VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC

TRUNG TÂM GIÁO DỤC HỌC

PHÒNG LỊCH SỬ GIÁO DỤC

Đề tài B94-37-23

ĐẶC TRƢNG GIÁO DỤC

THỜI LÝ – TRẦN – HỒ

(Báo cáo tổng luận)

Chủ nhiệm đề tài:

Nguyễn Đăng Tiến

Thƣ ký đề tài:

Hồ Thị Hồng

Hà nội – 1995

VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC

TRUNG TÂM GIÁO DỤC HỌC

PHÒNG LỊCH SỬ GIÁO DỤC

Đề tài B94-37-23

ĐẶC TRƢNG GIÁO DỤC

THỜI LÝ – TRẦN – HỒ

(Báo cáo tổng luận)

Chủ nhiệm đề tài:

Nguyễn Đăng Tiến

Thƣ ký đề tài:

Hồ Thị Hồng

Hà nội - 1995

MỤC LỤC

ĐẶC TRƢNG GIÁO DỤC THỜI LÝ – TRẦN – HỒ

1-Vài nét về tình hình giáo dục trƣớc thế kỉ XI: ........................................................................ 1

2- Những yêu cầu của kinh tế - xã hội đặt ra cho giáo dục dƣới thời Lý – Trần – Hồ. ............. 2

3- Mục tiêu đào tạo của giáo dục Lí – Trần – Hồ ...................................................................... 6

4- Tổ chức trƣờng lớp thời Lí – Trần – Hồ ................................................................................ 7

4.1. Triều Lí: (1009 – 1225)................................................................................................... 7

4.2 Triều Trần (1226-1400) ................................................................................................... 8

4.3 Đến nhà hồ (1400-1407) ................................................................................................ 12

5- Tổ chức khoa cử dƣới thời Lý-Trần-Hồ: ............................................................................. 12

6- Nội dung giáo dục và thi cử dƣới thời Lý – Trần – Hồ. ...................................................... 15

7- Đặc trƣng giáo dục thời Lý – Trần – Hồ. ............................................................................ 18

7.1- Xây dựng một nền giáo dục độc lập, tự chủ, đào tạo những con ngƣời có ý thức dân

tộc, tự cƣờng, nét đặc trƣng nổi bật thứ nhất của giáo dục Lý – Trần – Hồ. ....................... 18

7.2- Tam giáo đồng nguyên, nét đặc trƣng nổi bật thứ hai của giáo dục Lý – Trần – Hồ. .. 25

7.3. Chữ Nôm, một thứ văn tự ghi âm tiếng nói của dân tộc: .............................................. 30

7.4.1. Truyền thống thƣợng võ của nhân dân ta: ............................................................. 32

7.4.2. Võ giáo thời Lý – Trần – Hồ: ................................................................................ 33

8- Vài nhận định về giáo dục thời Lý – Trần – Hồ .................................................................. 37

8.1. Về cách thức tuyển chọn nhân tài ................................................................................. 37

8.2. Về mục tiêu đào tạo ...................................................................................................... 37

8.3. Về tổ chức trƣờng lớp và tổ chức khoa cử. ................................................................... 38

8.4. Về nội dung giáo dục, giảng dạy .................................................................................. 40

9- Phát huy kinh nghiệm truyền thống đối với giáo dục hiện nay. .......................................... 41

9.1. Coi trọng giáo dục, coi trọng nhân tài........................................................................... 41

9.2. Nhà nƣớc và nhân dân cùng xây dựng giáo dục. .......................................................... 41

9.3. Xây dựng kỉ cƣơng, nề nếp giáo dục ............................................................................ 42

1

ĐẶC TRƢNG GIÁO DỤC THỜI LÝ – TRẦN – HỒ

1-Vài nét về tình hình giáo dục trước thế kỉ XI:

Trƣớc khi nho giáo xâm nhập, xã hội nƣớc ta đã có một nền giáo dục lâu đời gắn với

các cộng đồng làng xã. Đó là một nền giáo dục dân gian không trƣờng, không sách và thầy

nhƣng chính nó đã đào tạo nên nhiều thế hệ con em có đức tài, mang bản sắc dân tộc Việt

Nam.

Nó ra đời trƣớc khi có nhà nƣớc và nền giáo dục chính thống, tồn tại và phát triển

song song với giáo dục chính thống tới ngày nay.

Trong suốt 10 thế kỉ Bắc thuộc, các thế lực phong kiến phƣơng Bắc đã tìm mọi cách

để đồng hóa dân tộc ta song đầu thất bại.

Trên lĩnh vực giáo dục, họ đã du nhập nho giáo vào nƣớc ta, song ở mức độ rất sơ

đẳng và chỉ dừng lại ở tầng lớp trên của xã hội, đặc biệt là trong các tăng lƣ phật giáo. Cũng

có vài ba ngƣời đƣợc học tập, đỗ đạt và làm quan bên Trung Quốc (Tình Thiều ở triều

Lƣơng, Khƣơng Công Phụ, Khƣơng Công Phục ở đời nhà Đƣờng).

Sau khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, xây dựng nền độc lập tự chủ, các triều đại

Ngô, Đinh, Tiền, Lê luôn phải lo việc chống thù trong, giặc ngoài, vả lại các vƣơng triều này

đều ngắn ngủi, nên chƣa có điều kiện xây dựng một nền giáo dục chính quy. Tuy nhiên, nền

văn hóa dân tộc vẫn nảy nở trên vốn cổ truyền. Đặc biệt, phật giáo đã đƣợc phát triển sâu

rộng, chiếm ƣu thế trong xã hội. Chùa tháp đƣợc xây dựng khắp nơi. Các nhà sƣ và tầng lớp

có học thức, có uy tín và ảnh hƣởng lớn đối với cả trong triều, ngoài nội. Nhiều nhà sƣ không

những giỏi đạo mà còn tham gia các công việc triều chính, trở thành quốc sƣ nhƣ Đỗ Thuận,

Ngô Chân Lƣu , Vạn Hạnh.

Nhiều nơi, nhà chùa là trƣờng học nhằm giáo dục phật giáo bằng chữ Phận, chữ Hán.

Vào cuối thế kỉ X, nho học vẫn chỉ phát triển lẻ tẻ, chƣa có vị trí đáng kể.

2

2- Những yêu cầu của kinh tế - xã hội đặt ra cho giáo dục dưới thời Lý – Trần –

Hồ.

2.1. Năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, chấm dứt cuộc đời của một nhà vua tàn bạo, chấm

dứt cả triều đại Tiền Lê.

Lý Công Uẩn, đƣợc sự phò tá của thiền sƣ Vạn Hạnh, và sự ủng hộ của các triều thần,

đã lên ngôi vua, mở đầu một kỷ nguyên mới rực rỡ, kỷ nguyên Đại Việt. Tuy vậy, trải qua

một ngàn năm Bắc thuộc và nạn tranh chấp của thập nhị sứ quân, vận nƣớc giờ đây đang

đứng trƣớc muôn vàn khó khăn, nghiên ngửa. Đối nội, phải củng cố vững chắc chế độ phong

kiến, phục hồi và phát triển các mặt kinh tế, ổn định cuộc sống xã hội và lòng dân. Đối ngoại,

các thế lực ngoại xâm luôn luôn dòm ngó, chờ mọi cơ hội để xâm lăng.

Bởi vậy, triều Lý cũng nhƣ Trần, Hồ phải bắt tay vào việc xây dựng và phát triển một

chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền vững mạnh.

Đó phải là các triều đại hoàn toàn độc lập, tự chủ thống nhất, không phụ thuộc vào

phong kiến Trung Quốc. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng tỏ rằng nếu mất độc lập thì sẽ mất tất

cả. Do đó, đòi hỏi đầu tiên là nhiệm vụ giữ nƣớc – Song muốn giữ đƣợc nƣớc thì trên dƣới

phải một lòng, quân dân phải nhất trí. Và trƣớc hết phải xây dựng đất nƣớc để có một cơ sở

vật chất và tinh thần vững chắc, một hậu phƣơng hùng hậu.

Ngày nay nhìn lại, ta có thể thấy rõ cả 3 vƣơng triều Lý – Trần – Hồ đều hết sức quan

tâm đến việc phục hồi, phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, đẩy mạnh cả nội ngoại

thƣơng, xây dựng những đội quân tinh nhuệ, hùng mạnh.

Rõ ràng những yêu cầu mới mẻ, nặng nề đó đòi hỏi phải có lớp ngƣời hiền tài đông

đảo. Buổi đầu, các triều đại Lý – Trần đã tuyển dụng hiền tài bằng này không đƣợc là bao.

Muốn có một đội ngũ quan lại từ trung ƣơng đến địa phƣơng, phải đào tạo một lớp ngƣời

mới, phải có một nền giáo dục chính qui của

3

nhà nƣớc. Vấn đề là vƣơng triều Lý đầu tiên đã lựa chọn nền giáo dục nào? Phật giáo, Đạo

giáo hay Nho giáo ?

Trong 61 năm đầu triều Lý, chƣa thấy có tổ chức gì về giáo dục. Sử sách chỉ ghi lại

một số sự việc chứng tỏ cả 3 đạo Phật, Lão, Nho đã xuất hiện trong cuộc sống xã hội, nổi bật

nhất là đạo Phật. Thí dụ:

Các vua quan nhà Lý đều rất sùng đạo Phật. Chùa tháp đƣợc dựng lên khắp nơi.

Về Phật, năm 1018, vua Lý Thái Tổ sai sứ sang nhà Tổng xin kinh Tam tạng. Năm

1036, Lý Thái Tông xuống chiều chép kinh Đại tạng cất ở kho Trùng Hƣng.

Về Đạo, năm 1031, nhà vua cho cấp giấy chứng nhận đƣợc vào giới tu đạo cho các

đạo sĩ (đạo giáo) ở cung Thái Thanh.

Bên cạnh đó, 2 sự kiện nổi bật chứng tỏ nội dung của Nho giáo đã đƣợc nhà Lý sử

dụng:

Năm 1028, Lý Thái Tông họp bầy tôi hội thề ở miếu thờ thần Đồng cỏ, phƣờng Yên

Thái (nay ở quận Ba Đình, Hà Nội) nêu rõ:

“Làm con mà bất hiếu, làm tôi mà bất trung thì thân linh chu diệt”.

Từ đây, hội thề đƣợc tổ chức hàng năm, bầy tôi nào trốn tránh đều bị phạt đánh 50

trƣợng.

Trong Hình thƣ đời Lý, tội “thập ác” cũng mang nhiều dấn ấn nho giáo. Đó là các tội

phản quốc, đại nghịch, giết vua, giết cha; âm mƣu phản bội, hung ác bạo nghịch, không có

đạo đức, bất kính, bất hiếu với cha mẹ, không hòa thuận với anh em; bất nghĩa; loạn luân.

4

của dân tộc. Với 3 sự kiện nổi bật là năm 1070 lập Văn Miếu, 1075 thi nho học tam đƣờng,

1076 lập Quốc Tử Giám, ta thấy rõ triều Lí đã khẳng định chọn nho giáo làm nền giáo dục

chính thống. Chắc hẳn, trong khi chọn lựa, triều Lí đã thấy rõ Phật giáo tuy thịnh đạt song chỉ

là một tôn giáo trong khi nho giáo là chỗ dựa vững chắc cho việc xây dựng quốc gia phong

kiến tập quyền. Còn Đạo giáo còn mờ nhạt và không thể là chỗ dựa của chính quyền. Lúc này

nƣớc ta chƣa có chữ viết riêng nên không thể không vay mƣợn chữ Hán. Kinh nghiệm hàng

ngàn năm của phong kiến Trung Quốc lấy nho giáo làm quốc giáo cũng ảnh hƣởng mạnh mẽ

đến nƣớc ta. Đó cũng là lí do để triều Lí quy định lấy nho giáo làm nền quốc học.

2.2- Những yêu cầu mới của đất nƣớc đặt ra cho giáo dục:

Lí Công Uẩn thay thế triều Tiền Lê lên ngôi là một sự thay đổi cơ bản về chất so với

thời kì trƣớc đó.

Kể từ họ Khúc dấy nghiệp đến hết thời Tiền Lê, nƣớc ta về thực chất đã giành đƣợc

độc lập, tự chủ một thế kỉ. Để giành lại đƣợc nền độc lập này, dân tộc ta đã phải đấu tranh

gian khổ suốt 10 thế kỉ. Song giữ đƣợc nền độc lập dân tộc và thống nhất đƣợc đất nƣớc còn

khó hơn nhiều. Thực tế lịch sử đã chỉ rõ chỉ trong vòng 100 năm này, các triều đại đã trải qua 5 lần hƣng, phế (1). Cuối Tiền Lê, Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều), giết anh là Lê Long Việt,

lên ngôi. Ông là một vua ăn chơi xa đọa, cực kì tàn bạo, hiếu sát, xã hội hỗn loạn, dân tình

khốn khổ, đang cần có sự đổi thay.

Năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều đình và một số nhà sƣ đã suy tôn Lí Công Uẩn

lên làm vua, lập ra triều Lí (Lí Thái Tổ). Từ đây, đất nƣớc chuyển sang một kỉ nguyên mới.

Lí Công Uẩn nhận đƣợc một sứ mệnh dựng nƣớc với sự nghiệp đổi mới sâu sắc và tài giỏi

trên 3 mặt:

- Họ Khúc (907 – 923) về danh nghĩa là phiên thần của chế độ đô hộ Tùy, Đƣờng, song thực chất là đã giành

đƣợc quyền độp lập, tự chủ.

- Dƣơng Diên Nghệ (923 - 937) đánh đuổi đƣợc tƣớng Nam Hán là Lí Khắc Chính. Cùng cai tri Giao Châu với

Lí Tiến, nhƣng bị tùy tƣớng là Kiều Công Tiễn giết.

- Ngô Quyền (937 – 965): Lập chiến công oanh liệt ở Bạch Đằng lập ra vƣơng triều Ngô, Dƣơng Tam Kha tiếm

ngôi, sau đó là nạn thập nhị sứ quân.

- Đinh Tiên Hoàng (967 – 980): Dẹp 11 sứ quân khác, lập ra triều Đinh, Khủng hoảng cung đình. Lê Đại Hành

lên ngôi.

- Lê Đại Hành (980-1009): Thắng Tống và các thế lực bảo thủ trong nƣớc. Lên ngôi, song cũng khủng hoảng

trong nội bộ anh em tranh ngôi giết nhau.

(1) 5 triều đại nối tiếp nhau là:

5

+ Đổi mới triều đại.

+ Đổi mới chế độ.

+ Đổi mới xã hội.

