Sự việc mà ở mức độ nào đó làm tôi mất chú ý:

a) nó làm tôi bực tức b) cái gì đó nửa nọ nửa kia c) nó hoàn toàn không làm phiền lòng tôi

39. Giá nhƣ tôi đã có nhiều tiền, thì tôi:

a) sẽ lo đến việc để không gây cho mình sự ganh ghét b) không biết c) sẽ sống mà không tằn tiện với mình một chút gì cả

6

40. Sự trừng phải nặng nề nhất đối với tôi là:

a) phải làm việc cực khổ b) không biết c) giam mình trong cô đơn

b) đôi khi c) không a) đúng

41. Con ngƣời cần phải đòi hỏi sự chấp hành các luật lệ đạo đức nhiều hơn so với việc họ đang làm bây giờ. 42. Mọingƣời nói với tôi rằng khi còn nhỏ:

a) tôi là một đứa trẻ trầm tính và thích chơi một mình b) không biết c) là một đứa trẻ sống động và linh hoạt

a) đúng c) không b) không biết

b) khó nói c) không

a) chính xác b) khó nói c) không chính xác

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

43. Tôi thích công việc thực tế hàng ngày với các máy móc thiết bị khác nhau. 44. Tôi nghĩ rằng, đa số những ngƣời làm chứng đều nói lên sự thật, thậm chí cả khi điều đó không dễ dàng cho họ. a) đúng 45. Đôi khi tôi không quyết tâm đƣa vào cuộc sống các ý tƣởng của mình, bởi vì tôi cảm thấy chúng là không thể thực hiện đƣợc. 46. Với các câu chuyện đùa, tôi cố gắng không cƣời to nhƣ đa số mọi ngƣời vẫn làm vậy 47. Tôi không bao giờ cảm thấy mình bất hạnh đến nỗi muốn khóc. 48. Trong âm nhạc, tôi thích thƣờng thức:

a) các hành khúc do quân nhạc biểu diễn b) không biết c) độc diễn vĩ cầm 49. Tôi thích nghỉ hai tháng hè:

a) ở nông thôn với 1-2 ngƣời bạn b) khó nói c) dẩn dầu đoàn du lịch ở trại nghỉ

50. Những nỗ lực bỏ ra cho việc lập kế hoạch

a) không bao giờ là thừa b) khó nói c) không cần thiết phải bỏ ra

51. Những hành vi và ý kiến thiếu suy nghĩ của các bạn tôi nhắm vào tôi không làm tôi giận và buồn bực. a) chính xác b) không biết c) không chính xác

7

Hết cột thứ ba trong bảng in sẵn dành cho các câu hỏi

a) luôn luôn b) đôi khi c) ít khi

52. Khi tôi thành công mọi thứ, tôi thấy công việc thật nhẹ nhàng. 53. Tôi thích làm việc:

a) trong cơ quan, nơi tôi lãnh đạo mọi ngƣời và luôn ở trong đội ngũ của họ b) khó trả lời c) nhƣ một kiến trúc sƣ hoạch định đồ án của mình trong căn phòng yên tĩnh\

54. Ngôi nhà đối với một cái phòng, thì giống nhƣ cây:

a) đối với rừng b) đối với thực vật c) đối với lá

55. Tôi không thành công với những thứ tôi đƣơng làm. b) đôi khi c) thƣờng xuyên a) ít khi

Trong đa số công việc, tôi:

a) thích mạo hiểm b) không biết c) thích hành động chắc chắn

57. Có lẽ một vài ngƣời cho rằng tôi nói quá nhiều.

a) chắc là vậy b) không biết c) tôi nghĩ là không

58. Tôi thích con ngƣời:

a) có trí thông minh, cho dù thậm chí anh ta không tin cậy đƣợc và hay thay đổi b) khó nói c) có những khả năng thuộc loại trung bình, nhƣng lại biết đứng vững trƣớc mọi cám

dỗ 59. Tôi ra quyết định:

a) nhanh hơn nhiều ngƣời b) không biết c) chậm hơn đa số mọi ngƣời

60. Tôi bị gây ấn tƣợng bởi:

a) tài năng và sự kiều diễm b) khó nói c) sức mạnh và sự dũng mãnh

61. Tôi cho rằng, tôi là ngƣời có thiên hƣớng hợp tác

a) đúng b) giữa đúng và không c) không

b) không biết c) không a) đúng

62. Tôi thích nói chuyện với những ngƣời tao nhã và nhẹ nhàng hơn là với những ngƣời cởi mở và thẳng tính 63. Tôi thích:

a) tự giải quyết các vấn đề có liên quan đến bản thân mình b) khó trả lời c) hỏi ý kiến bạn bè

8

a) chính xác b) không biết

b) không biết a) bài giảng c) đọc sách

c) không chính xác a) chính xác b) đôi khi

64. Nếu nhƣ có ngƣời không trả lời ngay sau khi tôi nói với anh ta một điều gì đó, thì tôi có cảm giác chắc chắn là tôi đã nói gì đó ngu xuẩn c) không chính xác 65. Những năm học phổ thông, tôi nhận đƣợc lƣợng kiến thức nhiều hơn cả từ: 66. Tôi trốn tránh công tác xã hội và những trách nhiệm liên quan đến nó: 67. Khi có vấn đề cần giải quyết rất khó khăn và đòi hỏi nhiều cố gắng, tôi:

a) làm công việc khác b) khó trả lời c) một lần nữa cố giải quyết vấn đề này

68. Trong tôi xuất hiện những cảm xúc mạnh: lo âu, tức giận, buồn cƣời và v.v… có vẻ nhƣ không có nguyên nhân nhất định a) đúng c) không

b) đôi khi Hết cột thứ tư trong bảng in sẵn dành cho các câu hỏi

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

a) đúng c) không

a) 10 c) không b) 5

b) tôi không biết c) không a) đúng

c) không a) đúng

a) chính xác b) tôi không biết c) không chính xác

69. Thỉnh thoảng tôi tiếp thu kém hơn bình thƣờng 70. Tôi thú vị đƣợc làm ơn cho ngƣời khác khi đồng ý hẹn gặp anh ta vào thời điểm thuận lợi cho anh ấy ; thậm chí bất lợi một chút cho tôi: b) đôi khi 71. Tôi nghĩ rằng, con số đúng có thể tiếp nối dãy chữ số 1, 2, 3, 6, 5 sẽ là; 72. Đôi khi tôi có cảm giác buồn nôn và chóng mặt một lúc mà không có nguyên nhân nhất định: 73. Tôi thà từ chối các món mình đặt hơn là làm cho những ngƣời phục vụ bàn phải bận tâm quá mức b) đôi khi 74. Tôi sống với ngày hôm nay nhiều hơn so với những ngƣời khác: 75. Trong những chiều tối nghỉ ngơi, tôi thích đƣợc:

a) tham gia nói chuyện vui b) khó trả lời c) ngắm nhìn ngƣời khác nghỉ ngơi và tự mình thƣ giãn

9

a) đúng b) đôi khi c) không

b) tôi không biết a) Cô-lôm-bô c) Pushkin

c) không a) đúng

76. Tôi phát biểu ý kiến của mình không phụ thuộc vào điều đó có bao nhiêu ngƣời có thể nghe thấy ý kiến đó 77. Nếu tôi có thể biến vào quá khứ, tôi sẽ mong đƣợc gặp 78. Tôi buộc phải nén mình để tránh sao cho không dàn xếp công việc của ngƣời khác b) đôi khi 78. Làm trong cửa hàng, tôi thích đƣợc:

a) trang trí tủ kính b) tôi không biết c) làm ngƣời thu ngân .

b) khó nói c) không a) đúng

80. Nếu nhƣ mọi ngƣời nghĩ xấu về tôi, tôi sẽ cố gắng cảm hóa họ mà vẫn tiếp tục xử sự theo nhƣ cách tôi cho là cần thiết. 81. Nếu nhƣ thấy một ngƣời bạn cũ lạnh nhạt và lẩn tránh, tôi:

a) nghĩ ngay "anh ta đang không vui" b) không biết c) băn khoăn vì mình đã xử sự không đúng gì chăng?

