Báo cáo Tổng kết Chương trình

Tình nguyện Bảo tồn Rùa biển Côn Đảo năm 2014 Lê Thị Thanh Thủy

Rùa con trở về biển.Việt Nam©Vũ Hoài Nam,2014

TỔ CHỨC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN QUỐC TẾ

MỤC LỤC

NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ ........................................................................................ 5

KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG TRÌNH ..................... 6

1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình ....................................... 6

2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình ...................................................... 8

3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển .................... 9

4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển ........... 10

5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình........................................ 12

6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên ............................................................................................................................ 12

7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa ........................................................... 14

8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình ......................................... 14

9. Tài chính .............................................................................................................. 15

11. Kết luận về tổng thể chương trình ...................................................................... 17

12. Ảnh hưởng của chương trình ............................................................................. 17

NHẬT KÝ CHƯƠNG TRÌNH ......................................................................................... 19

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ..................................................................................... 21

PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 26

TÓM TẮT ........................................................................................................................ 3

2

TÓM TẮT

Trong khuôn khổ Dự án “Bảo tồn bải đẻ của rùa biển có sự tham gia của cộng đồng tại Việt Nam” do Cơ quan Dịch vụ về Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ (US FWS) tài trợ, Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã phối hợp với Ban quản lý Vườn quốc gia Côn Đảo tổ chức chương trình tình nguyện viên (TNV) tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại Côn Đảo năm 2014. Chương trình gồm 4 đợt với 23 TNV tham gia cụ thể như sau:

 Đợt 1: Từ ngày 08 - 12/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm Bảy Cạnh (03 ngày).

 Đợt 2: Từ ngày 26 - 30/7/2014, có 06 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm Bảy Cạnh (03 ngày).

 Đợt 3: Từ ngày 26 – 30/8/2014, có 05 TNV tham gia. Địa điểm thực hiện: Trạm kiểm lâm Hòn Tài 03 TNV và Trạm kiểm lâm Hòn Tre Lớn 02 TNV (03 ngày)

 Đợt 4: từ ngày 26/8 - 04/9/2014, có 06 TNV tham gia, địa điểm thực hiện Trạm kiểm lâm Bảy Cạnh (08 ngày).

Kết thúc chương trình, các TNV cho rằng đây là một chương trình có ý nghĩa, đã cung cấp cho TNV nhiều thông tin về công tác cứu hộ bảo vệ rùa biển tại Côn Đảo, góp phần nâng cao nhận thức và giáo dục ý thức cộng đồng. 87.5% TNV cho rằng chương trình đã đáp ứng được 90- 100% mong đợi của họ. 12.5% cho rằng đã đáp ứng được 70-80%. Các cán bộ tổ chức và điều phối tại hiện trường đã hỗ trợ chương trình nhiệt tình, kịp thời và chuẩn bị chu đáo. Về tài chính, minh bạch, rõ ràng. Hầu hết các TNV đều nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm và tâm huyết với công việc.

Tuy nhiên, do lần đầu tiên tổ chức, chương trình không tránh khỏi những thiếu sót và cần xem xét, khắc phục những vấn đề sau:

 Khi kêu gọi TNV, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận mỗi đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông tin về chương trình khác nhau, nên nếu xét hồ sơ theo tiêu chí ưu tiên người đến trước thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lỡ những ứng viên phù hợp với chương trình.

 Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV. Mẫu đơn nên bổ sung thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân nặng, tình trạng sức khoẻ) để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm đương công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình nghiêm tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về một hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình nguyện viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế nào?”

 Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn. Nên

3

đặt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần.

 Thời gian: nên kéo dài thời gian tình nguyện tại các trạm bảo tồn rùa biển hoặc tận dụng triệt để thời gian thực hiện chương trình. Hiện tại, chương trình 5 ngày gồm 2 ngày là ngày đi lại, chỉ có 3 ngày là thực chất làm việc. Hay chương trình 10 ngày nhưng chỉ có 8 ngày sống và trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa ở Côn Đảo.

 Các tài liệu, thông tin về rùa biển và thông tin về địa điểm tình nguyện (như Hòn Bảy Cạnh, Hòn Tre Lớn) cần được gửi trước và gửi sớm cho TNV để nghiên cứu tìm hiểu trước, từ đó chuẩn bị hành lý và vật dụng mang theo phù hợp.

 Khâu tổ chức cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa IUCN và VQG Côn Đảo để thông tin được thông suốt, tránh hiểu lầm cho TNV.

 Nên có những chuyên gia về rùa biển cùng tham gia phối hợp để có thể truyền đạt những kiến thức sâu hơi về rùa, cùng với đó là những kỹ năng chăm sóc và cứu hộ rùa bị thương để TNV có thể kịp thời ứng phó với nhiều tình huống thực tế.

 BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội hơn.

Các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Lực lượng kiểm lâm còn mỏng trong khi các áp lực khai thác rùa biển trái phép vẫn gia tăng. Các tour du lịch trên các đảo nhỏ chưa được kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Trong các tour du lịch xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển tốt hơn, lan rộng hơn. Khi được hỏi động lực tham gia chương trình, 81.25% TNV cho rằng mong muốn được hiểu biết về rùa biển là động lực quan trọng nhất để họ đăng ký tham gia. 25% TNV cho rằng những trải nghiệm trong cuộc sống khó khăn thôi thúc họ đăng ký tham gia chương trình nhất. Và 18.75% cho rằng địa điểm chương trình ở Côn Đảo là yếu tố hàng đầu khiến họ đăng ký tham gia. Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và 12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình. Tất cả TNV đều đồng ý nên nhân rộng chương trình và tiếp tục cho các năm sau. “IUCN và VQG Côn Đảo đã cho chúng tôi một cơ hội vô cùng tuyệt vời, đây là một trong những chương trình vô cùng ý nghĩa và thú vị mà tôi từng được tham gia. Tôi tin đây cũng là một trải nghiệm tuyệt vời cho tất cả các bạn tình nguyện. Mong rằng những chương trình như thế này được nhân rộng, nhiều người được tham gia hơn” – TNV Đỗ Thị Thu Hà tham gia chương trình từ ngày 8 – 12/7/2014 chia sẻ.

4

NHỮNG CON SỐ THỐNG KÊ

Thông báo Tuyển TNV được đăng tải lần đầu trên website của IUCN và VQG Côn Đảo vào ngày 22 tháng 5 năm 2014. Trong vòng 1 tháng, đến ngày 20 tháng 6 năm 2014, Ban tổ chức (BTC) đã nhận được hơn 500 phiếu đăng ký tham gia

Tổng số TNV tham gia là 23 người. Thành phần TNV gồm: 10 nam, 13 nữ. Trình độ: Có 03 TNV là học sinh PTTH, 03 TNV là sinh viên Đại học và 17 TNV đã tốt nghiệp Đại học và đang làm việc. Quốc tịch: Việt Nam, có 19 TNV công tác ở Việt Nam, 04 TNV học tập và công tác ở nước ngoài (Anh, Mỹ, Đức và Thái Lan).

Qua các đợt, TNV tham gia công tác cứu hộ Rùa biển tại các đảo nhỏ đã thực hiện di dời an toàn 96 tổ, tổng số 7.429 trứng; kiểm tra, vệ sinh 106 tổ rùa sau khi nở, thả về biển 8.433 cá thể rùa con

Ngoài ra, các TNV còn tham gia 13 lượt tuần tra bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đồng thời hướng dẫn và giới thiệu về bảo vệ các loài Rùa biển cho 12 lượt khách xem rùa đẻ trứng và 217 lượt khách tham quan du lịch đến khu vực

Rùa con mới nở tại Côn Đảo.Việt Nam©Ngô Bảo Ngọc,2014

5

KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CỦA TÌNH NGUYỆN VIÊN SAU CHƯƠNG TRÌNH

Đại diện Tình nguyện viên, BQL VQG Côn Đảo và IUCN ©Vũ Hoài Nam,2014

Sau khi tham gia chương trình, các tình nguyện viên đã được yêu cầu điền vào phiếu đánh giá và sau đây là kết quả tổng hợp các phiếu đánh giá này:

1. Những kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình

“Trước khi tham gia chương trình, tôi chưa bao giờ nghĩ loài rùa đang trong nguy cơ tuyệt chủng. Tôi vẫn nghĩ loài rùa là một loài lâu năm, và vẫn có một thế giới bình thường ngoài đại dương kia. Tôi vẫn nghĩ những nơi có loài rùa lên đẻ trứng là ở các quần đảo xa xôi như Indonesia, Australia…, và ở Việt Nam mình chỉ có những loài như ba ba, hay những con rùa cảnh nuôi trong nhà, và to nhất có lẽ là cụ rùa ở Hồ Gươm. Sau khi tham gia chương trình, tôi mới biết loài rùa đang đối mặt với những mối nguy hiểm như thế nào. Con người đang săn bắt loài rùa với số lượng lớn như thế nào…” – TNV Nguyễn Anh Vũ tham gia từ ngày 21 – 26/7/2014 chia sẻ.