Điều đặc biệt trong đổi mới triều đại ở đây là từ sự nắm quyền bính chủ yếu từ các thủ

lĩnh quân sự chuyển sang thủ lĩnh dân sự, từ thể chế phân phong cát cứ, chuyển sang thể chế

trung ƣơng tập quyền vững mạnh. Sự đổi mới triều đại này là sự thay thế cả một thiết chế xã

hội, đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của dân tộc.

Ý thức đƣợc sứ mệnh dựng nƣớc lớn lao, Lý Công Uẩn đã dời đô từ Hoa Lƣ ra Thăng

Long. Sự đổi mới chế độ này chẳng những có ý nghĩa về chính trị, quân sự mà còn có ý nghĩa

về kinh tế cực kì sâu sắc. Bởi lẽ Hoa Lƣ chỉ thích hợp với một vị trí phòng ngự về quân sự,

còn Thăng Long ở giữa đồng bằng, trung tâm đất nƣớc, lại có hệ thống giao thông thủy bộ

thuận tiện mới thực sự đáng là trung tâm kinh tế văn hóa của một quốc gia độc lập,

6

hùng cƣờng (2). Đổi mới triều đại và đổi mới chế độ tất dẫn đến một hệ quả là đổi mới xã hội

và kinh tế. Vua Lí Thái Tổ lên ngôi, một mặt chăm lo đến việc chấn hƣng Phật giáo, xây

dựng chùa chiền, mặt khác còn rất chú ý đến việc giải phóng sức sản xuất và củng cố binh

lực.

Nhà vua đại xá cho thiên hạ, “đốt hết hình cụ” (Việt sử đại lƣợc), xá thuế cho dân,

truyền gọi những dân phiêu tán về quê cũ làm ăn, nhờ vậy mà sản xuất phát triển, công

thƣơng nghiệp phục hồi, khởi sắc, kinh tế tiền tệ cũng phát triển hơn trƣớc,... Đời sống nhân

dân, kinh tế tiền tệ cũng phát triển hơn trƣớc... Đời sống nhân dân, xã hội ngày một cải thiện.

Đời sống tinh thân cũng phục sinh trở lại. Lễ hội ca xƣớng đƣợc tổ chức trong triều

nội và sinh hoạt văn hóa dân gian, nghệ thuật đƣợc kế thừa và phát triển cao hơn trƣớc. Văn

minh Đại Việt chuyển thành nhân trí kết hợp với pháp trị. Những thành công rực rỡ trong

buổi đều đã tạo ra cơ sở vững mạnh cho những thắng lợi về võ công phá Tống Bình Chiêm.

Rõ ràng sự nghiệp dựng nƣớc với công cuộc đổi mới của Lí Công Uẩn đòi hỏi phải

tạo ra một nền văn hóa giáo dục mới độc lập, tự chủ, góp phần xây dựng một quốc gia phong

kiến tập quyền vững mạnh.

3- Mục tiêu đào tạo của giáo dục Lí – Trần – Hồ

Chúng ta đều biết mục đích giáo dục của Nho giáo là đạo tạo kẻ sĩ và ngƣời quân tử.

Ở thời đại Lý - Trần – Hồ, mục tiêu này đƣợc xác định một cách cụ thể, rõ rệt hơn

nhiều nằm đáp ứng đƣợc yêu cầu của đất nƣớc, của chế độ.

tế lâu dài cho con cháu đời sau”. Thăng Long là nơi có đủ điều kiện thỏa mãn những điều kiện đó là “ở trung

tâm bờ cõi đất nƣớc, rồng cuộc, hổ ngồi; Vị trí ở giữa bốn phƣơng đông, tây, nam bắc; tiện hình thế núi sông sau

trƣớc, ở đó địa thế rọng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cƣ không khổ và ngập lụt, muôn vật rất

phong phú tốt tƣơi. Xem khắp nƣớc Việt ta, chỗ ấy là nơi hơn cả, thật là chỗ hội họp của bốn phƣơng, là nơi đô

thành bậc nhất của đế vƣơng muôn đời”.

(2) Trong chiếu dời đô, Lí Thái Tổ nêu rõ mục đích dời đô là để “đóng nơi trung tâm, mƣu toan nghiệp lớn, kinh

7

Về số lƣợng phải đào tạo đƣợc lớp quan lại đông đảo cả văn lẫn võ – phục vụ cho bộ

máy nhà nƣớc triều đình đến địa phƣơng.

Về chất lƣợng, phải đào tạo đƣợc những ngƣời có đủ cả đức, tài, có năng lực xây

dựng xã hội phong kiến, biết chỉ huy chiến đấu tài giỏi để giữ nƣớc, chống ngoại xâm.

Để có thể thực hiện đƣợc mục tiêu giáo dục này, các nhà nƣớc phong kiến Lí – Trần –

Hồ rõ ràng phải giải quyết những vấn đề về tổ chức giáo dục, nội dung giáo dục, tổ chức việc

thi cử và biết sử dụng, đãi ngộ nhân tài.

Nhìn một cách khái quát, nền giáo dục Lí – Trần – Hồ trải qua 4 thế kỉ phát triển, bên

cạnh những nét chung, có những nét đặc trƣng riêng của thời kì đầu phong kiến cũng nhƣ

những nét riêng của mỗi vƣơng triều, điều mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau.

4- Tổ chức trường lớp thời Lí – Trần – Hồ

4.1. Triều Lí: (1009 – 1225)

Năm 1070, 60 năm sau ngày dời đô ra Thăng Long, Lí Thánh Tông dựng Văn Miếu,

thờ Chu Công, Khổng Tử, tứ phối và tác tƣợng 72...

8

vị tiên hiền là học trò giỏi của Khổng Tử.

Năm 1076, Lý Nhân Tông xây dựng Quốc tử giám. Trƣớc đó, năm 1075, triều Lý đã

mở khoa thi đầu tiên lấy tên là thi nho học tam trƣờng. Ngƣời đỗ thủ khoa là Lê Văn Thịnh,

sau đƣợc cử vào giảng dạy ở Quốc tử giám cho hoàng tử và các bậc đại quan. Mục đích giáo

dục là nhằm dạy dỗ con em các bậc quốc tử để biết đạo trị nƣớc an dân.

4.2 Triều Trần (1226-1400)

Mãi đến 1236 – tức 166 năm sau khi dựng Văn Miếu – Quốc tử giám đƣợc đổi tên

thành Quốc tử viện, mở rộng cho con em quan văn vào học.

Năm 1253, Trần Thái Tông xuống chiếu cho các nho sĩ trong nƣớc thông kinh sử đến

Quốc tử viện học tập, nghe giảng học Tứ thƣ, Ngũ kinh. Năm 1281, nhà Trần mở thêm nhà

học ở phủ Thiên Trƣờng.

Đến đây, trƣờng lớp của nhà nƣớc hầu nhƣ dừng lại, không phát triển thêm. Mãi tới

1397 (116 năm sau), vào những năm cuối triều Trần, ta mới thấy Trần Thuận Tông xuống

chiếu về việc học nhƣ sau:

“... Nay quy chế ở kinh đô đã đủ mà ở châu, huyện thì còn thiếu làm thế nào để mở

rộng giáo hóa cho dân đƣợc? Nên hạ lệnh cho các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc. Hải Đông đều

đặt một học quán cho ruộng công theo thứ bậc khác nhau, phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu

vừa thì 10 mẫu để cung phí cho nhà học (một phần để cúng ngày mùng một. Một phần về nhà

học, một phần để đèn sách). Quan lộ và quan đốc học dạy bảo học trò cho nên tài nghệ, cứ

9

đến cuối năm chọn ngƣời nào ƣu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi để lấy

dùng”.(3)

Nhƣ vậy, hệ thống trƣờng học của nhà nƣớc phong kiến Lý - Trần từ bậc ấu học đến

bậc đại học suốt gần bốn thế kỷ phát triển hết sức chậm chạp, ít ỏi, chỉ có ở kinh đô và một số

phủ châu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Việc học tập ở các địa phƣơng hầu nhƣ hoàn toàn do nhân dân tự lo liệu, chủ yếu là

do nhà chùa và các nho sĩ mở.

Sử sách không ghi chép gì về số lƣợng trƣờng lớp, song chắn chắn không phải ít vì

phải cung cấp số lƣợng nhi sinh cho các kì thi ngày càng nhiều và đi vào quy củ ở các triều

đại về sau.

Ở đây cần điểm lại đôi nét về phật giáo và trƣờng chùa. Theo các tài liệu cũ, ngay từ

thế kỷ đầu công nghuyên, phật giáo đã truyền vào nƣớc ta. Lúc đầu theo đƣờng biển từ Ấn –

Độ vào, sau bằng đƣờng bộ vào tù Trung Quốc và phía Tây. Hai phái thiền học đầu tiên truyền vào nƣớc ta là phái Tỳ-bi-đ-lƣu-chi và phái Vô ngôn thông.(4)

Đến các triều đại Ngô Đinh và tiền Lê, đặc biệt là các vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại

Hành đã rất ƣu đãi, coi trọng đạo phật. Lúc này nhiều vị sƣ giỏi xuất hiện làm vẻ vang cho

đạo phật.

Sau khi dẹp đƣợc 11 sứ quân. Đinh Tiên Hoàng triệu tập các vị tăng sĩ lỗi lạc đƣa vào

hàng Thái miếu để tham gia việc triều chính giúp vua trị nƣớc. Thiền sƣ Ngô Chân Lƣu đƣợc

suy tôn làm Không Việt thái sƣ. Trƣơng Ma Ni làm tăng lục đạo sĩ. Đặng Huyền Quang làm

Sủng Chân uy nghi. Các thiền sƣ này chẳng những rất giỏi về giáo lý mà còn cầm cân nẩy

mực

thuộc” Mã số đề tài: B94-37-23

(3) Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử ký toàn thƣ. Tập II, bản kỷ, quyển 9, trang 201. NXB KHXH, Hà Nội 1967. (4) Xem thêm báo cáo khoa học bổ sung của Nguyễn Đăng Tiến: “Phật giáo Việt Nam thời kỳ du nhập vào Bắc

10

cả về văn hóa, chính trị.

Đạo phật thành quốc giáo, các cao tăng tham chính tích cực vào việc nƣớc. Vua Lê

Đại Hành cũng thƣờng thỉnh các vị Tăng thống để hỏi về việc đạo và việc nƣớc.

Năm 1007, vua nhà Tông trao cho sứ thần nƣớc ta một bộ Đại tạng kính đƣa về nƣớc

lƣu hành. NHƣ vậy, lần đầu tiên nƣớc ta có một kho tàng kinh điển lớn bằng chữ Hán từ

Trung Quốc đƣa sang. Thời tiền Lê có nhà sƣ Đỗ Pháp Thuận, một Tăng thống trứ danh rất

giỏi trong công cuộc bang giao với nhà Tống. Có lần nhà sƣ Tống Lý Giáo đã hết sức kính

phục ông trong ứng đối thơ từ cả về đạo đức lẫn văn chƣơng. Khi vua Lê Đại Hành hỏi về

vận mệnh quốc gia, nhà sƣ ứng khẩu một bài kệ:

“Quốc tộ nhƣ đằng lục

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cƣ điện các

Xứ xứ tức đao binh”.

Ý nói là ở cƣơng vị vua cần phải thƣơng dân, chủ trƣơng hòa bình, không gây sự

nhiễu hại gì đến dân chúng thì đâu đó đều yên ổn, bền vững.

Nhƣng cuối tiền Lê, Lê Long Đĩnh là một ông vua bạo ngƣợc, xa xỉ, gây nhiều tội ác

đối với dân và các nhà sƣ nên Phật giáo và các sƣ sãi rất điêu đứng.

Đến nhà Lý, đạo phật lại trùng hƣng mạnh mẽ. Bản thân Lý Công Uẩn là con nuôi sƣ

cụ Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp, hồi nhỏ theo học thiền sƣ Vạn Hạnh và đƣợc sƣ giúp lên

ngôi.

Năm 1019, Lý Thái Tổ sai sứ đi Trung Quốc thỉnh kinh phật về để ở thƣ viện Đại

Hung của nhà nƣớc làm của báu.

Năm 1020, vua sắc lập các giảng đƣờng và phái các vị tăng trí thức truyền giảng đạo

phật khắp nơi trong nƣớc. Chùa chiền mọc lên nhƣ nấm và là nơi truyền đạo cho các tăng đồ,

thập nam tín nữ con em của nhân dân đến học. Nhà chùa thực chất đã trở thành trƣờng học

trong nhân dân.

Thực vậy, ngay từ thời Bắc thuộc. Luy Lâu (nay ở Thuận Thành Hà Bắc) đã là một

trong ba trung tâm phật giáo lớn nhất của

11

Trung Quốc và là trung tâm hoàng đạo phật giáo, nơi dừng chân của các nhà sƣ Ấn Độ,

Trung Quốc đi qua. Đến Lý-Trần, nhiều trung tâm phật giáo mới và hệ thống các chùa chiền

xuất hiện ở Hoa Lƣ, Hà Bắc, Hải Phòng, Thăng Long và cũng là những trƣờng chùa. Ở

Thăng Long, chùa Hồng Phúc (phƣờng Hòe Nhai) là nơi các vị tân khoa thời Lý Trần đƣợc ra

du ngoạn để thƣơng hoa nên mới có tên gọi chùa Hòe Nhai. Chùa Trấn Quốc (ven hồ Tây,

xƣa là chùa Khai Quốc) là nơi rất nhiều cao tăng nhƣ Vân Phong pháp sƣ, Khuông Việt thái

sƣ Ngô Chân Lƣu, Thảo Đƣờng ( cụ tổ khai sáng phái Thác đƣờng Việt Nam). Viện Học,

Tịnh không, Trần Tú Uyên... đều thụ giáo, trụ trì và theo học ở đây. Chùa Bà Đá (Linh Quang

Tự) có từ đời Lý Thánh Tông (1056). Đây là nơi kết hợp giữa 2 phái Tào Động và Lâm Tế

của đạo Phật, nơi cƣ ngụ của nhiều vị tăng tế, cả những khóa học đạo phật, sau này thời Pháp

thuộc còn là nơi in ấn của bộ kinh Đại Bảo tích gồm 120 quyển, bộ Thuyền gia yếu lƣợc, phật

tụng... lƣu truyền trong cả nƣớc.

Có thể nói đạo Phật thời Lý chiếm địa vị độc tôn, những giáo lý, đạo đức, tín ngƣỡng,

văn hóa, kỹ thuật, kiến trúc, điêu khắc, mỹ nghệ... của đạo Phật chan hòa khắp đất nƣớc.

Trong Danh triết lục có ghi rằng:”Trƣớc đời Lý Nhân Tông chƣa có khoa cử, những ngƣời

thông minh tài giỏi đều do phái Thích giáo lựa chọn và cất nhắc cho”.

