BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
................/............... ......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN QUỐC VINH
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ -
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
................/............... ......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN QUỐC VINH
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ -
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn tình hình công tác quản lý.
Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Trần Quốc Vinh
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc Học
viện Hành chính Quốc gia, Khoa sau Đại học, Phân viện miền Trung, quý
thầy cô đã truyền đạt kiến thức, tạo điều về mọi mặt để tôi hoàn thành khóa
học và công trình nghiên cứu của mình.
Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn TS. Mai Đắc Biên đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tận tình của quý thầy cô, quý cơ
quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ, động viên bản thân trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Trần Quốc Vinh
MỤC LỤC
TRANG BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ .............................. 18
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người trong tố tụng dân
sự, kiểm sát và vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ
việc dân sự .................................................................................................. 18
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về quyền con người trong tố tụng dân sự .......... 18
1.1.2. Chức năng kiểm sát và vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát
trong hoạt động tố tụng dân sự . ............................................................................ 20
1.1.3. Đặc điểm của bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân
sự .......................................................................................................................... 28
1.2 Nội dung bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân
sự ................................................................................................................. 31
1.2.1. Thực hiện nguyên tắc “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự”......................................................................................................................... 32
1.2.2. Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự ........................... 33
1.2.3. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm. ..................................................................................................................... 35
1.2.4. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ ......................................................... 36
1.2.5. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ....................................... 37
1.3. Yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các
vụ việc dân sự ............................................................................................. 38
1.3.1. Sự hoàn thiện của pháp luật về chức năng kiểm sát trong tố tụng dân sự ... 38
1.3.2. Năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của người có thẩm quyền, trách
nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ việc dân sự ..................... 39
1.3.3. Ý thức bảo vệ quyền con người, năng lực thực hiện pháp luật tố tụng dân sự
của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Tòa án, của Hội thẩm nhân
dân ........................................................................................................................ 41
1.3.4. Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự .................................................. 43
Tóm tắt chương 1 ....................................................................................... 45
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG
QUA KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN BỐ TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY ............................................................ 47
2.1. Khái quát về huyện Bố Trạch và tình hình tranh chấp, việc dân sự
yêu cầu tòa án Huyện giải quyết ................................................................ 47
2.1.1. Khái quát về huyện Bố Trạch ..................................................................... 47
2.1.2. Tình hình tranh chấp, việc dân sự yêu cầu tòa án huyện giải quyết ............ 49
2.2. Tình hình thực hiện công tác kiểm sát các vụ việc dân sự nhằm bảo
vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch những
năm qua ...................................................................................................... 50
2.2.1. Khái quát chung .......................................................................................... 50
2.2.2. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu .................................................................................................. 53
2.2.3. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải
quyết vụ việc dân sự ............................................................................................. 54
2.2.4. Bảo vệ quyền con người thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ việc, yêu cầu
tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự...... 59
2.2.5. Bảo vệ quyền con người thông qua việc tham gia phiên tòa, phiên họp và
phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự .................. 60
2.2.6. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua việc kiểm sát bản
án, quyết định của Tòa án ..................................................................................... 61
2.2.7. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động kiến
nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật ................. 62
2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con người thông qua công tác kiểm
sát các vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch
những năm qua ........................................................................................... 63
2.3.1. Những thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân ................................................ 63
2.3.2. Những hạn chế, tồn đọng và nguyên nhân .................................................. 66
Tóm tắt chương 2 ....................................................................................... 73
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN
SỰ Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY ............ 74
3.1. Quan điểm tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát
các vụ việc dân sự ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay ........... 74
3.1.1. Tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân sự
cần được thực hiện trên cơ sở hiểu rõ chức năng kiểm sát trong tố tụng dân sự theo
tinh thần Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Luật Tố
tụng dân sự 2015 ................................................................................................... 74
3.1.2. Phồi hợp với Tòa án nhân dân thực hiện đầy đủ, kịp thời chức năng kiểm sát
các vụ việc dân sự ................................................................................................. 76
3.1.3. Tăng cường kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự theo nguyên tắc “Tòa án
không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để
áp dụng” (khoản 2 Điều 4 BLTTDS).................................................................... 77
3.1.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát khi tham gia các phiên
tòa, phiên họp ....................................................................................................... 78
3.2. Giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát
các vụ việc dân sự ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay ........... 80
3.2.1. Làm sâu sắc thêm nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên về những điểm mới
về chức năng kiểm sát theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 2014 phù hợp với Hiến pháp 2013 và nội dung mới của các luật có
liên quan ............................................................................................................... 80
3.2.2. Nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia giải quyết
vụ việc dân sự. ...................................................................................................... 81
- Nâng cao chất lượng bài phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa ..................... 86
3.2.3. Tăng cường công tác phối kết hợp giữa các cấp Kiểm sát, giữa hai ngành
Toà án và Viện kiểm sát cũng như với các cơ quan hữu quan trong quá trình giải
quyết các vụ, việc dân sự ...................................................................................... 91
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên song song với đầu tư cơ sở vật chất cho
Viện kiểm sát Huyện ............................................................................................ 92
Tóm tắt chương 3 ....................................................................................... 93
KẾT LUẬN ................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
TAND Tòa án nhân dân
TTDS Tố tụng dân sự
UBND Ủy ban nhân dân
VKS Viện kiểm sát nhân dân
VKSND Viên kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Hiến pháp 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật (Điều 14); Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
(Điều 3).
Trong Nhà nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân được Hiến pháp trao trách nhiệm cho Nhà nước, mà cụ thể là các hệ
thống cơ quan, từ cơ quan đại diện, cơ quan hành chính nhà nước, tới cơ quan
kiểm sát, cơ quan xét xử. Trong đó, duy nhất có VKS (VKS) là cơ quan có
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định: “1. VKS nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. 2. VKS nhân dân gồm VKS nhân
dân tối cao và các VKS khác do luật định. 3. VKS nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.”. Cụ thể hóa quy định Hiến pháp, Điều 4 Luật Tổ chức VKS nhân
dân 2014 quy định về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp: “Kiểm sát hoạt
động tư pháp là hoạt động của VKS nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của
10
các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư
pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định
của pháp luật.” (Khoản 1).
Bảo vệ quyền con người thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực tố tụng dân sự là nội dung lớn trong hoạt động của ngành
kiểm sát, được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Điều
21 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “1. VKS kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc
dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 2. VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối
với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến
hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích
công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này. 3. VKS tham gia phiên tòa,
phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 4. VKS nhân dân tối cao chủ
trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”.
Thực hiện quy định Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKS nhân dân 2014
và Bộ luật tố tụng dân sự 2015, những năm qua, ngành Kiểm sát tỉnh Quảng
Bình nói chung, huyện Bố Trạch nói riêng đã có những hoạt động tích cực
nhằm kiện toàn tổ chức, nâng cao trình độ quản lý, điều hành, trình độ, kỹ
năng nghiệp vụ chuyên môn; chất lượng hoạt động đã được nâng cao rõ rệt;
11
văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, của nhân dân đã được nâng lên, đã
đóng góp nhất định cho việc tuyền truyền và thực hiện bảo vệ quyền con
người nói chung trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền con người
thông qua hoạt động kiểm sát các vụ việc dân sự của VKS huyện Bố Trạch
những năm qua còn những tồn đọng, khó khăn, vướng mắc, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khâu tổ chức thực hiện pháp luật trong
những điều kiện, hoàn cảnh không giống nhau ở các vùng miền. Thực tiễn
này đặt ra nhiều khả năng giải quyết vấn đề không giống nhau ở những địa
phương khác nhau, mà Bố Trạch là một trường hợp cụ thể, cần thiết phải
nghiên cứu một cách có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
về kiểm sát các giải quyết các vụ việc dân sự nhằm hướng tới việc bảo vệ
quyền con người. Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn vấn đề “Bảo
vệ quyền con người thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự - Từ
thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính tại Học viện Hành chính
Quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự nói chung,
hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng nhằm bảo vệ
quyền con người đã được quan tâm bởi nhiều tác giả với nhiều bài viết trên
các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng
kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án…
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nêu trên, có thể phân loại
tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
như: “Đổi mới vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải
12
cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất
bản Tư pháp, năm 2008; “Hoàn thiện chế định VKS nhân dân trong Bộ luật
Tố tụng dân sự”, Đề tài khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung, năm
2003; Luận án tiến sĩ “Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới VKS nhân
dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam”, của tác giả Trần Văn Nam,
năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ
chức của VKS nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” của
tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học “Sự tham gia tố
tụng của VKS nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Võ Thị
Phượng, năm 2010; “Vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự Việt Nam
hiện hành”, “Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của VKS nhân dân
trong Bộ luật Tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí
Kiểm sát, số 09 năm 2004; Luận văn thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2014; ...
- Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh
nghiệm như: “Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng
VKS nhân dân tối cao tại Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng
dân sự về thực hiện các quy định về quyền và trách nhiệm của VKS nhân dân
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Những kiến
nghị từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004” của Tòa soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số
18, tháng 9/2006; “Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”
của Toà soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tháng 3/2006; “Vị
trí, vai trò VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; “Báo
cáo tổng kết 5 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ
13
luật Tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật đến ngày 31/5/2005” của
VKSNDTC...
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy: Các công
trình, bài viết trên đã đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực về nguyên tắc tổ
chức quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong tố tụng dân sự dưới góc độ của Luật nhà nước. Tuy nhiên, nhìn
nhận hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS dưới góc độ bảo vệ
quyền con người theo Hiến pháp 2013, theo Luật Tổ chức VKS nhân dân
2014, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 là một vấn đề còn mới, nhất là nghiên cứu
mang tính ứng dụng đối với VKS ở cấp huyện như huyện Bố Trạch. Do vậy,
vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát các vụ việc dân
sự cần được nghiên cứu một cách có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, nhằm
tìm ra những giải pháp hữu ích trong điều kiện hiện nay. Tên đề tài Luận văn
không trùng lắp với các đề tài, công trình khoa học đã được công bố trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về
quyền con người trong tố tụng dân sự, chức năng bảo vệ quyền con người của
VKS trong tố tụng dân sự, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát
giải quyết vụ việc dân sự của VKS nhân dân cấp huyện từ thực tiễn huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và các biện pháp tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua hoạt
động kiểm sát vụ việc dân sự của VKS hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự;
14
- Làm rõ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo vệ quyền con người trong
tố tụng dân sự;
- Làm rõ hoạt động của VKS trong kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự
nhằm bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự; Phân tích, đánh giá thực
trạng hoạt động kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKS nhân dân huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tăng cường bảo
vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát vụ việc dân sự của VKS
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật và việc thực
hiện quy định pháp luật của VKS trong kiểm sát hoạt động giải quyết vụ việc
dân sự nhằm bảo vệ quyền con người từ thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình; nghiên cứu tính khoa học và khả thi của các giải pháp nhằm tăng
cường bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát vụ việc dân sự
của VKS hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Những quy định của pháp luật trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
và 2015, trong đó chủ yếu là quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ;hoạt
động kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKS huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình trong giai đoạn 2014-2017.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối
15
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức,
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện cải cách tư
pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học
pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, nghiên cứu sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn để
phân tích, đánh giá các vấn đề của đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có ý nghĩa làm sâu sắc thêm lý luận về quyền con người
trong tố tụng dân sự, về bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm
sát giải quyết vụ việc dân sự của VKS nhân dân cấp huyện trong bối cảnh thi
hành Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKS nhân dân và Bộ luật Tố tụng dân sự
2015.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có giá trị tham khảo về lý luận và
thực tiễn cho công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về luật học, quản lý nhà
nước, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ ngành kiểm sát.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng từ viết tắt và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát
các vụ việc dân sự
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các
vụ việc dân sự ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay
16
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người
thông qua kiểm sát các vụ việc dân sự từ thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình hiện nay.
17
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA
KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người trong tố tụng dân
sự, kiểm sát và vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ
việc dân sự
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về quyền con người trong tố tụng dân sự
Quyền con người là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm hàng
đầu trong thời đại hội nhập ngày nay. Vấn đề bảo vệ quyền con người được
mỗi quốc gia nói riêng và các nước trong khu vực, trên thế giới nói chung
quan tâm, củng cố bằng việc ký kết các công ước quốc tế, các hiệp định đa
phương, song phương và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật quốc gia trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có tố tụng dân sự.
Tố tụng dân sự được hiểu là tổng thể các quy trình, thủ tục, công đoạn
có mối quan hệ chặt chẽ, liên tiếp với nhau để thông qua đó các chủ thể tiến
hành tố tụng áp dụng pháp luật, đưa ra các biện pháp cần thiết để giải quyết
các tranh chấp dân sự một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật và
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ tố
tụng dân sự. Tố tụng dân sự không tồn tại độc lập mà có có mối quan hệ chặt
chẽ với luật dân sự. Nếu như dân sự được hiểu là các vấn đề liên quan đến
nhân thân và tài sản, thì tố tụng dân sự cũng xuất phát từ mối quan hệ nhân
thân và tài sản song chỉ phát sinh khi có tranh chấp xảy ra và có nhu cầu giải
quyết các tranh chấp đó. Các chủ thể tham gia trong mối quan hệ pháp luật
dân sự và tố tụng dân sự đều giống nhau bởi luôn hướng đến các quyền dân
sự, kinh tế mà chính đối tượng của quan hệ dân sự (tài sản và nhân thân)
mang lại. Tuy nhiên, còn một bộ phận chủ thể khác, tham gia quan hệ pháp
18
luật tố tụng dân sự lại không xuất phát từ các lợi ích đó, mà nhóm chủ thể này
tiến hành các thủ tục tố tụng vì lợi ích của hai bên đương sự (nguyên đơn và
bị đơn). Do đó, so với quan hệ dân sự thì mối quan hệ tố tụng dân sự mang
tính chất đa dạng về chủ thể, đa dạng về quyền lợi và cứng nhắc về quy trình,
thủ tục. Vì thế, nếu quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính tùy tiện,
thiếu khách quan và không công minh quyền con người trong tố tụng dân sự
tất yếu sẽ bị xâm hại. Theo đó, cách thức và cơ chế nhà nước thiết lập nên để
giải quyết tranh chấp về dân sự cho công dân sẽ không trở thành công cụ để
bảo vệ quyền con người. Hậu quả là bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa
không được thể hiện qua các chức năng giải quyết tranh chấp dân sự.
Như vậy, quyền con người trong tố tụng dân sự đòi hỏi phải được tiếp
cận trong tổng thể quyền dân sự của con người, gắn với toàn bộ quá trình tố
tụng dân sự: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn xét xử,
ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án dân sự. Chính vì gắn với quyền
dân sự, nên các tranh chấp dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là các
tranh chấp vụ việc dân sự, mà còn là các tranh chấp trong quan hệ thương
mại, hôn nhân gia đình, lao động v.v... Do đó, giải quyết tranh chấp dân sự
trong tố tụng dân sự gồm cả giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại, lao
động và hôn nhân gia đình. Đây là cách tiếp cận từ quyền dân sự, kinh tế
trong Công ước quốc tế về quyền con người. Quyền con người trong tố tụng
dân sự thể hiện xuyên suốt và trải dài trong suốt quá trình diễn ra quan hệ tố
tụng dân sự từ quyền được khởi kiện, được yêu cầu theo quy định của pháp
luật, quyền được xem xét giải quyết vụ việc dân sự, quyền được đón nhận kết
quả giải quyết công bằng, khách quan…
Về lý luận, quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ những
quyền tự nhiên của con người, các quyền đó được thừa nhận với những giá trị
mang tính phổ quát nhất. Cơ sở lý luận cũng như nội dung của luật thực định
19
về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc tế
và hệ thống pháp lý quốc gia.Cụ thể: Quyền con người trong tố tụng dân sự
được Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế về
quyền con người và một số Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ghi
nhận. Đây là những nguyên tắc chung nhất để từ đó, con người có cơ sở tự
bảo vệ và yêu cầu các nhà nước thành viên bảo vệ họ. Trong tố tụng dân sự,
luật pháp quốc tế thừa nhận sự tham gia của ba nhóm người, tương ứng với ba
nhóm quyền con người trong tố tụng dân sự: Nhóm quyền của các bên tranh
chấp (quyền của nguyên đơn, bị đơn); nhóm quyền của người tiến hành tố
tụng (điển hình là Tòa án).Tại công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị
ghi rõ tại phần II về các nội dung cùa quyền con người trong dân sự đó là
quyền được đối xử bình đẳng, quyền được bảo vệ khi có sự xâm phạm xảy ra,
quyền được áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục các xâm phạm
đó…Chính những công ước quốc tế này đã tạo cơ chế quan trọng để bảo đảm
quyền con người nói chung và quyền con người trong tố tụng dân sự nói
riêng.
Cùng với pháp luật quốc tế, lý luận về quyền con người trong tố tụng
dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc gia. Theo đó, trong tố tụng dân sự,
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự luôn xác định Hiến
pháp, Bộ luật Tố tụng dân sự là những nguồn cơ bản, hữu hiệu không chỉ điều
chỉnh hành vi mà còn là những đảm bảo pháp lý về quyền con người trong
lĩnh vực tố tụng dân sự.
1.1.2. Chức năng kiểm sát và vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm
sát trong hoạt động tố tụng dân sự .
1.1.1.1. Chức năng kiểm sát.
Về VKS nhân dân, Hiến pháp năm 2013 nước ta quy định:
20
“1. VKS nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp. 2. VKS nhân dân gồm VKS nhân dân tối cao và các VKS khác do luật
định. 3. VKS nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Điều 107).
Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKS nhân dân
năm 2014 quy định chi tiết và rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong
hệ thống các cơ quan nhà nước, theo đó, VKSND có hai chức năng là thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, hoạt động
của VKS có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tuân theo pháp
luật, đảm bảo quyền con người trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động tư pháp, từ hình sự, đến dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động…Nếu như trong hình sự, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình bằng hoạt động thực hành quyền công tố - tức là thực hiện việc
buộc tội của nhà nước với người phạm tội và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết các vụ việc hình sự thì trong các hoạt động tư
pháp khác, chức năng của VKS chỉ gói gọn trong chức năng kiểm sát. Khoản
1, Điều 4, Luật tổ chức VKS nhân dân 2014 quy định về chức năng kiểm sát
của VKS là: “hoạt động của VKS nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp,
được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định
của pháp luật.” Như vậy, với quy định này, luật tổ chức VKS nhân dân chưa
21
thực sự làm rõ nội hàm của khái niệm kiểm sát mà chỉ nêu ra phạm vi kiểm
sát và mục đích kiểm sát của VKS nhân dân. Vậy hoạt động kiểm sát là gì?
Trước hết, đây là hoạt động chỉ duy nhất VKS có thẩm quyền thực hiện. Theo
đó, VKS thông qua việc thực hiện hoạt động, nhiệm vụ do pháp luật quy định
để kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư
pháp.Hình thức thực hiện chức năng kiểm sát của VKS có thể là kiểm sát trực
tiếp, kiểm sát gián tiếp hoặc tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo
phát hiện các vi phạm pháp luật và đưa ra hướng xử lý các vi phạm pháp luật
đó bằng việc ban hành yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị.
Nghiên cứu quy định Hiến pháp năm 2013 về VKS, cho thấy những
điểm mới về tổ chức và thực hiện chức năng kiểm sát, chức năng công tố của
VKS trong mối quan hệ với nhiệm vụ bảo vệ quyền con người:
Thứ nhất, về hệ thống VKS nhân dân được sửa đổi phù hợp với chủ
trương cải cách tư pháp.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định hệ thống
VKS gồm:"VKS nhân dân tối cao, VKS nhân dân địa phương, các VKS quân
sự”.Quy định này là nhằm xác định hệ thống VKS được tổ chức theo địa giới
hành chính từ Trung ương xuống địa phương. Như vậy, ở Trung ương có
VKS nhân dân tối cao, ở địa phương tương ứng với đơn vị hành chính cấp
huyện hoặc cấp tỉnh thì có VKS cấp huyện hoặc VKS cấp tỉnh. Bên cạnh đó,
còn có các VKS quân sự cũng được tổ chức thành ba cấp gồm VKS quân sự
Trung ương, VKS quân sự quân khu và VKS quân sự khu vực. Việc tổ chức
hệ thống VKS nhân dân theo địa giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức
VKS nhân dân năm 1960 được ban hành.
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 “VKS nhân dân
gồm VKS nhân dân tối cao và các VKS khác do Luật định”. Quy định này có
ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống VKS tương ứng
22
hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng
với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc
lập của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho VKS
nhân dân thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt khi
mô hình tổ chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như
vậy, quy định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ
thống VKS nhân dân, việc kiện toàn hệ thống VKS nhân dân sẽ được cụ thể
hóa trong Luật Tổ chức VKS nhân dân sửa đổi, bổ sung sắp tới, trên cơ sở
định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được
cụ thể hóa tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa
án, VKS và Cơ quan Điều tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ
thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng
thời VKS được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống VKS
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Quy định này nhằm tạo cơ sở quan trọng
cho hoạt động kiểm sát của VKS được tiến hành một cách dễ dàng và hiệu
quả.
Thứ hai, về nhiệm vụ của VKS nhân dân được quy định đầy đủ hơn,
phạm vi rộng hơn.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 quy định nhiệm vụ của VKS
nhân dân tối cao tại Điều 126: "Toà án nhân dân và VKS nhân dân nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm
vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo
23
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” và Điều
137: "Góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”. Tuy nhiên, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật của VKS nhân dân khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ cho thấy ngoài
nhiệm vụ như đã quy định trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001, thì
VKS nhân dân còn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ, cụ thể hóa chức năng cơ bản của VKS
nhân dân thành những nhiệm vụ qua từng công tác kiểm sát nhằm mục đích
giám sát hoạt động tư pháp chính là hoạt động bảo vệ pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất; qua đó bảo vệ quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực tư pháp tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm và của cơ
quan nhà nước khác; đồng thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi họ bị xâm hại.
Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách đầy đủ và
hoàn thiện nhiệm vụ của VKS nhân dân cụ thể như sau: "VKS nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất” (Khoản 3 Điều 107). Như vậy, bên cạnh những
nhiệm vụ đã quy ðịnh, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định mới về nhiệm vụ
của VKS nhân dân, trong đó có nội dung về bảo vệ quyền con người. Như
vậy, lần đầu tiên trong lịch sử quy định của của Hiến pháp, quyền con người
được ghi nhận một cách rõ ràng trong mục đích hoạt động của VKS, điều này
tạo cơ chế quan trọng trong hoạt động bảo vệ quyền con người trong thực
tiễn.
24
1.1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng
dân sự.
Về cơ chế đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người
trong tố tụng dân sự nói riêng ở Việt Nam hiện nay được thực hiện đồng bộ
thông qua các biện pháp khác nhau, trong đó không thể không kể đến hoạt
động của VKS trong vấn đề này thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình khi kiểm sát các vụ việc dân sự.
Vụ việc dân sự là cách gọi tắt, gồm việc dân sự và vụ án dân sự. Về mặt
thuật ngữ, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng thực tế không
phải ai cũng biết, nhất là người dân chưa có kinh nghiệm trong thủ tục tố
tụng. Có thể nói đây là hai khái niệm quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của đương sự. Bởi lẽ khi người dân yêu cầu Tòa án giải quyết việc
dân sự hay khởi kiện vụ án dân sự sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý hoàn
toàn khác nhau. Với việc dân sự - Là việc riêng của cá nhân, tổ chức, không
có nguyên đơn, bị đơn, chỉ có người yêu cầu tòa án giải quyết. Từ yêu cầu của
đương sự, Tòa án công nhận quyền và nghĩa vụ cho họ. Với vụ án dân sự - Là
giải quyết về các tranh chấp dân sự giữa cá nhân, tổ chức với cá nhân, tổ chức
khác; có nguyên đơn, bị đơn; Tòa án giải quyết trên cơ sở bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của người có quyền và buộc người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.
Như vậy, điểm chung của giải quyết việc dân sự và vụ án dân sự là Tòa án ra
phán quyết cuối cùng để công nhận một trạng thái pháp lý nào đó quyết định
về mặt pháp lý về quyền và lợi ích của công dân. Về nguyên tắc, hoạt động
của toà án phải đảm bảo công bằng, công khai, đúng quy định của pháp luật,
do vậy pháp luật đặt ra vấn đề phải có sự kiểm sát của VKS trong quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự, mục đích cuối cùng là bảo vệ sự công bằng của
quyền lợi công dân, bảo vệ quyền con người. Lý luận về quyền được xét xử
công bằng cho thấy: “Quyền được xét xử công bằng” (right to a fair trial) là
25
một nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong tất cả các vụ án
hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan
niệm rằng nó là quyền thiết yếu (essential) trong mọi quốc gia pháp trị. Để
đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự, pháp luật Việt Nam hiện hành
đã tạo ra cơ chế kiểm sát cần thiết trong quá trình giải quyết các vụ việc dân
sự để đảm bảo quyền năng này cho những người tham gia tố tụng.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Luật tổ
chức VKS nhân dân năm 2014, thấy rằng:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, thì VKS
nhân dân (VKSND) thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp. VKS là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật tố tụng
dân sự quy định về sự tham gia của VKS trong các vụ án dân sự tại phiên Tòa
sơ thẩm và phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Sự tham gia của VKS
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27
của Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, VKSND không thực hành quyền công tố, không trực tiếp thụ lý để giải
quyết vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân
sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ,
hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng
cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể
26
hiện rõ được cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp
năm 2013 giữa TAND và VKSND.
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của VKS
trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau:
- VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
- VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên
tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc
đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của
Bộ luật này.
- VKS tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm.
- VKS nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành Điều này.
Như vậy, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiếp tục khẳng định VKS
nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự; Viện trưởng VKS và Kiểm sát
viên là người tiến hành tố tụng dân sự; đồng thời, bổ sung quy định Kiểm tra
viên cũng là người tiến hành tố tụng và bổ sung 01 điều luật (Điều 59) quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên để bảo đảm phù hợp với Luật
tổ chức VKS nhân dân năm 2014.
Từ những quy định của pháp luật như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy
VKS giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong tố tụng dân sự, cụ thể, ngoài tòa án
là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự thì chỉ có VKS là cơ quan
27
có thẩm quyền tham gia trực tiếp vào việc giải quyết vụ án với vai trò kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử, những người tham
gia tố tụng. VKS có trách nhiệm và quyền hạn phát hiện các vi phạm của tòa
án , Hội đồng xét xử, của những người tiến hành tố tụng đối với vụ việc dân
sự để yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị chấm dứt vi phạm, khắc phục hậu quả,
xử lý người vi phạm, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân không bị xâm phạm. Đặc biệt, thông qua
công tác kiểm sát, quyền con người của những người tham gia tố tụng trong
vụ việc dân sự được bảo đảm, công lý, công bằng được thực thi.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bảo vệ quyền con
người thông qua kiểm sát các vụ việc dân sự như sau:
Bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân sự là một
phương thức bảo vệ quyền dân sự của con người (cụ thể là các đương sự,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan), được thực hiện trực tiếp bởi VKS theo
trình tự chặt chẽ do luật định, nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ
việc dân sự được diễn ra đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, phát
hiện, xử lý kịp thời các vi phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.(cá nhân)
1.1.3. Đặc điểm của bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc
dân sự
Từ khái niệm về bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ
việc dân sự, có thể rút ra các đặc điểm của phương thức bảo vệ quyền con
người này như sau:
Thứ nhất, là phương thức bảo vệ quyền con người mang tính quyền
lực nhà nước thông qua tố tụng dân sự.
VKS là cơ quan duy nhất có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung, trong đó có tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Thông qua hoạt động tố
28
tụng dân sự, Tòa án thực hiện giải quyết các vụ việc dân sự do công dân yêu
cầu, khởi kiện. Quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án khi có hiệu
lực pháp luật có giá trị thi hành, nếu không tự nguyện thi hành, cơ quan bảo
vệ pháp luật có quyền cưỡng chế thi hành.
Trong quá trình tố tụng dân sự của Tòa án, VKS thực hiện hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật Tòa án, Hội đồng xét xử, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Hoạt động kiểm sát xuất phát từ chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của cơ quan VKS. Đây là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước, được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng
dân sự và pháp luật về tổ chức và hoạt động của VKS nhân dân.
Kết quả của hoạt động kiểm sát là các văn bản có giá trị pháp lý, thể
hiện sự thừa nhận một hoạt động tố tụng dân sự nào đó của tòa án là đúng,
chưa đúng quy định pháp luật, phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quy
định pháp luật, trong vận dụng pháp luật của tòa án, để đề nghị cơ quan có
thẩm quyền xem xét, khắc phục, sửa đổi, xử lý sai phạm.
Như vậy, có thể thấy, hoạt động kiểm sát mang tính quyền lực nhà
nước của VKS trong giải quyết vụ việc dân sự, góp phần quan trọng bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ hai, VKS có vai trò, vị trí rất quan trọng trong tố tụng dân sự
VKS tham gia quá trình tố tụng dân sự nhằm phát hiện những vi phạm
pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ kiện và đặc biệt phát hiện vi phạm
của người tiến hành tố tụng, để có biện pháp kiến nghị, kháng nghị khắc phục
và xử lý kịp thời, góp phần giúp Tòa án ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
Đối với các vụ kiện dân sự mà VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm, Viện
trưởng VKS phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Trước khi mở phiên
tòa, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ kiện dân sự nhằm giúp Kiểm sát viên
nắm vững được hệ thống chứng cứ, tình tiết của vụ án, làm cơ sở cho việc bảo
29
vệ quan điểm của VKS về việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử và việc
chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng và phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ việc dân sự. Trường hợp VKS tham gia phiên toà,
Kiểm sát viên chú ý hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng từ thời điểm thụ lý vụ án để thực hiện tốt nhiệm vụ
quyền hạn của mình. Tuy nhiên, quy định này không làm giảm trách nhiệm
của VKS trong việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp mà
nội hàm chứa đựng trách nhiệm của VKS trong việc bảo đảm bản án của Toà
án đúng pháp luật. Vì vậy, sau khi chủ toạ tuyên án, Kiểm sát viên tham gia
phiên toà có trách nhiệm kiểm sát tính đúng đắn trong bản án, quyết định của
Toà án để xem xét việc thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,
có sự chuẩn bị cần thiết cho việc tham gia phiên toà phúc thẩm.
Kháng nghị phúc thẩm của VKSND đối với bản án dân sự sơ thẩm của
Tòa án là một trong những biện pháp thể hiện rõ nét nhất chức năng kiểm sát
của VKS nhân dân đối với việc giải quyết vụ án của Tòa án. Kháng nghị phúc
thẩm của VKS nhân dân góp phần phát hiện và khắc phục vi phạm trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự, của Nhà nước và bên thứ ba.
Kháng nghị của VKS là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm của VKS
đối với bản án, quyết định của Tòa án là có vi phạm pháp luật, để yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền đưa vụ án dân sự ra xem xét lại theo trình tự giám đốc
thẩm, tái thẩm nhằm khắc phục những vi phạm pháp luật của bản án đó.
Nhìn chung, việc tham gia phiên tòa sơ thẩm và buộc VKS tham gia tất
cả các phiên tòa phúc thẩm không chỉ phản ánh thực trạng công tác giải quyết
vụ kiện dân sự của Tòa án đang còn tồn tại những vấn đề như có những vụ án
tòa án giải quyết chưa công bằng, chưa đúng quy định của pháp luật, xâm
phạm đến quyền con người, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
30
của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Mặt khác, thể hiện sự tin tưởng của Đảng,
Nhà nước và Nhân dân đối với VKS trong việc bảo vệ pháp luật xã hội chủ
ngĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân
sự được thực hiện trên nền tảng cơ chế pháp lý đồng bộ.
Đặc điểm này thấy rõ khi xét mối quan hệ giữa hoạt động kiểm sát của
VKS với hoạt động giải quyết vụ việc của Tòa án, hoạt động sử dụng pháp
luật của đương sự trong vụ việc dân sự.
Để hoạt động kiểm sát kịp thời, đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả, cần một hệ
thống pháp luật về tố tụng hoàn chỉnh, tránh những khiếm khuyết pháp luật
dẫn tới những hoạt động triệt tiêu, hạn chế quyền kiểm sát.
Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động kiểm sát cũng phụ thuộc rất lớn vào
mức độ tiếp nhận và vận dụng pháp luật của đương sự. Khi đương sự kịp thời
nắm bắt các khuyến nghị, khuyến cáo của VKS, vận dụng pháp luật một cách
kịp thời, phù hợp, thì sẽ đem lại hiệu quả nhất định trong bảo vệ quyền con
người của đương sự.
1.2 Nội dung bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc dân sự
Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua
Bộ luật tố tụng dân sự với 10 Phần, 42 chương, 517 điều (trong đó bổ sung
mới 102 điều, sửa đổi, bổ sung 292 điều) có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Bộ
luật quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục
khởi kiện, yêu cầu để Tòa án giải quyết các vụ, việc về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
dân sự, việc dân sự tại Tòa án; thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài
nước ngoài. Bộ luật cũng quy định những nguyên tắc thi hành án dân sự;
31
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng.
Theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015, việc bảo vệ quyền con người thông
qua hoạt động kiểm sát các vụ việc dân sự của VKS được thực hiện bởi các
hoạt động cụ thể sau của cơ quan này:
1.2.1. Thực hiện nguyên tắc “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự”
Luật TTDS 2015 quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự là một nguyên tắc của TTDS. Điều này cho thấy sự cần thiết của
kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp 2013.
Tại Điều 21 BLTTDS 2015 quy định nguyên tắc “Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, trong đó, quy định quyền tham gia
phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của VKS: VKS tham gia phiên
tòa đối với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có
khiếu nại; tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án; tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự
mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án; đồng thời tham gia các
phiên toà giám đốc thẩm và tái thẩm do Toà án kháng nghị theo thẩm quyền.
Để tạo điều kiện cho VKS thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tồ chức VKSND, trên cơ
sở điều kiện thực tế về biên chế và đội ngũ kiểm sát viên của ngành Kiểm sát
và căn cứ vào tính chất, đối tượng của các vụ việc dân sự, Điều 21 BLTTDS
2015 đã quy định: VKS tham gia các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án
do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản
công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. VKS
32
tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự, phiên toà,
phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.2.2. Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự
Về sự tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của VKS
nhân dân được quy định tại các điều 21, 232, 296, 367 và 374 Bộ luật TTDS
năm 2015.
Điều 21 của Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự:
"1. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. VKS tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên
tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc
đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của
Bộ luật này.
3. VKS tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm.
4. VKS nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành Điều này".
Như vậy, ngoài các trường hợp VKS tham gia phiên tòa, phiên họp như
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ
sung một số nội dung mới như sau:
- Bổ sung quy định VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm khi Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng. Xét dưới
33
góc độ bảo vệ quyền con người, việc tham gia của VKS trong trường hợp này
tạo ra cơ chế kiểm sát trực tiếp tại phiên tòa, đảm bảo cho hoạt động giải
quyết vụ việc dân sự của tòa án được thực hiện công minh, chính trực, tránh
tùy tiện khi lựa chọn và áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng khi Tòa án đưa ra phán quyết.