Sau khi tham gia chương trình, các TNV đều cho rằng hiểu biết về rùa biển của họ đã tăng lên đáng kể. Khóa tập huấn đầu chương trình giúp họ đã nắm bắt được các thông tin cơ bản về phân loại ruà, tập tính sinh sản và bản năng sinh tồn của rùa biển và những mối đe dọa tới sự tồn tại của rùa biển. Qua những ngày trải nghiệm tại các trạm bảo tồn rùa biển, các TNV đã có cơ hội

6

thực hành những kỹ năng nhận biết tổ đẻ nào thành công hay không thành công từ việc quan sát dấu vết rùa để lại trên mặt cát hay lúc rùa dùng các vây bơi, kỹ năng đào ổ trứng, cách dùng đèn chiếu sáng phù hợp khi thu nhặt rùa nở, di chuyển an toàn ổ trứng rùa về hồ ấp, san lấp ổ đẻ của rùa mẹ, thả rùa con xuống biển, kỹ năng thống kê tỷ lệ rùa nở thành công. Nhiều người đã nhận thức được bảo tồn rùa biển là góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ chính cuộc sống của mình.

Ngoài ra, những ngày sống tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn, các TNV cũng nắm bắt được nhiều thông tin thú vị về các loài động thực vật đa dạng tại Vườn Quốc gia Côn Đảo, biết thêm được những kiến thức hay về thời tiết, khí hậu, đại dương (ví dụ: thời gian thuỷ triều, hệ san hô, các loài cá, thuỷ sinh…). Họ cũng được rèn luyện ý thức tiết kiệm nước sạch trên một hòn đảo, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng điện, các kỹ năng đi rừng và đi trên biển trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt và nguy hiểm.

TNV Nguyễn Vĩnh Lợi tham gia từ ngày 8 – 12/7/2014 cho rằng “Những kỹ năng đi rừng hay đi trên biển sẽ giúp tôi đến những vùng có điều kiện tương tự, phải luôn biết trang bị đầy đủ các vật dụng gọn nhẹ và thật cần thiết khi đi đến những vùng rừng núi biển đảo xa xôi như việc chuẩn bị võng ngủ, chăn đắp gọn nhẹ, thức ăn dự trữ, nước uống, thuốc chống muỗi, một số loại thuốc thông thường. [...]. Bên cạnh đó tôi còn có cơ hội được khám phá nhiều cảnh đẹp của thiên nhiên, được thử sức mình khi sống trong môi trường biển đảo”.

Đặc biệt các TNV rất khâm phục tinh thần làm việc nghiêm túc, nhiệt tình, hết mình vì công việc của các chiến sỹ kiểm lâm tại các Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn. Dù điều kiện làm việc còn nhiều thiếu thốn nhưng các anh luôn lạc quan, có trách nhiệm với công việc.

“Chuyến đi mang lại cho bản thân tôi và các bạn đồng hành không chỉ là kiến thức về rùa biển, mà còn nhiều hiểu biết khác về môi trường sinh thái, về kỹ năng sống, nhìn thấy nhiều đời sống khác và giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều về ý nghĩa cuộc sống. …Vượt qua tất cả những điều đó, các anh vẫn vững vàng với trách nhiệm công việc, nếu như không phải có kỷ luật với bản thân mình thì không phải ai cũng có thể làm được như vậy. Không những vậy, các anh cũng rất lạc quan, bữa ăn nào cũng đầy ắp tiếng cười. Tuy vậy, đến lúc làm việc, phân công công việc hay lúc họp hành thì các anh lại rất nghiêm túc và chỉn chu. Điều đó khiến tôi càng thêm khâm phục các anh và càng thấy rằng việc được đến đây, cùng làm việc, chia sẻ khó khăn và cùng làm cho khoảng thời gian ngắn ngủi với các anh vui nhất có thể là một may mắn và là một điều vô cùng ý nghĩa đối với bản thân mình”_ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia từ ngày 26 – 20/8/2014 tâm sự.

Đối với các bạn sinh viên trẻ, chương trình đã tạo cơ hội cho họ trau dồi thêm cả kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, phân bổ thời gian, có thêm nhiều người bạn tốt và có động lực phấn đấu trong cuộc sống.

“Chương chình cho tôi biết được sự khó khăn của người khác nhưng họ vẫn cố gắng, vẫn phấn đấu, giúp tôi có động lực hơn cho cuộc sống sau này”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày 26/8 – 4/9/2014 chia sẻ.

7

Khâu tổ chức chương trình

12.50%

25%

62.50%

2. Đánh giá về khâu tổ chức trước chương trình 87.5% TNV cho rằng khâu tổ chức rất tốt hoặc tốt. Chương trình được thông báo rộng rãi trên các phương tiện, tạo cơ hội công bằng đến cho tất cả mọi người tham gia. BTC đã gửi đầy đủ các thông tin về chương trình làm việc, những vật dụng cần mang theo, nội quy xem rùa biển. Tất cả các bước được thực hiện qua internet, thuận tiện để cho mọi người đăng ký và liên lạc. Tuy nhiên các TNV cũng chỉ ra những mặt chưa tốt trong tổ chức chương trình cùng các góp ý hoàn thiện như sau:

Bình thường

Rất tốt

Tốt

 Việc kêu gọi tuyển TNV nên được thông báo trên nhiều trang cộng đồng hơn nữa.

 Khi kêu gọi, cần nêu rõ tiêu chí lựa chọn TNV cũng như số lượng TNV sẽ được nhận mỗi đợt. Nếu các tiêu chí tuyển chọn được thông báo rõ ràng, các ứng viên có thể tự đánh giá sự đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu của chương trình. BTC cũng có thể giảm áp lực và thời gian chọn lọc các hồ sơ. Hơn nữa, mỗi ứng viên có thời gian tiếp cận với thông tin về chương trình khác nhau, nên nếu xét hồ sơ theo tiêu chí ưu tiên người đến trước thì sẽ rất đáng tiếc vì có thể bỏ lỡ những ứng viên phù hợp với chương trình.

 Mẫu đăng ký còn đơn giản, không khai thác được hết thông tin và khả năng của TNV. Mẫu đơn nên kèm thêm thông tin về thể trạng (chiều cao, cân nặng) tình trạng sức khoẻ để đảm bảo chương trình lựa chọn được những tình nguyện viên đủ sức khỏe đảm đương công việc. Để đánh giá được sự nhiệt tình và mong muốn tham gia chương trình nghiêm tục, mẫu đăng ký cần bổ sung thêm một số câu hỏi như “Hãy kể cho chúng tôi về một hoạt động cộng đồng gần đây của bạn?”, “Bạn sẽ làm gì trong vai trò của một tình nguyện viên”, “kế hoạch truyền thông của bạn sau khi tham gia chương trình như thế nào?”  Thời hạn kết thúc đăng ký sớm hơn so với thông báo ban đầu, làm cho nhiều người muốn đăng ký nhưng không được chấp nhận. Các hạn phản hồi và thời gian gửi hơi ngắn, Nên đặt một kế hoạch làm việc sớm để cả bên tổ chức lẫn TNV có cơ hội sắp xếp công việc tốt và có thời gian chuẩn bị cho chuyến đi, về cả sức khỏe lẫn tinh thần

 Cần thêm 1 số hình ảnh những nơi sẽ đến, 1 buổi gặp nhau trước đó hoặc sau đó để tổng kết, chia sẻ các thông tin, hình ảnh

 BTC nên lựa chọn TNV từ các thành phần xã hội khác nhau, đa dạng độ tuổi để công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức có thể đến được với nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội hơn

8

Tập huấn bảo tồn rùa biển

6.25%

0%

37.50%

56.25%

Bình thường

Rất tốt

Kém

Tốt

3. Đánh giá về khóa tập huấn nâng cao nhận thức và cứu hộ rùa biển 93.75% TNV cho rằng khóa tập huấn rất tốt hoặc tốt. Buổi tập huấn đã cung cấp cho các TNV những thông tin bổ ích về rùa biển từ cách nhận biết các loại rùa đến tập tính sinh sản, bản năng sinh tồn… Chỉ ra các hiểm họa từ thiên nhiên và con người, đe dọa sự sống và duy trì nòi giống của rùa biển. Buổi tập huấn cũng đã cung cấp cho TNV những thông tin tổng quát về các hoạt động bảo tồn rùa biển ở Việt Nam nói chung và ở Vườn Quốc gia Côn Đảo nói riêng. Qua buổi tập huấn, các TNV đã được trang bị những quy định cần thiết và những kinh nghiệm thiết yếu để có thể đảm bảo an toàn cho bản thân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong thời gian thực địa ở các đảo nhỏ. Khóa tập huấn bắt đầu đúng giờ, công tác chuẩn bị chu đáo. Hồ sơ tài liệu đẹp, cụ thể và đủ thông tin cần thiết. Người hướng dẫn nhiệt tình, rõ ràng, dễ hiểu.