Thời nhà Trần (1226-1400), các vua và quan lại cũng rất tôn sùng và mở mang đạo

Phật, nhất là các vị vua đầu triều đại. Những nhà vua nhƣ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,

các quan lại nhƣ: Trần Quốc Tảng, Lý Đạo Tải, vừa làm việc nƣớc, vừa phụng sự đạo Phật.

Vua Trần Nhân Tông, sau khi thắng giặc Nguyên Mông, đã nhƣờng ngôi cho con rồi xuất

gia, tu ở chùa Yên Tử (Quảng Yên), lập ra phái Trúc Lâm, một thuyền phái Phật giáo đặc biệt

do nƣớc nhà tự lập. Năm 1298, Trần Nhân Tông sai ngƣời sang Trung Quốc thỉnh kinh Đại

tạng (Nguyên Kinh) đem về khắc ván ấn hành. Năm sau, 1292, Trần Anh Tông đem lƣu hành

những kinh, luật, luận đó ra khắp nhân gian. Nhƣ vậy , đạo Phật thời Trần cũng nổi bật không

kém thời Lý. Nhƣng cuối Trần, phật giáo bắt đầu suy.

12

Nho giáo bắt đầu thịnh hành. Lão giáo cộng thêm Lạt-ma-giáo truyền vào pha trộn với phật

giáo. Giáo lý của đạo phật dần bị mờ nhạt, pha tạp, đi vào mê tín dị đoạn, dƣờng nhƣ sùng bái

quỷ thần.

4.3 Đến nhà hồ (1400-1407)

Giặc Minh tràn vào xâm lƣợc, thôn tính, phá hủy nhiều chùa chiền, tịch thu hết kinh

sách đem về Kim Lăng. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thƣơng trƣớc đó còn đặt ra Tăng cƣơng ti và

Đạo kỷ ti để kiểm tra ngặt nghèo Phật giáo và Đạo giáo ở Việt Nam.

Từ đó trở đi, Phật giáo trải qua nhiều bƣớc thăng trầm qua các thời kì lịch sử và phải

đến những năm 30 của thế kỷ XX mới có phong trào “chấn hƣng Phật giáo”. Tuy nhiên, lùi

bƣớc trƣớc nho giáo, song Phật giáo không bị tiêu diệt. Nó vẫn giữ đƣợc gốc rễ bền sâu trong

nhân dân với thái độ khoan dung, với tinh thần “từ bi hỉ xả”. Nó vẫn chung sống với Nho

giáo, Lão giáo theo kiểu “tam giáo đồng nguyên”. Trên lĩnh vực giáo dục, Phật giáo vẫn có

ảnh hƣởng sâu đậm trong cuộc sống tinh thần, đạo đức, tâm linh của quảng đại quần chúng,

của công đồng xã hội.

Về các trƣờng tƣ, sử sách chỉ nêu một số trƣờng nổi tiếng của một vài danh nho. Đó là

trƣờng lớp của Chiêu quốc vƣơng Trần Ích Tắc, của Chu Văn An ở Huỳnh Cung.

5- Tổ chức khoa cử dưới thời Lý-Trần-Hồ:

Nếu nhƣ các triều Lý-Trần-Hồ ít quan tâm đến việc mở trƣờng lớp công ở địa phƣơng

thì lại rất chú ý đến việc tổ chức khoa cử với nhịp độ ngày một tăng, ngày một đi vào quy củ.

Năm 1075, vua Lý Nhân Tông cho ở khoa thi tam trƣờng đâu tiên lấy tên là Minh

Kinh bác học, ... kén chọn ngƣời thông minh, sáng suốt, học rộng để ra làm quan. Số trúng

tuyển là 10 ngƣời, đỗ đầu là Lê Văn Thịnh. Ông đƣợc tuyển vào làm quan trong triều, sau lên

tới chức Thái sƣ.

Năm 1085, Lý Nhân Tông lại mở khoa thi chọn ngƣời tài văn học vào Hàn Lâm viện

để nghiên cứu kinh sử giảng tập cho vua.

13

Đỗ đầu kỳ thi này là Mạc Hiển Tích (viễn tổ Mạc Đĩnh Chi sau này), đƣợc bổ làm

Hàn lâm viện học sĩ, rồi thẳng đến chức Thƣợng thƣ.

Năm 1185, vua Lý Cao Tông mở khoa thi chọn nhân sĩ trong nƣớc từ 19 tuổi trở lên,

thông Thi Thƣ vào chầu giảng ở ngự điện- Khoa này chọn 20 ngƣời, ba ngƣời đỗ đầu là Đỗ

Thế Diên. Bút Quốc Khái và Đặng Nghiên.

Năm 1195, Lý Cao Tông mở khoa thi tam giáo nhằm kén chọn những ngƣời giỏi cả 3

giáo ra giúp vua, giúp nƣớc.

+ Sang thời Trần (1225-1400), khoa cử đi vào nề nếp hơn thời Lý nhiều.

Năm 1232, Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh, chia các thí sinh trúng tuyển

cao thành ba giáp. Đỗ đệ nhất giáp khoa này có hai ngƣời là Trƣơng hành và Lƣu Diễm, đệ

nhị giáp là Đặng Diễn và Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ.

Năm 1239, lại ấn định cứ 7 năm một lần thi hội.

Năm 1247, vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh. Ở khoa này, triều đình

chọn 40 ngƣời đỗ, trong đó 3 ngƣời đầu bảng gọi là tâm khôi. Từ đây, bắt đầu có danh hiệu

Trạng Nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa. Ở khoa này, trạng nguyên là Nguyễn Hiền, mới 13

tuổi, bảng nhãn là Lê Văn Hƣa, 18 tuổi, thám hoa là Đặng Ma Là, 14 tuổi.

Để khuyến khích việc học, viện thi ở những nơi xa kinh đô và các vùng dân tộc, từ

năm Bính Thìn (1256), triều đình lấy 2 trạng nguyên Kinh và Trại. Khoa thi này, trạng

nguyên Kinh là Trần Quốc Lặc, trạng nguyên Trại là Trƣơng Xán. Khoa này lấy 42 Thái học

sinh trở xuống, trong đó Tam khôi là 4, 38 là Hoàng giáp.

Khoa Bính Dần (1206), đời Trần Thánh Tông. Kinh trạng nguyên là Trần Cố, Trại

trạng nguyên là Bạch Liêu, Thám hoa là Hạ Nghi.

Nhƣng từ khoa Ất Hợi (1275) lại chỉ lấy 1 trạng nguyên nhƣ trƣớc.

Năm Giáp Thìn (1304), vua Trần Anh Tông (1239-1314) quy định phép thi phải qua 4

kỳ:

14

- Kì thứ nhất:

Thi ám tả chuyên mục, Thiên tử và Thiên y quốc.

- Kì thứ nhì:

Thi kinh nghĩa và thi phú.

- Kì thứ ba:

Thi chiếu, chế, biểu.

- Kì thứ tƣ:

Thi một bài văn sách.

Mạc Đĩnh Chi – ngƣời xã Lãng Động, huyện Chí Linh (nay là thôn Lũng Động, xã

Nam Tân, huyên Nam Thanh, tỉnh Hải Hƣng) đã đỗ Trạng Nguyên. Sau khi thi đỗ, đƣợc bổ

chức Thái học sinh hỏa dũng thƣ gia, rồi thăng chức Đại liêu bao, Tả bộc xạ. Ông đã từng

đƣợc cử đi sứ sang nhà Nguyên, đƣợc vua Nguyên khen ngợi, gọi là “Lƣỡng quốc trạng

nguyên”. Cũng ở khóa này Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp. Ông nổi tiếng thần đồng từ

nhỏ, 16 tuổi đã đỗ đạt đại khoa. Sau cũng đi sứ sang Nguyên, làm nhiều chức quan to trong

triều và sáng tác rất nhiều thơ chữ Hán. Từ 1304, nhà Trần mở khoa thi tiến sĩ đến năm 1393

có tất cả 4 kì thi đại khoa nữa.

+ Dƣới thời nhà Hồ (1400-1407), do thời gian ngắn ngủi, nên chỉ tổ chức đƣợc 2 khoa

thi (1400 và 1405), song đã đào tạo nên những danh ngo, danh thần nổi tiếng sau này nhƣ

Nguyễn Trãi (xem chi tiết ở phần Lê sơ đã trình bày), Lí Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên.

Bảng thống kê sau đây hệ thống các khoa thi tiến sĩ và tƣơng đƣơng dƣới thời Lí –

Trần – Hồ:

THỐNG KÊ CÁC KHOA THI TIẾN SĨ VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG (1075 – 1919)

TT Tên khoa thi Tổng Đệ nhất giáp Nhị Tam Bia

số giáp giáp tiến Trạng Bảng Thám

sĩ nguyên nhãn hoa

I- Triều Lý – Trần – Hồ

+ Triều Lý:

1 Ất Mão Thái Ninh 4 (1075) 1 1

1 Bính Dần Quảng Hự 2 (1086) 1 2

3 Ất Tỵ Trinh Phù 10 (1185) 3 3

+ Triều Trần:

5 Nhâm Thìn Kiến Trung 8 (1232) 2 2 1 4

4 Kỷ Hợi Thiên Ứng Chinh Binh 15 2 1 1 5

(1239

Bính Ngọ Thiên Ứng Chinh Binh 3 1 1 1 6

15 (1246)

Đinh Mùi Thiên Ứng Chinh Binh 7 1 1 1 3 7

16 (1247)

4 Bính Thin Nguyên Phong 6 (1256) 2 1 1 8

3 Bính Thìn Thiệu Phong 9 (1266) 2 1 9

1 Giáp Tuất Bảo Phù 3 (1275) 1 1 10

2 Ất Hợi Bão Phù 3 (1275) 1 11

6 Giáp Dần Hƣng Long 12 (1304) 1 1 3 1 12

4 Giáp Dần Long Khánh 2 (1374) 1 1 1 1 13

2 Giáp Tý Xƣơng Phù 8 (1384) 2 14

4 Quý Dâu Quang Thái 6 (1393) 4 15

+Triều Hồ:

16 Canh Thìn Thánh Nguyên 1 7 1 6

(1400)

Ất Dậu Khai Đại 3 (1405) 3 3 17

Mậu Thìn Trinh KHánh 3 5 3 1 1 18

+ Chƣa rõ năm đỗ 10

15

6- Nội dung giáo dục và thi cử dưới thời Lý – Trần – Hồ.

Nhà trƣờng phong kiến Lý-Trần-Hồ chọn nho giáo để xây dựng nền giáo dục chính

thống. Sách giáo khoa chính của nho giáo ở bậc cao là Tứ thƣ, Ngũ kinh và Bắc sử.

Ở cấp dƣới trong các lớp ấu học, môn học ở làng xã và các trƣờng tƣ khác chắc phải

dùng sách khai tâm do ngƣời Trung Quốc soạn. Đó là các cuốn Hiếu kinh, Tam tự kinh, Minh

tâm bảo giáo, Minh đạo gia huấn. Lúc này, sách do ngƣời Việt soạn chƣa thấy xuất hiện. Để

phục vụ các kỳ thi tam giáo, các sĩ tử cũng phải học cả giáo lý của đạo giáo và phật giáo. Tuy

nhiên, ở thời Lý và nửa đầu thời Trần, nội dung thi cử ra sao không thấy sử sách ghi rõ. Mãi

đến giữa thời Trần mới thấy nội dung phép thi thời học sinh nhƣ sau:

“Phép thi, trƣớc thi ấm tả” “ y quốc thiên” và “Mục thiên tử truyện” để loại, rồi đến

thi kinh nghi, kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thi ngũ ngôn trƣờng thiên, lấy 4 chữ “tòi, non, xạ,

trĩ” làm vần phú dùng thể 3 vần. Trƣờng thứ ba thi chiều, chế, biểu. Trƣờng thứ tƣ thi văn

sách...”

Thi Hƣơng và thi Hội đều phải trải qua 4 bì (hay 4 trƣờng đỗ kỳ trƣớc mới đƣợc vào

thi kỳ sau. Riêng thời Hồ còn có thêm kỳ thứ 5. Bảng thông kê sau giới thiệu thể loại các bài

thi qua 1 số kỳ thi:

THỂ LOẠI CÁC BÀI THI

Năm Kỳ I Kỳ 2 Kỳ 3 Kỳ 4 Kỳ 5 Triều đại

1034 Kinh nghĩa Chiều, chế Trần Anh Ấm tả Văn sách 0 thơ, phú biểu Tông

1396 Chiều, chế, Trần Thuận Kinh nghĩa Thơ phú Văn sách biểu Tông

1404 Chữ viết - Hồ Hán Bốn kỳ thi này giống nhƣ triều Trần Toán Thƣơng

- Ấm tả là bài thi thí sinh nghe đọc rồi viết đúng chữ.

16

- Kinh nghĩa: Kinh ở đây là cửu kinh, bao gồm các sách Tứ thƣ và Ngũ kinh. Kinh

nghĩa là một bài văn giải thích ý nghĩa một câu trích trong kinh truyện, vì thế cũng gọi là tinh

nghĩa. Kinh phải làm theo lối văn “bát cổ” (tám vế), tức theo lối biên văn (biên hai con ngựa

chạy sóng đôi), không có vần mà có đối.

- Chiếu, chế, biểu:

Chiếu là lời vua ban bố hiệu lệnh cho thần dân.

Chế là lời vua phong thƣởng cho công thần.

Biểu là bài văn của thần dân dâng lên vua để chúc mừng, tạ ơn hoặc bày tỏ điều gì.

Xƣa kia 3 lối này làm theo văn xuôi gọi là cổ thể. Từ đời nhà Đƣờng về sau, làm theo

lối tứ lục gọi là cận thể.

Tứ lục là một lối biền văn, mỗi câu có 2 vế, mỗi vế chia 2 đoạn, 1 đoạn 4 chữ, 1 đoạn

6 chữ.

- Thơ phú:

Thơ và phú là hai lối không những dùng trong thi cử mà các văn sĩ Trung Quốc và

văn sĩ nƣớc ta thƣờng dùng để sáng tác, xuống họa. Thơ văn bao gồm các thể mƣợn của

Trung – Hoa, có loại của riêng nƣớc ta.

Thể mƣợn của Trung Hoa gồm:

1. Vận văn: văn có vần nhƣ thơ, phú, văn tế.

2. Biền văn: văn không có vần nhƣng có đối nhƣ câu đối, tứ lục, kinh nghĩa (lối bát cổ

đã nói trên).

Thể riêng của ta nhƣ lục bát, song thất lục bát và các biến thể của hai lối đó, nói lối

(tuồng)...

Ngoài ra còn có các lối văn xuôi của Trung Hoa và văn xuôi mới của ta, sau này chịu

ảnh hƣởng của Tây học mới dùng nhiều.