82. Mọi bất hạnh đều do những ngƣời gây nên:

a) cứ cố gắng thay đổi mọi cái, thậm chí cả khi đã có những điều kiện thuận lợi để

giải quyết sự việc.

b) không biết c) cự tuyệt những đề xuất mới có nhiều triển vọng.

c) không a) đúng

83. Tôi cảm thấy rất thích thú khi đƣợc kể những tin tức mới ở quê nhà b) đôi khi 84. Tôi không hợp với những ngƣời cẩn thận và nghiêm khắc:

a) đúng b) đôi lúc

c) không đúng 85. Tôi cảm thấy hình nhƣ tôi ít nói hơn mọi ngƣời:

a) chính xác b) không biết c) không chính xác

Hết câu thứ năm trong bảng in sẵn dành cho các câu hỏi

a) chính xác b) đôi khi c) không chính xác

86. Tôi có thể dễ dàng không coi trọng ngƣời khác hơn là ngƣời ta đối với tôi 87. Có những lúc la cà buổi sáng tôi không muốn nói chuyện với ai cả c) không bao giờ a) thƣờng xuyên b) đôi khi

10

b) chạy dùng c) chạy nhanh

b) thỉnh thoảng c) hiếm khi

c) không chính xác a) chính xác b) đôi khi

b) thỉnh thoảng c) không a) đúng

88. Nếu nhƣ các kim đồng hồ gặp nhau, đúng sau mỗi 65 phút đo theo đồng hồ chính xác, thì đổng hồ này: a) chạy chậm 89. Tôi thƣờng cảm thấy buồn: a) thƣờng xuyên 90. Ngƣời ta nói là tôi thích làm mọi thứ theo cách độc đáo của mình 91. Tôi cho rằng cần phải tránh những xúc động không cần thiết vì rằng chúng làm ta mệt mỏi 92. Lúc nhàn rỗi ở nhà tôi thƣởng:

a) nói chuyện phiếm và nghỉ ngơi b) khó trả lời c) làm những việc tôi cho là thú vị

a) đúng c) không

b) thỉnh thoảng. c) không a) đúng

93. Tôi nhút nhát và thận trọng trong việc kết thân với những ngƣời mới. b) thỉnh thoảng 94. Tôi cho rằng, những gì con ngƣời dùng thơ để nói thì cũng có thể thể hiện chính xác bằng văn xuôi 95. Tôi nghi ngờ là những ngƣời mà tôi quan hệ thân thiện có thể trở thành chẳng phải là bạn bè chút nào cả sau khi ở sau lƣng tôi.

a) đúng trong đa số trƣởng hợp b) thỉnh thoảng c) không, hiếm khi

c) không

96. Tôi nghĩ là thậm chí những sự kiện bi thảm nhất sau một năm cũng không để lại trong tâm hồn tôi một dấu vết nào b) đôi khi a) đúng 97. Tôi nghĩ, sẽ thú vị hơn nếu mình là:

a) một nhà tự nhiên học và đƣợc làm việc với cây cối b) khổng biết c) ngƣời đại lý hãng bảo hiểm

b) thỉnh thoảng c) không a) đúng

a) đúng b) khó nói c) không

98. Tôi thấy sợ hãi không có nguyên do và ghê tởm đối với một vài vật dụng, ví dụ với vài con vật và địa điểm nào đó. 99. Tôi thích nghĩ ngợi về vấn đề, làm sao cho thế giới này tốt lên. 100. Tôi thích thi đấu các môn:

a) nơi phải thi đấu tập thể và có đồng đội b) không biết c) nơi từng ngƣời thi đấu cho bản thân mình