Cán bộ VQG Côn Đảo tập huấn kiến thức cứu hộ rùa biển cho TNV ©Đỗ Thị Thu Hà,2014

Tuy nhiên, các TNV yêu cầu:

 Các tài liệu và thông tin về rùa biển nên được gửi cho TNV trước để có thời gian tìm hiểu và đọc kỹ hơn. Từ đó, TNV sẽ có thể chuẩn bị nhiều câu hỏi hơn. Sau buổi tập huấn là

9

lên tàu ra đảo luôn, nhiều khi Tình nguyện viên không đủ thời gian đọc hết tài liệu nếu chỉ được phát trong buổi tập huấn.

 Buổi tập huấn chưa có chi tiết các kỹ năng chăm sóc và cứu hộ (trị thương) cho rùa biển. Trong quá trình làm việc tại các đảo, TNV đã gặp nhiều rùa con bị thương nhưng chưa biết cách trị thương. Buổi tập huấn nên bổ sung những kiến thức và kỹ năng này

 Vì đây là khóa tập huấn nên kinh nghiệm là yếu tố hàng đầu, nhưng về mặt khoa học vẫn còn hạn chế. Một số bài trình bày chưa hấp dẫn, cần được giới thiệu sinh động hơn như thông qua các câu hỏi đố vui

TNV Ngô Tiến Thịnh tham gia từ ngày 21-25/7/2014 bày tỏ: “Theo tôi thì chuyến đi lần này mang tính chất tìm hiểu nhiều hơn so với trợ giúp cán bộ kiểm lâm cứu hộ rùa biển, nếu có một lần nữa vào năm sau thì tôi muốn đóng góp nhiều hơn nữa có thể ở với kiểm lâm lâu hơn nữa như vậy sẽ làm được nhiều việc hơn”.

4. Đánh giá về các hoạt động bảo vệ rùa biển taị các trạm bảo vệ rùa biển

Hoạt động bảo tồn rùa biển tại các đảo

37.50%

62.50%

Rất tốt

Tốt

Tất cả các TNV đều đánh giá các hoạt động bảo vệ rùa biển tại Hòn Bảy Cạnh và Hòn Tre lớn đều tốt hoặc rất tốt. Quá trình chờ đợi rùa đẻ để đào trứng, di dời về tổ ấp được tiến hành hết sức kiên nhẫn, cẩn thận, không gây xáo động cho rùa mẹ và đảm bảo an toàn cho ổ trứng rùa. Công tác đánh dấu ổ trứng và thống kê được tiến hành tuần tự, khoa học. Công tác di dời tổ trứng rất có hiệu quả, đa số các trứng sau khi di dời đều nở, và hầu như không có tổ trứng nào bị bỏ sót.

Các anh kiểm lâm đã làm việc hết mình, không quản khó khăn gian khổ, nhiệt tình, trách nhiệm, công tâm, chính trực. Mặc dù làm việc với cường độ cao nhưng các anh vẫn luôn vui vẻ nhiệt tình chỉ dẫn. Ngoài ra, trong điều kiệu khó khăn trên đảo, các anh đã có những sáng kiến thú vị (như những chiếc hộp để gọi điện thoại).

Trạm kiểm lâm hòn Bảy Cạnh là địa chỉ quan trọng trong công tác bảo tồn rùa biển. Cơ sở vật chất ở đây nhìn chung là kiên cố, các anh có các trang thiết bị cho tác nghiệp từ ca nô, bộ đàm, súng,.. Đây cũng là cơ sở để các hoạt động bảo vệ rùa biển đảm bảo tính an toàn. Trạm có xây dựng các bể chứa nước mưa, bể này đủ cho việc sinh hoạt trong mùa khô. Trạm cũng có sân bóng chuyền, để các anh kiểm lâm tham gia hoạt động rèn luyện sức khỏe, giải trí lúc rảnh rổi.

Mặc dù vậy, các TNV cũng thấy rằng điều kiện sinh hoạt trên trạm còn khá thiếu thốn. Ví dụ: điện thiếu do bình ac quy sử dụng lâu ngày đã giảm chất lượng. Các tour du lịch trên Hòn chưa được kết hợp với công tác tuyên truyền, bảo vệ rùa biển. Tài liệu cho khách du lịch xem và hiểu rõ trước khi tham quan rùa còn hạn chế. Nhiều khách không biết gì về các sinh hoạt của rùa, đặc tính của rùa, dấu vết rùa,…Trong các tour du lịch xem rùa đẻ trứng, nên kết hợp với việc truyền thông bảo vệ rùa biển để công tác bảo vệ rùa biển tốt hơn, lan rộng hơn. Hướng dẫn viên khi

10

hướng dẫn du khách xem rùa đẻ trứng, nên thêm vào các thông điệp về những vấn nạn rùa biển đang gặp phải, cùng với những biện pháp, thông điệp chung tay bảo vệ rùa biển. Có thể Phòng du lịch của VQG nên chuẩn bị tài liệu cho khách.

Lực lượng tham gia công tác bảo vệ rùa biển còn quá mỏng. 7 anh Kiểm lâm ở một trạm (có tới 3 bãi Rùa đẻ) cộng với bảo vệ vùng biển với cả trăm tàu đánh bắt trái phép ngoài biển là quá sức. Các anh làm việc 20/24h hàng ngày, không đảm bảo sức khỏe

Công việc bảo tồn hoàn toàn dựa vào sức người, thiếu các trang thiết bị hỗ trợ. Thiếu thiết bị đọc thẻ gắn trên rùa nên không thể thống kê được các cá thể rùa lên đẻ trứng. Các trạm kiểm lâm nên được trang bị một số dụng cụ hỗ trợ trong công tác hàng ngày, ví dụ đèn pin ánh sáng đỏ để vẫn đảm bảo tầm nhìn nhưng không làm hại mắt rùa con hay làm rùa mẹ hoảng sợ.

Cần cải thiện lại gian nhà ngay cạnh hồ ấp rùa để cán bộ kiểm lâm có thể trực đêm ngay tại hồ, đặc biệt trong điều kiện thời tiết xấu.

Một số nhân viên chưa có kiến thức sâu về rùa biển (do chuyên ngành của họ là kiểm lâm), nên có thêm tài liệu cho các nhân viên tại các trạm. Nên có một đội ngũ chuyên nghiệp tham gia công tác bảo vệ rùa hàng năm vào mùa sinh sản để san sẻ bớt gánh nặng của các cán bộ kiểm lâm. Bên cạnh đó tiếp tục duy trì đội ngũ tình nguyện viên ngắn ngày, tạo tác động lan toả về công tác bảo tồn rùa biển trong cộng đồng.

Rùa con trở về biển ©Ngô Bảo Ngọc,2014

11

Tổ chức hậu cần

43.75%

56.25%

Rất tốt

Tốt

5. Đánh giá về sắp xếp hậu cần trong suốt chương trình Các TNV đều thấy rằng cán bộ VQG đã tổ chức đưa đón, ăn ở rất chu đáo. Phương tiện đưa đón ra sân bay đến đúng giờ, nhanh gọn. Tàu thuyền chở ra các đảo Bảy Cạnh và Hòn Tre Lớn an toàn. Các Trạm kiểm lâm đón tiếp chu đáo, sắp xếp chỗ ăn ngủ tốt, các bữa ăn đảm bảo đủ dinh dưỡng. Tuy nhiên, các TNV đều đồng ý là cần tận dụng tốt hơn nữa thời gian ở đảo của TNV. Chương trình diễn ra trong 5 ngày nhưng TNV chỉ thực sự tham gia được công tác cứu hộ, bảo tồn rùa biển được 3 ngày. Nên thiết kế lại chương trình, sáng đầu tiên có thể tập huấn ngay công tác cứu hộ, bảo tồn rùa biển, và đến chiều thì xuất phát ra Hòn Bảy Cạnh. Như thế TNV có thêm một ngày để thực hiện công tác cứu hộ rùa biển.