- Quy định đối với trường hợp Kiểm sát viên được Viện trưởng phân
công tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phiên tòa, phiên họp phúc
thẩm mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, không hoãn
phiên tòa, trừ trường hợp VKS kháng nghị phúc thẩm. Như vậy, để đảm bảo
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKS được tham gia phiên tòa,
phiên họp theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu trong Bộ luật tố tụng
dân sự 2004 việc vắng mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa và phiên họp được
xác định là một trong những căn cứ để hoãn phiên tòa, phiên họp thì tại Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 nội dung này đã không được đề cập đến. Điều 232 về
sự có mặt của Kiểm sát viên và khoản 1 Điều 367 Bộ luật tố tụng dân sự hiện
hành khẳng định trường hợp kiểm sát viên vắng mặt thì hội đồng xét xử /tòa
án vẫn tiến hành xét xử/phiên họp, không hoãn phiên tòa. Xét dưới góc độ
bảo vệ quyền con người, có thể thấy quy định này có ý nghĩa trong việc bảo
đảm quyền được xét xử và xem xét yêu cầu đúng thời hạn của các bên trong
vụ việc dân sự. Trong thực tế, khi bộ luật tố tụng dân sự quy định về trường
hợp kiểm sát viên vắng mặt là căn cứ hoãn phiên tòa đã được Thẩm phán và
Kiểm sát viên thống nhất lạm dụng tương đối phổ biến, gây kéo dài, chây ì
việc giải quyết không cần thiết. Mặt khác, tham gia phiên tòa là một trong
những hoạt động nghề nghiệp của Kiểm sát viên, do đó, đòi hỏi kiểm sát viên
phải nghiêm túc thực hiện. Tuy nhiên, lật ngược vấn đề trong trường hợp này,
quy định còn tương đối cứng nhắc khi không tạo ra “khoảng ngoại lệ” trong
trường hợp vì sự kiện bất khả kháng, không thể có kiểm sát viên tham gia
34
phiên tòa/phiên họp, do đó vô hình chung đã hạn chế rất lớn quyền kiểm sát
tại phiên tòa/phiên họp của kiểm sát viên.
1.2.3. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa, phiên họp
sơ thẩm.
Về việc phát biểu ý kiến của VKS nhân dân tại phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm giải quyết vụ việc dân sự được quy định tại Điều 262 và Điều 369 Bộ
luật TTDS năm 2015.
Tại phiên tòa sơ thẩm: Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy
định: “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp
xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án”.
Như vậy, kiểm sát viên không chỉ phát biểu về việc chấp hành pháp
luật tố tụng của thẩm phán, hội đồng xét xử như trước đây mà còn phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án. Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự trong
thời gian qua cho thấy quy định về sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự
đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKS thực hiện được
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ
chức VKS nhân dân. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ
dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng
minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, khi có tranh
chấp nhiều người dân chưa có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho
mình và đội ngũ Luật sư hiện nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất
cả các phiên tòa.VKS tham gia phiên tòa và phát biểu về việc giải quyết vụ
án là đại diện cho quyền lợi của xã hội, không phải là đại diện của các bên
đương sự, chỉ đưa ra quan điểm về áp dụng pháp luật và không nghiêng về
35
bên nào. Quy định này cũng nâng cao vai trò, trách nhiệm của VKS và của
kiểm sát viên.
Tại phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự: Điểu g khoản 1 Điều 369
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Kiểm sát viên phát biểu ý kiến
của VKS về việc giải quyết việc dân sự”
Tại các điều 262, 306, khoản 3 Điều 341, điểm g khoản 1 Điều 369,
điểm c khoản 1 Điều 375 quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, phiên
họp, Kiểm sát viên phải gửi bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ
vụ việc”. Đây là điểm cần chú ý trong thực hiện công tác kiểm sát.
1.2.4. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
- Về thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của VKS, tiếp
tục kế thừa quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về thẩm quyền xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của VKS, tại khoản 6 điều 97 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 quy định: “VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho
việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm”.
Đồng thời, bổ sung quy định Kiểm sát viên khi được Viện trưởng VKS
phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có
nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài
liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này” (khoản 3
Điều 58);
Trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, chủ thể có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục này có quyền yêu cầu người có đơn bổ sung tài
liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh tài liệu, chứng cứ cần thiết.
36
1.2.5. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của
Viện trưởng VKS nhân dân, Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy
định:
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKS nhân dân tối
cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám
đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng VKS nhân dân cấp
cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện
trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”.
Điều 354 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKS nhân dân tối
cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng VKS nhân dân cấp
cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện
trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ”.
Như vậy, để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật tổ chức VKS nhân
dân và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 đã sửa đổi quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
37
thẩm, tái thẩm, theo đó: bỏ thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm huyện của Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng
VKS nhân dân cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án nhân dân cấp huyện bổ sung quyền kháng nghị cho Chánh án Tòa
án nhân dân cấp cao, Viện trưởng VKS nhân dân cấp cao.
Có thể thấy quyền kháng nghị giám đốc thẩm,tái thẩm của VKS có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo sự tuân theo pháp luật của hội đồng
xét xử và tòa án khi giải quyết vụ việc dân sự. Quyền năng này đã tạo ra một
cơ sở hết sức quan trọng cho VKS thực hiện khả năng phát hiện và khắc phục
vi phạm trong quá trình kiểm sát của mình, đảm bảo tốt nhất quyền con người
cho những người tham gia tố tụng dân sự. Bởi lẽ, nếu quyền kháng nghị phúc
thẩm bị giới hạn về mặt thời gian kể từ khi tuyên án hoặc nhận được bản án
thì quyền kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm lại không bị hạn chế thời hạn
bằng cách thức trên. Nói cách khác, bất kỳ bản án, quyết định nào được ban
hành trong tố tụng dân sự của Tòa án đều đứng trước “nguy cơ” bị kháng nghị
nhằm đảm bảo bản án, quyết định có nội dung phù hợp với thực tế khách
quan, đảm bảo quyền và nghĩa vụ chính đáng của các bên được thực thi.
1.3. Yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các
vụ việc dân sự
1.3.1. Sự hoàn thiện của pháp luật về chức năng kiểm sát trong tố tụng dân sự
Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua Bộ luật tố tụng dân sự
(sau đây viết tắt là BLTTDS năm 2015), có hiệu lực thi hành từ 01/7/2016,
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010; Kết luận số 92-KL/TW
của Bộ Chính trị. Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục hoàn thiện các thủ tục tố
tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng
38
và bảo vệ quyền con người; thực hiện mô hình tố tụng "xét hỏi kết hợp với
tranh tụng", xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng; thực hiện tốt việc tranh tụng xem đó
là khâu đột phá của hoạt động xét xử; tạo điều kiện cho các đương sự chủ
động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; hoàn
thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút
gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định; khuyến khích việc
giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài, Tòa
án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc hòa giải đó...Những nguyên tắc, nội
dung cơ bản của BLTTDS năm 2015 chi phối mạnh mẽ tới nhiều mặt của
công tác kiểm sát tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật.
Việc tăng cường trách nhiệm của VKS nhân dân (VKSND) trong tố
tụng dân sự đã khẳng định Đảng và Nhà nước tin tưởng vào vai trò của
VKSND trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Do vậy, để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, cán bộ, kiểm sát viên (KSV) của VKSND cần phải
quán triệt một cách sâu sắc các nội dung cơ bản của BLTTDS nhất là những
nội dung liên quan đến hoạt động nghiệp vụ công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự theo yêu cầu của BLTTDS năm 2015.
1.3.2. Năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của người có thẩm quyền,
trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ việc dân sự
Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do
pháp luật quy định bắt buộc VKS phải thực hiện cùng với các hình thức, biện
pháp và thẩm quyền được quy định trong luật (Luật tổ chức VKSND,
BLTTDS và các văn bản pháp luật khác...) trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định của pháp luật thì nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng
39
dân sự thể hiện các yêu cầu đòi hỏi VKS phải tham gia thực hiện trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự.
Nhiệm cụ cơ bản của VKSND trong tố tụng dân sự được thực hiện tại
Điều 21 BLTTDS năm 2015; Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật
khác có thể khái quát với các nhiệm vụ sau:
Bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án các cấp
được đúng pháp luật và kịp thời.
Bảo đảm cho các bản án và quyết định của Tòa án trong các vụ việc
dân sự có căn cứ và đúng pháp luật.
Bảo đảm cho mọi bản án dân sự của Tòa án có hiệu lực đưa ra thi hành
kịp thời và đúng pháp luật.
Nhiệm vụ trên là những yêu cầu cơ bản do pháp luật quy định đối với
VKS phải tham gia thực hiện trong việc giải quyêt các vụ việc dân sự qua các
giai đoạn tố tụng dân sự, từ khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi ban
hành các văn bản và quyết định có căn cứ, đúng pháp luật và có hiệu lực thi
hành.
Quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự: Theo Luật tổ chức
VKSND năm 2014 và BLTTDS năm 2015, quyền hạn của VKSND được quy
định thực hiện thông qua ba chủ thể tố tụng là Viện trưởng VKS, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên và khác với các quan hệ pháp luật khác như tố tụng hình
sự, VKS có quyền quyết định, quyền truy tố thì trong tố tụng dân sự VKSND
có ba quyền cơ bản đó là quyền kiến nghị, quyền kháng nghị và quyền yêu
cầu. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn và từng hoạt động tố tụng luật quy định
cho VKS có những quyền cụ thể cá biệt, nhưng đó cũng chỉ là sự cụ thể hóa
của ba quyền cơ bản nêu trên trong từng nhiệm vụ cụ thể.
Nhiệm vụ, quyền hạn trong tố tụng dân sự được thực hiện thông qua
người có thẩm quyền tố tụng đó là Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên và
40
kiểm tra viên. Căn cứ vào vị trí, thẩm quyền từng người có thẩm quyền tố
tụng mà luật quy định nhiệm vụ và quyền hạn từng người tố tụng khác nhau
như nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng VKS được quy định tại Điều 57
(BLTTDS năm 2015) khác với nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên quy
định tại Điều 58 (BLTTDS năm 2015) nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra
viên được quy định tại Điều 59 (BLTTDS năm 2015). Đồng thời những
nhiệm vụ và quyền hạn của những người tố tụng trên trong từng giai đoạn
cũng khác nhau, ví dụ: Chủ thể quyền kháng nghị phúc thẩm khác với chủ thể
có quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Do vậy, để thực hiện tốt chức năng của VKS trong tố tụng dân sự thì
đòi hỏi tất cả cán bộ, KSV của VKSND cần quán triệt sâu sắc BLTTDS năm
2015 và các luật liên quan, nhưng trước hết và trên hết cần quán triệt đầy đủ
các nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự.
1.3.3. Ý thức bảo vệ quyền con người, năng lực thực hiện pháp luật tố tụng
dân sự của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Tòa án, của
Hội thẩm nhân dân
Trước đây, Điều 126 Hiến pháp năm 1992 quy định: “TAND và
VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Như vậy,
Hiến pháp năm 1992 đồng nhất nhiệm vụ của TAND và VKSND, hơn nữa
quy định nhiệm vụ “bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phảm của
công dân” được đưa xuống dưới cùng. Hiến pháp 2013, chức năng của Tòa án
đã được xác định lại: Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp.
Nhiệm vụ của Tòa án và VKS cũng đã tách biệt, có phần trùng nhau, nhưng
có phần khác nhau. Nhiệm vụ của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 102
41
Hiến pháp 2013: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Nhiệm vụ “bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân” đã được đưa lên thành nhiệm vụ
hàng đầu của Tòa án. Theo đó, quyền tự do của nhân dân, hạnh phúc của con
người là mục đích của quyền lực nhà nước, bao gồm cả quyền tư pháp. Ngay
từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (ngày 2/9/1945), tư
tưởng và quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc”, có nghĩa là độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, hạnh
phúc cho con người.
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện”. Quy định này nhấn mạnh 4 trách nhiệm của
Nhà nước: “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân”, sự quy định này đặt ra trách nhiệm hết sức to lớn và nặng nề cho
hệ thống tư pháp, trong đó có trách nhiệm cực kỳ quan trọng của TAND các
cấp trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, khoản 2 Điều 103 của Hiến pháp 2013
quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm”, đây là nguyên tắc phổ quát trên thế giới, phù hợp với các
công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việc “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” có nghĩa là
những quyết định, bản án được ban hành mà có sự can thiệp là vi hiến và vô
hiệu, như vậy quyền hạn và tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm được tăng
42
lên. Muốn chống lại sự can thiệp, Thẩm phán vừa phải có dũng khí và tinh
thần yêu công lý, còn phải có trình độ và bản lĩnh. Để đảm bảo được nguyên
tắc “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
1.3.4. Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự
Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự gắn liền với quyền tố tụng
của đương sự, sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc bảo vệ quyền con
người trong mối quan hệ với quyền kiểm sát của VKS trong giải quyết các vụ
việc dân sự.
Quyền tố tụng của đương sự sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình trước các hành vi xâm phạm của các chủ thể khác. Quyền tố
tụng của đương sự sẽ bảo đảm cho đương sự có phương tiện để bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các hành vi xâm phạm của các chủ
thể khác bằng việc tham gia tố tụng tại Tòa án. Với các quyền năng được
pháp luật trao cho, cho phép các chủ thể có thể sử dụng quyền năng đó như
một công cụ hữu hiệu để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình, chống lại
các hành vi vi phạm của chủ thể khác. Khi một cá nhân hay cơ quan, tổ chức
cho rằng có quyền và lợi ích bị xâm phạm thì quyền tố tụng đầu tiên được
thực hiện đó là quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu thực thi
công lý. Có thể nói, quyền khởi kiện, quyền yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
là quyền tố tụng rất quan trọng, là cơ sở pháp lý làm phát quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự và cũng là tiền đề cho các quyền tố tụng khác.
Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì:
Điều 4. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện
vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự
43
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách
tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự có thể sử dụng để đòi hỏi
công lý, là cơ sở để người tiến hành tố tụng ý thức được bổn phận phải tôn
trọng và bảo đảm các quyền căn bản này. Ngoài ra, các ghi nhận của pháp luật
tố tụng dân sự về các quyền cơ bản này còn thể hiện được bản chất của một
Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong lĩnh vực tư pháp dân sự.
Tùy theo từng giai đoạn tố tụng, pháp luật trang bị cho các đương sự
những quyền tố tụng khác nhau để đương sự tự do lựa chọn và quyết định có
sử dụng hay không để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các quyền
năng này được trao cho đương sự có ý nghĩa trong việc chống lại sự lạm
quyền, thiên vị hay sai sót của hệ thống Tòa án hoặc tạo điều kiện cho các bên
đương sự có cơ hội như nhau trong việc chứng minh bảo vệ quyền lợi của
mình, có phương tiện để chống lại sự thiếu trung thực, gian lận hay thiếu
thiện chí của bên đối phương.
Các quyền tố tụng được pháp luật ghi nhận cho đương sự còn có ý
nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được thống nhất, khách
quan, nhanh chóng và đúng đắn. Các quyền tố tụng này không chỉ có giá trị
đối với đương sự mà nó còn là cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết vụ việc
dân sự của những người tiến hành tố tụng, giúp cho Tòa án có thể bảo vệ hiệu
quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
44
Quy định về các quyền tố tụng còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật
của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự
nói riêng. Qua đó, người dân có thể nhận thức được các quyền tố tụng của
mình và tôn trọng quyền tố tụng của các chủ thể khác đồng thời có ý thức hơn
về việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thông qua các
hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án. Người dân nhận thức được quyền yêu
cầu bảo vệ các quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm là quyền quan trọng để
chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ, họ có quyền
khởi kiện để Tòa án có thẩm quyền giải quyết bảo vệ quyền lợi chính đáng
của họ. Khi có yêu cầu, Tòa án xem xét và đưa ra xét xử bằng một bản án,
quyết định chính xác, khách quan thì người dân sẽ tin tưởng vào pháp luật và
họ coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để họ đấu tranh phòng chống vi phạm
pháp luật. Cũng từ đó mà pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa
ngày càng được củng cố và tăng cường.
Tóm tắt chương 1
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã khẳng định VKSND là cơ quan kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; đó chính là kiểm sát tính hợp
pháp của các quyết định, hành vi của chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng
theo quy định của BLTTDS.
Hoạt động trên của VKS được quy định trong Hiến pháp và pháp luật;
là một trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
của VKSND. Từ đó có thể khẳng định chức năng kiểm sát giải quyết các vụ
án dân sự của VKSND là hoạt động của VKSND trong việc kiểm sát tính hợp
pháp các hành vi của các chủ thể và những người tham gia tố tụng khác; các
quyết định áp dụng của các chủ thể có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Nó là hình thức thực hiện quyền lực nhà
45
nước được Hiến pháp và pháp luật quy định cho VKSND, là bộ phận của
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự và tố tụng dân sự,
hướng tới bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Tòa
án, VKS theo quy định Hiến pháp 2013 và các Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2014, Luật Tổ chức VKS nhân dân 2014.