11

b) thỉnh thoảng c) không a) đúng

101. Ban đêm tôi hay mơ thấy những giấc mơ hoang tƣởng hoặc vô lí 102. Nếu ở lại nhà một mình, chi sau một lúc tôi có cám giác lo lắng và sợ hãi b) đôi khi c) không a) đúng

b) thỉnh thoảng c) không a) đúng

c) nghe thấy b) nhìn thấy a) suy nghĩ

Hết cột thứ sáu trong bảng in sẵn dành cho các câu hỏi 103. Tôi có thể bằng mối quan hệ thân thiện làm ngƣời khác nhầm lẫn, cho dù thực tế là tôi không thích họ 104. Từ nào không có quan hệ với hai từ kia 105. Nếu nhƣ mẹ của Maria là chị của cha của Alexander, thì Alexader sẽ là ai đối với cha của Maria a) anh em họ b) cháu (của chú bác, cô dì) c) chú bác

12

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN SỐ 2

Các em hãy đánh dấu (+) vào phiếu trả lời số 2 tương ứng với từng câu. Nếu ý của câu trùng với ý nghĩ cùa các em thì đánh dấu + vào câu tương ứng của các em (nếu các em không đ ồ n g ý thì không đánh dấu +). 1. Tất cả mọi ngƣời đều nghĩ về mọi điều một cách khoan hậu, rộng rãi. 2. Có ấn tƣợng về môi trƣờng xung quanh. 3. Biết ra lệnh. 4. Biết đòi cho đƣợc theo ý mình. 5. Cảm giác có lòng tự trọng. 6. Không phụ thuộc. 7. Bản thân có khả nâng tự chăm sóc minh. 8. Có thể xuất hiện sự lãnh đạm. 9. Có khả năng thành ngƣời khắc nghiệt. 10. Là ngƣời nghiêm nghị nhƣng công bằng. 11. Có thể trở thành ngƣời chân thật. 12. Tính phê phán ngƣời khác. 13. Rất hay khóc. 14. Thƣờng hay buồn. 15. Có thể xuất hiện sự thiếu tự tin. 16. Thƣờng xuyên tuyệt vọng (chán đời). 17. Có khả năng tự phê bình chính mình. 18. Có khả năng thừa nhận sự phi lý của bản thân. 19. Sẵn sàng bị chinh phục. 20. Dễ nhƣờng nhịn. 21. Khẳng khái. 22. Là ngƣời cảm phục và khuynh hƣớng bắt chƣớc. 23. Là ngƣời chính đáng. 24. Tìm kiếm sự tán đồng. 25. Có khả năng hợp tác. 26. Mong muốn sống hòa thuận với những ngƣời xung quanh. 27. Là ngƣời có thiện ý. 28. Là ngƣời chu đáo (ân cần). 29. Tế nhị (lịch sự). 30. Là ngƣời hay tán thành. 31. Có lòng từ tâm nếu có sự kêu gọi giúp đỡ. 32. Là ngƣời không vụ lợi. 33. Có khả nâng tạo ra sự thán phục. 34. Có sự thán phục. 35. Có tài lãnh đạo. 36. Thích tính trách nhiệm. 37. Tin cƣởng vào bản chân! 38. Tự tin và kiên trì. 39 Tháo vát và thực tế. 40. Thích thi tài.

