Bệnh Leptospirose và những đặc điểm lâm sàng

cần phân biệt với sốt rét ác tính thể gan mật

Tổng quan chung về bệnh Leptospirose

Bệnh phát hiện vào năm 1850 trên chó ở Đức, tại Việt Nam tỷ lệ nhiễm trên

chó tương đối cao, đến 80 % ở các cơ sở nuôi chó nghiệp vụ và 20% chó ở hộ

dân. Virus gây bệnh thuộc 2 họ chính: [1] Spirochaetaceae trong đó hai giống

Borrelia và Treponema gây bệnh; [2] Leptospiraceae tiêu biểu là giống

Leptospira. Trong giống Leptospira người ta thường phân thành 2 loài:

Leptospira interrogans gây bệnh và Leptospira biflexa không gây bệnh. Hiện

tại có khoảng 200 stype huyết thanh Leptospira gây bệnh. Virus đề kháng yếu

đối với nhiệt độ, nếu đun 50-550C trong 1 giờ thì bị diệt, khi ra ngoài gặp

nước trung tính (250C) hay chỗ rậm mát, Leptospira sống lâu hơn, nhưng

nếu môi trường có độ pH < 6.6 thì khó sống, đặc biệt virus sống lâu trong

nước tiểu của chó. Dịch tễ học của bệnh leptospirose trên chó cho biết tuổi

mắc bệnh là mọi lứa tuổi đều mắc bệnh nhưng bệnh thường gặp trên chó đực,

chất chứa mầm bệnh thì máu thường chỉ chứa Leptospira trong khoảng hơn

1 tuần sau khi nhiễm, dịch não tủy có thể chứa Leptospira trong khoảng 2

tuần. Đường xâm nhập leptospira có thể xâm nhiễm qua niêm mạc đường

tiêu hóa, mắt hay qua vết thương ở da.

Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính do xoắn khuẩn Leptospira (thường ký sinh trên

chuột) gây ra, có thể dẫn đến nhiễm độc toàn thân, xuất huyết, suy gan thận và tử

vong. Bệnh có thể phát triển mạnh trong mùa mưa bão năm nay vì vệ sinh môi

trường đang xuống cấp nghiêm trọng và chuột sinh sôi rất nhanh. Leptospirosis

(Lepto) vốn được coi là bệnh ở các vùng núi, đầm lầy nhưng đã tràn xuống thành

phố từ nhiều năm qua và có thể lây san người và có thể dẫn đến tử vong ở người vì

các biến chứng nặng. Về cơ chế sinh bệnh, sau khi xâm nhiễm, Leptospira vào

trong tuần hoàn máu máu, nhân lên mạnh và gây hoai huyết, tiếp đó chúng đến

định vị ở những cơ quan ái tính, nhất là gan và thận. Do thường ái tính với hai cơ

quan này nên tổn thương bệnh học cũng thường gặp các trieuj chứng lâm sàng và

cận lâm sàng ở đó với các biểu hiện sinh bệnh học khác nhau. Leptospira trong

giai đoạn hoại huyết có thể đến những cơ quan sinh dục gây rối loạn sinh sản ở

chó.

Một điển hình là vừa qua tại Philippine, các quan chức y tế kêu gọi cộng đồng

quốc tế trợ giúp nhằm chặn đứng bệnh Leptospirose đã gây 130 người tử vong tại

những khu vực lụt sau hai "siêu bão" Ketsana và Parma. Qua thống kê tại 15 bệnh

viện tuyến TƯ, Bộ Y tế Philippines ghi nhận 1.887 trường hợp nhiễm xoắn khuẩn

Leptospira và đến nay đã có 138 người tử vong. Trong phiên điều trần tại Quốc

hội, người đứng đầu Trung tâm Dịch tễ học quốc gia thuộc Bộ Y tế Philippines,

Enrique Tayag cho biết từ năm 2004-2008, trung bình hàng năm có 680 ca bệnh

xoắn khuẩn tại quốc gia này. Theo ghi nhận của Bộ Y tế nước này, phần lớn các ca

tử vong đều có dấu hiệu tổn thương gan, thận ở giai đoạn cuối của bệnh. Ba tuần

sau cơn bão Ketsana, nhiều khu vực rộng lớn trong và xung quanh thủ đô Manila

vẫn chìm trong nước lũ, khiến dịch bệnh bùng phát tại các cộng đồng dân nghèo.

Bộ Y tế Philippines cho biết 1.7 triệu người ở Manila và 2 tỉnh phụ cận có nguy cơ

nhiễm bệnh cao do khu vực này vẫn bị ngập lụt cho đến cuối năm nay. Ông Tayag

nói: "Chúng tôi đã gửi tín hiệu SOS đến cộng đồng quốc tế vì đây là một trong

những bệnh dịch không chỉ bùng phát ở Philippines, mà trên khắp thế giới". Theo

ông, "điều đáng buồn là người dân không hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của bệnh

xoắn khuẩn cho đến khi người thân của họ mắc bệnh này".