46
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA
KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ Ở HUYỆN BỐ TRẠCH,
TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về huyện Bố Trạch và tình hình tranh chấp, việc dân sự
yêu cầu tòa án Huyện giải quyết
2.1.1. Khái quát về huyện Bố Trạch
Huyện Bố Trạch có diện tích tự nhiên 2.124,2 km2, với diện tích trải
rộng từ Tây sang Đông chiếm toàn bộ chiều ngang của Việt Nam; vừa tiếp
giáp với biển Đông vừa tiếp giáp đường biên giới giữa Việt Nam và Lào. Phía
Nam giáp thành phố Đồng Hới, phía Bắc giáp thị xã Ba Đồn và huyện Quảng
Trạch. Toàn huyện có 28 xã và 2 thị trấn, với đầy đủ địa hình đồng bằng,
miền núi, trung du và ven biển. Hội tụ đầy đủ hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, đường biển; có các tuyến đường giao thông huyết mạch chạy qua
là đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam và các tỉnh lộ tạo
thành mạng lưới giao thông ngang - dọc tương đối hoàn chỉnh. Hơn nữa, Bố
Trạch còn có cửa khẩu Cà Roòng - Noọng Ma (Việt Nam - Lào), có cảng
Gianh, danh thắng nổi tiếng Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được
UNESCO công nhận di sản thiên nhiên thế giới lần 2. Có đường bờ biển dài
24 km, hình thành các khu du lịch, điểm dịch vụ, có bãi tắm Đá Nhảy... thu
hút đông đảo khách tham quan trong và ngoài nước. Phát huy những thế mạnh
đó, đồng thời biết tận dụng thời cơ, định hướng đường lối phát triển đúng đắn,
Bố Trạch đã từng bước vươn lên mạnh mẽ và vững bước trên đường hội nhập.
Những thành quả đạt được trong giai đoạn 2010-2015:
Trong giai đoạn 2010-2015, Đảng bộ và nhân dân toàn huyện tiếp tục
phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, đoàn kết một lòng, khắc phục khó
47
khăn, thử thách, nỗ lực phấn đấu nên đã đạt được những thành tựu quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực.
Kinh tế phát triển ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, chuyển
mạnh sang hướng tăng dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp nhưng vẫn duy trì
tốc độ tăng trưởng. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, tạo sự chuyển biến tích
cực trong các mặt đời sống và an sinh xã hội.Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát
triển, chất lượng mũi nhọn tiếp tục được khẳng định, chất lượng đại trà có tiến
bộ. Nguồn nhân lực của huyện có chuyển biến cả về số lượng và chất lượng,
luôn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc
làm có bước tiến đáng kể đã tạo thuận lợi cho nhiều lao động nông thôn học
nghề và tạo việc làm, tăng thu nhập. Nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ nhân dân
có tiến bộ, cơ bản đã làm tốt công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá” được nhân dân hưởng ứng sâu rộng, đạt kết quả tích cực. Các chương
trình giảm nghèo, giải quyết việc làm, thực hiện các chính sách xã hội được
quan tâm chỉ đạo, đưa lại hiệu quả thiết thực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,3%
vào cuối năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng
nhanh. Quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời và đúng quy định các chính sách
an sinh xã hội. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững,
chất lượng hoạt động của lực lượng vũ trang có nhiều tiến bộ, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các lực lượng
quân sự, công an thường xuyên nắm chắc tình hình, giải quyết kịp thời, có
hiệu quả các vụ việc liên quan đến an ninh chính trị ngay từ cơ sở.
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên tiếp
tục được nâng lên. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn, củng cố, phát
huy hiệu quả. Công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp có sự chuyển
48
biến tích cực; công tác phòng chống tham nhũng, lãnh phí, thực hành tiết
kiệm đạt được kết quả bước đầu. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể từng
bước thể hiện vai trò đại diện để chăm lo, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
tầng lớp nhân dân nên đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
2.1.2. Tình hình tranh chấp, việc dân sự yêu cầu tòa án huyện giải quyết
Với vị trí địa lý bao gồm cả biển và đồi núi, đồng bằng; diện tích tương
đối rộng lớn và thành phần dân cư khá phức tạp, mặt bằng dân trí thấp, huyện
Bố Trạch là một trong những địa phương thường xuyên xảy ra tranh chấp
cũng như yêu cầu về việc dân sự trong toàn tỉnh Quảng Bình. Đặt trong mối
tương quan với các huyện, thị xã, thành phố khác, tình hình tranh chấp và giải
quyết tranh chấp của huyện Bố Trạch chỉ đứng sau thành phố Đồng Hới.
Trong khoảng thời gian từ 01/12/2011 đến 31/12/2016, VKS nhân dân huyện
Bố Trạch thụ lý 927 vụ án dân sự chiếm 13,6 % trong toàn tỉnh, trong đó
tranh chấp dân sự 158 vụ chiếm 17,04% và hôn nhân gia đình tổng số 814 vụ
chiếm 82,96%. Đối với việc dân sự, trong khoảng thời gian nêu trên tổng thụ
lý 117 việc dân sự, chiếm 14,2% trong toàn tỉnh Quảng Bình. Từ 01/12/2011
đến 31/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã ban hành 870 bản án,
quyết định nhằm giải quyết các vụ án dân sự, chiếm 93,85% tổng số vụ án thụ
lý, trong đó đưa vụ án ra xét xử 163 vụ án dân sự, công nhận sự thỏa thuận
622 vụ án, quyết định tạm đình chỉ 18 vụ án và quyết định đình chỉ 67 vụ án.
Tỷ lệ này ở huyện Tuyên Hóa, huyện Minh Hóa, huyện Quảng Trạch, thị xã
Ba Đồn, thành phố Đồng Hới, huyện Lệ Thủy, huyện Quảng Ninh lần lượt là
89,2%; 87%; 90,2%; 92,56%;94,67%; 89,23% và 88,64%. Đối với việc dân
sự, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã giải quyết 111 việc chiếm 94,87%,
trong đó mở phiên họp 98 việc và quyết định đình chỉ 13 việc dân sự. Tỷ lệ
này lần lượt của các huyện, thị xã, thành phố nêu ở trên là 92,57%; 91,67%;
49
93,34%; 94%; 95,23%; 91,56%; 90,54%. Như vậy, so với 07 huyện, thị xã,
thành phố còn lại, tỷ lệ giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân huyện
Bố Trạch tương đối cao, chỉ đứng sau thành phố Đồng Hới. Trong khoảng
thời gian từ 01/12/2011 đến 31/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch bị
sửa và hủy 15 vụ án dân sự, chiếm 1,7% tổng số vụ án dân sự được giải
quyết.
2.2. Tình hình thực hiện công tác kiểm sát các vụ việc dân sự nhằm bảo
vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch những
năm qua
2.2.1. Khái quát chung
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 và Luật tổ
chức VKS nhân dân 2014 đều khẳng định chức năng, nhiệm vụ của VKS là:
“bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”. Như vậy, thông qua quy định trên có thể thấy pháp luật Việt
Nam hiện hành hết sức coi trọng nội dung bảo về quyền con người, quyền
công dân, thậm chí vấn đề này còn được đặt trên việc “bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa”. Điều này thể hiện rõ nét trong các văn bản pháp luật khác nhau
trong đó có luật tố tụng dân sự 2015. Chúng ta biết rằng, hoạt động nghề
nghiệp của cán bộ kiểm sát nói chung và cán bộ kiểm sát VKS nhân dân
huyện Bố Trạch nói riêng đều gắn liền với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
nhất định để đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của VKS, trong đó có nội dung
quan trọng về bảo vệ quyền con người.
Trong thời kỳ trước khi luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực (trước
ngày 01/7/2016), áp dụng quy định trong luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi bổ
sung 2011, mặc dù việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân đã được
50
Hiến pháp khẳng định và có hiệu lực thi hành, tuy nhiên do các quy định văn
bản dưới Hiến pháp đang trong giai đoạn “quá độ” còn trong quá trình hoàn
thiện, sửa đổi nên quyền con người trong tố tụng dân sự được cụ thể hóa
tương đối đơn giản trong một số nội dung như thay đổi quy định về thời hiệu
khởi kiện. Theo đó để đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích của các chủ thể có tài
sản – một trong những quyền cơ bản của con người Bộ luật tố tụng dân sự sửa
đổi bổ sung 2011 đã bổ sung bất cập trong quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự 2004 về thời hiệu khởi kiện như pháp luật không có quy định về thời hiện
khởi kiện vụ án dân sự thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những
tranh chấp về sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản
lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sở dụng đất theo quy định của pháp luật
đất đai. Các tranh chấp không thuộc các trường hợp nêu trên thì thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự vẫn là 02 năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết
được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm như quy định trước
đây. Cùng với nội dung này, để đảm bảo tốt hơn quyền con người của các chủ
thể, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi 2011 cũng mở rộng thẩm quyền giải quyết
của Tòa án trong các vụ án về dân sự như: Yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiêu; Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân
chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Đối với các tranh chấp về dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án được bổ sung 02 loại là: tranh chấp liên
quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và tranh chấp liên
quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự. Việc bổ sung hai loại tranh chấp này đảm bảo cho quyền
về tài sản của người được thi hành trong các tranh chấp dân sự. Ngoài ra, để
đảm bảo tốt hơn quyền con người, bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi 2011 đã bổ
sung thêm một số quyền cho đương sự. Nếu như quy định trước đây chỉ cho
51
phép đương sự đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác, được đối
chất với nhau hoặc với nhân chứng thì Bộ luật tố tụng dân sự 2011 đã ghi
nhận cho đương sự có quyền được trực tiếp đưa ra câu hỏi với người khác về
vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc với người làm
chứng. Nhận thức được các quy định tiến bộ sửa đổi để đảm bảo quyền con
người trong tố tụng dân sự, VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã triển khai việc
học tập, trau đồi kiến thức về hoạt động kiểm sát trong tố tụng dân sự những
vấn đề như bảo đảm quyền khởi kiện cho người dân, bảo đảm các quyền
chính đáng cho đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án, vụ việc dân sự,
thực hiện hoạt động kiểm sát nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án, việc
dân sự khách quan, hiệu quả, đúng đắn.
Từ 1/7/2016, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực, đến nay đã được
áp dụng trong khoảng thời gian hơn một năm. Bộ luật tố tụng dân sự 2015
được thiết kế, xây dựng trên cơ sở thể chế hóa quan điểm của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể các quy định của Hiến pháp năm
2013 và đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các bộ luật, đạo luật khác;
đồng thời đảm bảo tính công khai, minh bạch, xây dựng mô hình tố tụng xét
hỏi kết hợp với tranh tụng. Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 góp
phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân – đây là nhóm
quyền được Bộ luật này chú trọng bảo vệ. Tiếp thu và nhận thức rõ ràng
những điểm tiến bộ trong nội dung này của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành,
VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã thực hiện có hiệu quả hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự nhằm đảm bảo tốt một trong những nội
dung quan trọng là bảo vệ quyền con người. Vấn đề này được thực hiện thông
qua hoạt động tố tụng dân sự được quy định rõ ràng tại Điều 57, 58 về nhiệm
vụ quyền hạn của Viện trưởng VKS và nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát
viên.
52
2.2.2. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc trả lại
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Đây là một trong những hoạt động được VKS nhân dân Bố Trạch chú
trọng thực hiện. Việc kiểm sát chặt chẽ, có hiệu quả việc trả lại đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu là một trong những nội dung quan trọng thể hiện vấn đề bảo vệ
quyền con người trong việc thực hiện hoạt động tố tụng dân sự của cán bộ
VKS. Bởi lẽ, quyền khởi kiện về dân sự, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết về
việc dân sự là một trong những quyền năng quan trọng của con người, là cơ
chế cần thiết để các chủ thể trong xã hội thông qua đó có cơ chế về mặt pháp
lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Từ đó,
việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cần thiết phải được kiểm sát có hiệu
quả để loại trừ việc Tòa án từ chối quyền năng này của các chủ thể một cách
tùy tiện. Ngoài ra, việc thực hiện hoạt động trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
của Tòa án trong một số trường hợp như không đủ điều kiện khởi kiện…nhìn
dưới góc độ khác còn là một phương thức bảo vệ quyền con người của chủ
thể bị khởi kiện, tránh để chủ thể khác lợi dụng quyền khởi kiện về dân sự
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của mình. So với bộ luật tố tụng
dân sự 2004 về căn cứ trả lại đơn khởi kiện còn quy định chung chung, chưa
rõ ràng dẫn đến tùy tiện trong cách hiểu và lúng túng trong việc giải quyết thì
bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã loại bỏ những vấn đề này, đồng thời bổ sung,
quy định rõ một số trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Trong khoảng thời gian
từ năm 2012 đến nay, có tổng cộng 12 trường hợp Tòa án nhân dân huyện Bố
Trạch trả lại đơn khởi kiện và đơn yêu cầu với các nhóm lý do là người khởi
kiện không có quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật và sự việc đã
được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà không thuộc trường hợp
loại trừ việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192.
Bằng hoạt động nghề nghiệp của các cán bộ kiểm sát, VKS nhân dân huyện
53
Bố Trạch đã kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa
án nhân dân huyện Bố Trạch, trong đó cá biệt một trường hợp Tòa án nhân
dận huyện Bố Trạch trả lại đơn khởi kiện trái với quy định của pháp luật và
VKS nhân dân đã kịp thời ban hành kiến nghị để giải quyết vấn đề này nhằm
đảm bảo quyền khởi kiện cho nguyên đơn. Cụ thể: tại thông báo trả lại đơn
khởi kiện số 03/TB-TA ngày 11/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch
áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 85 của luật
hôn nhân và gia đình 2000 để từ chối thụ lý đơn khởi kiện về việc xin ly hôn
theo yêu cầu bà Nguyễn Thị Mai – mẹ của chị Phạm Thị Lan, đồng thời là
người giám hộ của chị Lan khi chị Lan đang trong tình trạng bị mất năng lực
hành vi dân sự. Sauk hi nhận được thông báo trên của TAND huyện Bố
Trạch, VKSND huyện Bố Trạch đã thực hiện quyền kháng nghị đối với thông
báo trên với hai nội dung: thứ nhất, việc áp dụng pháp luật sai hiệu lực, tại
thời điểm thụ lý đơn khởi kiện luật hôn nhân và gia đình 2014 đã có hiệu lực
nhưng Tòa án lại áp dụng luật hôn nhân và gia đình 2000; thứ 2, việc trả lại
đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mai là không có căn cứ pháp luật, đề nghị
Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch áp dụng khoản 2, Điều 51, luật hôn nhân và
gia đình 2014 để nhận lại đơn khởi kiện. Kết quả, sau khi nhận được kiến
nghị nêu trên, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã chấp nhận kiến nghị, nhận
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án [55]
[56] [57].
2.2.3. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý,
giải quyết vụ việc dân sự
Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải
quyết vụ việc dân sự là một trong những hoạt động nghiệp vụ quan trọng của
cán bộ kiểm sát liên quan đến quyền con người. Thông qua việc kiểm sát việc
thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân cùng cấp, VKS đã bảo
54
vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của các bên khi tham gia tố tụng
trong tố tụng dân sự. Thụ lý vụ án, đơn yêu cầu được coi là giai đoạn khởi
đầu cho cả quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Do đó, việc Tòa án nhân dân
thực hiện hoạt động thụ lý đúng theo quy định của pháp luật sẽ đảm bảo
quyền khởi kiện – một trong những quyền con người. Ngược lại, việc thụ lý
vụ việc dân sự tùy tiện, trái quy định của pháp luật tất yếu sẽ tạo điều kiện để
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Việc VKS nói chung
và VKS nhân dân huyện Bố Trạch nói riêng thực hiện hoạt động kiểm sát việc
thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự đã tạo cơ chế cần thiết để đảm bảo hoạt động
của Tòa án nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật, tránh sự tùy tiện, lạm
quyền khi giải quyết các vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng này.
Theo quy định của pháp luật, sau khi nhận được thông báo về thụ lý vụ án
hoặc đơn yêu cầu, cán bộ VKS nhân dân huyện Bố Trạch được phân công xử
lý vụ việc đều chú ý đến các nội dung quan trọng liên quan đến các trường
hợp loại trừ quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của chủ thể nhằm đảm bảo hoạt
động thụ lý giải quyết vụ án, việc dân sự đúng quy định của pháp luật. Trong
quá trình công tác từ năm 2012 đến nay, hoạt động thụ lý vụ việc dân sự của
Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đều được thực hiện đúng căn cứ và đảm bảo
quyền khởi kiện của đương sự, cá biệt chỉ có 01 trường hợp vi phạm khi Tòa
án thụ lý giải quyết vụ án khi đương sự không đủ điều kiện khởi kiện. Cụ thể:
Theo đúng quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013; Điều 88 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật đất đai; thì Tòa án chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp đất đai khi các đương
sự đã thực hiện thủ tục hòa giải ở cơ sở theo đúng quy định của pháp luật.
Ngược lại, nếu Tòa án thụ lý giải quyết vụ án là vi phạm quy định điểm b
khoản 1 Điều 192 Bộ LTTDS năm 2015. Cụ thể như vụ án sau: Vụ án tranh
chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa nguyên đơn là bà Mai Thị Yên với
55
bị đơn ông Đào Văn Sơn vào tháng 8/2016 (TBTL số 63/2016 ngày
18/8/2016): Biên bản hòa giải do UBND huyện Bố Trạch lập không có sự
tham gia đầy đủ của các thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai
(không có mặt Trưởng thôn), của các bên tranh chấp (bà Yên, bà Chinh, anh
Phúc, bà Vĩnh...). Việc bà Yên khởi kiện khi thủ tục hòa giải ở cơ sở không
được thực hiện đúng quy định của pháp luật, là thuộc trường hợp chưa đủ
điều kiện khởi kiện. Tuy nhiên, khi bà Mai Thị Yên khởi kiện tại Tòa án nhân
dân huyện Bố Trạch lại được Tòa án thụ lý vụ án và giải quyết.
Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự, các KSV của
VKS nhân dân huyện Bố Trạch đều chủ động trong việc tiếp cận và nghiên
cứu hồ sơ, đặc biệt chú ý đến các vấn đề quan trọng có thể ảnh hưởng đến
việc giải quyết “sai lệch” vụ việc dân sự như xác định về vấn đề thời hạn một
cách chính xác tránh xâm phạm đến quyền của các đương sự khi rút ngắn
hoặc kéo dài thời thời hạn sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của một hoặc
hai bên đương sự. Đồng thời trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ việc
dân sự, VKS nhân dân huyện Bố Trạch luôn chú trọng đến các quy định về
quyền của đương sự và những người tham gia tố tụng khác để kiểm sát hoạt
động của Tòa án nhân dân tránh việc tùy tiện xâm phạm các quyền này như
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự; quyền tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền bình đẳng
trước pháp luật trong tố tụng dân sự; đảm bảo quyền kháng cáo và khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng dân sự. Đây đều là những quyền cơ bản của công dân, của
con người. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát viên luôn
nghiêm túc, khách quan, công minh, chính trực để đảm bảo các quyền cơ bản
trên cho các đương sự. Trong khoảng thời gian từ 01/12/2011 đến
31/12/2016, VKSND huyện Bố Trạch đã kiểm sát 100% việc thụ lý các vụ
việc dân sự của Tòa án, trong đó gồm 927 vụ án dân sự và 117 việc dân sự,
56
phát hiện và ban hành 14 kiến nghị về vi phạm trong quá trình thụ lý và giải
quyết vụ việc dân sự với các dạng vi phạm:
Thứ nhất, vi phạm về việc xác định sai tư cách những người tham gia tố
tụng, không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ tham gia trong tố tụng dân sự
đến phiên tòa để đảm bảo khách quan trong việc đánh giá chứng cứ: Tại vụ án
tranh chấp chia tài sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy với bị
đơn là bà Văn Thị Lý: Ngày 20/5/2014 bà Thúy khởi kiện đề nghị Tòa án chia
thừa kế của ông Độ để lại cho 2 con của bà là cháu Anh sinh năm 2010 và
cháu Lộc sinh năm 2012. Tính đến thời điểm bà Thúy khởi kiện 2 cháu đều
chưa đủ 6 tuổi. Căn cứ Điều 161; khoản 4 Điều 57, Điều 73 Bộ LTTDS năm
2011; khoản 3 Điều 2 Nghị quyết HĐTP số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
3/12/2012 của Tòa án nhân dân Tối cao thì quyền khởi kiện vụ án là của 2
cháu Anh và cháu Lộc. Như vậy đương sự trong vụ án, tức nguyên đơn phải
là 2 cháu Anh và Lộc. Do các cháu chưa đủ 6 tuổi nên bà Thúy là người đại
diện theo pháp luật của nguyên đơn. Tòa án xác định bà Thúy là nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cháu Anh và cháu Lộc là không
đúng theo như những qui định trên. Trong vụ án về hôn nhân và gia đình của
nguyên đơn là chị Mai Thị Ngọc và bị đơn là anh Nguyễn Văn Lực ( Thụ lý
số 59/2014/TBTL ngày 15/8/2014) có tranh chấp trong việc chia tài sản chung
của vợ, chồng khi ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ chị Nguyễn Thị Long
là chủ nợ tài sản của chị Mai Thị nhưng Tòa án lại không đưa người này vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ
án dân sự đó...
Thứ hai, vi phạm trong việc giải quyết ngoài phạm vi đơn khởi kiện của
đương sự. Tại Điều 5 bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định “Tòa án chỉ thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ
57
giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”. Nhưng khi giải quyết
án Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã thực hiện không đúng quy định này.
Tại vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa nguyên đơn là bà
Mai Thị Yên với bị đơn là ông Đào Văn Sơn:Các đương sự không ai yêu cầu
đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Yên và ông Tung là vô hiệu nhưng Tòa án lại giải quyết tuyên bố hợp đồng
trên là vô hiệu và buộc bà Yên phải bồi thường thiệt hại cho ông Sơn là
96.251.700 đồng; buộc bà Yên phải có nghĩa vụ hoàn trả lại ông Sơn 17 chỉ
vàng 9999 đã nhận của ông Tung là giải quyết ngoài phạm vi yêu cầu khởi
kiện của đương sự.
Thứ ba, vi phạm trong việc giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện ban
đầu: Theo quy định tại Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (nay là
Điều 244 BLTTDS năm 2015) thì đương sự có quyền rút, thay đổi hoặc bổ
sung yêu cầu khởi kiện của mình ngay tại phiên tòa sơ thẩm, tuy nhiên, việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện không được vượt quá yêu cầu khởi kiện
ban đầu. Trường hợp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện vượt quá yêu
cầu khởi kiện ban đầu thì không được chấp nhận. Tuy nhiên, trong vụ án kiện
đòi bồi thường thiệt hại giữa Nguyễn Văn Thủy và Bùi Thị Năm xảy ra vào
tháng 5/2013 (thụ lý vụ án số 60/2013/TBTL),tại phiên tòa, Nguyễn Văn
Thủy đã có yêu cầu thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện bằng việc bổ sung bị
đơn là anh Mai Xuân Tấn - chồng của chị Bùi Thị Năm cùng liên đới trách
nhiệm để bồi thường cho mình. Mặc dù yêu cầu trên của đương sự đã vượt
quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nhưng hội đồng xét xử vẫn chấp nhận. Do đó,
VKSND huyện Bố Trạch đã ban hành kháng nghị và được chấp nhận, kết quả
bản án giải quyết trường hợp nêu trên đã bị hủy án.
Như vậy, trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự,
VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã kịp thời phát hiện ra các dạng vi phạm
58
pháp luật nêu trên, từ đó nhanh chóng ban hành kiến nghị, kháng nghị để đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong tố tụng dân sự.
2.2.4. Bảo vệ quyền con người thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ việc, yêu
cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự
VKS nhân dân huyện Bố Trạch bảo vệ quyền con người thông qua việc
nghiên cứu hồ sơ vụ việc, yêu cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này. Đối với
hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ trước đến nay VKS nhân dân
huyện Bố Trạch chưa thực hiện do nhu cầu khách quan chưa đòi hỏi. Hoạt
động nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự được VKS nhân dân huyện Bố Trạch
chú trọng, đặc biệt là việc xem xét các tài liệu, chứng cứ để đảm bảo tính xác
thực, tính có căn cứ pháp lý của các tài liệu chứng cứ như tính xác thực, tính
pháp lý của hợp đồng giữa các bên trong vụ án tranh chấp kinh doanh thương
mại hoặc tranh chấp về thừa kế có di chúc thì xem tính hợp pháp của di
chúc…Các kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ việc
dân sự đều thận trọng, kỹ càng xem từng tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án
về chủ thể giao nộp chứng cứ, thời gian giao nộp chứng cứ và nội dung biên
bản giao nộp chứng cứ có đảm bảo quy định của pháp luật hay không?...
Trong quá trình tòa án thụ lý giải quyết vụ án dân sự, Tòa án có thể tự mình
hoặc theo yêu cầu của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan yêu
cầu thì Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ. Trong khoảng thời gian từ khi
luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực đến nay, theo yêu cầu của đương sự, Tòa
án nhân dân huyện Bố Trạch đã tiến hành lấy lời khai của người làm chứng 2
lần trong 2 vụ án giải quyết về tranh chấp tài sản, theo đó VKS nhân dân
huyện Bố Trạch đều thực hiện kiểm sát việc lấy lời khai chặt chẽ trong các
59
nội dung như phương pháp lấy lời khai, địa điểm lấy lời khai…đảm bảo theo
quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thông qua việc nghiên cứu
tài liệu lời khai trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt, để phục vụ cho việc giải quyết vụ
án ly hôn có tranh chấp về tài sản chung vợ chồng theo số thụ lý
56/2016/TLVA, trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án VKS nhân dân huyện
Bố Trạch đã yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu liên quan đến thời điểm mua bán
và nguồn gốc ngôi nhà chỉ đứng tên người chồng nhằm làm cơ sở để xác định
chủ sở hữu của tài sản này để đảm bảo hoạt động giải quyết tranh chấp được
thực hiện đúng đắn. [55] [56] [57
2.2.5. Bảo vệ quyền con người thông qua việc tham gia phiên tòa, phiên
họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự
VKS nhân dân huyện Bố Trạch bảo vệ quyền con người thông qua việc
tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết
vụ việc dân sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 thì : “VKS tham gia các
phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những
vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài
sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là
người chưa thành niên,người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi…”. Như vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự,
trong phiên họp sơ thẩm về việc dân sự VKS đều tham gia. Quy định này là
hợp lý, bởi lẽ đối với việc dân sự như yêu cầu tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc khó khăn trong
nhận thức làm chủ hành vi; yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu
tuyên bố một người là đã chết…ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người của
chủ thể bị yêu cầu, do đó, đòi hỏi Kiểm sát viên tham gia tại phiên tòa để tạo
cơ chế cần thiết nhằm kiểm sát các hoạt động của Hội đồng xét xử để đảm
60
bảo quyền lợi ích chính đáng cho người bị yêu cầu và cả người yêu cầu, tránh
xâm phạm trái pháp luật đến quyền và lợi ích của các bên. Trong thời gian từ
2012 đến 2017, Kiểm sát viên của VKS nhân dân huyện Bố Trạch luôn tham
gia đầy đủ các phiên tòa, phiên họp đòi hỏi sự có mặt của Kiểm sát viên theo
quy định của pháp luật, cá biệt có 02 trường hợp vắng mặt Kiểm sát viên
nhưng đều do nguyên nhân bất khả kháng. Viện trưởng VKS nhân dân huyện
Bố Trạch luôn quán triệt về trách nhiệm có mặt của kiểm sát viên khi có mặt
tại phiên tòa, tránh vì “lợi dụng” quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS mà cố
tình vắng mặt để hoãn phiên tòa gây khó khăn, kéo dài thời hạn giải quyết vụ
việc. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại Điều 232 Luật tố tụng dân sự
2015 về sự có mặt của Kiểm sát viên thì “nếu kiểm sát viên vắng mặt thì Hội
đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử không hoãn phiên tòa”, do đó, để có thể đảm
bảo hoạt động kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp dân sự, Kiểm sát viên luôn
luôn sắp xếp, tôn trọng việc tham gia phiên tòa, phiên họp, bởi lẽ, theo quy
định của luật mới việc vắng mặt của Kiểm sát viên không còn là căn cứ để
hoãn phiên tòa. Việc VKS tham gia phiên tòa, phiên họp nêu trên nhằm đảm
bảo về thời hạn giải quyết vụ việc dận sự, bảo đảm các thành phần tham gia
phiên tòa, phiên họp, đảm bảo thủ tục diễn biến của phiên tòa, phiên họp…
[55] [56] [57]
2.2.6. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua việc kiểm sát
bản án, quyết định của Tòa án
VKS nhân dân huyện Bố Trạch bảo vệ quyền con người trong tố tụng
dân sự thông qua việc kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết
định của Tòa án chính là văn bản áp dụng pháp luật cá biệt ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích của các bên. Do đó, đòi hỏi trong quá trình kiểm sát
các bản án, quyết định dân sự phải được thực hiện một cách chính xác để
tránh sai sót, xâm phạm đến quyền con người của các chủ thể. Trong khoảng
61
thời gian từ năm 2012 đến nay, VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã kiểm sát
100% các quyết định, bản án do Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch ban hành.
Thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định, VKS đã phát hiện một số
vi phạm của Tòa án nhân dân như vi phạm về thời hạn gửi bản án, quyết định;
vi phạm về thời hạn giải quyết vụ án; … để thông qua đó ban hành kiến nghị,
kháng nghị đối với Tòa án nhằm đảm bảo tốt hơn hoạt động giải quyết các vụ
việc dân sự của Tòa án. Trong các vi phạm trên, vi phạm về thời hạn ra quyết
định là vi phạm cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong tố tụng dân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 187 Bộ luật
tố tụng dân sự 2004 thì phải hết thời hạn bảy này, kể từ ngày lập biên bản hòa
giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì
Thẩm phán chỉ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa
án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tuy
nhiên tại các quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 67 ngày 11/7/2012, số
70 ngày 12/7/2012, Thẩm phán ra ngay quyết định công nhận thuận tình ly
hôn chỉ cách ngày lập biên bản hòa giải thành 5 ngày, điều này là trái với quy
định của pháp luật, đồng thời xâm phạm đến quyền được thay đổi ý kiến của
các bên trong phiên hòa giải. [55] [56] [57]
2.2.7. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động
kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật
VKS nhân dân huyện Bố Trạch bảo vệ quyền con người trong tố tụng
dân sự thông qua hoạt động kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa
án có vi phạm pháp luật. Đây là quyền quan trọng mà pháp luật quy định cho
VKS, là một trong những cơ chế hữu hiệu nhất để VKS thực hiện chức năng,
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người. Bởi lẽ, quyền kháng nghị chỉ được VKS
nhân dân thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm
62
trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong khoảng thời gian từ
01/12/2011 đến 31/12/2016, VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã ban hành 15
kháng nghị đối với bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự, chiếm 1,7%
tổng số vụ án dân sự được giải quyết. Trong đó căn cứ kháng nghị chủ yếu là
vi phạm xuất phát từ khía cạnh chủ quan của Thấm phán giải quyết vụ vụ án
dân sự. Đơn cử như, một số trường hợp thẩm phán xác định thiếu người tham
gia tố tụng hoặc xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng, áp dụng pháp
luật chưa chính xác, đánh giá chứng cứ còn thiếu khách quan, toàn diện nên
quyết định giải quyết vụ án không phù hợp, dẫn đến tình trạng hủy, sửa bản
án. Cá biệt có trường hợp còn xác định không đúng quan hệ pháp luật tranh
chấp, sai thời hiệu khởi kiện hay thẩm quyền xét xử, không định giá giá trị tài
sản tranh chấp; chưa xem xét hết các yêu cầu của đương sự trong quá trình
giải quyết vụ án hoặc giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự; đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng. Thông qua việc thực hiện
quyền kháng nghị trong thời gian vừa qua, VKS nhân dân huyện Bố Trạch đã
đảm bảo quyền tham gia tố tụng, quyền về tài sản, quyền khởi kiện của các
chủ thể khi bị Tòa án xâm phạm. [55] [56] [57]
2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con người thông qua công tác kiểm
sát các vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch
những năm qua
2.3.1. Những thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân
Trong những năm qua (2012-2017) vấn đề bảo vệ quyền con người
thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKS nhân
dân huyện Bố Trạch ngày càng được chú trọng, các nội dung pháp luật quy
định về quyền của các chủ thể trong tố tụng dân sự - biểu hiện cụ thể của
quyền con người được bảo đảm ngày càng tốt hơn.
63
Trong công tác kiểm sát, VKSND huyện đã kiểm sát chặt chẽ 100%
các thông báo thụ lý vụ, việc, thông báo trả đơn khởi kiện và số vụ, việc thụ
lý của tòa án để rà soát, đối chiếu. VKSND huyện đã thực hiện kiểm sát viên
phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp nhận, nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên
tòa, phiên họp nhằm hạn chế những vi phạm về tố tụng và nắm chắc nội dung
vụ, việc, quan hệ tranh chấp, yêu cầu của đương sự để phục vụ cho công tác
xét xử.
Chính vì thế, tại các phiên tòa, phiên họp, kiểm sát viên không những
thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà còn thể hiện
được vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng dân sự, hành chính. Sau mỗi phiên tòa, phiên họp, kiểm sát viên
tham gia đều có báo cáo kết quả xét xử vụ án với lãnh đạo viện (về diễn biến,
kết quả kiểm sát) các trường hợp quan điểm xử lý của tòa án trái quan điểm
của kiểm sát viên để có được sự chỉ đạo hướng giải quyết.
Bên cạnh đó, VKSND huyện còn phối hợp với tòa án cùng cấp tổ chức
các phiên tòa rút kinh nghiệm về lĩnh vực dân sự, hành chính nhằm nâng cao
kỹ năng và trách nhiệm của kiểm sát viên. Qua đó, các đơn vị đã rút ra nhiều
kinh nghiệm để nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, hành
chính. Đặc biệt, VKSND tỉnh đã chọn nội dung “nâng cao chất lượng công
tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân - gia đình, hạn chế đến
mức thấp nhất án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan và tăng cường công tác kháng
nghị phúc thẩm ngang cấp” làm khâu đột phá trong công tác kiểm sát giải
quyết vụ, việc dân sự, hành chính và đã thu nhiều kết quả tích cực.
Do việc chỉ đạo kiểm sát chặt chẽ và nắm vững các quy định pháp luật
nên các vi phạm của tòa án, như: việc chậm gửi các thông báo thụ lý, bản án,
quyết định, chuyển giao hồ sơ cho VKSND; chậm đưa vụ án ra xét xử làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát và ảnh
64
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự… được VKSND huyện tổng
hợp, kiến nghị để khắc phục. Đáng ghi nhận, các kiến nghị của VKS huyện
Bố Trạch đều được các cơ quan tòa án tiếp thu và khắc phục kịp thời.
Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về tố tụng dân sự ngày càng được
hoàn thiện, bộ luật tố tụng dân sự 2014 có hiệu lực pháp luật đã tạo cơ chế
pháp lý cần thiết để đảm bảo quyền con người trong tố tụng dân sự. Đặc biệt,
vai trò của VKS nhân dân trong bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng được nâng
cao để đảm bảo tốt hơn quyền kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự,
thông qua đó bảo vệ tốt hơn quyền con người của các chủ thể trong tố tụng
dân sự. Theo đó, bộ luật tố tụng dân sự 2015 xác định VKS cũng là một chủ
thể quan trọng có vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt
động tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng. Theo Điều 46 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, VKS tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết
vụ việc dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, còn người tiến hành
tố tụng trong hệ thống VKS bao gồm viện trưởng, kiểm sát viên, kiểm tra
viên. Để thực hiện chức năng hiến định kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Qua hoạt động
này cho thấy, VKS đã kiểm sát chặt chẽ hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng
của Tòa án, hướng đến việc bảo vệ và bảo đảm quyền của đương sự và người
tham gia tố tụng khác trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Đặc biệt,
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định VKS tham gia phiên
tòa sơ thẩm đối với trường hợp Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Mặt khác, Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới về việc phát biểu ý kiến về đường lối
65
giải quyết vụ việc dân sự của VKS tại phiên tòa sơ thẩm và phiên họp sơ thẩm
giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 262 và điểm g khoản 1 Điều 369
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quy định này đảm bảo hoạt động xét xử
của Tòa án được diễn ra khách quan, công bằng, góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy, VKS tham gia phiên tòa, phiên họp
trong quá trình tố tụng dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng là hết sức cần thiết, một mặt đảm bảo cho hoạt động
xét xử của Tòa án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, mặt khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng (đặc biệt là đương sự).
Do vậy, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự là
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng
thời, thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, với nhiều quy định mới đã
tạo nên hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng dân sự. Từ đó, tạo tiền đề để tiếp tục hoàn thiện
cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố
tụng dân sự ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, thông qua việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng,
tham dự các cuộc họp, hội nghị, tập huấn liên quan đến bộ luật tố tụng dân sự
2015, nhận thức và thái độ của cán bộ kiểm sát về vấn đề bảo vệ quyền con
người và quyền công dân ngày càng được nâng cao để đáp ứng nhu cầu của
xã hội đối với vấn đề này. [57]
2.3.2. Những hạn chế, tồn đọng và nguyên nhân
Mặc dù vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua
hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKS nhân dân
huyện Bố Trạch ngày càng được nâng cao so với trước đây, tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, tồn đọng nhất định. Hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKS chủ yếu chỉ thực hiện thông qua
66
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, do đó, về cơ bản hoạt động của Kiểm sát viên
chỉ phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, một số
trường hợp cá biệt trong các vụ án, việc dân sự “có uẩn khúc” mà Thẩm phán
giải quyết cố tình giấu giếm vì mục đích cá nhân thì Kiểm sát viên khó có cơ
chế cần thiết để tiếp cận. Đồng thời, trong nhiều trường hợp hoạt động kiểm
sát của VKS chỉ mang tính “hình thức” nhằm hợp thức hóa cho Tòa án nhân
dân trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Đơn cử như trong năm 2015, Tòa án
nhân dân huyện Bố Trạch thụ lý đơn yêu cầu của người vợ về việc tuyên bố
chồng mình mất tích. Khi nghiên cứu, tiếp cận hồ sơ việc dân sự trên, Kiểm
sát viên được phân công nhận thấy các hồ sơ tài liệu đều đúng quy định của
pháp luật, do đó khi Tòa án ra quyết định Tuyên bố mất tích đối với người bị
yêu cầu thì Kiểm sát viên nhận thấy mọi việc đều theo đúng thủ tục, theo
đúng quy định của pháp luật do đó quá trình kiểm sát quyết định trên Kiểm
sát viên không phát định vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, ngay sau khi Tòa án giải
quyết cho người vợ ly hôn với người chồng mất tích nêu trên 2 ngày thì người
bị tuyên bố mất tích trở về và nộp đơn khiếu nại về việc quyết định liên quan
đến việc giải quyết ly hôn mà tòa án đã thực hiện với lý do mình đi nước
ngoài chứ không phải mất tích và người vợ hoàn toàn biết điều này. Điều này
đặt ra vấn đề là trong trường hợp này nội dung trong hồ sơ giải quyết việc dân
sự không đúng với thực tế khách quan nhưng Kiểm sát viên không có cơ chế
nào để phát hiện được vấn đề này.
Như vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự của VKS mặc dù ngày càng được chú trọng
và nâng cao, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội và thời
đại đặt ra. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau [55] [56]
[57]:
67
Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa trao cho VKS cơ chế tương xứng
để đảm bảo quyền con người bằng hoạt động nghiệp vụ của mình trong tố
tụng dân sự. Cụ thể:
Quy định về vai trò của VKS trong vấn đề liên quan đến thu thập chứng
cứ của Tòa án còn nặng về hình thức, chưa tạo được cơ chế đủ mạnh để VKS
thực hiện hoạt động kiểm sát thực sự hiệu quả. Khoản 3 Điều 58, Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 quy định về quyền yêu cầu của VKS đối với Tòa án về việc
xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tuy
nhiên, chính bộ luật tố tụng dân sự hiện hành lại không quy định về quyền
tham gia của kiểm sát viên trong một số trường hợp khi Tòa án thu thập
chứng cứ như lấy lời khai đương sự, lấy lời khai người làm chứng do đó gây
khó khăn cho VKS trong việc đảm bảo tối đa quyền yêu cầu của mình. Bởi lẽ
khi VKS yêu cầu thu thâp chứng cứ thông qua việc lấy lời khai người làm
chứng hoặc đương sự chủ yếu là trong trường hợp VKS có nghi ngờ hoặc cần
bổ sung thêm vấn đề còn thiếu để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, do đó,
nếu đại diện VKS không được trao quyền tham gia khi lấy lời khai sẽ gây khó
khăn trong việc kiểm sát tính hợp pháp của lời khai, bởi lẽ việc hợp thức hóa
lời khai bằng văn bản của Tòa án trong trường hợp này không phải là không
thể.
Đối với vấn đề kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, theo quy dịnh của pháp luật, khi thực hiện hoạt động này
nếu phát hiện vi phạm trong việc ban hành quyết định thì VKS có quyền kiến
nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc việc Thẩm phán không quyết
định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ( Điều 140
BLTTDS 2015). Thời hạn kiến nghị là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được quyết định này. Đồng thời Bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định trách
68
nhiệm của Chánh án phải xem xét, giải quyết kiến nghị trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày nhận được kiến nghị. Quy định trong bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 về kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời giữ nguyên quy định bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sủa đổi bổ
sung 2011. Tuy nhiên, thủ tục xem xét, ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, khoản 2 Điều 139 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định
Tòa án gửi quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
ngay sau khi ra quyết định cho VKS cùng cấp. Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 không có quy định vè thủ tục gửi văn bản không áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời cho VKS, Điều 133 chỉ quy định: nếu không chấp nhận yêu
cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người
yêu cầu. Như vậy, nếu Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì
VKS cùng cấp sẽ không thể kiểm sát được là việc không áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời đó của Tòa án là đúng hay không. Do đó, VKS khó có thể
thực hiện được quyền kiến nghị về việc Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo Điều 140 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Do vậy,
để đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự,
cần thiết kế những quy định để tạo cơ chế kiểm soát quyền lực thực thi các
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm tránh sự lạm dụng của chủ thể tiến hành và
nâng cáo hiệu quả thực thi các biện pháp khẩn cấp tạm thời trên thực tế,
chẳng hạn: cơ chế kiểm sát chặt c
hẽ hơn từ phía VKS trong toàn bộ quá trình từ đề nghị áp dụng đến việc ra
quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ thể:
Để bảo đảm cho VKS nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một
cách hiệu quả nhằm đảm bảo tính minh bạch, khách quan của việc giải quyết
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì Bộ luật tố tụng dân sự nên
69
bổ sung quy định về việc thông báo bằng văn bản cho VKS biết về việc
không ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Đối với nội dung về sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa, theo quy
định của Luật tổ chức VKS nhân dân 2004, sửa đổi bổ sung 2011 thì trong
trường hợp kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục
tham gia phiên tòa xét xử mà không có kiểm sát viên dự khuyết để thay thế
thì hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (khoản 2 Điều 207), đối với
phiên họp giải quyết việc dân sự nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn
phiên họp (khoản 2 Điều 313). Tuy nhiên, tại luật tố tụng dân sự 2015 quy
định rõ nếu kiểm sát viên vắng mặt hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử, không
hoãn phiên tòa (Điều 232) hoặc trong phiên họp giải quyết việc dân sự nếu
kiểm sát viên vắng mặt vẫn tiến hành phiên họp ( Điều 367). Quy định này
mặc dù có sự sửa đổi so với bộ luật trước đó song xem xét dưới góc độ bảo vệ
quyền của các đương sự thông qua hoạt động kiểm sát phiên tòa, phiên họp
giải quyết vụ việc dân sự thì quy định nêu trên lại giới hạn quyền tham gia
của đại diện VKS tại phiên tòa, phiên họp. Bởi lẽ, trong quy định trên không
đề cập đến trường hợp có thể thay thế kiểm sát viên và cũng không quy định
về trường hợp ngoại lệ về sự kiện bất khả kháng. Theo quan điểm của cá nhân
người viết quy định về sự vắng mặt của kiểm sát viên trong bộ luật tố tụng
dân sự hiện hành tương đối cứng nhắc và ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng
bảo đảm việc tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành phiên tòa, phiên
họp của người tiến hành tố tụng.
Đối với quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án tại khoản 2 Điều
220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì VKS nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án
trong thời hạn 15 ngày, đối với hồ sơ việc dân sự thời hạn này là 07 ngày (
khoản 3 điều 366). Theo quan điểm của cá nhân người viết khoảng thời hạn
luật định nêu trên chưa đủ độ dài thời gian cần thiết để có thể nghiên cứu,
70
xem xét hồ sơ một cách thận trọng, đầy đủ, đặc biệt là những hồ sơ với số bút
lục nhiều và nhiều tài liệu phức tạp, do đó dẫn đến thực trạng nghiên cứu còn
hời hợt, “cưỡi ngựa xem hoa” do đó đôi khi chưa bảo đảm hết quyền và nghĩa
vụ của chủ thể trong vụ việc dân sự nếu bị xâm phạm. Mặt khác đặt trong mối
quan hệ so sánh với thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu
cầu theo quy định của pháp luật thì thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS tương
đối ngắn. Đặc biệt, trong quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự,
bộ luật tố tụng dân sự phân chia ra thành hai nhóm thời hạn, trong đó thời hạn
giải quyết tranh chấp về dân sự và hôn nhân gia đình là 04 tháng và thời hạn
giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại và tranh chấp lao động là 02
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án (khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự),
trong khi đó, thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS lại không quy định theo
hướng chia nhóm như trên mà áp dụng 15 ngày cho tất cả các trường hợp. Do
đó, căn cứ theo phương thức xác định thời hạn như trên có thể thấy bộ luật tố
tụng dân sự hiện hành chưa thực sự quan tâm đến vai trò của VKS trong hoạt
động bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự.
Thứ hai, bên cạnh một số hạn chế của quy định của pháp luật, nguyên
nhân dẫn đến vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát
việc giải quyết vụ việc dân sự vẫn chưa thực sự hiệu quả như mục tiêu đặt ra
là do một phần xuất phát từ nhận thức của một số cán bộ kiểm sát về vấn đề
bảo vệ quyền con người.Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta
nói chung và tại đơn vị VKS nhân dân huyện Bố Trạch hiện nay còn nhiều
hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp
pháp của công dân.Trong một số trường hợp, do không chú trọng đến hoạt
động kiểm sát vụ việc dân sự một cách tương xứng mà chủ yếu tập trung vào
các hoạt động nghiệp vụ khác nên kiểm sát viên thường “lơ là” đối với hoạt
động này, do đó, vấn đề chú trọng bảo vệ nhân quyền cũng trở nên mờ nhạt.
71
Mặt khác, một số trường hợp do nhận thức, hiểu biết về pháp luật của kiểm
sát viên còn hạn chế nên trong những vụ việc dân sự phức tạp, Kiểm sát viên
thường phó mặc hoàn toàn việc giải quyết cho Thẩm phán và bản thân thậm
chí còn trở thành người “tham khảo” quan điểm giải quyết của Thẩm phán.
Chính từ những nguyên nhân chủ quan nêu trên, vô hình chung hoạt động
kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự- vốn là cơ chế quan trọng để bảo vệ
quyền con người của các bên trong quan hệ tố tụng dân sự bị triệt tiêu.
Thứ ba, một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm
quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ chính sự hạn chế về nhận
thức của các chủ thể bị xâm phạm quyền con người. Do đó, thực tế ngay
chính những người bị xâm phạm nhân quyền lại không biết, không hiểu nên
không hề “lên tiếng” khi bị ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Đây cũng
chính là một trong những rào cản không hề nhỏ trong quá trình kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự. Sự thiếu hiểu biết của các đương sự, người
tham gia tố tụng xuất phát từ hoạt động tuyên truyền phổ biến tại địa phương
trong vấn đề này còn kém hiệu quả,chưa thực sự cung cấp một cách đầy đủ
những nội dung cần thiết về nhận thức cho người dân.
Bên cạnh đó, những hạn chế nêu trên còn một phần xuất phát từ công
tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Viện. Hiện nay, tại VKS nhân
dân huyện Bố Trạch còn bố trí KSV công tác theo hướng kiêm nhiệm, chưa
phân công chuyên trách KSV dân sự do đó điều này cũng là một trong những
nguyên nhân khiến KSV khi thực thi nhiệm vụ có phần chú trọng việc kiểm
sát các vụ án hình sự hơn so với vụ việc dân sự. Ngoài ra, cá biệt một số KSV
trình độ pháp luật còn hạn chế, nhận thức pháp luật chưa thực sự sâu sắc nên
quá trình công tác còn rập khuôn, hình thức. Bên cạnh đó, công tác tổ chức
cán bộ, chế độ lương, thưởng, vật chất, trang thiết bị… cũng chưa thực sự
72
tương xứng cũng gây nên khó khăn phần nào cho công tác đấu tranh, bảo vệ
quyền con người trong tố tụng dân sự.
Tóm tắt chương 2
Như vậy, có thể thấy, từ khi bộ luật tố tụng dân sự 2015 được thông
qua và có hiệu lực thì vấn đề nhân quyền được bảo đảm ngày càng hiệu quả
hơn thông qua hoạt động kiểm sát vụ việc dân sự của VKS.Theo đó, các
quyền quan trọng của người tham gia tố tụng đều được bảo đảm. Những năm
qua, VKSND huyện Bố Trạch, Quảng Bình đã đạt được nhiều thành tựu trong
công tác kiểm sát hoạt động tố tụng dân sự nói chung, góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, góp phần đảm bảo trật tự, an ninh xã hội, xây
dựng xã hội ngày càng ấm no, phồn vinh, hạnh phúc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những hạn chế, tồn đọng, phần có nguyên
nhân khách quan từ những thiếu hụt, vướng mắc trong hệ thống pháp luật,
phần có nguyên nhân từ hoạt động áp dụng pháp luật của VKS, Tòa án và
năng lực sử dụng pháp luật của chính đương sự trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự. Điều này đặt ra vấn đề phải có những thay đổi tương ứng khi
tăng cường vai trò của công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nhằm
mục đích bảo vệ quyền con người ở huyện Bố Trạch trong giai đoạn hiện nay.
73
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
3.1. Quan điểm tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát
các vụ việc dân sự ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay
3.1.1. Tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát các vụ việc
dân sự cần được thực hiện trên cơ sở hiểu rõ chức năng kiểm sát trong tố
tụng dân sự theo tinh thần Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2014, Luật Tố tụng dân sự 2015
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, thì
viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. VKS là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật
tố tụng dân sự quy đinh về sự tham gia của VKS trong các vụ án dân sự tại
phiên Tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Sự tham gia của VKS đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27 của
Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện
hành, VKSND không thực hành quyền công tố, không khởi tố vụ án dân sự,
không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND
(cụ thể: thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết
74
định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu giám định…), mà
chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế
phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa
TAND và VKSND.
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của VKS
trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau:
VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật,VKS tham gia
các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này,VKS
tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,VKS nhân
dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
Điều này.Cụ thể, vai trò của VKS nhân dân được quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 bao gồm:Việc tham gia phiên tòa, phiên họp: VKS tham gia
các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi;Việc phát biểu ý kiến của VKS nhân dân tại phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm: Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp
xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của
75
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. (Điều 262
Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
3.1.2. Phồi hợp với Tòa án nhân dân thực hiện đầy đủ, kịp thời chức năng
kiểm sát các vụ việc dân sự
Để nâng cao trách nhiệm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Toà
án và VKS và phù hợp với pháp luật khác, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung
các nội dung như sau:
Quy định rõ nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và VKS nhân dân trong tố
tụng dân sự:
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
VKS có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ngoài quy định Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ
gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
doanh, của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ, BLTTDS năm 2015
đã bổ sung trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng phải bảo vệ người chưa thành niên, giữ bí cá nhân, bí mật mật gia đình
của đương sự
Quy định rõ về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người tiến
hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi
76
trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan trực
tiếp quản lý người tiến hành tố tụng đó phải bồi thường cho người bị thiệt
hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
3.1.3. Tăng cường kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự theo nguyên tắc “Tòa
án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có
điều luật để áp dụng” (khoản 2 Điều 4 BLTTDS)
Theo Hiến pháp năm 2013 thì các quyền con người, quyền công dân về
dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật; đồng thời Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 đã quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện, mọi yêu cầu của cơ quan, tổ chức,
cá nhân về dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc của người khác (theo quy định của pháp luật) thì Tòa án
phải có trách nhiệm giải quyết, không được từ chối; để tăng cường các biện
pháp bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân Bộ luật dân sự năm 2015
đã quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do
chưa có điều luật để áp dụng. Vì vậy, để cụ thể hóa với Hiến pháp, đồng bộ
với bộ luật và luật khác nên việc bổ sung quy định “Tòa án không được từ
chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp
dụng” trong BLTTDS năm 2015 là rất cần thiết.