Nói về thơ phú có thể trình bày rất nhiều điều. Trong bài này, chúng tôi chỉ xin nêu

mấy điểm sơ lƣợc về thơ đƣờng luật mà thí sinh phải nắm chắc khi làm bài.

17

Theo định nghĩa, thơ (chữ nho là thi ) là thể văn có thanh, có vận, có thể ngâm vịnh

đƣợc.

Thơ cổ có hai lối chính:

1. Thơ ngũ ngôn: mỗi câu 5 chữ.

2. Thơ thất ngôn: mỗi câu 7 chữ.

Thơ cổ phong hoặc cổ thể là thể thơ có trƣớc đời nhà Đƣờng, không theo niêm luật

nhất định.

Thơ tứ tuyệt: mỗi bài có 4 câu.

Thơ bát cú: mỗi bài có 8 câu.

Trong thơ Đƣờng luật, bát cú (8 câu) là lỗi chính và thƣờng dùng nhất. Khi làm bài

thơ đƣờng luật, lối bát cú, thí sinh phải nắm chắc 5 điều:

1. Vần thơ

2. Phép đối trong thể thơ

3. Luật thơ

4. Niêm trong thơ

5. Cách bố cục bài thơ.

Phú nghĩa đen là bày tỏ, mô tả, là một thể văn có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục

hoặc tính tình.

Phú có hai lối: Cổ thể ( thể cũ) là thể phú có trƣớc đời nhà Đƣờng, có vần mà không

đổi, có thể nhƣ một bài ca dài, có thể là một bài văn xuôi có vần, tức là lối phủ lƣu thủy.

Đƣờng luật là lối phú đặt ra từ đời nhà Đƣờng, có vần, có đối, có luật bằng trắc.

Đƣờng luật là loại văn phải theo quy củ nhất định và là loại phú thông dụng nhất.

Nhƣ vậy, tùy theo đề bài và yêu cầu, thí sinh phải làm bài đúng theo mọi phép tắc, sai

là bài bị đánh hỏng.

Văn sách: Sách là mƣu hoạch. Văn sách là một bài văn làm để trả lời những câu hỏi

của đầu bài để tỏ kiến thức và mƣu hoạch của mình. Thể văn này không có vần, thƣờng có

đối, nhƣng việt thành văn xuôi cũng đƣợc.

18

7- Đặc trưng giáo dục thời Lý – Trần – Hồ.

Nhƣ trên đã nêu, cho đến thời Lý – Trần – Hồ, nƣớc ta vẫn chƣa có chữ viết riêng của

dân tộc. Trong sự giao lƣu văn hóa giữa các dân tộc, những ảnh hƣởng qua lại về văn hóa

giáo dục là điều tất nhiên. Bởi vậy, việc mô phỏng nho giáo và vay mƣợn chữ Hán để xây

dựng một nền giáo dục phong kiến thời Lý – Trần – Hồ là điều không có gì lạ lùng. Tuy vậy,

với ý thức độc lập, tự chủ, lại có truyền thống văn hiến lâu đời, việc tiếp thu các ý thức hệ

tâm giáo nói chung, nho giáo nói riêng vẫn mang tính chọn lọc, sáng tạo, mang những đặc

trƣng riêng biệt của quốc gia Đại Việt.

Có thể nêu một số đặc trƣng chính sau đây:

7.1- Xây dựng một nền giáo dục độc lập, tự chủ, đào tạo những con người có ý thức dân

tộc, tự cường, nét đặc trưng nổi bật thứ nhất của giáo dục Lý – Trần – Hồ.

Ba sự kiện giáo dục quan trọng ở thời Lý là lập Văn Miếu (1070), thi Minh kinh bác

học (1075) và lập Quốc Tử Giám (1076) có hai ý nghĩa lớn:

+ Thứ nhất, khẳng định việc tôn thờ Chu công, Khổng Tử và các tiên hiền, xác định

nho giáo là chính giáo.

+ Thứ hai, lần đầu tiên nƣớc ta xây dựng một nền giáo dục chính qui độc lập, tự chủ,

có tổ chức trƣờng lớp, có sách, có thầy, có thi cử.

Tuy nhiên lấy nho giáo làm quốc giáo, nhà trƣờng phong kiến Việt Nam không thể

không sử dụng những sách giáo khoa của nho giáo nhƣ Tứ thƣ, Ngũ kinh...

Trƣớc hết, mô phỏng theo các triều đại phong kiến Trung Quốc, nhằm củng cố vị trí

thống trị của mình, các vƣơng triều Lý – Trần – Hồ cũng giáo dục cho ngƣời học nội dung tƣ

tƣởng cơ bản của nho giáo.

Về triết học, đó là quan điểm mệnh trời. Về chính trị, đó là lý thuyết chính danh định

phận, là đức trị. Áp dụng vào

19

việc trị dân, các vƣơng triều Lý – Trần – Hồ cũng đề ra chính sách đƣờng dân và giáo dân.

Nội dung đạo đức nho giáo cơ bản là nhân, nghĩa, đƣợc phát triển thành ngũ luân, ngũ

thƣờng để truyền thục cho ngƣời học và cho toàn xã hội.

Rõ ràng là trên cơ sở bảo vệ quyền lợi giai cấp, vị trí thống trị của dòng họ, các triểu

đại phong kiến Lý – Trần – Hồ cũng muốn dùng học thuyết đạo trị để xây dựng một xã hội có

tôn ti trật tự, một xã hội trong đó “ vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Cũng nhƣ

Khổng Tử và các triều đại phong kiến Trung Quốc, các vƣơng triều Lý – Trần – Hồ cũng đòi

hỏi mọi ngƣời phải tu thân làm gốc: “Tự thiên tử dĩ chí ƣ thứ nhân nhất, thị giai dĩ tu thân vi

bản” (đại học). Có tu nhân mới trở thành kẻ sĩ, ngƣời quân tử, mới có thể tề gia, trị quốc, bình

thiên hạ đƣợc.

Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử đặc thù của dân tộc, các triều đại Lý – Trần – Hồ đã

không vận dụng máy móc, rập khuôn nho giáo Trung Quốc mà có những sáng tạo, thể hiện

tinh thần độc lập, tự chủ của mình.

Tiếc rằng, sách vở xƣa nhƣ Tứ thƣ thuyết ƣớc của Chu Văn An, Minh Đạo của Hồ

Quí Ly v.v... cho đến nay không còn nữa nên việc minh chứng cho sự sáng tạo trong việc

truyền thụ nho giáo bị hạn chế. Tuy nhiên, chúng ta có thể biết tinh thần những sách đó qua

các lời bình luận của sử sách lúc bấy giờ. Là nhà nho có khí tiết, Chu Văn An thấy triều đình

Trần Dụ Tông thối nát, đã dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần. Vua không nghe, ông đã xin trảo

áo mũ, từ quan về quê nhà. Trái với chiêu quốc vƣơng Trần Ích Tác chỉ dạy học trò về hƣ

văn, Chu Văn An chú ý rèn luyện học trò về mặt thực tiễn. Học trò của ông có rất nhiều

ngƣời nổi tiếng điển hình là Phạm Sƣ Mạnh, Lê Quát. Học trò của ông thƣờng lấy “minh đạo

hóa dân” làm chủ nghĩa, lấy “xấu hổ không bằng ngƣời” làm tinh thần. Xem nhƣ thế, đủ thấy

nội dung của “Tứ thƣ thuyết với” có chỗ chống lại học thuyết suông của nhà ngo. Ngô Sĩ

Liên, tác giả Đại việt sử ký

20

toàn thƣ khi nhận xét về Chu Văn An đã khen: “Sau muôn năm nghe cái phong của tiên sinh,

ngƣời ngoan ngạnh cũng hóa ra liêm, kẻ ƣơn hèn cũng tự lập đƣợc”.

Đặc biệt, Hồ Quí Ly lại có tƣ tƣởng chồng học thuyết của nhà nho cao hơn. Năm

1392, ông dâng sách “Minh đạo” lên vua Trần Minh Tông gồm 14 thiên. Trong sách này, ông

khen ngợi Chu Công hơn Khổng Tử phê phán đạo đức của Khổng Tử trong việc gặp nàng

Nam Tử ở nƣớc Vệ nghi ngờ sách Luận ngữ hoặc khi Khổng Tử bị tuyệt lƣơng ở nƣớc Trần

mà trở về vô sự v.v... Hồ Quí Ly còn lên án Hàn Dũ ở thời Đƣờng, Trình Di, Trình Hạo ở đời

Tống, cho rằng họ là những “nhà nho ăn cắp văn” tức là chỉ biết lặp lại những điều trong sách

vở cũ một cách mù quáng, không chú trọng đến thực tế, đến sự sáng tạo. Năm 1396, ông dịch

Kinh Thi để dạy hậu phi và nữ quan, đã cắt bỏ bài tựa của Chu Hy, thay bài tựa riêng của

mình. Lại dịch thiên Vô dật trong Kinh thƣ ra chữ nôm để giảng dạy.

Điều đó chứng tỏ rằng ngay sách giáo khoa của nho giáo khi đƣa vào giảng dạy ở Việt

Nam cũng đƣợc sử dụng có phê phán, chọn lọc nhằm đáp ứng yêu cầu của dân tộc, của đất

nƣớc. Song căn cứ trên những sự kiện còn ghi lại trong sử sách, thơ văn, những tấm gƣơng,

chói sáng của các bậc hiền tài văn, võ trong công cuộc giữ nƣớc và dựng nƣớc, có thể khẳng

định nền giáo dục Lý – Trần – Hồ đã góp phần quan trọng trong việc giáo dục tinh thần độc

lập, tự chủ, đào tạo nên những lớp ngƣời tài giỏi làm rạng rỡ nền văn minh Đại Việt về hào

khí Đông Á.

Hai khái niệm rất cơ bản của nho giáo là Trung, Hiếu khi vào Việt Nam đã đƣợc hiểu

và sử dụng khác với Trung Quốc.

Ở Trung Quốc, Trung là trung với vua (trung quân), trung với dòng họ đang thống trị.

Vào Việt Nam, ngoài ý nghĩa đó, trung quân còn gắn rất chặt với ái quốc. Sự gắn chặt hai

khái niệm này đã có truyền thống lâu đời.

Thời Lý – Trần – Hồ, vận nƣớc luôn luôn bị đe dọa trƣớc các thế lực ngoại xâm

cƣờng bạo. Quyền lợi của các vƣơng triều chỉ tồn tại khi đất nƣớc đƣợc bảo vệ, đƣợc độc lập,

tự do, mâu

21

thuẫn giai cấp giữa thống trị và bị trị đƣợc hòa hoãn trƣớc nguy cơ xâm lƣợc. Vì vậy, trung

quân – ái quốc là hai khái niệm chắc chắn đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng và truyền bá

trong xã hội. Khái niệm hiểu ở Trung Quốc chỉ có một nghĩa là hiếu với cha mẹ. Vào Việt

Nam, nó đƣợc tách làm hai: tiểu hiếu và đại hiếu. Hiếu với cha mẹ là tiểu hiếu, hiều với đất

nƣớc, với nhân dân là đại hiếu. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng tiểu hiếu luôn đƣợc đặt

dƣới đại hiếu.

Từ vua quan đến sĩ phu, những trí thức của thời đại đều tiếp thu đạo thánh hiền, song

trong ngôn từ và hành động đều thể hiện tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nƣớc, chống ngoại

xâm.

Trong “Chiếu dời đô”, Lý Thái Tổ nêu rõ mục đích chuyển kinh đô từ Hoa Lƣ về

Thăng Long (thành Đại La) là để “ đóng nơi trung tâm, mƣu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài

cho con cháu đời sau” (5) Lý Anh Tông khi lâm bệnh đã trăng trối cùng Thái Tử:

“Nƣớc ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng châu ngọc, bảo bối không

cái gì không có, nƣớc khác không thể nào ví đƣợc. Con hãy nên giữ nƣớc cẩn thận”(6).

Lòng yêu nƣớc thiết tha và tinh thần độc lập, tự chủ, quyết tâm bảo vệ tổ quốc đƣợc

thể hiện đặc biệt trong quan điểm của các danh tƣớng tiêu biểu nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần

Hƣng Đạo. Bài thơ “thần” do Lý Thƣờng Kiệt viết nói rõ cƣơng giới giữa hai nƣớc đã rõ

ràng, kẻ nào xâm lƣợc sẽ thất bại:

...”Lũ giặc cớ sao xâm phạm tới

Rồi bay sẽ chuốc lấy phần thua”.

“Hịch tƣớng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đƣợc viết năm 1285. Ngoài giá trị xuất sắc của

một tác phẩm văn học, có thể coi

thích. (6) Việt sử lƣợc: NXB sử học Hà nội, 1959, tr 152

(5) Thơ Văn Lý – Trần, tập I, NXB KHXH Hà Nội 1977, trang 229, 230, 231 Nguyễn Đức Vận dịch và chú

22

đây là một tác phẩm toát lên một tinh thần yêu nƣớc căm thù giặc sâu sắc, có tác dụng giáo

dục toàn thể tƣớng sĩ và cả nhân dân. Nội dung cơ bản của hịch có thể tóm tắt nhƣ sau:

- Trƣớc hết, tác giả lấy những gƣơng hy sinh trong sử sách để kích thích lòng dũng

cảm của tƣớng sĩ.

- Tiếp theo, tác giả gợi lên nỗi nhục nhã, đau đớn cảu cảnh nƣớc mất nhà tan, trƣớc sự

tàn bạo của giặc.

- Phân biệt quan niệm địch và ta rõ rệt và nhấn mạnh “Giặc với ta là kẻ thù không đội

trời chung”.

- Trên cơ sở đó, bài hịch nêu lên quyền lợi của quí tộc, của tƣớng sĩ nếu đánh tan

đƣợc giặc nƣớc. Ngƣợc lại, nếu thua giặc thì nƣớc sẽ mất, nhà sẽ tan, thái ấp của quí tộc, vua

quan, vƣờn ấp và bổng lộc của tƣớng sĩ và gia đình họ cũng không còn gì nữa.

Bằng hai hình ảnh đối lập đó, bài hịch đã kêu gọi tƣớng sĩ phải đoàn kết, trên dƣới

một lòng quyết tâm chiến đấu. Vời lời lẽ đanh thép, thấm thía, lúc hùng hồn, khi tha thiết, bài

hịch đã đi sâu vào lý trí và tình cảm của tƣớng sĩ, động viên họ chịu đựng gian khổ, quyết

tâm đánh giặc cứu nƣớc, chống tƣ tƣởng hòa bình hƣởng lạc. Về mặt giáo dục, có thể nói

hịch tƣớng sĩ là một bài thuyết pháp có sức truyền cảm mãnh liệt. Vả lại, bản thần Trần Quốc

Tuấn cũng làm theo lời hịch, đồng cam, cộng khổ với ba quân, nuôi chí căm thù đến mức

“ruột đau nhƣ cắt, nƣớc mắt đầm đìa” khi chƣa “xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”.