Tại các trạm kiểm lâm, có thể sắp xếp TNV tham gia vào tất cả các công việc liên quan đến cuộc sống của một nhân viên tại trạm bảo vệ rùa biển: nấu ăn, tự phục vụ, đi tuần ở các trạm xa.

Thông tin giữa VQG Côn Đảo và IUCN cần phải thống nhất và rõ ràng hơn nữa.

6. Đánh giá về mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm Tình nguyện viên:

Mức độ tương tác giữa các thành viên trong nhóm

6.25%

0%

37.50%

56.25%

Bình thường

Rất tốt

Kém

Tốt

Mặc dù không biết nhau trước nhưng sau một lúc gặp nhau trong chuyến đi các bạn TNV khá thân thiện và rất vui vẻ với nhau. Họ đều cởi mở, vui vẻ nhiệt tình trong sinh hoạt tập thể, có tinh thần trách nhiệm cao khi làm việc. “Tuy chưa quen biết nhau từ trước nhưng rất nhanh chóng thân nhau, phối hợp ăn ý, làm việc nhóm rất tốt, anh nhóm trưởng rất có khả năng lãnh đạo,quan tâm các TNV khác. Mọi người vui vẻ, chia sẻ với nhau về mọi thứ từ công việc đến cuộc sống. Cám ơn chuyến đi này giúp chúng tôi biết nhau và thân thiết như gia đình, học tập lẫn nhau”_TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia từ ngày 26/8 – 4/9/2014 chia sẻ. “Chúng tôi đã nhanh chóng làm quen với nhau và cùng nhau thực hiện tốt chương trình. Sau khi chương trình kết thúc, chúng tôi tiếp tục liên lạc, họp mặt, để cùng thực hiện công tác tuyên truyền sau chương trình. Mọi người vui vẻ, hòa đồng với nhau, tôn trọng nhau, có họp lại sau chuyến đi để phân phối công việc. Chúng tôi dự định cùng tổng hợp các hình ảnh, báo cáo, kế hoạch truyền thông của mọi người để cùng làm 1 master plan, sử dụng chung hình ảnh, bài viết theo 1 quy

12

trình thống nhất, có biên tập hẳn hòi” _ TNV Nguyễn Thị Lê Phương tham gia từ ngày 21- 25/7/2014 chia sẻ

Tuy vậy vẫn có sự bất đồng, không hòa hợp tính dẫn đến làm việc không hiệu quả. 1 tuần sau khi họp nhóm sau chuyến đi, mỗi cá nhân đều không chủ động thực hiện phần việc của mình, tương tác kém do vấn đề địa lý. Tuy đã lập 1 nhóm kín để cùng chia sẻ, post bài, post ảnh, thảo luận nhưng hầu như không ai chủ động thực hiện. Các nhóm sau này nên cần cử ra 1 nhóm trưởng để tập trung thông tin về 1 mối, các anh kiểm lâm và ngoài vườn không cần gọi từng người để thông báo về 1 việc gì đấy. Nhóm trưởng sẽ chịu trách nhiệm thông tin liên lạc và chia sẻ, tổng hợp lại các thông tin, contact, hình ảnh cho thành viên. Mỗi một người nên thực hiện đúng kế hoạch truyền thông mình đã cam kết. Hoặc nếu cùng làm thì nhóm trưởng sẽ là người đôn thúc, chịu trách nhiệm chung. Việc bình chọn nhóm trưởng có thể do tự thành viên bầu chọn khi nhận được bản danh sách và báo lại cho IUCN hoặc do IUCN chỉ định (có tham khảo ý kiến của người đó trước và được sự đồng ý) BTC nên lựa chọn trong 1 nhóm TNV nên đa dạng về độ tuổi, ngành nghề phù hợp để có thể bổ trợ lẫn nhau. Việc chia tách các đoàn lên Hòn Tre Lớn và Hòn Tài có mặt chưa hiệu quả do trên 2 hòn này số lượng rùa lên đẻ không nhiều. Hòn Tre Lớn có 6 rùa lên đẻ, Hòn Tài chỉ có 1 rùa lên đẻ trong 3 đêm, điều này dẫn đến TNV chưa có cơ hội tham gia trực tiếp, mà chỉ ở mức độ tham quan cho biết vì các anh kiểm lâm vẫn có đủ người để tự làm các công tác cứu hộ rùa biển.

13

7. Đánh giá về cán bộ điều phối tại thực địa

TNV và các chiến sỹ kiểm lâm ©Võ Cường Quốc,2014

Các cán bộ hỗ trợ thực địa

6.25%

31.25%

62.50%

Bình thường

Rất tốt

Tốt

Các TNV đều cho rằng các cán bộ kiểm lâm hỗ trợ tại thực địa rất nhiệt tình, thân thiện và quan tâm tới các TNV. Tuy nhiên, các anh chưa giao tiếp tiếng Anh với khách nước ngoài tốt nên còn hạn chế trong việc hướng dẫn khách lên xem rùa đẻ. Trong thời gian chương trình diễn ra, rất khó để tổ chức buổi học tiếng Anh trong 1- 2 giờ liên tiếp. Nhân viên ở đây cần vốn tiếng Anh liên quan đến rùa biển, tuần biển và một số câu giao tiếp thông thường nên nếu năm sau có chương trình, nên đưa nội dung tiếng Anh cần thiết (dạng chủ đề) vào chương trình. TNV và nhân viên có thể giao tiếp bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực liên quan đến công việc tại đảo. “Còn tôi, tôi vẫn nhớ mãi khuôn mặt nheo nheo vì khói của anh Cường và nhìn xa xăm về biển. Ban ngày anh rất vui vẻ nhưng khi làm việc anh như người khác vậy. Nghiêm túc và kinh nghiệm hẳn. Không chỉ anh Cường mà các anh kiểm lâm khác như anh Thành, anh Hoàn, anh Long, anh Hân,Thăng và Tuấn, họ còn rất trẻ nhưng cảm nhận cuộc sống thì rất sâu sắc. Phải chăng qua những thời khắc hiểm nguy ấy, con người ta biết yêu quý cuộc sống này, con người ta biết rõ những giá trị tinh thần hơn, biết vực dậy chính niềm tin của mình” _TNV Võ Ngọc Lệ Hằng tham gia chương trình từ ngày 26/8-4/9/2014 “Trong thời gian nghỉ đêm hôm đó, một anh kiểm lâm đi cùng tôi đã gọi điện về gia đình hỏi thăm. Anh có vợ và một cậu con trai nhỏ mới biết nói nhưng anh chỉ có dịp về thăm họ 4 ngày 1 tháng. Nghe anh bảo con mình gọi tên bố trên điện thoại tôi mới hiểu được những hy sinh của những chiến sĩ kiểm lâm. Công việc khó khăn, vất vả là thế, họ còn phải xa con cái, người thân, bạn bè, hết mình bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ biển đảo tổ quốc” _ TNV Nguyễn Hà Trung Hiếu tham gia chương trình từ 8- 12/7/2014 8. Đánh giá về thông tin, tài liệu gửi trước chương trình

TNV cho rằng tài liệu gửi cho TNV khá đầy đủ, rõ ràng. Thông tin về các loài rùa biển sinh sống tại biển Việt Nam đầy đủ, rõ ràng, được in ấn cẩn thận, đẹp đẽ.

14

Tuy nhiên, các thông tin này nên được gửi cho TNV sớm hơn. Trước đó tình nguyện viên phải tự mày mò internet để tìm đọc các thông tin lien quan đến những loài rùa biển Việt Nam. Vì thông tin nhiều và lan man, nên việc tìm và chọn lọc thông tin phù hợp trên internet mất nhiều thời gian

Thông tin về trạm kiểm lâm và điều kiện ăn ở trên trạm không có trước khi đi. Tình nguyện viên mang quá nhiều thứ ra trạm mà không cần thiết hoặc không sử dụng đến (ủng lội nước…)

Tài liệu gửi các TNV

31.25%

37.50%

31.25%

Bình thường

Rất tốt

Tốt

“Tôi cho rằng các tài liệu, thông tin liên quan nên được gửi cho TNV càng sớm càng tốt để TNV có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu trước nhằm có sự chuẩn bị tốt nhất cho chuyến đi. Ngoài ra, trước khi đi tôi không có nhiều thông tin về nơi mình sẽ đến nên đã chuẩn bị khá nhiều đồ không cần thiết nên phải mang nhiều. Lần sau, nếu các TNV đợt này có thể chia sẻ thông tin cho các TNV đợt sau thì các bạn sẽ có sự chuẩn bị tốt hơn” _TNV Nguyễn Hải Vân tham gia chương trình 26-30/8/2014 góp ý. 9. Tài chính

Nếu không còn hỗ trợ tài chính, bạn có tiếp tục tham gia không?