Tuy nhiên, để tránh việc giải quyết tràn lan, không phải mọi khởi kiện,
mọi yêu cầu nào của cơ quan, tổ chức, cá nhân Tòa án cũng thụ lý giải
quyết, Bộ luật tố tụng dân sự đã giới hạn vụ việc chưa có điều luật để áp
dụng mà Tòa án phải thụ lý giải quyết là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc đó phát sinh và cơ
quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp
dụng. Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu đối với
77
quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các
quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản
và tự chịu trách nhiệm (gọi chung là quan hệ dân sự); còn các tranh chấp,
các yêu cầu khác không phải là dân sự thì Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với các tranh chấp, các yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết mà chưa
có điều luật quy định thì khi giải quyết Tòa án phải căn cứ vào nguyên tắc sau
đây:
+ Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy
định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
+ Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và
không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định tương tự pháp luật.
+ Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
3.1.4. Nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát khi tham gia các
phiên tòa, phiên họp
Trong tố tụng dân sự, VKS là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp
luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật. Để phù hợp với tính chất dân sự, BLTTDS năm 2015 cơ bản giữ
nguyên những nội dung BLTTDS năm 2004, đồng thời đã sửa đổi, bổ sung
một số nội dung mới. Cụ thể như sau:
Những trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa, phiên họp được thực
hiện như sau:
- Đối với việc dân sự: Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các phiên
78
họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm giải quyết việc dân sự
Tại phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự nếu Kiểm sát viên vắng
mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp;
Tại phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự nếu Kiểm sát viên
vắng mặt mà không có kháng nghị của VKS thì Tòa án vẫn tiến hành phiên
họp, nếu có kháng nghị của VKS thì hoãn phiên họp.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm giải quyết việc dân sự phải có
mặt của Kiểm sát viên, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì hoãn phiên họp.
- Đối với vụ án dân sự:
Phiên tòa sơ thẩm phải có Kiểm sát viên tham gia đối với những vụ án:
* Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ;
* Đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở;
* Đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi;
* Những vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng.
Tại phiên tòa sơ thẩm thuộc trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia
nhưng vắng mặt Kiểm sát viên thì không phải là căn cứ để hoãn phiên tòa.
Phiên tòa phúc thẩm phải có Kiểm sát viên tham gia nếu Kiểm sát
viên vắng mặt mà vụ án không có kháng nghị của VKS thì Tòa án vẫn tiến
hành phiên tòa, nếu có kháng nghị của VKS thì hoãn phiên tòa.
Phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án dân sự phải có mặt của
Kiểm sát viên, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì hoãn phiên họp.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp:
Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng cho nên đương sự không có
quyền tranh luận với phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa; vì vậy
79
BLTTDS năm 2015 quy định sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu
tranh luận và đối đáp xong thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS.
Nội dung phát biểu của Kiểm sát viên: ngoài nội dung quy định tại
Điều 234 của BLTTDS năm 2004 là tại phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án; BLTTDS năm 2015 đã bổ sung tại phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên
phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án.
Về thời điểm gửi văn bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên:
BLTTDS năm 2015 quy định ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên
phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
3.2. Giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát
các vụ việc dân sự ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình hiện nay
3.2.1. Làm sâu sắc thêm nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên về những
điểm mới về chức năng kiểm sát theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 phù hợp với Hiến pháp 2013 và nội
dung mới của các luật có liên quan
Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020”, những năm qua, VKS nhân dân (KSND) tỉnh
Quảng Bình đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự bảo đảm đúng pháp luật, góp phần giữ
vững kỷ cương pháp luật, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
tỉnh.
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự ở huyện
Bố Trạch nói riêng, Viện KSND tỉnh cần tăng cường quán triệt các văn bản
của Đảng, của ngành về cải cách tư pháp, các đạo luật mới về tư pháp, nhất là
80
Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tố tụng hành
chính, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình… tới cán bộ, kiểm sát viên.
Cử cán bộ, kiểm sát viên tham gia các khóa học đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên sâu do Viện KSND Tối cao tổ chức; đồng thời thường xuyên tổ chức
tập huấn, chú trọng công tác đào tạo tại chỗ như thông qua các thông báo rút
kinh nghiệm, xây dựng chuyên đề, tổ chức tọa đàm, tổ chức cuộc thi “Chúng
tôi là kiểm sát viên”… qua đó đã giúp cán bộ, kiểm sát viên trong ngành nắm
chắc các quy định của pháp luật để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn.
Quá trình nghiên cứu, thực hiện có quy định nào không rõ hoặc còn
vướng mắc sẽ xin ý kiến ngay cấp trên và thực hiện tốt các yêu cầu cải cách
tư pháp nhằm đạt, vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp trong
lĩnh vực dân sự.
3.2.2. Nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia giải
quyết vụ việc dân sự.
Đối với kiểm sát viên phải đề cao vai trò, trách nhiệm tại phiên tòa,
phiên họp giải quyết án và xác định kháng nghị là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự,
hành chính. Chính vì thế, kiểm sát viên cần tăng cường kháng nghị ngang cấp
với những giải pháp kiểm sát chặt chẽ các bản án, quyết định của tòa án.
Để nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa dân sự sơ thẩm, VKSND huyện Bố Trạch cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Nhóm giải pháp về nghiệp vụ.
Thực hiện tốt công tác chuẩn bị tham gia phiên tòa:
- Công tác kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa dân sự sơ thẩm có
đạt được mục đích đảm bảo Tòa án xét xử vụ án có căn cứ, đúng pháp luật
hay không phụ thuộc vào việc Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thụ lý, giải
81
quyết vụ án phải trực tiếp nghiên cứu hồ sơ. Trường hợp giao cho Kiểm tra
viên nghiên cứu hồ sơ thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phải trực tiếp
kiểm tra, nghiên cứu lại toàn bộ nội dung vụ án, đánh giá chính xác, khách
quan chứng cứ và các tình tiết liên quan nhằm nắm chắc hồ sơ vụ án và trực
tiếp chuẩn bị nội dung các văn bản tố tụng của VKS. Việc nghiên cứu hồ sơ
vụ án dân sự là hành vi tố tụng do Kiểm sát viên được cử tham gia phiên tòa
thực hiện trong thời hạn Bộ luật TTDS quy định (15 ngày) để nắm vững hồ sơ
vụ án, xem xét đánh giá việc thẩm phán áp dụng, thực hiện các thủ tục tố
tụng, thu thập chứng cứ, tài liệu liên quan vụ án. Do tính chất, mục đích của
từng giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm khác nhau nên yêu
cầu nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị tham gia phiên Tòa cử Kiểm sát viên
ở từng giai đoạn cũng khác nhau.
- Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, phiên tòa sơ thẩm là sự mở
đầu của quá trình Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai sau khi đã thu thập
đầy đủ chứng cứ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc qua hòa
giải các đương sự không thể tự giải quyết, thỏa thuận được với nhau. Hồ sơ
kiểm sát phải cô đọng kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án do Tòa án lập, những
văn bản tố tụng do VKS ban hành. Việc nghiên cứu hồ sơ có ý nghĩa quan
trọng, quyết định chất lượng hiệu quả tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên.
Vì vậy, Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
vụ án, phải đặt ra các câu hỏi và tìm tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án để trả
lời. Người khởi kiện yêu cầu vấn đề gì, quan hệ pháp luật từ đó phát sinh
tranh chấp là quan hệ gì? Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có
đúng không? Tư cách của nguyên đơn, người khởi kiện, bị đơn, bị kiện trong
vụ án, các yêu cầu của đương sự, các tình tiết khác liên quan đến vụ án như
thế nào…? Bị đơn, bị kiện có yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập hay không? Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát
82
viên phải nắm chắc nội dung vụ án và quan điểm giải quyết vụ án. Phát biểu
của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là quan điểm của VKS về việc tuân
theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng,
bảo đảm việc xét xử có căn cứ, đúng pháp luật.
- Tập trung kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thụ lý vụ án,
việc thu thập chứng cứ, tài liệu; xác định tính hợp pháp của các tài liệu, chứng
cứ trong hồ sơ vụ án do Tòa án lập, việc thực hiện các thủ tục, hành vi, quyết
định tố tụng của thẩm phán… Sau đó tổng hợp toàn bộ các chứng cứ, tài liệu
có trong hồ sơ xem đã phản ánh nguồn gốc tài sản tranh chấp, yêu cầu của
nguyên đơn, phản tố của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Đặc
biệt là phải hết sức chú ý các thủ tục tố tụng như thời hiệu khởi kiện, trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ, yêu cầu giám định, định giá tài sản, việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời… đều phải được kiểm
tra, kết luận có vi phạm hay không?
Tiêu chuẩn để xác định chứng cứ đã đầy đủ là chứng cứ đó đã xác định
được đầy đủ các vấn đề cần phải chứng minh, chứng cứ đó đã đủ cơ sở bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng như thế nào?
Chứng cứ hợp pháp là những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thu
thập theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự (sửa
đổi). Để khẳng định được chứng cứ có hợp pháp hay không, Kiểm sát viên
phải kiểm tra từng loại nguồn chứng cứ và đủ cơ sở khẳng định nguồn chứng
cứ đó là hợp pháp; đồng thời, kiểm tra thủ tục đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức giao nộp chứng cứ cho Tòa án để xác định chứng cứ đó là hợp pháp.
- Trên cơ sở nghiên cứu, kiểm tra nắm chắc nội dung vụ án, Kiểm sát
viên thực hiện các thao tác nghiệp vụ tiếp theo trong quá trình chuẩn bị tham
gia phiên tòa. Chuẩn bị nội dung hỏi, dự kiến và giải quyết các tình huống
phát sinh tại phiên tòa. Dự thảo phát biểu về việc tuân theo pháp luật của các
83
chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại phiên tòa; việc xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp của vụ án. Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo VKS về quan điểm giải quyết vụ án là nhằm tăng cường trách nhiệm
của Kiểm sát viên trong việc nghiên cứu hồ sơ; định hướng phát hiện vi phạm
của thẩm phán, Hội đồng xét xử để đối chiếu với nội dung tuyên án của Hội
đồng xét xử.
Nâng cao kỹ năng hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Kiểm sát thực hiện thủ tục tại phiên tòa: Kiểm sát viên phải kiểm sát
việc thực hiện thời hạn mở phiên tòa; tư cách tham gia tố tụng của các thành
viên Hội đồng xét xử; sự có mặt của những người tham gia tố tụng khác; theo
dõi việc kiểm tra tên, tuổi, địa chỉ của các đương sự; việc hỏi nguyên đơn,
người khởi kiện có thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu trước khi Hội đồng xét
xử làm việc.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thực hiện quyền hạn, trách
nhiệm của thẩm phán, Hội đồng xét xử: Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc
thực hiện thẩm quyền thụ lý vụ án; về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp;
xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng;
giải quyết các vấn đề thay đổi, bổ sung hoặc rút một phần, toàn bộ yêu cầu
khởi kiện; thủ tục thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn có thể làm thay đổi địa vị
tố tụng của họ trong vụ án.
- Việc xác minh, thu thập chứng cứ vụ án dân sự; thủ tục, nội dung hòa
giải trong vụ án dân sự; việc áp dụng, thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời; việc giải quyết các trường hợp phải thay đổi hoặc từ
chối tiến hành tố tụng; việc bảo đảm nguyên tắc xét xử; việc thực hiện các
quyền thảo luận và quyết định về các vấn đề đương sự yêu cầu; việc kiểm sát
viên đề nghị; giải quyết sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn, người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn.
84
- Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Tập
trung kiểm sát việc đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ
được quy định tại các Điều 58, 59, 60, 61 Bộ luật TTDS; việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng khác được quy định tại các Điều 63, 64, 65,
66, 67, 68, 69 và Điều 70 Bộ luật TTDS.
- Kiểm sát viên tham gia hỏi: Trước khi tham gia hỏi, Kiểm sát viên
lắng nghe các câu hỏi và nội dung trả lời, phân tích thông tin trong câu hỏi và
câu trả lời của đương sự để xem xét vấn đề của vụ án đã được Hội đồng xét
xử hỏi làm rõ hay chưa? Có chứng cứ mới phát sinh không? Theo quy định
của Bộ luật TTDS, Kiểm sát viên có quyền hỏi về tất cả các vấn đề mà kiểm
sát viên quan tâm nhưng chủ yếu tập trung hỏi những nội dung về việc tuân
theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng. Việc hỏi
phải xét thấy thật cần thiết và gắn với nội dung phát biểu của Kiểm sát viên
tại phiên tòa, không lặp lại những câu hỏi Hội đồng xét xử đã hỏi hoặc những
vấn đề liên quan đến nội dung vụ án đã được những người tham gia tố tụng
giải thích rõ, trả lời đầy đủ.
- Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Kiểm sát viên cần tổng hợp
đầy đủ kết quả hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên và trả lời của đương
sự, nội dung tranh luận đối đáp của những người tham gia tố tụng (Điều 232,
233 Bộ luật TTDS), qua đó, Kiểm sát viên rút ra kết luận quan hệ tranh chấp
đã được Hội đồng xét xử làm rõ chưa? Việc thu thập chứng cứ, chứng minh
đầy đủ chưa? Việc đánh giá chứng cứ có khách quan, toàn diện theo đúng
Điều 96 Bộ luật TTDS không? Có định hướng có lợi cho một bên đương sự
nào không? Có nội dung nào mới xuất hiện? Có vấn đề nào mâu thuẫn với
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án? Các yêu cầu của nguyên đơn, ý kiến của bị
đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có căn cứ không? Nếu
xuất hiện một trong những vấn đề trên và có dấu hiệu vi phạm thì Kiểm sát
85
viên phải xem xét, xác định vi phạm, căn cứ pháp luật và mức độ vi phạm để
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử. Kiểm sát
viên cũng có thể kiểm tra tính có căn cứ của các tài liệu trong hồ sơ (Điều 228
Bộ luật TTDS) và có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những
vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định so với tình
tiết khác của vụ án (khoản 2 Điều 230 Bộ luật TTDS). Những vấn đề này nếu
có căn cứ để xác định có vi phạm pháp luật thì Kiểm sát viên phải bổ sung kịp
thời vào nội dung phát biểu tại phiên tòa. Trường hợp qua nội dung hỏi và
tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát hiện đương sự vi phạm pháp luật
nội dung liên quan đến tranh chấp dân sự nhưng Thẩm phán, Hội đồng xét xử
chưa làm rõ, thì Kiểm sát viên phải phát biểu ý kiến đề nghị thẩm phán, Hội
đồng xét xử thu thập đầy đủ chứng cứ, đánh giá chứng cứ một cách khách
quan, toàn diện nhằm làm rõ vi phạm, lỗi của đương sự trong quan hệ tranh
chấp.
- Nâng cao chất lượng bài phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa
Văn bản phát biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa là một văn bản pháp lý
thể hiện quan điểm của VKS về toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Nội dung
văn bản là một trong những căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi
nghị án nhằm đưa ra quyết định giải quyết vụ án được chính xác, khách quan,
đúng pháp luật. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng văn bản phát biểu ý kiến của
KSV tại phiên tòa tùy thuộc vào tính chất của từng cấp xét xử. Trước hết, khi
xây dựng văn bản phát biểu KSV phải nắm chắc các quy định của BLTTDS
quy định về vấn đề này và đã được hướng dẫn cụ thể, chi tiết tại Thông tư liên
tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND
tối cao và Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa VKSND và
Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của BLTTDS (sau đây
viết tắt là Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT):
86
Điều 262 BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nội dung quy định về
phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm như sau: "Sau khi những
người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình
giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án và phát biểu ư kiến về việc giải quyết vụ án".
Điều 28, 30, 31 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT hướng dẫn cụ thể
nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm; phiên tòa, phiên
họp phúc thẩm; phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Với các căn cứ, quy định nêu trên đã tạo ra một hành lang pháp lý để
VKS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được pháp luật quy định khi
thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự nói chung và
công tác kiểm sát xét xử vụ án dân sự nói riêng.
Để thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của VKS trong việc kiểm
sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, đòi hỏi KSV, công chức VKS các
cấp phải luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, không ngừng phấn đấu, học tập để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp. Nắm chắc
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự (luật hình thức) và luật nội dung,
bao gồm các quy định tại Bộ luật Dân sự và các quy định pháp luật thuộc các
lĩnh vực khác có liên quan đến việc giải quyết các mối quan hệ tranh chấp của
các vụ án dân sự do Tòa án thụ lý giải quyết. Nắm chắc được các nội dung
này sẽ là một công cụ đắc lực giúp cho KSV thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền
hạn được phân công. Bên cạnh đó, việc tích lũy, đúc rút những kinh nghiệm,
rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của KSV,
công chức cũng đóng một vai trò không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của
công tác kiểm sát.
87
Để thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, đặc
biệt là nâng cao chất lượng văn bản phát biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa,
VKS các cấp phải không ngừng quan tâm, chú trọng tới việc nâng cao vị trí,
vai trò, trách nhiệm của KSV khi tham gia phiên tòa, bảo đảm nắm chắc toàn
bộ nội dung vụ án để có đề xuất quan điểm giải quyết vụ án đảm bảo đúng
quy định của pháp luật; nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, bản lĩnh nghiệp vụ
vững vàng...sẽ bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự của ngành Kiểm sát sẽ được nâng lên, khẳng định được vị
thế của ngành đối với chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định trong tố
tụng dân sự, đó là: Việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án kịp thời,
đúng pháp luật. Trong đó hoạt động kiểm sát xét xử với trọng tâm nâng cao
chất lượng văn bản phát biểu ý kiến của KSV tại các phiên tòa đóng một vai
trò quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát.