Không rõ “Hịch tƣớng sĩ” có đƣợc dùng làm tài liệu giảng dạy trong nhà trƣờng phong kiến

đƣơng thời không, song chắc chắn những tƣ tƣởng yêu nƣớc, chống giặc này nhất định sẽ

đƣợc các nho sĩ, các thầy giáo yêu nƣớc thƣơng dân truyền đạt cho học trò của mình và

truyền đạt trong quần chúng nhân dân. Hình ảnh hội nghị “Diên Hồng” có thể là một minh

chứng khẳng định tƣ tƣởng này, đƣợc toàn dân nhất trí. Tác dụng giáo dục to lớn của nó đã

khiến quân dân Đại Việt có đủ sức 3 lần đập tan tác giặc Nguyên – Mông.

- Lòng yêu nƣớc, tinh thần tự hào dân tộc, ca ngợi cảnh đẹp đất nƣớc, ca ngợi những

chiến công rực rỡ của công cuộc bảo

23

vệ và xây dựng đất nƣớc ... có thể tìm thấy rất nhiều ở các áng văn Lý – Trần, từ các thiên sử

thời Lý trong việc tiếp sứ thần Trung Quốc đến các bài thơ của vua Trần Minh Tông của

Phạm Ngũ Lão, Bạch Đằng Giang, phú của Trƣơng Hán Siêu v.v...

- Đội ngũ thầy giáo ở thời kỳ Lý – Trần – Hồ ngoài cái thiên sử là các nho sĩ. Họ có

thể là hiền nho, ấn nho hoặc hàn nho. Song trong hoàn cảnh đất nƣớc thời Lý – Trần – Hồ,

chắc chắn họ đều một lòng một dạ với ý chí của triều đình, của nhân dân.

Trong khi giảng dạy những nội dung giáo dục của nho giáo, những khái niệm về trung

hiếu và nhân nghĩa, lẽ, trí, tín và đứng dũng v.v... nhất định đƣợc Việt hóa không những do

yêu cầu của triều đình, của vua quan mà còn chính do tấm lòng yêu nƣớc thƣơng dân của họ.

Chắc hẳn rằng trong lúc sử dụng hình thức nho giáo, trong lúc thể hiện tƣ tƣởng nho giáo,

toát lên quan điểm, cảm xúc riêng của mình về những vấn đề xã hội, nhân sinh, ý thức độc

lập tự chủ, đƣờng lối đánh giặc của riêng dân tộc mình. Đi ngƣợc với quyền lợi của dân tộc,

sử sách chỉ thấy ghi một vài trƣờng hợp, trong đó một trƣờng hợp điển hình là Chiêu văn

vƣơng Trần Ích Tác.

Nếu nhƣ tài liệu không cho ta thấy rõ nội dung về phƣơng pháp giáo dục cụ thể trong

nhà trƣờng phong kiến thì thực tế lại chứng tỏ nhà trƣờng đã góp phần đào tạo nên rất nhiều

nhân tài cho đất nƣớc chả về văn lẫn võ. Nhiều thiền sƣ thời Lý – Trần thông hiểu cả tam

giáo, đƣợc các vua tin cẩn hỏi về mọi việc từ nội trị đến ngoại giao, đƣợc giao nhiệm vụ tiếp

các sứ thần khiến họ phải kiêng nể. Nhiều văn thần tài giỏi nhƣ Lý Đại Thành, Tố Hiến

Thành, Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích (Lý), Trần Chu Phổ, Lê Văn Hƣu, Mạc Đỉnh Chi,

Nguyên Trung Ngạn (Trần), Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên (Hồ) ... Về võ, biết

bao danh tƣớng xuất hiện nhƣ Lý Thƣờng Kiệt, Trần Hƣng Đạo, Trần Quang Khải, Trần

Nhật Duật, Trần Nguyên Hãn, Phạm Ngũ Lão v.v...

Trong số đó, không ít ngƣời có đủ đức lẫn tài, giỏi cả văn lẫn võ. Rõ ràng các danh

nhân, danh tƣớng này là đội ngũ

24

trí thức của các vƣơng triều, là những cột trụ chống đỡ và đƣa nƣớc Đại Việt lên đỉnh cao rực

rỡ. Sự xuất thân của họ có thể khác nhau, tài năng của họ có thể do tự thân học tập, rèn luyện,

do lăn lộn trong thực tiễn giữ nƣớc và dựng nƣớc mà có, song chắc chắn nhà trƣờng phong

kiến, từ Quốc Tử Giám, Quốc tử viên đến các trƣờng tƣ trong các lòng xã đã góp phần không

nhỏ trong việc đào tạo, hun đúc nên những tinh hoa của dân tộc.

Có thể nói xây dựng một nền giáo dục độc lập tự chủ, đào tạo nên những con ngƣời

có ý thức dân tộc, tự cƣờng là nét đặc trƣng nổi bật sổ một của nền giáo dục Lý – Trần – Hồ.

Ý thức độc lập, tự chủ còn thể hiện ở việc coi trọng vai trò của nhân dân. Trong thực

tế, nhân dân ta đã có những đóng góp tích cực và có ý nghĩa quyết định trong công cuộc giữ

nƣớc và dựng nƣớc từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên độc lập, tự do.

Vai trò đó đã đƣợc phản ánh trên lĩnh vực tƣ tƣởng của thời Lý – Trần, mặc dù có

những hạn chế và bị xuyên tạc bởi ý thức hệ phong kiến. Các vua quan và những đại biểu

phong kiến Lý – Trần thƣờng xuyên nói về “ý dân”, “lòng dân”, “khoan thử sức dân”. Lý

Công Uẩn, trong “Chiếu dời đô” đã nói: “Trên vâng mệnh trời, dƣới theo ý dân, thấy tiện lợi

thì đổi dời cho nên vận nƣớc lâu dài, phong tục giàu thịnh”(7)

Tƣ tƣởng đề cao vai trò nhân dân cũng rõ nét ở nhà Trần nhƣ Trần Tự Khánh, Lê Văn

Hƣu đều nói đến lòng dân, thƣơng dân, Trần Hƣng Đạo thì có viện “khoan thƣ sức dân” là

“để làm kế sâu gốc bèn rẽ”, là “thƣợng sách để giữ nƣớc”.(8)

Tƣ tƣởng thần dân này biểu thị khái niệm đức trị của các vƣơng triều Lý – Trần. Bài

Minh bia ở Chùa Linh xứng ca ngợi công đức của Lý Thƣờng Kiệt có đoạn:

(7) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam – Tập II, trang 34. (8) “Đại Việt sử ký toàn thƣ” tập II, NXB KHXH Hà nội, 1971, trang 88.

25

“...Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân đƣợc nhờ cậy. Khoan

hòa giúp đỡ hăm họ, nhân từ yêu mến mọi ngƣời, cho nên nhân dân kính trọng... Thái úy biết

dân lấy sự no ấm làm đầu, nƣớc lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi

mà không khoe khoang, nuôi dƣỡng cả đến ngƣời già ở nơi thôn giã, cho nên ngƣời già nhờ

đó mà đƣợc an thân. Phép tắc nhƣ vậy có thể gọi là cái gốc trị nƣớc, các thuật yên dân, sự tốt

đẹp đều ở đấy cả.

Đó cũng là chuẩn mực vua và các quan lại Lý – Trần tu dƣỡng và là mục tiêu đào tạo

nhân tài cho đất nƣớc qua việc học, việc thi của ngƣời giáo dục chính thống.

Nho giáo Việt Nam còn biểu thị tinh thần độc lập, tự chủ ở nhiều điểm khác nhau nhƣ

ca ngợi đất nƣớc, ca ngợi chiến công, biểu dƣơng các anh hùng, hào kiệt, tác động đến lòng sỉ

nhục của con ngƣời nếu nhƣ để nƣớc mất, nhà tan, vƣơng triều sụp đổ, nếu nhƣ bại trân trong

cuộc chiến tranh vệ quốc v.v...(Hịch tƣớng sĩ). Nó cũng biểu thị ở chỗ không chỉ coi trọng

văn giáo mà cả võ giáo, bên cạnh việc dùng chữ Hán, cũng tìm cách sáng tạo ra chữ nôm của

dân tộc.

7.2- Tam giáo đồng nguyên, nét đặc trưng nổi bật thứ hai của giáo dục Lý – Trần – Hồ.

Chúng ta biết rằng Phật giáo và Đạo giáo đã du nhập vào nƣớc ta từ lâu và đƣợc nhân

dân ta tiếp nhận dễ dàng.

Trƣớc thế kỷ XI, ở các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ,

chiếm ƣu thế trong xã hội. Trung tâm Phật giáo lung Lâu (Thuận thành, Hà Bắc ngày nay) đã

có từ đầu công nguyên dƣới thời Bắc thuộc. Đến thế kỷ X, nhiều trung tâm Phật giáo mới

xuất hiện ở Kinh Bắc, Hoa Lƣ, Đại La...

Ở thế kỷ XI, các vua quan triều Lý đều rất mộ đạo Phật. Các vƣơng triều đã tiếp thu,

kế thừa và phát triển đạo Phật đến đỉnh cao của nó. Ngoài hai thiền phái Ti-ni-đa-lƣu-chi và

Vô ngôn thông nhập từ ngoài vào, triều Lý đã lập ra một thiền

26

phái mới lấy tên là thảo đƣờng.

Chúng ta biết rằng tƣ tƣởng Phật giáo xoay quanh học thuyết lớn là “Tứ diệu đế”

(Khổ, tập, Diệt, Đạo). “Thập nhị nhân duyên” là 12 nhân duyên để giải thích “đời là bể khổ”

và nguyên nhân dẫn đến sinh, lão bệnh , tử. “Ngũ uẩn” đã thích con đƣờng diệt khổ dẫn đến

cõi niết bàn. Nƣớc ta theo giáo Lý Đại thừa phát triển nhất là phái Thiền tông, quan niệm vạn

vật đều là “sắc không”, là giả tƣởng. Muốn thoát vòng nghiệp chƣớng, luân hồi phải từ bỏ

mọi thứ của cuộc đời, xuất thế để tu hành đến đắc đạo. Bên cạnh tƣ tƣởng duy tâm siêu hình

này, đạo Phật nhân sinh quan, chủ trƣơng “từ bi báo ái” và “bình đẳng”.

Tất nhiên, các thiền sƣ đều truyền bá giáo Lý của đạo Phật. Sƣ Vạn Hạnh nói với đệ

tử rừng “Viện thịnh suy ở đời giống nhƣ giọt sƣơng đọng trên ngọn cỏ” (Thịnh suy nhƣ lộ

thảo đầu phố). Hoặc sƣ Huệ sinh khi trả lời vua Lý Thái Tông về ý nghĩa đạo thiền đã nói

“Chỗ cùng tột của đạo thiền là im lặng nhƣ bóng trăng trên núi băng giá, hƣ không nhƣ chiếc

thuyền vƣợt biển khơi” (Tịch tịch Lăng già nguyệt, không kháng độ hải chu). Triết Lý đạo

thiền là nhƣ vậy, song cái thiền sƣ nƣớc ta để thích nghi với hoàn cảnh đất nƣớc, lại không hề

quay lƣng với thực tế, trái lại rất tích cực nhập thể, tham gia vào công việc giữ nƣớc, dựng

nƣớc, lo toan việc đời. Nhƣ trên đã nêu, thay vì chỉ chuyên trị thuyết pháp, nhiều thiền sƣ,

pháp sƣ đã trở thành quốc sƣ, đứng ra làm chính trị, giúp vua và triều đình làm các công việc

ngoại giao, hành chính. Nhƣ vậy là trái với triết Lý đạo Thiền, các thiền sƣ đã công nhận thực

tại, công nhận là co khách thể chứ không phải mọi thứ đều là giả tƣởng.

Trong tác phẩm nổi tiếng “Khóa hƣ lục”. Trần Thái Tông khi bình luận về Thiền tông

cũng có ý kiến riêng của mình,

Ông phản bác lời một nhà sƣ Trung Quốc là Lục Tổ cho rằng Khổng Tử và Thích Ca

không khác gì nhau. Trần Thái Tông quan niệm Khổng Tử chủ trì hiện thế, Phạt chủ trì xuất

thế, căn bản có khác nhau, song vẫn hỗ trợ cho nhau. Tác giả cho rằng

27

trong cái không văn có cái có, trong cái vô thƣờng văn có cái thƣờng nhiên. Vì vậy, sinh lão

bệnh tử là lẽ thống khổ chung ngƣời thƣờng không thoát khỏi đƣợc v.v… Cái mới ở đây là

khóa hƣ lục mang ý nghĩa thực tiễn của các nhà sƣ. Chính vì vậy, các nhà sƣ đã không quá bo

bo giữ đạo của mình mà không làm việc thiện và hoạt động ở cuộc đời. Chính vì vậy mà các

nhà sƣ thời Lý và đầu Trần đã có tác dụng tích cực trong việc xây dựng nền độc lập buổi đầu

của đất nƣớc. Ở các trƣờng chùa, trong lúc truyền bá giáo Lý đạo Phật, chắc hẳn các thiền sƣ

cũng thuyết giảng nội dung Phật giáo đã đƣợc khúc xạ, Việt hóa nhƣ đã nêu (9). Mặt khác,

quan niệm “Từ bi, bác ái, bình đẳng” của đạo Phật chắc chắn đã dễ dàng hòa nhập với truyền

thống nhân ái, thƣơng ngƣời của nhân dân ta đã vốn có từ lâu.

Bên cạnh đạo Phật, Đạo Giáo cũng đi vào quần chúng từ lâu. Điều đáng lƣu ý là Đạo

Giáo có hai dòng: “Đạo Giáo thần tiên” và “Đạo giáo phù thủy”. Là một triết học rất khó và

siêu hình, “Đạo Giáo thần tiên” chỉ đƣợc tiếp thu ở tầng lớp bên trên có trình độ học vấn uyên

thâm. Trong khi đó “Đạo Giáo phù thủy” với nhiều yếu tố mê tín dị đoan đã hòa nhập với tín

ngƣỡng bản địa cũng mang tính chất phƣơng thuật, ma thuật, trở thành bói toán, đồng cốt

trong các tầng lớp nhân dân bên dƣới.

Nhƣ đã nêu trên, với tính chất một học thuyết chính trị, đạo trị, nho giáo đã đƣợc các

triều Lý – Trần – Hồ công nhận là quốc giáo, sử dụng thành công cụ để xây dựng một nền

giáo dục chính qui.

- Lý Nhân Tông có lần nói với sƣ Mãn Giác: “Bậc chí nhân, tất phải tế độ chúng sinh. Làm việc gì

cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm, chủng những đắc lực về thiền định và trí tuệ, mà cũng có công giúp

đỡ nhà nƣớc”.