12.50%

12.50%

75%

Không

Phải cân nhắc

Tất cả các TNV đều được biết và giải thích đầy đủ về các nghĩa vụ tài chính của tình nguyện viên trước khi tham gia chương trình. Tuy nhiên cần có sự thống nhất giữa VQG Côn Đảo và IUCN về mức đóng góp của TNV để tránh hiểu lầm. Dựa trên thông tin của TNV, mức chi phí trung bình của các TNV đã bỏ ra ki tham gia chương trình là khoảng 4,470,000VND/người. Với các TNV ở Hà Nội, mức chi phí cao hơn do chi phí đi lại lớn, khoảng từ 5 – 7 triệu đồng/người. Các TNV di chuyển bằng tàu ra Côn Đảo có thể tiết kiệm chi phí thấp hơn, từ 500,000 –

2,000,000 đồng/người Khi được hỏi, nếu trong các chương trình tiếp theo, không còn sự hỗ trợ tài chính của IUCN và VQG Côn Đảo, bạn có tiếp tục tham gia không? 75% khẳng định là có, 12.5% trả lời là không và 12.5% cần cân nhắc tổng mức chi phí cho phù hợp với ngân sách của mình.

15

10. Động lực tham gia chương trình Khi được hỏi lý do các TNV tham gia chương trình, các TNV cho rằng, 41% động lực của họ là mong muốn được tìm hiểu rùa biển; 20% động lực là mong muốn được trải nghiệm cuộc sống khắc nghiệt; 18.13% động lực là được khám phá Côn Đảo. Ngoài ra, một số TNV đăng ký tham gia để được giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với các cán bộ kiểm lâm và vì tinh yêu với thiên nhiên hoang dã và mong muốn bảo tồn đa dạng sinh học cho các thế hệ sau.

Trong các lý do này thì lý do nào là quan trọng nhất? 81.25% TNV cho rằng mong muốn được hiểu biết về rùa biển là động lực quan trọng nhất để họ đăng ký tham gia. 25% TNV cho rằng

16

những trải nghiệm trong cuộc sống khó khăn thôi thúc họ đăng ký tham gia chương trình nhất. Và 18.75% cho rằng địa điểm chương trình ở Côn Đảo là yếu tố hàng đầu khiến họ đăng ký tham gia.

Dựa vào hệ số tương quan giữa tuổi của TNV và động lực của họ thì có thể thấy rằng, đối với các TNV càng lớn tuổi thì mong muốn được hiểu biết về rùa biển của họ càng nhiều. Trong khi đối với các TNV trẻ tuổi, nhu cầu được khám phá Côn Đảo, được trải nghiệm cuộc sống trong điều kiện khó khăn và được làm quen với nhiều bạn bè có tỷ trọng lớn. 11. Kết luận về tổng thể chương trình Về tổng thể chương trình, 44% TNV cho rằng chương trình rất tốt, 50% cho rằng tốt và 6.25% cho là bình thường. 87.5% TNV cho rằng chương trình đã đáp ứng được 90-100% mong đợi của họ. 12.5% cho rằng đã đáp ứng được 70-80%.

Tổng thể chương trình

6.25%

Chương trình đáp ứng được bao nhiêu % mong đợi của bạn

12.50%

43.75%

50%

87.50%

90%-100%

70%-80%

Bình thường

Rất tốt

Tốt

“Chương trình đáp ứng được nhiều hơn tất cả những gì tôi mong đợi, không chỉ có thêm kiến thức về Rùa, có một cuộc sống thú vị ở đảo mà tôi còn được gặp những con người đầy nhiệt huyết trong công việc, những người bạn đầy thú vị, được nhìn thấy những khó khăn mà không ai lùi bước. Tôi được sống một cuộc sống như trong mơ vừa bình dị, vừa thân thuộc, vừa khó khăn vừa ngập tràn niềm vui mỗi ngày/đêm. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất từ trái tim mình tới IUCN và VQG Côn Đảo đã có chương trình tình nguyện tuyệt vời như vậy. Tôi cảm ơn các anh Kiểm lâm làm việc trực tiếp tại hòn Bảy Cạnh cho tôi biết được sự hy sinh cao cả và sự say mê trong công việc, cảm ơn những người bạn tôi được gặp trong chuyến đi, mỗi con người một tính cách nhưng tất cả đều vô cùng đáng yêu. Đây là một trong những chuyến đi vô cùng đáng nhớ trong cuộc đời nhiều bụi của mình” – TNV Đỗ Thị Thu Hà tham gia tình nguyện từ ngày 8- 12/7/2014 chia sẻ.

12. Ảnh hưởng của chương trình Sau chương trình, các TNV đã tích cực chia sẻ thông tin về bảo tồn rùa biển với gia đình và bạn bè qua nhiều hình thức. Họ đã đăng tải các cảm xúc, các bức ảnh, video clips và nhật ký chương trình lên các trang mạng và facebook cá nhân. Các TNV cũng lập ra một trang facebook có tên là “Sea turtle Conservation - Volunteer community” cho chương trình. Chỉ trong vòng 15 ngày từ

17

ngày lập facebook, đã có 92 người thích trang facebook này (tính đến ngày 26/9/2014). Các bài viết về chương trình cũng được chia sẻ trên facebook của IUCN Vietnam Media Network và thu hút sự quan tâm của nhiều người. Ngoài ra, một số thành viên còn tự tổ chức hoặc lên kế hoạch thực hiện các hoạt động truyền thông, chia sẻ thông tin về bảo tồn rùa biển với cộng đồng của mình. Như chị Trương Thị Mỹ Chi đã lồng ghép các kiến thức về rùa biển vào các bài giảng dạy sinh viên của mình. Chị viết: “Từ sau chuyến đi đến giờ em đã dạy 3 lớp (khoảng 300 SV), khi em chia sẻ thông tin về chương trình, chuyến đi với sinh viên em đã nhận sự đồng cảm từ SV về chương trình. Các bạn ấy hầu như không biết những thông tin này trước đây, và tỏ ra rất thích thú! Trước khi em chia sẻ, các bạn ấy mời em đi ăn thịt rừng (em đang dạy ở Buôn Mê Thuột), nhưng sau khi kể xong các bạn ấy thay đổi mời cô giáo đi ăn gà ta! Thực sự em rất vui vì đã được tham gia chương trình và nhận được sự đồng tình khi chia sẻ thông tin từ rất nhiều học trò” Bạn Đào Viết Bội Quỳnh – TNV tham gia từ ngày 26/8-4/9/2014 cũng đã tổ chức buổi nói chuyện và xem phim về rùa biển với Câu lạc bộ tiếng Anh Drink and Talk của mình vào ngày 16/9/2014. Hay chị Lê Thu Hương đang lên kế hoạch trình bày về rùa biển để chia sẻ trong buổi họp mặt của Cộng đồng người Việt tại Stuttgart, CHLB Đức. Ban tổ chức hy vọng các TNV sẽ trở thành các tuyên truyền viên tích cực trong cộng đồng mình, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và rùa biển nói riêng. TNV chia sẻ thông tin về chương trình tại CLB Drink & Talk ©Đào Viết Bội Quỳnh,2014

“Tôi cho rằng đây là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực. Mỗi tình nguyện viên với vị trí xã hội và môi trường công tác riêng của mình sẽ là một tuyên truyền viên góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc nói không với các sản phẩm từ rùa, từ đó giảm thiểu nhu cầu thị trường, bịt lối ra cho các nguồn cung, từ đó giảm tiến tới triệt tiêu các hoạt động xâm hại đối với rùa và trứng rùa. Việc tuyên truyền để cộng đồng hiểu rõ hơn về sự sống và tập tục sinh sản của rùa sẽ nâng cao tính hiệu quả của công tác bảo tồn các loài rùa biển” _TNV Nguyễn Việt Cường tham gia chương trình từ 26-30/8/2014 chia sẻ.

18

NHẬT KÝ CHƯƠNG TRÌNH

Các bạn TNV đều ghi lại từng khoảnh khắc tham gia chương trình tình nguyện. Sau đây là một đoạn tiêu biểu của bạn Ngô Bảo Ngọc, tham gia chương trình 10 ngày từ ngày 26/8/2014 đến 4/9/2014 tại Hòn Bảy Cạnh:

“27/8: cả nhóm TNV tập huấn cùng Ban Quản lý VQG Côn Đảo và chị Hiền-đại diện tổ chức IUCN. Tại đây nhóm được giới thiệu những thông tin chung về Vườn Quốc gia và những kiến thức cơ bản về loài rùa biển. Sau thời gian tập huấn, các nhóm di chuyển về các đảo nhỏ để bắt đầu chương trình làm việc.