13

41. Nghiêm khắc (nghiêm nghị) khất khe nếu thấy cần thiết. 42. Khắc nghiệt nhƣng không thiên vị. 43. Dễ nổi nóng (tức giận). 44. Là ngƣời cỏi mở và trực tính (ngay thẳng). 45. Không chịu đƣợc khi bị ngƣời khác sai khiến (điều khiển). 46. Là ngƣời hoài nghi (đa nghi). 47. Khó gây ấn tƣợng với ngƣời khác. 48. Dễ mếch lòng (dễ giận), (quá cẩn thận). 49. Dễ bị lúng rúng, bối rối. 50. Không tin tƣởng vào bản thân. 51. Dễ nhân nhƣợng. 52. Ngƣời khiêm tốn. 53. Thƣờng xuyên nhận sự giúp đỡ của ngƣời khác. 54. Rất kính nể uy tín. 55. Sẵn lòng liếp nhận lời khuyên. 56. Là ngƣời tin cậy (tin tƣởng), mong muốn làm vui lòng ngƣời khác 57. Thƣờng xuyên lịch thiệp (dễ mến, tử tế) trong đối xử. 58. Coi trọng ý kiến xung quanh. 59. Cởi mở (chan hòa), thuận hòa. 60. Có lòng tốt (thiện tâm, hảo tâm, tốt bụng). 61. Hiền lành, gây niềm tin. 62. Dịu dàng, vị tha (nhân ái, nhân hậu). 63. Thích chăm sóc ngƣời khác. 64. Vô tƣ, hào hiệp, rộng rãi (hào phóng, dễ dãi). 65. Thích khuyên bảo ngƣời khác. 66. Là ngƣời gây ấn tƣợng mạnh. 67. Hách dịch, ra lệnh (sai khiến, mệnh lệnh). 68. Là ngƣời có quyền lực. 69. Là ngƣời huênh hoang. 70. Kiêu ngạo, tự mãn. 71. Chỉ nghĩ về bản thân. 72. Ranh mãnh, tằn tiện (thận trọng, tính toán chi li, tằn tiện). 73. Không chịu đƣợc sự kiểm điểm của ngƣời khác. 74. Tƣ lợi. 75. Cởi mở. 76. Thƣờng xuyên có ác cảm. 77. Hay cáu. 78. Phàn nàn. 79. Hay ghen. 80. Nhớ rất lâu sự xúc phạm cùa ngƣời khác. 81. Có khuynh hƣớng tự hành hạ. 82. Rụt rè. 83. Thụ động. 84. Nhu mì. 85. Phụ thuộc, không tự lập.

14

86. Thích bị chinh phục. 87. Trao cho ngƣời khác quyền quyết định. 88. Dễ rơi vào tình thế khó xử. 89. Dễ rơi vào ảnh hƣởng của bạn bè. 90. Dễ tin cậy (tín nhiệm phó thác) ngƣời khác. 91. Ra lệnh cho ngƣời khác. 92. Có thiện cảm với tất cả. 93. Thứ lỗi tất cả (xá tội, xin lỗi), tha thứ tất cả. 94. Tràn đầy sự cảm thông (đồng cảm, thƣơng cảm). 95. Khoan dung (độ lƣợng), chịu đựng những thiếu xót, nhƣợc điểm. 96. Mong muốn che chở, bảo vệ ngƣời khác. 97. Khao khát vƣơn tới thành tích. 98. Mong đợi sự khâm phục của mọi ngƣời. 99. Điều khiển ngƣời khác. 100. Chuyên quyền. 101. Chuộng mốt phù hoa (nhận xét theo cấp bậc và thu nhập, chứ không theo phẩm chất tâm lý). 102. Thích danh vọng. 103. Ích kỷ. 104. Vô tình. 105. Châm chọc (xỏ xiên, châm chích), hay giễu cợt (chế nhạo), nhạo báng. 106. Giận dữ, thô bạo. 107. Thƣờng xuyên tức giận. 108. Lãnh đạm, đa nghi, thờ ơ (dửng dƣng). 109. Hay để bụng. 110. Thấm nhuần tinh chần phàn kháng. 111. Bƣớng bỉnh (ngang ngạnh, ngang bƣớng) 112. Không tin cậy (thiếu tin tƣởng), đa nghi. 113. Rục rè, nhút nhát. 114. Bẽn lẽ (cả thẹn, thẹn thò, ngƣợng ngùng). 115. Mềm yếu (nhu nhƣợc, bạc nhƣợc). 116. Có đặc tính sẵn sàng (quá mức) khuất phục.. 117. Chƣa bao giờ phản đối ngƣời khác. 118. Là ngƣời không làm phiền (quấy nhiễu) ngƣời khác. 119. Rất thích bảo trợ ai đó. 120. Cả tin quá mức. 121. Mong muốn giành đƣợc thiện cảm của mọi ngƣời. 122. Tán thành tất cả. 123. Thƣờng xuyên thân thiện với mọi ngƣời. 124. Yêu mến tất cả. 125. Thƣờng xuyên thân thiện (thân ái), yêu tất cả mọi ngƣời. 126. Cố gắng an ủi mọi ngƣời. 127. Chăm sóc cả ngƣời gây thiệt hại cho mình. 128. Hại ngƣời khác do sự hảo tâm quá mức.