Kiểm sát việc tuyên án và biên bản phiên tòa.
- Điều 239 Bộ luật TTDS quy định khi tuyên án mọi người trong phòng
xét xử phải đứng dậy, trừ trường hợp đăc biệt được phép chủ tọa phiên tòa.
Do đó khi chủ tọa phiên tòa tuyên án, Kiểm sát viên phải đứng dậy để nghe
tuyên án. Đồng thời phải thực hiện chức năng Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật nên cần cân nhắc biện pháp phù hợp để ghi nhận những ý chính của bản
án, quyết định được tuyên để có căn cứ so sánh, đối chiếu với diễn biến phiên
tòa, quan điểm đề xuất đã báo cáo lãnh đạo đơn vị.
Nghe Hội đồng xét xử tuyên bản án, Kiểm sát viên cần chú ý phần nội
dung phân tích, nhận định về quan hệ tranh chấp, đánh giá chứng cứ, tài liệu
trong hồ sơ, lời khai tại phiên tòa, phần quyết định của bản án, chấp nhận hay
bác toàn bộ, một phần yêu cầu của nguyên đơn, trường hợp bị đơn phản tố có
được chấp nhận không, nếu chấp nhận thì buộc nguyên đơn thực hiện nghĩa
vụ gì.
88
- Kiểm sát biên bản phiên tòa:
Khoản 3 Điều 211 Bộ luật TTDS quy định: Kiểm sát viên được xem
biên bản phiên tòa ngay sau khi kết thúc phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi,
bổ sung vào biên bản và ký xác nhận. Do đó khi phát hiện những sai lệch
trong biên bản phiên tòa thì Kiểm sát viên phải yêu cầu thư ký phiên tòa sửa
đổi, bổ sung theo quy định của Bộ luật TTDS.
Báo cáo kết quả phiên tòa: Sau phiên tòa, Kiểm sát viên phải báo cáo
với lãnh đạo đơn vị các nội dung cơ bản là: sơ bộ diễn biến phiên tòa, những
tình huống phát sinh so với dự kiến trước phiên tòa và xử lý của kiểm sát đối
với tình huống xẩy ra; các kiến nghị đối với Hội đồng xét xử được châp nhận,
không được chấp nhận. Nội dung tuyên án của Hội đồng xét xử, có nội dung
nào không phù hợp với báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên với lãnh đạo đơn vị
trước phiên tòa.
Đối với phiên tòa rút kinh nghiệm cần lưu ý:
Sau phiên tòa, VKS tổ chức rút kinh nghiệm đối với Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa; cán bộ, Kiểm sát viên tham dự phiên tòa. Nội dung rút
kinh nghiệm gồm:
- Việc nghiên cứu hồ sơ, lập hồ sơ kiểm sát, chuẩn bị tham gia phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm; về tác phong, bản lĩnh nghiệp vụ của Kiểm sát viên
tại phiên tòa.
- Nhận xét, đánh giá xem Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ quyền hạn,
trách nhiệm của VKS tại phiên tòa hay chưa? Phát hiện được đầy đủ, chính
xác các vi phạm và kiến nghị HĐXX khắc phục chưa? Rút kinh nghiệm về
nhận thức pháp luật, kỹ năng áp dụng trong việc phân tích đánh giá vi phạm,
về việc giải quyết vụ án.
89
- Việc quán triệt và vận dụng ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trong
quá trình kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa, kiến nghị xử lý vi phạm,
về việc thay đổi, bổ sung quan điểm giải quyết vụ án như thế nào?
- Rút kinh nghiệm về kết quả xét xử vụ án của Hội đồng xét xử và trách
nhiệm của VKS.
Nhóm giải pháp về quản lý chỉ đạo, điều hành.
Thứ nhất: Tăng cường công tác cán bộ. Cần bố trí hợp lý Kiểm sát
viên, cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự đáp ứng yêu
cầu đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng; tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến
thức nghiệp vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên và có chính sách khuyến khích,
động viên để cán bộ, Kiểm sát viên yên tâm với nhiệm vụ mà lãnh đạo đơn vị
đã phân công.
Thứ hai: Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tại các đơn vị.
Lãnh đạo viên chú trọng quan tâm bố trí Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát
án dân sự theo hướng chuyên trách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để Kiểm sát
viên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực giải quyết án dân sự.
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc tiến độ thực hiện nhiệm vụ của cán
bộ, Kiểm sát viên. Đình kỳ 6 tháng, năm lãnh đạo viện phụ trách tiến hành
kiểm tra chất lượng xây dựng hồ sơ kiểm sát, chất lượng nghiên cứu, báo cáo
tham mưu đề xuất đường lối giải quyết; khả năng phát hiện vi phạm, tồn tại
của Tòa án… của cán bộ, Kiểm sát viên để nhận xét, đánh giá, rút kinh
nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng nghiệp vụ.
Thứ ba: Đẩy mạnh công tác góp ý, xây dựng pháp luật. Trong quá
trình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự cần thực hiện
tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những bất cập, vướng mắc phát sinh từ
thực tiễn để kiến nghị đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng
dẫn sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự./.
90
3.2.3. Tăng cường công tác phối kết hợp giữa các cấp Kiểm sát, giữa hai
ngành Toà án và Viện kiểm sát cũng như với các cơ quan hữu quan trong
quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự
Tăng cường công tác phối kết hợp giữa các cấp Kiểm sát, giữa hai
ngành Toà án và VKS cũng như với các cơ quan hữu quan trong quá trình giải
quyết các vụ, việc dân sự nhằm nâng cao chất lượng hoạt động rút kinh
nghiệm và cần phối hợp chặt chẽ với tòa án cùng cấp trong giải quyết vụ việc
dân sự.
Phòng nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh phải nâng cao chất lượng thông
báo rút kinh nghiệm và tăng cường hướng dẫn nghiệp vụ cho VKSND cấp
huyện, trong đó có huyện Bố Trạch. Trong đó, quan tâm rèn luyện kỹ năng
nghiên cứu hồ sơ; kỹ năng tham gia phiên tòa thông qua phiên tòa rút kinh
nghiệm, hội nghị chuyên đề, tọa đàm. Đồng thời, gắn trách nhiệm của kiểm
sát viên được phân công phụ trách địa bàn và thực hiện tốt phương châm
hướng về cơ sở theo chỉ đạo của ngành.
Bên cạnh đó, kiểm sát viên cần phối hợp chặt chẽ với tòa án cùng cấp
trong giải quyết án, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ bị cải sửa, hủy án do vi
phạm thủ tục tố tụng hoặc đường lối giải quyết không đúng. Kiểm sát viên
phải kiên quyết kiến nghị các vi phạm sau khi trao đổi, yêu cầu mà thẩm phán
vẫn chậm khắc phục. VKSND tỉnh nên tranh thủ từ nguồn kinh phí hỗ trợ của
địa phương, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh để mời chuyên gia đầu ngành
VKSND Tối cao thỉnh giảng chuyên sâu về kỹ năng nghiệp vụ.
Phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm, bước đầu,
mỗi đơn vị VKS cấp huyện tổ chức được từ 2-3 phiên tòa sơ thẩm. Kế hoạch
tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm cần cụ thể, chi tiết như: Chọn phiên tòa
điển hình (Ví dụ loại tranh chấp khá phổ biến, nhiều đương sự và đa dạng
người tham gia tố tụng…); chuẩn bị đề cương hỏi đương sự, người tham gia
91
tố tụng khác; dự kiến tình huống tố tụng và xử lý tình huống tại phiên tòa; bản
phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự;
sau mỗi phiên tòa tổ chức rút kinh nghiệm trong đơn vị.
Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-VPT1 ngày 17/5/2012
của Viện trưởng VKS nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm dân sự, hành chính; xác định công tác kháng nghị là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
Phân công cán bộ, Kiểm sát viên mở sổ theo dõi, lập phiếu kiểm sát
đầy đủ bản án, quyết định của Tòa án; khi nhận được bản án, quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nghiên cứu và có quan điểm xử lý đối với
bản án, quyết định có vi phạm; phát hiện có vi phạm pháp luật để báo
cáo lãnh đạo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy
định.
Ngoài ra, Đơn vị tăng cường sự phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới,
giữa các đơn vị trong tỉnh, giữa VKS và Tòa án cùng cấp nhằm thực hiện tốt
công tác kiểm sát dân sự.
3.2.4. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên
môn và phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên song song với đầu tư cơ sở
vật chất cho Viện kiểm sát Huyện
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, cần có sự quan tâm hơn nữa đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên làm công tác kiểm
sát dân sự nằm chuyên môn hóa bộ phận nghiệp vụ, nâng cao tinh thần trách
nhiremj và hiêu quả hoạt động của công tác kiểm sát. Có thể tiến hành các
buổi tập huấn ngắn ngày theo từng chuyên đề vừa mang tính lý luận vừa
mang tính thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời tổ chức các buổi
92
trao đổi nghiệp vụ giữa các Kiểm sát viên trong toàn ngành về kỹ năng nghiên
cứu hồ sơ, kỹ năng tranh tụng, viết kết luận… .; Giáo dục đạo đức người cán
bộ kiểm sát: công minh….Bên cạnh đó để đảm bảo hiêu quả cho hoạt động áp
dụng pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự, cần chú ý đến việc tăng cường
cơ sở vật chất cho ngành kiểm sát nhân dân. Không chỉ vậy, Nhà Nước cần
chú trọng hơn nữa chế độ chính sách, tiền lương đối với Kiểm sát viên sao
cho có thể đảm bảo được cuộc sống của mình bằng đồng lương để người
Kiểm sát viên chuyên tâm được vào công việc mà không bị chi phối, sa ngã,
vi phạm pháp luật trong thi hành công vụ.
Tóm tắt chương 3
Bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự là một trong những nhiệm
vụ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát của mình. Mặc dù, quyền con
người ngày càng được chú trọng bảo vệ, tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn còn
tồn tại những khó khăn nhất định cho hoạt động này. Chính vì vậy, đòi hỏi
phải tích cực tìm kiếm và áp dụng đồng bộ các biện pháp để đảm bảo tốt hơn
quyền con người trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động kiểm sát của VKS.
Tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự trước hết là nỗ lực của cơ quan VKS, nhưng cũng cần sự tương
thích, phù hợp trong hoạt động của cơ quan hữu quan như Tòa án, Hội thẩm
nhân dân và của chính bản thân đương sự. Do vậy, các giải pháp vừa chú
trọng tới kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan VKS,
đồng thời phải chú trọng tới tổ chức và hoạt động của cơ quan hữu quan khác.
Về phía công dân, để góp phần bảo vệ quyền của chính mình, bản thân họ
cũng phải nâng cao ý thức phải luật và khả năng sử dụng pháp luật của mình
để tận dụng tốt hơn nữa những tác dụng từ hoạt động kiểm sát đem lại.
93
KẾT LUẬN
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý của hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ việc dân sự của cơ quan VKS, luận văn đã làm rõ cơ sở lý
luận về bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự, khái niệm, đặc điểm,
nội dung của bảo vệ quyền con người trong TTDS, bảo vệ quyền con người
thông qua hoạt động kiểm sát vụ việc dân sự, phân tích thực trạng hoạt động
này của VKS nhân dân ở cấp huyện qua phân tích trường hợp huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2014-2017 – giai đoạn thi hành Hiến pháp
2013, Luật tổ chức VKS nhân dân 2014 và thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự
2015; Luận văn cũng phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công
tác KS…., nguyên nhân của tình trạng…từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết
thực nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua kiểm sát giải quyết
các vụ việc dân sự của ngành Kiểm sát trong giai đoạn hiện nay
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học của người làm thực tiễn công tác KS
vụ việc dân sự nhiều năm qua, tác giả luận văn chú trọng tới chức năng kiểm
soát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự của VKS nhân dân cấp huyện –
nơi diễn ra nhiều khiếu kiện, tranh chấp nhất về dân sự, nơi người dân dễ tiếp
cận nhất với cơ quan tư pháp nhà nước. Các giải pháp của luận văn chủ yếu
hướng tới kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực kiểm soát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực dân sự của VKS nhân dân cấp huyện trong giai đoạn hiện
nay từ nghiên cứu trường hợp của Bố Trạch, Quảng Bình. Tuy nhiên, luận
văn cũng chú trọng tới các giải pháp khác nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động kiểm soát theo các mục tiêu cải cách tư pháp, bảo
vệ quyền con người hiện nay, như nâng cao hiệu quả xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân, nâng cao ý thức và năng lực sử dụng pháp luật của
chính đương sự, công dân.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban cán sự Đảng VKS nhân dân tối cao (2011), Đề án nghiên cứu việc
chuyển VKS thành Viện Công tố, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Kết luận số 20-KL/TW về tổng kết thi
hành Hiến pháp 1992 và một số nội dung cơ bản về sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp 1992, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Thông báo kết luận số 230-TB/TW
ngày 26/3/2009 về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Bộ Chính trị, Kết luận 79-KL/TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân, VKS nhân dân và cơ quan điều tra, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Minh Đạo, Kiểm sát các hoạt động tư pháp - chức năng quan trọng của
VKS nhân dân, Tạp chí kiểm sát, VKS nhân dân tối cao, số 10, năm
2012.
10. Bùi Thị Huyền (2011), Phiên tòa sơ thẩm dân sự- Những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Minh Hằng (2008), Đổi mới vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng
dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
12. Nguyễn Huy Hoàn (2005), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư
pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
13. Khuất Văn Nga (Chủ biên) (2008), Vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng
dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb tư pháp, Hà Nội.
14. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1009), Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng
hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
16. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
17. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (1960), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
19. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
20. Quốc hội (1981), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
21. Quốc hội (1989), Luật tổ chức VKS nhân dân (sửa đổi, bổ sung) Hà Nội.
22. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (1992), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
24. Quốc hội (2002), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
25. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
28. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Bản thuyết minh chi tiết Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Quyết định số 567/2012/QĐ-VKSTC
ngày 08/10/2012 của Viện trưởng VKS nhân dân tối cao về việc ban
hành Quy chế công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02
tháng 10 năm 2017 về việc Ban hành quy chế công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ việc dân sự.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996), Tăng cường năng lực xét xử tại
Việt Nam, Kỷ yếu Dự án về pháp luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Ủy ban nhân dân huyện Bố Trạch, “Giới thiệu chung”, truy cập ngày
10/8/2016 (nguồn: https://botrach.quangbinh.gov.vn/3cms/gioi-thieu-
chung-95214983.htm)
36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, Hà Nội.
37. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế, Hà Nội.
38. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh thủ giải quyết các tranh
chấp lao động, Hà Nội.
39. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2011), Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý
dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự,
ngày 14/3/2011, Hà Nội.
40. Ủy ban tư pháp (2011), Báo cáo tổng hợp ý kiến các đại biểu Quốc hội
khóa XII thảo luận tại hội trường về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
41. Ủy ban tư pháp (2011), Báo cáo thẩm tra số 4232/BC-UBTP12 ngày
16/9/2010 thẩm tra Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
tố tụng dân sự.
42. Viện Khoa học kiểm sát - VKS nhân dân tối cao (2005), Cơ quan công
tố một số nước, (Thông tin khoa học kiểm sát, số 3-6), Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
43. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa – Nxb tư pháp, Hà Nội.
44. VKS nhân dân tỉnh Quảng Bình (2014), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015, Quảng
Bình.
45. VKS nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2016, Quảng
Bình.
46. VKS nhân dân tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, Quảng
Bình.
47. VKS nhân dân huyện Bố Trạch (2014), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2015, Quảng
Bình.
48. VKS nhân dân huyện Bố Trạch (2015), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2015 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2016, Quảng
Bình.
49. VKS nhân dân huyện Bố Trạch (2016), Báo cáo tổng kết công tác kiểm
sát năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, Quảng
Bình.
50. VKS nhân dân tối cao (2000), Luật tổ chức VKS nhân dân Liên bang
Nga, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
51. VKS nhân dân tối cao (2002), Bộ luật Tố tụng dân sự của Cộng hòa Liên
bang Nga, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
52. VKS nhân dân tối cao (2002), Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
53. VKS nhân dân tối cao (2000- 2013), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát
từ năm 2000 đến năm 2013, Hà Nội.
54. VKS nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2012), Thông tư liên
tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 hướng dẫn
thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Hà Nội.
55. VKS nhân dân tối cao - Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát,
Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát - tập 6, lưu hành nội bộ, Hà Nội
2013.
56. VKS nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên
tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 Quy định
việc phối hợp giữa VKS nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao
trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
57. Vụ 5 - VKS nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.
58. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
59. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo số 14/BC-TA ngày 30/8/2011
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án tại kỳ
họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.
60. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền
của Tòa án và phân công giữa các nhân viên trong Tòa án.
61. Chính phủ (1950), Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư
pháp và luật tố tụng.
62. Chính phủ (1959), Nghị định số 256-TTg ngày 01/7/1959 quy định nhiệm
vụ và tổ chức của Viện Công tố, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
64. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2016), Nghị quyết số 04/2016/NQ-
HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2016 về Hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành
chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và
cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.
65. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2017), Nghị quyết số 04/2017/NQ-
HĐTP ngày 05 tháng 05 năm 2017 về Hướng dẫn một số quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13
về việc trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Hà Nội.