Nhóm chúng tôi được phân công nhiệm vụ tại Hòn Bảy Cạnh, một hòn đảo rộng 5,5 km2 vô cùng xinh đẹp. Tại nơi này chúng tôi sẽ làm việc và sinh hoạt cùng với các cán bộ kiểm lâm.

Ăn cơm tối xong, chúng tôi bất ngờ được thông báo rùa con đã nở. Một cảm giác vội vàng khiến đôi chân cứ hấp tấp khi đi vào hồ ấp trứng rùa. Và hiện ra trước mắt là cả trăm chú rùa con bé tí tẹo bò lổm ngổm với một sự nhanh nhẹn phi thường. Giây phút đó thật sự xúc động khi được chứng kiến những sinh linh mới chào đời khiến tôi cứ cười mãi.

Công việc tiếp theo tiến hành vào lúc 1 giờ sáng, cả nhóm đi tuần tra tai Bãi cát lớn để phát hiện rùa mẹ lên đẻ trứng. Buổi đêm gió rất lạnh, thật may mắn vì trong lịch trình ban tổ chức đã ghi chú kĩ cần mang theo áo khoác. Quả thật tôi không nghĩ giữa mùa hè vào Nam mà lại phải mang áo khoác. Đúng là khí hậu ở đảo quả là đặc biệt. Cả nhóm chia ra làm hai, tôi cùng 2 TNV nữa đi theo anh Long, tuần tra khu vực bãi bên trái. Trong màn đêm đen thật khó để xác định phương hướng khiến tôi có đôi chút sợ, nhưng khi mắt đã quen dần thì việc đi trên bãi cát không ánh sáng không còn khó khăn nữa. Và chúng tôi đã phát hiện một rùa mẹ đang đào hố. Phải ngồi chờ rùa mẹ đào ổ một lúc thật lâu, chúng tôi ngồi trên cát hỏi anh kiểm lâm bao nhiêu điều về biển cả, về loài rùa. Khoảng khắc nhìn rùa mẹ nặng nhọc đẻ từng quả trứng tròn xoe thật thiêng liêng. Rùa mẹ đã từng được sinh ra tại đây, sau 30 năm vẫn nhớ đường trở về, vượt qua vô vàn nguy hiểm để sinh tồn được đến hôm nay. Cầm những quả trứng rùa thật mềm đem về hồ ấp, tôi và các bạn cứ nâng niu, nhắc thầm rằng rồi sau 2 tháng nữa những chú rùa con sẽ chào đời từ đây. Trời tảng sáng, chúng tôi lại đem những chú rùa con vừa mới nở thả về biển. Nghe tiếng sóng vỗ rì rào, rùa con như tỉnh giấc, theo bản năng bò thật nhanh về phía biển, về nơi mà chúng thuộc về.

Ca trực kết thúc lúc 5h30’ sáng, lúc này mới thấm được công việc của các cán bộ kiểm lâm thật sự rất vất vả. Cả nhóm tranh thủ chợp mắt một lát rồi tiếp tục công việc buổi sáng. Một trong những công việc tuy đơn giản nhưng nhiều cảm xúc, đó là đào hố rùa đã nở để vệ sinh và thống kê tỷ lệ rùa con được sinh ra. Gạt từng vốc cát lên, đi sâu vào tổ rùa, nơi mà những chú rùa con đã cùng nhau hợp sức để đến với cuộc sống này. Thật bất ngờ khi bắt gặp một chú rùa non vẫn còn nằm sâu trong cát, có lẽ chú hơi yếu hay vẫn còn ngái ngủ không chui lên cùng với các anh chị em. Lần lượt chúng tôi “giải cứu” được cho thêm nhiều chú rùa con nữa. Chạm đến lớp vỏ trứng, những quả trứng hỏng, hay những chú rùa con đã thành hình hài mà không có cơ hội được sinh ra, cảm giác ngậm ngùi xen lẫn. Thế là cùng một mẹ sinh ra, có những chú rùa con may mắn chào đời, và cũng có không ít những sinh linh đã mãi mãi ngủ yên…

19

Cuộc sống hàng ngày ở Hòn Bảy cạnh thật êm ả. Những ngày nắng vàng, bãi biển dài đẹp như cơn mơ, triền núi một màu xanh mát mẻ, biển khơi nước trong veo với những rặng san hô rưc rỡ sắc màu. Chúng tôi cùng anh em kiểm lâm thổi cơm, rửa rau, đun bếp củi. Những lúc ấy thật vui và đáng nhớ. Mỗi người một câu chuyện kể cho nhau nghe, cùng nhau chia sẻ. Ở đó tình người thật đáng quý, nơi mà con người hoà cùng với thiên nhiên, có những lúc thời gian thật chậm, chỉ còn tiếng sóng biển rì rào và gió lay động cả rừng cây.

Những buổi chiều nắng gắt, cả nhóm đi dọn rác trên bãi biển và san lấp hố rùa đẻ. Biển đã cuốn vào đây những chai lọ, san hô. Có những mảnh chai đã bị bào mòn bởi sóng và thời gian nhưng đẹp kỳ lạ. Khi công việc đã xong thì Bãi cát lớn trắng tinh, trải dài thật mềm mại và dịu dàng. Gió lồng lộng và tiếng cười của chúng tôi mãi không dứt…

Rùa con trở về biển ©Võ Cường Quốc,2014

Những đêm dài đi tuần tra bãi Xi măng. Chúng tôi phải lội biển, men theo vách đá, nhân cơ hội thuỷ triều rút để tới được bãi. Công việc này vẫn là thường ngày của các anh kiểm lâm. Thật nguy hiểm vì chỉ cần sơ sẩy một chút có thể đánh đổi cả mạng sống của mình. Lúc đó mới thấy thật khâm phục các anh biết bao. Những chiến sỹ tuổi đời còn rất trẻ, dành cả quãng đời đẹp nhất của mình tại nơi đây, cống hiến tuổi thanh xuân của mình bên những chú rùa và rừng già biển cả.

Những công việc cứ thế tiếp diễn. Tám ngày trên đảo trôi qua thật nhanh. Ngày trở về mà như tâm hồn đã ở lại nơi này. Một quãng thời gian vô cùng đáng nhớ trong đời”

20

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN

Các TNV đã được chứng kiến và trải nghiệm những cảm xúc khác nhau, vui buồn lẫn lộn. Thông qua các câu chuyện, các bạn chia sẻ: “Đây thực sự là một chuyến đi tuyệt vời, được trải nghiệm qua nhiều cung bậc cảm xúc: hạnh phúc, hồi hộp, sợ hãi. Hạnh phúc chờ đợi các chú rùa con chui ra khỏi tổ và rồi từng chú, từng chú một chui ra. Hồi hộp, rón rén theo dõi từng cử chỉ của rùa mẹ khi đẻ trứng, vì thấy động rùa mẹ sẽ không đẻ quay về biển, đã có trường hợp chỉ đẻ một trứng rồi lấp tổ vì có nhiều người gây động. Và cũng hồi hộp đếm xem có bao nhiêu quả trứng trong tổ. Và sợ hãi vì bãi đẻ vắng tanh trong đêm tối, nhiều khi phải lần dấu rùa lên bờ vào các bụi cây, sợ (chưa kể mấy lần bị hù bởi đồng bọn)! Bên cạnh đó quang cảnh thiên nhiên ở đây cũng thật đẹp, tôi được tận mắt nhìn thấy thành phố dưới biển được xây dựng bởi các rạn san hô, cua xe tăng, một loại cua chỉ có ở Côn Đảo và một số loài hoa thơm cỏ lạ chỉ có ở nơi đây!” _TNV Trương Thị Mỹ Chi tham gia chương trình từ ngày 21-25/7/2014 chia sẻ

“Kỷ niệm đáng nhớ khác về rùa biển lại là công tác hậu cần. Lâu lắm rồi mới quay lại bếp nấu. Nấu các món trong 1 chái bếp nhỏ, nấu bằng củi. Mùi khói cay xè mắt nhưng nó gợi nhớ lại kỷ niệm của mùa tình nguyện giữa núi rừng Tây Nguyên của hơn 10 năm trước. Những món ăn ngon do mình chế biến cùng anh em kiểm lâm giúp cho 3 ngày trên đảo là 3 ngày với những món ăn thịnh soạn và ngon miệng. Không còn gì vui hơn khi ai cũng khen cách mình nấu ngon. Có thực mới vực được đạo, có gạo mới thức canh rùa biển được” _TNV Võ Cường Quốc tham gia từ ngày 26-30/8/2014

“Đến lúc rùa 1 đẻ, Hương ra chỗ chúng tôi cùng xem. Đẻ gần xong, rùa mẹ có vẻ mệt, cứ cố rặn mãi mà không ra được quả trứng cuối cùng. Nàng ta cứ thở phì phò lấy hơi rồi lại rặn. Đúng lúc chú Thắng qua xem, tôi bèn hỏi chú:

- Chú ơi, có phải làm gì để hỗ trợ nó đẻ không ạ? Kiểu như ở nhà chó, mèo đẻ, mẹ cháu hay giúp bọn nó cho đỡ mệt ý.