15

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN SỐ 3

Hướng dẫn: Các bạn hãy tham gia nghiên cứu bầu không khí tâm lý trong lớp của mình. Để trả lời các câu hỏi dưới đây, các bạn phải:

1- Đọc thật kỹ các phương án trả lời 2- Hãy chọn một phương án trả lời phù hợp nhất với ý kiến của bạn và đánh dấu (+) vào trước câu trả lời này.

1- Tình thế phù hợp nhất đối với lớp của bạn: a- Phần lớn các thành viên trong lớp của tôi là những ngƣời tốt và dễ chịu. b- Trong lớp của tôi có đủ loại ngƣời. c- Phần lớn những ngƣời trong lớp là những ngƣời khó chịu. 2- Bạn hãy chú ý thang đánh giá dƣới đây. Số 1 ứng với tập thể lớp mà bạn thích nhất số 9 ứng với cập thể lớp mà bạn không thích nhất. Bạn đang ở trong tập thể lớp ứng với số nào dƣới đây

3- Thang điểm dƣới đây cho phép đánh giá bầu không khí thƣờng xuyên trong lớp của bạn. Số 1 ứng với bầu không khí khó chịu và không thân thiện. Ngƣợc lại, số 9 ứng với bầu không khí tƣơng trợ và tôn trọng lẫn nhau v v...Vậy bầu không khí trong lớp của bạn ứng với số: 8

1 2 3 4 5 6 7 8 9

3 5 4 6 9 1 2 7

4- Bạn hãy cho biết, nếu các thành viên trong lớp gần gũi nhau hơn thì điều đó có tốt

hơn không?

a- Tất nhiên là không, b- Có lẽ là không. c- Không biết, tôi chƣa nghĩ về điều này. d - Có lẽ là có. e- Tất nhiên là có. 5- Nếu nhƣ bạn có cơ hội đi nghỉ cùng với các thành viên của lớp, thì thái độ của Bạn

về đề này là:

a- Hoàn toàn hài lòng. b- Không biết, tôi chƣa nghĩ tới điều này. c- Hoàn toàn không có ý định làm điều này. 6- Nếu vì một lý do nào đó mà bạn nghỉ học khá lâu, bạn có mong muốn gặp gỡ các

bạn cùng lớp không?

a- Tất nhiên là muốn. b- Cũng muốn. c- Khó trả lời. d- Không muốn lắm. (xem tiếp trang sau)

16

e- Tất nhiên là không.

7. Bạn hoàn toàn tin tƣởng nhận xét về công việc của phần lớn các thành viên trong lớp.

a- Không, tôi không thể. b- Khó nói, tôi chƣa suy nghĩ về điều này. c- Vâng tôi có thể 8- Bạn có biết những tính cách khá đầy đủ về:

Có Có lẽ có Không

Có lẽ không

Không biết, tôi chƣa nghĩ về điều nàv

Các phẩm chất về công việc của phần lớn các thành viên trong lớp lóa Các phẩm chất cá nhân của phần lớn các thành viên trong lớp.