- Sƣ Hiện Quang cũng có lần nói với sứ giả của vua Lý Huệ Tông rằng: “Bần đạo sinh ở đất của vua,

ăn cơm gạo của vua, ở núi thờ Phật, đã trải nhiều năm mà công đức chƣa thành, rất là hổ thẹn”.

Bùi Văn Nguyên- Lịch sử văn học Việt Nam – Tập II

NXBGD – 1978, trang 49

(9)

28

Từ vị thề đó, nho giáo ngày một giữ vai trò quan trọng đối với các vƣơng triều.

Trƣờng học đƣợc tổ chức, nho sĩ ngày một đông, quan lại xuất thân từ khoa cử ngày một giữ

nhiều trọng trách ở triều đình và địa phƣơng hơn. Các đại biểu diễn hình của nho giáo ở nữa

sau đời Trần đã tấn công, phê phán Phật giáo để đề cao vị trí độc tôn của nho giáo. (Le Văn

Hƣu, Lê Quát, Trƣơng hán Siêu…). Đặc biệt triều đại nhà Hồ đã đƣa ra những chính sách rất

khắc nghiệt để hạn chế Phật giáo và sƣ sãi.

Tuy nhiên, ở triều Lý và nửa đầu thời Trần, các vƣơng triều vẫn chấp nhận cả ba giáo.

Cả 3 ý thức hệ nho, phật, đạo, tuy có những mặt đối lập về tƣ tƣởng nhƣng lại dung hòa đƣợc

với nhau, đồng thời kết hợp với tƣ tƣởng, tính ngƣỡng bản địa mà khiu xạ đi cho phù hợp với

bản sắc riêng của dân tộc Đại Việt.

Điều đặc biệt là trên thế giới, những cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra đẫm máu ở

nhiều nƣớc thì ở nƣớc ta các tôn giáo lại dung hòa với nhau, mềm hóa đi vào có tác dụng giáo

dục tích cực trong chừng mực nhất định đối với tầng lớp trí thức, vua quan cũng nhƣ đối với

quần chúng nhân dân.

Tƣ tƣởng “tam giáo đông nguyên” là một thực trạng tồn tại trên đất nƣớc Đại Việt

không những trong xã hội nói chung mà đƣợc sử dụng trong việc tổ chức việc học, việc thi

trong nền giáo dục chính thống. Mặc dù, theo sử sách còn ghi lại, cả 2 triều đại Lý - Trần chỉ

thấy tổ chức có 3 kỳ thi tam giáo. Đó là các năm 1195 ở triều Lý, 1227 và 1247 ở đời Trần.

Theo Thiên uyển tập anh, còn có 1 kỳ thi tam giáo vào năm 1097 nữa. Chúng ta không biết gì

về cách thức tổ chức, nội dung thi cử, số ngƣời đỗ đạt ra sao. Tuy nhiên, Phan Huy Chú trong

lịch triều hiến chƣơng loại chí có lời bàn nhƣ sau:

“Đời Lý đời trần, đều tôn trọng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn ngƣời

muốn thông đƣợc cả hai giáo ấy, dù là chính đạo hay dị đoan, đều tôn trọng không phân biệt,

mà học trò đi thi khoa ấy, nếu không học rộng biết nhiều thì cũng

29

không thể đỗ đƣợc”(10)

Nhà thơ Nguyễn Nguyên Ức thời Lý (cũng tức là sƣ Viên THông) là ngƣời đã đỗ đầu

khoa tam giáo năm 1097 (11) đƣợc sƣng chức Đại Văn (nghe thay cho vua) Nhƣ vậy nội dung

của tam giáo là nội dung đặc trƣng của giáo dục thời đại Lý – Trần – Hồ.

Mặc dù từ nửa cuối thời Trần đến đời Hồ, Phật giáo và Đạo giáo ngày càng bị mất vị

thế trên chính trƣờng và trong giáo dục chính thống, song những tƣ tƣởng, giáo lý Phật, đạo

không bị tiêu diệt mà còn hòa nhập vào cuộc sống, vào xã hội. Có thể dễ dàng tìm thấy sự

hòa quyện của tam giáo qua các tác phẩm thơ văn Lý - Trần của các vua quan, của đội ngũ trí

thức của thời đại.

Tóm lại, “tam giáo đằng nguyên” là nét đặc trƣng nổi bật thứ hai của xã hội nói chung

và của giáo dục chính thống Lý – Trần – Hồ nói riêng. Nó đã góp phần tạo nên ý thức hệ tƣ

tƣởng độc đáo của thời đại, của con ngƣời, góp phần trong công cuộc giữ nƣớc, dựng nƣớc

cũng nhƣ trong đạo đức, lối sống của mọi ngƣời.

trang 239.

Ngô Đắc Thọ - Nguyễn Thúy Hoa dịch và giới thiệu.

(10) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chƣơng loại chí Tập II - Khoa mục chí NXB KHXH Hà Nội 1992, trang 152. (11) Giáo hội phật giáo Việt Nam: Thiền uyển tập, Phân viện nghiên cứu Phật học - NXB Văn học, Hà Nội, 1990

30

7.3. Chữ Nôm, một thứ văn tự ghi âm tiếng nói của dân tộc:

Về mặt ngôn ngữ, văn tự sử dụng chính thức trong học tập và khoa cử, các triều Lý –

Trần – Hồ nói chung đều dùng chữ Hán. Đây là một thứ chữ tƣợng hình, đơn âm, nên rất khó

đọc. Đối với sĩ tử nƣớc ta, đây còn là một ngoại ngữ nữa.

Song ngay từ triều Lí, khi nền giáo dục khoa cử chính thức đƣợc thiết lập thì bên cạnh

chữ Hán. Chữ Nôm đã xuất hiện để ghi lại tiếng nói của dân tộc. Về nguồn gốc chữ Nôm có

nhiều giả thiết khác nhau. Có giả thiết cho rằng chữ Nôm có từ thời thƣợng cổ (12), có ngƣời

cho rằng có từ thời Sĩ Nhiếp (13)

Nam Thong tạp chí. T.5 Tr 416.

Trƣơng Vĩnh Ký cũng cho rằng chữ Nôm có trƣớc thời sĩ Nhiếp - Xem Nguyễn Văn Huyên: La civilisattion

annamite 1941. Tr 250-251. (13) Đây là giả thiết nhiều ngƣời quan niệm. Thí dụ xem:

- “Chỉ nam ngọc âm” của sƣ pháp tinh, “Đại Nam quốc ngữ” của Văn Đa cƣ sĩ Nguyên Văn Sau.

- Lê Dƣ: “Chữ Nôm với quốc ngữ” Nam Phong.XXX. Tr 77

- Trần Văn Giáp: “Lƣợc khảo về nguồn gốc chữ Nôm” NCLS số 127 - 1969

(12) Phạm Huy Hổ cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vƣơng. Xem “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào” -

31

Theo ông Nguyễn Tài Cẩn thì chữ Nôm xuất hiện vào thế kỉ thứ X. Trong cuốn “Chữ

Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến”, giáo sƣ Đào Duy Anh đƣa ra dẫn chứng rằng “tấm bia

chùa Báo, cho chúng ta biết rằng đến thời Lý Cao Tôn (1176-1210) chữ Nôm đã đƣợc viết

theo quy cách đầy đủ mà suốt các đời sau ngƣời ta vẫn dùng theo. Nhƣ thế thì chữ Nôm phải

là đã xuất hiện trƣớc thời ấy từ lâu rồi.”

Ở đây không đi sâu vào nguồn gốc chữ Nôm, song muốn dẫn ra những chứng cứ trên

đây để khẳng định rằng thời Lý – Trần – Hồ, nƣớc ta đã có một thứu văn tự ghi âm tiếng nói

dân tộc. Song tiếc rằng, trong khi chọn lọc, các triều đại phong kiến Việt Nam ngay từ đầu đã

loại trừ chữ Nôm, một di sản văn hóa quý báu của dân tộc.

Phải chẳng ở đây do sự hạn chế của ý thức giai cấp mà tỏng khi rất đề cao ý thức tự

hào dân tộc trên nhiều bình diện thì các vua Lý - Trần, để phục vụ lợi ích giao cấp, lại chỉ dập

khuôn, vay mƣợn cả nội dung lẫn hình thức giáo dục nƣớc ngoài. Tuy nhiên, tƣơng truyền

rằng trong kỳ thi Hội dƣới đời Trần Anh Tông đã có dùng phú nôm (xem LSVHVN - tập II,

trang 60). Bởi thế, tuy xây dựng một nền giáo dục độc lập nhƣng lại không đáp ứng đƣợc sự

phá triển văn hóa của dân tộc và xa lạ với cuộc sống của nhân dân.

Phải chăng đó cũng là lý do để song song tồn tại với chữ Hán, với giáo dục khoa cử,

chữ Nôm đã phát triển mạnh mẽ qua các sáng tác văn học quốc âm bên cạnh một nền “văn

chƣơng bác học” bằng chữ Hán?

32

Ngày nay, trải qua trƣờng kỳ lịch sử, chắc chắn nhiều tác phẩm chữ Nôm đã bị mất

mát, thất lạc, song chúng ta vẫn còn lại một số tác phẩm vô cùng quý báu nhƣ bài phú “ ƣ

trần lạc đạo”, bài ca “Đắc thú lâm tuyền thành đạo” của vua Trần Nhân Tông, bài phú “Vinh

hoa – yên tự” của Trức Lâm đệ tam tổ Huyền Quang, bài “Khóa hƣ lục” của Tuệ Tĩnh, “Khóa

hƣ lục” của Trần Thái Tông viết bằng chữ Hán. Tuệ Tĩnh đã dịch ra chữ Nôm để phổ biến

rộng rãi cho các tín đồ đạo phật. Ngoài ra nhiều tác giả đã tham gia sáng tác văn học bằng

chữ Nôm nhƣ Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Mạc Đỉnh

Chi...

Nhƣ vậy, sự hình thành và phát triển chữ Nôm là một biểu thị mạnh mẽ tinh thần độc

lập dân tộc. Nó chẳng những ảnh hƣởng sâu rộng đối với nhân dân mà còn ngay cả các nho sĩ

tiếp thu tƣ tƣởng của thánh hiền. Nó đã đặt cơ sở cho sự phát triển của chữ Nôm hết sức

phong phú trong các triều đại sau này.

Trọng võ, chăm lo giáo võ dƣới thời Lý – Trần – Hà:

7.4.1. Truyền thống thượng võ của nhân dân ta:

Cùng với nền văn hiến lâu đời, nhân dân ta từ xƣa vốn đã có tính thƣợng võ. Cƣ trú

trên một địa bàn thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, của ngõ của sự giao lƣu văn

hóa, song cũng thƣờng xuyên bị đe dọa trƣớc thiên tai, dịch họa. Muốn tồn tại, dân tộc ta phải

luôn luôn có đủ sức mạnh về tinh thần và thể chất, phải có những con ngƣời vũ dũng và thiện

chiến.

Sách Hoài Nam tử của Trung Quốc nêu rõ trong lúc cả thiên hạ bị Tần Thủy Hoàng

chinh phục thì ngƣời Việt vẫn không chịu khuất phục trƣớc thế lực hung hãn của bạo Tần.

Tiếp đó, Tống Thần Tông và tể tƣớng Vƣơng An Thạch định chất quân xâm lƣợc nƣớc ta thì

chính các đại thần của họ lại can ngăn chớ nên động đến ngƣời Việt đầy dũng cảm và thiện

chiến.

Tinh thần thƣợng võ đó đã bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của công cuộc dựng nƣớc

và giữ nƣớc, yêu cầu của lao

33

động để sinh tồn. Con ngƣời phải khỏe để sản xuất, khỏe để xây dựng và bảo vệ cộng đồng,

đất nƣớc. Tiêu chuẩn con ngƣời đẹp là một con ngƣời khỏe cả thể chất lẫn tâm hồn. Muốn

vậy, phải rèn luyện thể chất, rèn luyện năng lực quân sƣ.

Trong xã hội xƣa, từ già, trẻ, trai, gái, ai cũng luyện võ. Những hình ảnh về Thánh

Gióng. Đinh Bộ Lĩnh, Trần Quốc Toản... chứng tỏ mọi ngƣời đã luyện võ từ nhỏ. Các thủ

lĩnh dân tôc, các vƣơng triều độc lập, tự chủ đều chăm lo việc võ. Trong dân gian có rất nhiều

lò võ, lò vật. Các cuộc lễ hội, vui chơi, rất nhiều môn thể thao mang tinh thần thƣợng võ nhƣ

đua thuyền, vật, quyền cƣớc, côn kiếm đá cầu, kéo co, tung còn... Trong luyện võ, ngƣời ta

rất chú ý đến giáo dục đạo đức.

7.4.2. Võ giáo thời Lý – Trần – Hồ:

Tiếp thu và phát triển truyền thống thƣợng võ của dân tôc, các vua quan Lý Trần cũng

rất quan tâm cả hai mặt, đều có ý thức “sùng văn, chuộng võ”.

Trong Đại Việt sử ký toàn thƣ, sử gia Ngô Sĩ Liên đã đánh giá cao một số vua quan

Lý – Trần cả về văn lẫn võ. Sự chăm lo võ bị, võ giáo xuất phát từ yêu cầu của lịch sử từ TK

XI đến TK XIII.

Ở cuối mỗi triều đại, mâu thuẫn trong nội bộ các phe phái, tập đoàn phong kiến, mâu

thuẫn giữa giai cấp phong kiếm thống trị với quần chúng nhân dân trở nên quyết liệt. Nhiều

cuộc chiến tranh nội bộ phong kiến, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã làm cho chế độ

thống trị lung lay. Ở bên ngoài, các thế lực xâm lƣợc. Tống, Nguyên Mông thƣờng xuyên đe

dọa và nhiều lần tấn công thôn tính. Bởi vậy, cả 3 triều đại Lý – Trần – Hồ đều chú ý xây

dựng quân đội quốc gia hùng mạch bao gồm các binh chủng bộ binh, kỵ binh, tƣợng binh.

Với chính sách “ngụ binh ƣ nông”, khi có chiến tranh nhà nƣớc có thể dễ dàng huy động

hàng chục vạn quân môt lúc.