Chú Thắng cố nín cười vì không dám cười to, nhưng cũng không nhịn nổi, hỏi lại:

- Thế cháu nghĩ là mình sẽ hỗ trợ nó kiểu gì?

Tôi cũng ngẩn ra, rồi mọi người cười lăn, từ đó thỉnh thoảng vụ hỗ trợ rùa đẻ của tôi lại được nhắc lại” _ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia chương trình từ 26-30/8/2014

“Dù đây là lần đầu tôi trải nghiệm một chuyến đi ca-nô và nó đang chao đảo có khi đến hơn 30 độ với bao nhiêu là nước biển đen ngòm tát vào mặt, nhưng tim tôi vẫn bình thản víu chặt trong lồng ngực và thưởng thức cảnh đêm huyền ảo. Thiết nghĩ các anh kiểm lâm đang lặng thinh như tượng xung quanh tôi hẳn có một cái chuẩn riêng về sóng to sóng nhỏ, nên dù tay tôi đang rát buốt lên vì nắm chặt cọng thừng của ca-nô nó vẫn không thuyết phục được tim tôi có chút mảy may sợ sệt.

21

Chiến sỹ kiểm lâm tại Đảo Bảy Cạnh ©Vũ Hoài Nam,2014

Thình lình anh Hân quát lên: “Sếp ơi không ổn rồi, sóng to quá không đi được đâu!”. Một chốc lặng thinh, tôi nghe có tiếng lục đục trong lồng ngực mình. Rồi anh Hoàng ra lệnh: “Đi chậm lại!”. Chiếc ca-nô từ từ giảm tốc và len vào các con sóng, dù thế, nó vẫn không ngớt chao đảo, gần như cùng một nhịp với tim tôi lúc ấy. Không hiểu sao tôi có cảm giác như nước biển trở nên lạnh ngắt còn không gian thì tối thui một cách đáng sợ cứ như có một sinh vật khổng lồ đang đùa cợt với chiếc ca-nô và cả sinh mạng của chúng tôi. Tôi đang chuẩn bị tâm lý cho tình huống xấu nhất thì chú Anh lên tiếng: “ Sóng con con vậy mà mày chạy không được à, giảm ga lại, đi từ từ, đi một chút qua đoạn này là hết à, sóng kiểu này ca-nô chạy dư sức”. Trong tiếng sóng tôi không nghe rõ hết sự chỉ đạo của chú Anh nhưng một lúc sau tôi cảm thấy bớt lo hơn dù chiếc ca-nô vẫn như đang vùng vẫy giữ hỗn độn sóng nước. Và cứ thế hết sức khó khăn chúng tôi cặp vào bãi Sạn với những con sóng gần như lật úp ca-nô. Tôi chỉ được đặt chân lên bãi chưa đầy 30s thì anh Hoàng đã thúc tôi nhảy lên ca-nô lại và trở ngược ra biển. Lần này theo dướng dẫn của chú Anh chúng tôi đi đường vòng về rừng ngập mặn và bình yên tránh được mấy con sóng. Ngay khi an toàn đứng ở bờ rừng ngập mặn với hai chân vẫn còn đang run, tôi nghe anh Hân thở phào: “ Mẹ, sóng to như cái nhà, tim anh muốn bắn ra ngoài!”. Dọ hỏi mới biết anh đã có hơn 5 năm trong nghề và là người chuyên lái ca-nô cho Vườn Quốc Gia. Anh bảo: “Hồi nãy mình hên đấy, chú Anh là ổng nói thế để mình khỏi loạn lên thôi”. Rồi anh cũng cười cười như rằng đó cũng chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”_TNV Nguyễn Hoàng Tân tham gia từ ngày 26/8-4/9/2014 nhớ lại. “Kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi khi tham gia chương trình này phải kể đến chuyến đi xuyên rừng đến bãi Sạn-bãi rùa đẻ cách xa trạm kiểm lâm nhất. Tôi cùng các anh em kiểm lâm phải khởi hành từ buổi trưa để chuẩn bị cho chuyến tuần tra bãi Sạn. Do đường đi hiểm trở và nguy hiểm nên chỉ có tôi và một TNV nữa được tham gia. Chúng tôi phải đi bộ hơn 2 tiếng đường rừng, băng qua nhiều vách đá mới có thể tới được bãi Sạn. Trên đường đi phải rất cẩn thận tránh những cành cây gai, những phiến đá sắc nhọn có thể gây thương tích bất cứ lúc nào, những loài rắn nguy hiểm luôn ẩn nấp. Cảm giác vừa hồi hộp vừa hứng thú càng thôi thúc tôi rảo bước nhanh theo các anh.

…Chúng tôi chia làm 2 ca trực, tôi và đồng chí kiểm lâm Cường canh gác từ 6h chiều đến 11h đêm, sau đó là TNV Tuấn Anh cùng với kiểm lâm Thành đến sáng. Khoảng 4h30 sáng có đội tiếp ứng lương thực và con người là trạm trưởng Nguyễn Văn Anh và phó trạm Hoàn. Hai đòng chí cùng với lái xuống Hân và TNV Tân phải đi cano vượt sống lớn ra tiếp tế cho chúng tôi (hôm đó biển động rất mạnh). Trong lúc trưc tôi nghe thấy rất nhiều thủ đoạn tinh vi của kẻ trộm trứng Rùa. Mối nguy hiển đến từ cả trên rừng hiểm lẫn dưới biển sâu. Những kẻ trên rừng thì biết bãi Sạn xa với trạm nên cúng thường xuyên xuống bãi đẻ của Ràu, rồi lần tìm các ổ trứng. Có lần

22

các anh đã bắt được quả tang chúng đang thăm dò tổ chứng, nhưng rất tiếc hôm đó Rùa lại không đẻ, nê không có chứng cứ vi pham, chỉ lập biên bản vi phạm bãi đẻ của Rùa. Còn các đối tượng dưới nước, thường là ngư dân (hay gọi là người nhái). Họ hành động còn dã man hơn là giết ngay Rùa mẹ, rồi mổ phanh bụng lấy cả trứng và thịt đi tiêu thụ. Họ có thể nấp dưới sẵn mép nước, chỉ trực chờ Rùa lên, hay khi loài rùa giao phối ngoài những rạn San hô , có cả lúc họ ẩn mình trên cây trong rừng chờ cho kiểm lâm đi qua rồi lặng lẽ xuống bãi…

TNV & Chiến sỹ kiểm lâm tại Đảo Bảy Cạnh ©Vũ Hoài Nam,2014

Quay trở lại ca trực, đến 6h sáng đồng chí Anh bằng kinh nghiệm của mình phán đoán các đối tượng sẽ hành động khi đèn đèn Hải đăng tắt. Cả nhóm chia làm 3 chốt, vào vị trí để quan sát bờ biển. Ngay lúc đó, một đàn chó xuất hiện từ trong rừng. Tất cả anh em đều nín thở theo dõi vì theo quy định, lực lượng kiểm lâm chỉ có thể xử phạt sai phạm khi bắt quả tang, có tang vật rõ ràng. Bất chợt đàn chó sủa váng lên, phát hiện ra chúng tôi. Các đối tượng săn trộm rất tinh quái khi điều động chó săn đi trước thám thính, nếu phát hiện có hơi người chúng lập tức báo động ngay. Vì vậy thật đáng tiếc là các đối tượng khả nghi đã rút êm lên núi và lẩn khuất vào cánh rừng già. Trạm trưởng đã nổ súng cảnh cáo, và đuổi lũ chó quay lại rừng, vì theo qui định trên đảo là không được thả chó xuống bãi Rùa đẻ trứng. Cảm xúc lúc đó ai cũng phẫn nộ vì hành động săn bắt rùa vẫn diễn ra ngang nhiên, coi thường các quy định của pháp luật. Nhìn vào một góc khuất tại cuối bãi san hô, rất nhiều mai rùa biển bị săn bắt trái phép bị bỏ lại. Thật đáng buồn còn nhiều người chưa có ý thức bảo vệ động vật hoang dã, chỉ vì những mối lợi cá nhân mà sẵn sàng huỷ diệt hệ sinh thái trên hành tinh này. Hay đáng trách hơn nữa là những cá nhân tiêu thụ trứng rùa, chỉ vì những lời đồn đại đây là loài quý hiểm, trong bộ Tứ linh nên rất bổ và may mắn…”_TNV Vũ Hoài Nam, tham gia từ ngày 26/8-4/9/2014 kể