Các vƣơng hầu ở các địa phƣơng (đặc biệt thời Trần),

34

các thủ lĩnh quân sự dân tộc đều có lực lƣợng quân đội riêng, hỗ trợ quân đội chính quy. Tuy

nhiên, với quan niệm “binh quý ở tính không quý ở nhiều”. Các vua quan Lý – Trần rất chú ý

đến chất lƣợng quân đội, nên đã đào tạo nên nhiều tƣớng giỏi. Quân sĩ cũng tinh nhuệ vì

thƣờng xuyên có luyện tập, diễn tập. Về mặt lý thuyết quân sự, đƣợc học binh thƣ, võ kinh,

võ nghệ. Dƣới thời Lý, năm 1010, Lý Công Uẩn cho xây dựng kinh đô Thăng Long gồm điện

Kiên Nguyên làm nơi coi chầu, hai bên có điện Tập Hiền và điện Giảng Võ. Lại cho lập kho

đạn, xây thành, đào hào. Năm 1170 (canh dần) vua Lý Anh Tông cùng các quan võ hàng

ngày tập bắn, cƣỡi ngựa và học phép đánh giặc, phá trận ở Xạ Đình (phía nam thành Đại La).

Có thể thấy ở đời Lý, bản thân các nhà vua rất coi trọng tiêu chuẩn năng lực quân sự khi cất

nhắc, bổ sung các tƣớng sĩ, đồng thời gƣơng mẫu trong luyện tập quân sự, rèn luyện sức

khỏe, và khi cần, tự thống lĩnh quân sĩ ra trận đánh dẹp. Thái độ ấy có tác dụng to lớn đối với

tƣớng sĩ, cổ vũ phong trào rất mạnh. Danh tƣớng Lý Thƣờng Kiệt với bài thơ thần “Nam

quốc sơn hà”, Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành giỏi cả văn lẫn võ là những trụ cột vững chắc

của triều đình và đất nƣớc.

Sang thời Trần, sự nghiệp quân sự nói chung, võ giáo nói riêng lại càng đƣợc đề cao.

Năm 1253 (tháng 8, Quý sửu), Trần Thái Tông, bên cạnh việc lập Quốc học viện, còn mở

Giảng võ đƣờng ở kinh đô. Trần Thái Tông rất nghiêm khắc đối với tội phản quốc (xử tử

hình), xuống chiếu nhắc nhở phải chỉnh đốn quân sĩ, tập võ nghệ chuyên cần, chỉ phong quản

quân cho ai tài thao lƣợc, giỏi võ nghệ. Năm 1262, vua ra lệnh mở cuộc tập trận lớn phối hợp

các quân chủng tác chiến tại vùng chính bãi phù sa Bạch Hạc. Các vua Trần Nhân Tông, Trần

Anh Tông, Trần Duệ Tông... đều tiếp tục theo gƣơng trọng võ của các tiên vƣơng. Có thể nói,

nhà Trần đã đào tạo đƣợc rất nhiều danh tƣớng nhƣ Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dƣ... Đó là

những danh tƣớng thuộc hàng quý tộc. Song lại có những ngƣời xuất thân từ dân nghèo nhƣ

Phạm Ngũ Lão, có ngƣời là gia tƣớng, gia thần nhƣ Yết Kiêu, Dã Tƣợng... Đội ngũ tƣớng

lĩnh nhà Trần

35

rất giỏi cả võ kinh, võ nghệ, đầy mƣu trí và dũng cảm. Trên nền đó, nổi bật lên ngôi sao rực

rỡ là Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn (tức Trần Hƣng Đạo: ? – 1300). Ông là con An Sinh

vƣơng Trần Liễu, cháu gọi Trần Thái Tông là chú ruột. Khi Nguyên Mông xâm lƣợc lần đầu

năm 1258, ông đƣợc vua giáo cho một cánh quân ngăn địch ở biên giới. Nhƣng 2 lần sau năm

1285 và 1288, ông đã là Quốc công tiết chế tức là tổng chỉ huy quân đội đƣơng thời, bằng tri

thức quân sự uyên bác tinh thần yêu nƣớc nồng nàn, lòng trung thành tuyệt đối với tổ quốc,

ông đã góp phần lớn lao cùng vua và các tƣớng lĩnh tổ chữ, lãnh đạo cuộc kháng chiến vệ

quốc, đem lai những chiến công lừng lẫy, vang đội, đập tan một đội quân xâm lƣợc hung bạo,

hiếu chiến, hùng mạnh chất thế giới đƣơng thời. Ngoài việc đề ra đƣờng lối chiến lƣợc, chiến

thuật xuất sắc, ông còn trực tiếp chỉ huy tác chiến và đã giành xuất ắc, ông còn trực tiếp chỉ

huy tác chiến đã giành xuất sắc, ông còn trực tiếp chỉ huy tác chiến và đã giành nhiều thắng

lợi, đặc biệt là trận Bạch Đằng ngày 9-4-1288.

Trần Hƣng Đạo là một anh hùng dân tôc, một thiên tài quân sự đã để lại công lao, sự

nghiệp vẻ vang cho tổ quốc muôn đời.

Trên lĩnh vực giáo dục, võ giáo, ông còn để lại tác phẩm “Hịch tƣớng sĩ”, một áng

“thiên cổ hùng văn” và hai tác phẩm quân sự nổi tiếng là “Binh thƣ yếu lƣợc” và “vạn kiếp

tông bí truyền thƣ”.(19)

Cũng cần xem xét, đánh giá lại triều Hồ về nhiều mặt, trong đó có vấn đề quan sự.

Ngay từ dƣới đời nhà Trần, Hồ Quý Ly đã đƣợc giữ binh quyền ở các triều vua Nghệ - Tông.

Duệ tông và Thần Tông, cùng vơi việc xây dựng quân đôi, ông từng bƣớc nắm giữ chức vụ

quân sự quan trọng của triều đình. Từ tham mƣu quân sự năm 1379, đƣợc cử chức Tiểu tƣ

không kiêm Hành khu mật đại sứ. Hồ Quý Ly đã cùng tƣớng

1- “Binh thƣ yếu lƣợc” cuốn sách giáo khoa quân sự của ngƣời Đại Việt vào thời nhà Trần.

2- “Tìm hiểu vấn đề “võ giáo” của ngƣời Đại Việt trong thời đại Lý – Trần thế kỷ XI – XIII” (hai chỉ tiêu khoa

học của đề tài B94-37-23)

(19) Xem thêm: Nguyễn Tiến Doãn

36

sĩ đem những đạo binh lớn chống giặc Chiêm Thành thắng lợi.

Từ khi lên cầm quyền (1400). Hồ Quý Ly đã cùng hai con là Hồ Hán thƣơng, Hồ

Nguyên Trừng xây dựng một đội quân đông đảo, ƣớc mong có đƣợc 100 vạn quân. Quân đội

nhà Hồ đƣợc tổ chức chính quy, gồm quân bộ và quân thủy. Bộ binh đƣợc trang bị đầy đủ, có

sự phối hợp với kỵ binh và tƣợng binh. Thủy quân rất đƣợc coi trọng, có nhiều loại thuyền

đinh lớn nhỏ, thậm chí còn cho đóng các chiến thuyền cỡ lớn, Hồ Hán Thƣơng còn lập kho

quân khí, mở xƣởng rèn đúc vũ khí sáng tạo ra súng thần cơ (còn gọi thần cơ sang pháo), bắt

đầu có những bộ phận pháo binh.

Nhƣ vậy so với các triều đại trƣớc, trang bị quân đội có những bƣớc tiến vƣợt bậc, có

trình độ cao. Có thể nói rằng Hồ Quý Ly và hai con trai của ông là những ngƣời có tài tổ

chức quân sự.

Vậy mà khi nhà Minh xâm lƣợc, với lực lƣợng nhƣ vậy, lại nhanh chóng bị tan rã, chỉ

sau sáu tháng cha con họ Hồ cùng nhiều triều thần khác bị giặc bắt đƣa về Kim Lăng.

Sự thất bại của họ Hồ, mặc dù vẫn có tinh thần bảo vệ dân tộc rất cao, bắt nguồn từ

những mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn nội bộ, ở sự không tập hợp, đoàn kết đƣợc toàn dân,

chỉ dựa vào duy nhất lực lƣợng quân đội. Sự thất bại đó còn bắt nguồn từ đƣờng lối chiến

lƣợc quân sự, từ chiến thuật tác chiến sai lầm. Đó là chiến lƣợc phòng ngự bị động, phản

công yếu ớt, lẻ tẻ và không đúng thời cơ.(20)

Tuy nhiên những kinh nghiệm quý báu về quân sự, những bài học truyền thống võ

giáo thời Lý – Trần sẽ đƣợc tiếp tục kế thừa, phát triển phong phú, nâng cao trong công cuộc

chống giặc Minh và giặc Thanh ở các thế kỷ sau.

1990, Tr, 25

(20) Xem thêm: Nguyễn Đình Ƣớc. “Hồ Quý Ly và triều Hồ, nhìn từ phía lịch sử quân sự” – NCLS số 6 (253)

37

8- Vài nhận định về giáo dục thời Lý – Trần – Hồ

8.1. Về cách thức tuyển chọn nhân tài

Từ thế kỷ X, đẩy nƣớc ta chuyển sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng một

quốc gia phong kiến tập quyền – Một vấn đề cấp bách đặt ra trƣớc các vƣơng triều: Phải có

đông đảo nhân tài xây dựng chế độ và đất nƣớc, một vấn đề không phải dễ dàng giải quyết.

Các vƣơng triều đã dùng nhiều cách thức tuyển chọn nhân tài, cụ thể là:

- Cầu hiền.

- Tiến cử

- Nhiệm tử

- Khoa cử

Từ Lý trở về trƣớc, ba hình thức trên là chủ yếu. Từ Lý Nhân Tông về sau, việc chọn

ngƣời bằng khoa cử ngày một trở nên quan trọng và chính thức. Tuy vậy vẫn không bỏ hẳn

các hình thức cũ. Đối tƣợng tuyển chọn nhân tài rất đa dạng. Đó là các nhà sƣ nổi tiếng thời

Lý và Trần (nhƣ Vạn Hạnh Huệ Sinh, Mẫn Giát, Chân Không, Khánh Hƣng); đó là ngƣời

xuất thân từ bình dân nhƣ Phạm Ngũ Lão, là gia nô nhƣ Yết Kiêu, Dã Tƣợng, là nho sĩ bình

dân nhƣ Đoàn Nhữ Hài. Tất nhiên, những nhân tài trong hàng quý tộc đƣợc hết sức trọng

dụng với chức tƣớc rất cao ở triều đình, đặc biệt dƣới triều Trần (Trần Hƣng Đạo, Trần

Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng...). Điều đáng lƣu ý là không hiếm ngƣời

trong hoàng tộc có thể đƣợc phong tƣớc cao, bổng lộc lớn, song vẫn không có chức vụ gì nếu

không có đức tài.

8.2. Về mục tiêu đào tạo

Kỳ vọng của các vƣơng triều là đào tạo đƣợc một đội ngũ quan lại từ thấp đến cao

thấm nhuần sâu sắc ý thức hệ nho giáo, trung thành tuyệt đối với vƣơng triều. Rộng hơn, vua

quan phong kiến còn mong muốn nho giáo bắt rễ sâu trong nhân dân, trong cộng đồng cũng

nhƣ đến tận mỗi gia đình.

Về phía nhân dân, ai cũng muốn con em mình đƣợc học hành, tiếp thu đạo Lý thánh

hiền để làm ngƣời, để phò vua, cứu nƣớc, giúp dân.

38

Họ không thể không chịu ảnh hƣởng của nho giáo, nên một mặt cũng mong công

thành danh toại để vƣơn lên thoát cảnh đói nghèo, song mặt khác muốn có một xã hội phong

kiến với vua sáng tôi hiền.

8.3. Về tổ chức trường lớp và tổ chức khoa cử.

Để có đội ngũ quan lại đó, nhà nƣớc phong kiến phải tổ chức hệ thống trƣờng lớp và

tổ chức khoa cử.

Có thể nhận định rằng các vƣơng triều không chú ý nhiều đến tổ chức hệ thống trƣờng

công, ngoài Quốc tử giám, Quốc tử viện, trƣờng ở địa phƣơng mãi sau này mới có một sở

phủ lộ đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó, trƣờng tƣ có ở mọi nơi, từ kinh đô đến làng xã,

tất cả đều do dân tự lo liệu.

Để có đội ngũ quan lại, nhà nƣớc tập trung giải quyết tổ chức, quản lý việc thi cử, lúc

đầu còn đơn sơ, không định kỳ, nhƣng dần dần có thể chế, quy củ chặt chẽ. Số lƣợng các kỳ

thi cũng ngày một nhiều hơn. Tuy thế, tỷ lệ lấy đỗ nhất nhất là ở cấp cao so với ngƣời thi qua

ít. Bằng vào số liệu có đƣợc ở một vài khoa thi thái học sinh, tiến sĩ, ta thấy số thi hàng nghìn

ngoài mà số đỗ chỉ là hàng chục, tỷ lệ chỉ một vài phần trăm.

Học hành, thi cử hết sức gian khổ, khó khăn, có ngƣời suốt đời không đỗ, hoặc chỉ đỗ

thi hƣơng. Tuy nhiên, khi đã trúng cách thì đƣợc vua quan, triều đình sử dụng, đãi ngộ xứng

đáng tùy theo mức độ thấp, cao.

Theo Toàn thƣ, năm 1179, dƣới thời Lý Cao Tông, triều đình đã tiến hành khảo xét

công trạng các quan và phân loại.

“Ngƣời làm vua dùng ngƣời, không phải là có tình riêng với ngƣời đó, mà chỉ nghĩ

ngƣời đó là hiền thôi. Bởi vì ngƣời theo tấm lòng của ta, giữ chức vụ ta, làm việc cho ta, chịu nhọc cho ta, ta cho đó là hiền mà dùng vậy”.(21)

(21) Đại Việt sử ký toàn thƣ, tập I, NXB KHXH, Hà Nội 1972, Tr 293.

39

Năm 1162, Lý Anh Tông cũng “khảo xét các quan võ, ngƣời nào đủ niên bạn thì

thăng trật, định làm phép thƣờng, cứ chính năm là một ký khảo”.(22)

Tóm lại, việc dùng ngƣời đƣợc các vƣơng triều Lý – Trần – Hồ chú trọng một cách

toàn diện bao gồm những ngƣời có tài kinh bang tế thế, có tài năng kinh sử, văn chƣơng bác

học, có tài ngoại giao và có tài quân sự.

Bên cạnh việc sử dụng và đãi ngộ về tinh thần, về chức tƣớc, các vƣơng triều cũng

quan tâm đãi ngộ về vật chất. Thời Lý, quan lại chƣa có lƣơng bổng, quan trong triều thỉnh

thoảng đƣợc vua ban thƣởng, quan ngoài lộ đƣợc phép thu thuế một số hộ dân để chi dùng.

Vua còn phong thƣởng thực ấp, thực phong cho các quan có công, từ nghìn hộ đến vạn hộ,

hoặc ban thƣởng “thác đao điền”.

Ngoài việc bao thƣởng xét theo định kỳ, còn có ban thƣởng cho những ngƣời có công

trạng đột xuất, đặc biệt là sau những lúc chinh chiến, đánh dẹp.

Đến thời Trần, quan lại bắt đầu có lƣơng bổng và chế độ đãi ngộ trở thành hệ thống,

có quy định cho tất cả quan lại trong triều, ngoài nội.

Cùng với việc phong thƣởng là việc phat. Đó là biện pháp đảm bảo sự nghiêm minh

của phép nƣớc thời Lý – Trần. Các hình thức thƣởng phạt thƣờng căn cứ trên hành vi cụ thể

của quan lại, có xét đến công lao, tài nghệ của từng ngƣời một cách công minh.

Thí dụ: Thái sƣ Lê Văn Thịnh bị buộc tội có âm mƣu giết vua, làm phản, đáng tội tử

hình, song xét là đại thần, lại có nhiều công lao giúp vua nên hạ mức phạt, chỉ bắt đầu lên trại

dần Thục. Có thể dẫn nhiều việc phạt khác nhau nhƣ đối với Trần Khánh Dƣ, Nguyễn Trung

Ngạn, Trƣơng Hán Siêu...

(22) Đại Việt sử ký toàn thƣ. tập I, NXB KHXH, Hà Nội 1972 Tr 137, 288

40

Tuy vậy trong việc trị nƣớc, thƣởng phạt, cũng có những ông vua không công minh,

nghe theo bọn nịnh thần. Bởi vậy, nhiều trung thần khẳng khái đã từ chối việc ban thƣởng,

dâng biểu khuyến cáo không đƣợc, đã rũ áo mũ, từ quan nhƣ Chu Văn An, ngự sử đại phu

Trƣơng Đỗ, đại tƣớng Đỗ Lê thời Trần, hoặc nguyễn Bảm nói thẳng bị Hồ Quý Ly chém

đầu...

8.4. Về nội dung giáo dục, giảng dạy

Nội dung giáo dục, giảng dạy trong nhà trƣờng phong kiến Lý – Trần – Hồ trên bình

diện quan phƣơng, có thể chia làm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: Đầu thời Lý, việc giảng dạy – trừ Quốc tử giám – chủ yếu là trƣờng

chùa và trƣờng tƣ. Nội dung chua minh định đƣợc rõ, song chắc là sĩ tử phải học sâu về đạo

phật qua các bộ kinh đã nêu. Nho giáo và đạo giáo cũng đã đƣợc dạy trong các trƣờng.

- Giai đoạn 2: Bằng vào 3 kỳ thi tam giáo vào các năm 1195, 1227, 1247 có thể thấy

cuối thế kỷ XII, của đầu thế kỷ XIII, trƣờng học đã dạy cho sĩ tử cả 3 giáo để có khả năng dự

các kỳ thi này.

- Giai đoạn 3: Từ nửa sau thế kỷ XIII. Phạt giáo và Đạo giáo không tồn tại trong nền

giáo dục quốc học, song trong nội dung học hành, thi cử, các nho sĩ, sĩ tử vẫn tiếp tục học tập,

nghiên cứu Phật, Đạo.

Phật và Đạo không có mặt trong nhà trƣờng, trong thi cử, song nội dung tƣ tƣởng lại

ăn sâu, bắt rễ vào cộng đồng.

Chữ Hán đƣợc dùng làm chữ duy nhất trong học tập, thi cử. Bên cạnh đó, chữ Nôm đã

đƣợc sử dụng song song với chữ Hán và phát triển mạnh mẽ trong văn chƣơng bình dân và cả

văn chƣơng bác học. Nhiều tác phẩm bằng quốc âm nổi tiếng đã xuất hiện.

Trong quá trình du nhập và phát triển, nội dung tƣ tƣởng của cả 3 giáo Nho – Phật –

Đạo đã biến dạng , khúc xạ đi, hòa nhập với truyền thống tƣ tƣởng dân tộc, đạo đức dân tộc.

Nho giáo không hoàn toàn là Khổng giáo, Hán nho hay Tống nho nữa mà đã trở thành

nho giáo Việt Nam, trong đó đặc trƣng nổi bật là ý thức độc lập, tự chủ tự cƣờng của một

quốc gia

41

“làm chủ một phƣơng”.

Trong nền giáo dục này đã xuất hiện nhiều vua sáng, tôi hiền, nhiều danh nho, danh

tƣớng làm rạng rỡ non sông... cả về văn lẫn võ, khiến ngoài thì kẻ thù kiêng nể, trong thì phát

triển mạnh mẽ, đặt nền móng cho một quốc gia phát triển, thịnh trị nhất vào thế kỷ XV.

9- Phát huy kinh nghiệm truyền thống đối với giáo dục hiện nay.

Nền giáo dục Lý – Trần – Hồ, mặc dù còn nhiều mặt hạn chế do thời đại, do giai cấp,

song ngay thời kỳ đầu này đã để lại cho ngày nay những bài học quý giá, có thể gạn lọc khơi

trong, để kế thừa trong sự nghiệp xây dựng giáo dục hôm nay. Những bài học đó cho đến giờ

vẫn mang tính thời sự tích cực. Những vấn đề mà cha ông ta xƣa – cách đây 10 thế kỷ kể từ

thời Lý, gần 7 thế kỷ kể từ thời Hồ - phải giải quyết thì hôm nay. Đẳng, nhà nƣớc, ngành ta

cũng hết sức quan tâm. Có thể nêu lên một số bài học nổi bật sau:

9.1. Coi trọng giáo dục, coi trọng nhân tài.

50 năm qua từ sau Cách mạng tháng tám, trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh ác liệt.

Đảng, nhà nƣớc, nhân dân ta lúc nào cũng quan tâm hết mực – Song chính trong hoàn cảnh

đổi mới ngày nay mà hơn lúc nào hết, giáo dục đã đƣợc coi là “quốc sách hàng đầu”, giáo

dục không còn là một hoạt động mang tính chất phúc lợi nữa mà “đầu tƣ giáo dục” là đầu tƣ

phát triển”.

Coi trọng giáo dục, coi trọng phân tài chính là điều mà các vƣơng triều Lý – Trần –

Hồ đã đặt rất cao. Truyền thống xƣa nay đã đƣợc kế thừa, phát triển ở trình độ cao hơn.

9.2. Nhà nước và nhân dân cùng xây dựng giáo dục.

Hệ thống trƣờng tƣ, trƣờng dân lập xƣa chẳng những biểu thị tinh thần hiếu học của

nhân dân ta mà còn là sự đóng góp công của dân vào giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần.

Nền giáo dục cách mạng của ta 50 năm qua một lần nữa lại chứng tỏ truyền thống đó không

bị mai một. Hiện nay, xã hội hóa giáo dục đang đƣợc triển khai ngày một rộng trong cả nƣớc.

Sự kết hợp nhà nƣớc, nhân dân cùng xây dựng giáo dục la một quy luật không thể làm

khác đƣợc. Tuy nhiên cần nhấn mạnh, nhân dân xây dựng giáo dục không phải chỉ là

42

góp công, góp của mà còn phải cùng nhà trƣờng, cùng nhà nƣớc giáo dục nhân cách, đạo đức

cho con em, tạo ra môi trƣờng giáo dục, môi trƣờng xã hội lành mạnh, thống nhất với sự giáo

dục các em trong nhà trƣờng. Đó là vấn đề to lớn mà tất cả mọi ngành, mọi giới, mọi ngƣời,

mọi gia đình đều có phần trách nhiệm.

9.3. Xây dựng kỉ cương, nề nếp giáo dục

Muốn giáo dục con em trở thành con ngƣời có đức tài, có nhân cách, một vấn đề

không kém phần quan trọng là phải xây dựng kỷ cƣơng, nề nếp trong nhà trƣờng, ở gia đình,

ngoài xã hội một cách nghiêm minh. Tiếc rằng sử sách không còn, quy chế của nahf trƣờng

xƣa dƣới các triều Lý – Trần – Hồ. Song chắc chắn những tƣ tƣởng giáo dục trong Khổng

giáo, Hán nho, Tống nho so với lễ nghi chặt chẽ, chặt chẽ đến khắc nghiệt, không thể không

đƣợc sử dụng trong nhà trƣờng phong kiến Việt Nam ngay từ lúc ban đầu.

“Tiên học lễ, hậu học văn” đối với học trò, “học nhi bất yếm, hôi nhân bất quyện” đối

với ông thầy chắc chắn phải là phƣơng châm hàng ngày đƣợc thể hiện bằng việc là. Việc coi

trojgn hiền tài, sử dụng ngƣời thực sự có đức tài là kết quả của việc dạy và học nghiêm túc

mới có đƣợc. Thể lệ thi cử thời Lý – Trần – Hồ không rõ ràng, chặt chẽ nhƣ thời Lê sơ thịnh

trị sau này, song bản thân việc các vua và nghiêm túc trong việc tuyển chọn nhân tài.

Hình ảnh, việc làm của Chu Văn An cho ta thấy hình mẫu ngƣời thầy trong giáo dục

nho giáo.

Nếu không uyên bác, chắc hẳn một thầy giáo trƣờn tƣ ở Huỳnh đang không thể đƣợc

vua vời vào làm Tƣ nghiệp Quốc tƣ giám trong cung cấm.

Nếu nhân cách không cao, không thể làm các học trò giữ chức đại thần nhƣ Lê Quát,

Phạm Sƣ Mạnh phải kính nể, run sợ quỳ trƣớc mặt thầy, càng không thể có chuyện dâng sớ

chém 7 nịnh thần rồi rũ áo từ quan. Cũng là thầy , Chu –

43

Văn An đƣợc đƣa vào Văn Miếu, ngang hàng với các bậc tiên hiền, trong lúc đó Chiêu Quốc

Vƣơng Trần Ích Tắc lại phản nƣớc, hại dân làm tay sai cho giặc, để ô danh muôn đời.

Bài học xƣa giúp ta nhiều suy ngẫm, lo lắng trƣớc thực trạng giáo dục hôm nay.

Sau nhiều năm kháng chiến ác liệt, nề nếp vốn có của nhà trƣờng bị đảo lộn, kỷ cƣơng

lỏng lẻo. Từ nhiều năm trƣớc đây, cố vấn Pham Văn Đồng khi còn làm Thủ tƣớng, đã chỉ thị

cho ngành giáo dục phải làm sao để “Trƣờng ra trƣờng, lớp ra lớp, trò ra trò, thầy ra thầy”.

Phải nói ngành giáo dục đã có rất nhiều cố gắng, song đến nay vẫn còn là vấn đề tồn tại, đặc

biệt là trong đạo đúc và thi cử của trò. Ngay cả những năm gian khổ, thiếu thốn nhất của

chiến tranh, nhà trƣờng chúng ta chƣa bao giờ có hiện tƣợng trò đánh thầy, giết thầy nhƣ gần

đây. Bên cạnh những học sinh, sinh viên ngoan ngoãn, có chí tiến thủ, chăm chỉ học hành,

bên cạnh một số em tài năng đang phát triển, nở rộ, thì vẫn có một bộ phận không ít em lƣời

học, thiếu lễ độ, tha hóa về đạo đức. Không phải tất cả do lỗi của giáo dục, song nhà trƣờng

có phần trách nhiệm trong việc kỷ cƣơng, nề nếp không nghiêm. Cùng với nhà trƣờng là giáo

dục của gia đình và xã hội cũng đang có nhiều vấn đề nan giải.

Đội ngũ thày giáo hiện nay so với xƣa là cực kỳ đông đảo. Song cuộc sống của thầy –

dù đã đƣợc cải thiện ít nhiều – vẫn còn quá khó khăn, điều kiện để làm tốt chuyên môn còn

quá nhiều thiếu thốn.

Cần khẳng định rằng, với quan niệm và đƣờng lối đổi mới giáo dục hiện nay, Đẳng và

nhà nƣớc ta đã mở ra một chân trời rộng rãi chõ giáo dục vƣơn lên. Ngành giáo dục đang

cùng toàn dân xây dựng một chiến lƣợc giáo dục, chiến lƣợc con ngƣời cho giai đoạn cách

mạng mới, chuẩn bị tích cực để đào tạo thế hệ trẻ bƣớc vào thế kỷ XXI tốt đẹp hơn. Khó

khăn

44

rất lớn, trong mọi tồn tại chắc chắn sẽ từng bƣớc đƣợc dần dần giải quyết.

Trong quá trình xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xây dựng con ngƣời mới đáp

ứng chủ trƣơng “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài”, chúng ta phải nhất

định mau chóng tiếp thu những kinh nghiệm tiên tiến, hiện đại của thế giới.

Song chúng tôi cho rằng cũng cần từ bỏ thái độ hƣ vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn

những kinh nghiệm của quá khứ, của cha ông.

Bởi vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn nền giáo dục trƣớc cách mạng

tháng Tám để có thể kế thừa và phát huy một cách chọn lọc, sáng tạo.

Trong khi chờ đợi một cuộc cải cách giáo dục mới toàn diện, chúng tôi thiết nghĩ cần

phải sớm giải quyết một số vấn đề trong tầm tay của ngành giáo dục:

1- Lập lại kỷ cƣơng, nền nếp chặt chẽ, có hiệu lực, có thƣởng phạt nghiêm minh trong

nhà trƣờng, trong học hành thi cử. Muốn vậy, phải có một tổ chức thanh tra hành chính, thanh

tra chuyên môn có đầy đủ tài năng, phẩm chất, có quyền lực thật sƣ.

2- Cùng với việc chuẩn bị cải cách giáo dục phổ thông và đại học, cần sớm chuẩn bị

cải cách toàn bộ ngành sƣ phạm trong đó việc bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên đƣơng chức cả về

vật chất lẫn tinh thần.

3- Đẩy mạnh việc xây dựng phong trào xã hội hóa giáo dục không phải chỉ dừng ở

chỗ đóng góp tiền của, công sức về vật chất mà phải thực sự cùng nhà trƣờng giáo dục nhân

cách học sinh.

4- Đảng, Nhà nƣớc có chỉ thị yêu cầu các ngành, đặc biệt là ngành văn hóa có sự liên

kết chặt chẽ với giáo dục để tạo ra môi trƣờng giáo dục lành mạnh đối với thế hệ trẻ.

45

Tóm lại, trong nhà trƣờng, ngoài xã hội phải kết hợp cả hai mặt “đức trị” và “pháp trị”

mới tạo ra hiệu quả giáo dục cao.

Với thời gian và kinh phí có hạn, với năng lực hạn chế, chắc chắn kết quả chúng tôi

thu lƣợm đƣợc còn nhiều hạn chế, thiếu sót. mong các bậc học giả, các đồng chí bổ khuyết

cho.

Hà Nội 12-1995

Nguyễn Đăng Tiến

Chủ nhiệm đề tài

B94-37-23