“Và có những giây phút thật buồn, đó là khi đào những ổ rùa đã nở lên, có những chú rùa con đã nên hình hài, nhưng không được may mắn có cơ hội mở mắt nhìn thấy bầu trời trong xanh kia. Có một bé rùa con cứ khiến tôi nhớ mãi, một bé rùa con vô cùng xinh xắn, nhỏ xíu. Khi đặt em lên bãi cát trước biển, em hầu như không thể cử động. Em cứ nằm yên nhìn về phía biển. Cố gắng lên em, ở ngoài đó, có mẹ và các anh em của em đang chờ…Cố lên, em sinh ra để thuộc về biển, hãy quay về nơi đại dương bao la đó, thực hiện chuyến phưu lưu tuyệt diệu khắp các đại dương. Thả em xuống nước, hãy bơi đi em…nhưng em không thể, cứ thế em chìm xuống …Giây phút đó, trái tim như thắt lại….Ngủ ngoan nhé em, mẹ biển cả đang ôm em vào lòng…” _ TNV Ngô Bảo Ngọc tâm sự

23

these

Rùa con tại Côn Đảo ©Ngô Bảo Ngọc,2014 “I ran out and saw her being very emotional using her flashlight to search one the ground. She said: “Something has attacked some of the babies and they are all lying with the belly up now!”. My heart sank. So far we had been always happy seeing and touching the hatchlings and felt like their cuteness would have stayed forever with us, we were not prepared to see some blood on their bodies with the suffering that we could actually feel. I stepped into the fenced area where Ngoc was trying to check whether there were more. We found 5 of them lying in agony and were sobbing as we could not find out what has done this to them. They probably were the later members that came from the same clutch so we might have missed picking them up. Ngoc and I brought them into the house for better assessment, the rest of the team came and also the rangers. It was a heart-broken scene, one of the hatchling was dead with the open wound at his neck, and the rest was just suffering, they would not budge. We found bites mostly on their neck or head, I even could see the flesh inside one’s brain as the head was almost crushed by the hit. Since there was no rescue team or someone who knows how to save these dying babies, the only thing we could think of doing is to clean the wound and let them rest over night. Holding their little bodies in such pain was not an easy job for me. The rangers took a look and said the attack might have come from a snake, or a crab, or a mouse. They concluded it was a mouse which would have made a big effort to climb over the fence and got in to seize some prey but was not successful and left the babies behind almost breathless. I felt so bad, I wished we had picked them all out, I wished we had come sooner, I wished there would have been something we could do lovely to save creatures.” _TNV Đào Viết Bội Quỳnh tham gia chương trình từ ngày 26/8 đến 4/9/2014 kể lại câu chuyện buồn khi nhìn thấy rùa con bị chuột tấn công.

24

Rùa mẹ lên đẻ trứng ©Nguyễn Hải Vân,2014

THAY LỜI KẾT ….

“Khó có thể nói hết những cảm xúc mà chúng tôi đã trải qua trong quãng thời gian ngắn ngủi này. Chúng tôi không chỉ đơn giản là được thu nhận thêm nhiều kiến thức về rùa biển, về môi trường sinh thái, về những gì con người có thể làm, cần phải làm để bảo vệ môi trường sống của mình, về bảo tồn các loài sinh vật đang trên bờ vực tuyệt chủng, mà còn có được một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm một cuộc sống khác giữa thiên nhiên, tự do tự tại về tinh thần đồng thời học được về trách nhiệm đối với xã hội. Từ các anh kiểm lâm, tôi có dịp hiểu thêm về cuộc sống, càng thêm khâm phục tinh thần trách nhiệm của các anh” _ TNV Nguyễn Hải Vân tham gia chương trình từ 26-30/8/2014

25

PHỤ LỤC Danh sách Tình nguyện viên tham gia Chương trình Bảo tồn rùa biển Côn Đảo năm 2014

STT HỌ VÀ TÊN ĐỊA CHỈ ĐƠN VỊ CÔNG TÁC Email NĂM SINH GiỚI TÍNH

CHƯƠNG TRÌNH 8-12/7

1 Nguyễn Thành Trung 1993 Nam New York Nguyenthanhtrung3193@gmail.com Queens College, City University of New York

2 Nguyễn Hà Trung Hiếu 1998 Nam Hà Nội nghatrunghieu@gmail.com THPT Thăng Long – Hà Nội

3 Trần Hà Minh Đức 1997 Nam Hà Nội THPT Lê Quý Đôn tran_ha_minh_duc@yahoo.com.vn; chau_habaochau@yahoo.com

4 Phan Gia Khánh 1997 Nam Mỹ Du học sinh Mỹ khanhphan1269@gmail.com

5 Đỗ Thị Thu Hà 1976 Nữ UK Giám đốc Sa Pa Essentials hasapa@gmail.com

6 Nguyễn Vĩnh Lợi 1987 Nam Tp Hồ Chí Minh Cán bộ GIS, phân viện Điều tra quy hoạch Rừng Nam Bộ vinhloi.gisk26@gmail.com CHƯƠNG TRÌNH 21 - 25/7

1 Nguyễn Thu Hà 1981 Nữ thuha.nguyen1102@gmail.com Tp Hồ Chí Minh Regional Manager, Human Dynamic Vietnam

26

2 Nguyễn Thị Lê Phương 1984 Nữ lephuong.nguyen@webtretho.com Tp Hồ Chí Minh Quản lý cộng động webtretho

3 Trương Thị Mỹ Chi 1981 Nữ Bình Định mychi_bd@yahoo.com.vn Giảng viên Cao đẳng sư phạm TƯ Tp. Hồ Chí Minh

4 Đặng Thị Thu Hoài 1985 Nữ HÀ Nội dr.thuhoai@gmail.com

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ phẫu thuật nụ cười OSCA

5 Nguyễn Anh Vũ 1990 Nam nganhvu.gon@gmail.com Tp Hồ Chí Minh

Kỹ sư lập trình nhúng - công ty Robert Bosch Engineering and Business Solutions Vietnam

6 Ngô Tiến Thịnh 1994 Nam Tiền Giang ngotienthinh94@gmail.com

Sinh viên Khoa Môi Trường, Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên

CHƯƠNG TRÌNH 26/8 - 30/8

1 Tran Thi Thu Trang 2 Nguyễn Hải Vân 1977 Nữ 1978 Nữ Bangkok Hà Nội thutrang2u@gmail.com vannh.hn@gmail.com ILO Bangkok Kỹ sư nội thất, Công ty Turner Việt Nam

3 Lê Thu Hương 1978 Nữ CHLB Đức hle306@gmail.com

27

4 Nguyen Viet Cuong 1972 Nam Hanoi Viet Blossom Co., Ltd pminds@gmail.com

5 VÕ CƯỜNG QUỐC 1981 Nam vcuongquoc@yahoo.com Tp Hồ Chí Minh Trưởng nhóm huấn luyện và nâng cao năng lực, Samsung Vina

CHƯƠNG TRÌNH 26/8 - 4/9

1 VÕ NGỌC LỆ HẰNG 1992 Nữ vongoclehangbme@gmail.com Tp Hồ Chí Minh Trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh

2 ĐÀO VIẾT BỘI 1990 Nữ Green Youth Collective daovietboiquynh@gmail.com QUỲNH Tp Hồ Chí Minh

3 Vũ Hoài Nam 1984 Nam Hà Nội vuhoainam.kts@gmail.com Giám đốc Công ty cổ phẩn xây dựng New IDEA

4 Ngô Bảo Ngọc 1990 Nữ Hà Nội baongoc@mpi.gov.vn Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương –

5 NGUYỄN HOÀNG TÂN 1992 Nam nguyenhoangtanlxag@gmail.com Tp Hồ Chí Minh Sinh viên Đại học Bách khoa

6 VŨ TUẤN ANH 1985 Nam tuananhnhimxu@yahoo.com Tp Hồ Chí Minh Giảng viên Khoa Kế toán trường Cao đẳng Công Thương tp. HCM

28