Xoắn khuẩn Leptospira lây truyền từ súc vật mắc bệnh sang người. Leptospira có

thể tồn tại trong nước tiểu hoặc nước bẩn, xuất hiện nhiều ở chuột cống. Xoắn

khuẩn xâm nhập cơ thể qua các vết trầy xước trên da. Triệu chứng ban đầu của

bệnh giống với bệnh cúm như ớn lạnh, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, trường hợp

nặng có thể gây suy gan, thận và tử vong. Về phân loại tác nhân gây bệnh,

Leptospira thuộc giới Monera, ngành Spirochaetes, họ Leptospiraceae, giống

Leptospira (Noguchi.,1917). Các loài gồm có L. alexanderi, L. biflexa, L. broomii,

L. borgpetersenii, L. fainei, L. inadai, L. interrogans, L. kirschneri, L. licerasiae,

L. meyeri, L. weilii, L. noguchii, L. santarosai, L. wolbachii, L. kmetyi, L. wolffii,

L. genomospecies 1, L. genomospecies 3, L. genomospecies 4, L. genomospecies 5.

Từ triệu chứng bệnh và tổn thương đa cơ quan trên chó đến người

Gây bệnh thực nghiệm

Súc vật rất nhạy cảm với Leptospira là chuột lang, nhất là đối với L. ictero-

haemorrhagiae. Nếu trong bệnh phẩm có lẫn tạp khuẩn mà đem tiêm vào phúc

mạc chuột lang còn non thì sau 10 phút Leptospira đã xâm nhập vào máu trong khi

các tạp khuẩn khác chưa vào được máu. Vì vậy Schuffer đã gọi chuột lang là “giá

thể sống” đối với Leptospira.

Bệnh Letpospirose (Lepto) ở chó

Thời gian nung bệnh 5 - 15 ngày. Nếu thể cấp tính, quá trình hoại huyết phát triển

nhanh sau vài giờ nhiễm, sốt cao 40 - 410C và suy nhược nặng. Có thể chia làm 2

thể: (1) Thể thương hàn thì con vật bệnh có biểu hiện xuất huyết trầm trọng, viêm

kết mạc mắt với nhũng điểm xuất huyết ở da và niêm mạc, ói ra máu và phân sậm

màu, mất nước nhanh và chết trong 24 ngày cùng với hạ than nhiệt, (2) Thể hoàng

đản thì chó bệnh có biểu hiện viêm kết mạc mắt, hoàng đản, vàng da khó thở tăng

dần cùng với kém ăn, ói mửa, nếu không chữa trị trong giai đoạn cuối chó có sự

tăng thân nhiệt, khó thở, tiêu chảy đôi khi xuất huyết, biểu hiện viêm não trước khi

hắt hơi, chết trong khoảng 5-8 ngày kể từ khi mắc bệnh. Nếu thể mạn tính hoặc

bán cấp, tương ứng với hình thành hội chứng ure huyết cao, hậu quả của viêm thận

sinh ra (tiểu nhiều, khát nước, ói mửa, tiêu chảy). Sau một thời gian hôn mê do ure

huyết cao, chó sẽ chết; thể thở khó có mùi ure ở miệng và xáo trộn hô hấp, viêm

màng mống mắt, viêm cơ…

Về bệnh tích, thể cấp tính có thể thương hàn (viêm dạ dày ruột xuất huyết, xuất

huyết da và các niêm mạc, có thể gặp gan sưng, hạch bạch huyết xuất huyết); thể

hoàng đản (da vàng ở bụng, gang bàn chân, lỡ tai, niêm mạc vàng, bàng quang

chứa nhiều nước tiểu vàng sậm và có thể xuất huyết). Thể bán cấp hoặc mãn tính

(gồm viêm thận kẻ hay viêm thận mãn tính, vết lở ở miệng và lưỡi có thể gặp trên

chó có urea trong máu).

Về chẩn đoán dựa trên kết quả nuôi cấy, phân lập Leptospira và huyết thanh chẩn

đoán. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh ở cho hay gặp là nếu vàng da cần gián

biệt với trường hợp trúng độc tố nấm mốc (Aflatoxin) hoặc nhiễm vi trùng gây

hoại huyết mạnh; trong trường hợp rối loạn tiêu hóa (ói mửa và phân có máu) cần

phân biệt với bệnh Carré (biểu hiện sốt cao, kèm theo triệu chứng viêm phổi, tiêu

chảy ra máu nhưng mức độ tiêu chảy ít hơn, thời gian mắc bệnh kéo dài hơn, vào

giai đoạn cuối xuất hiện triệu chứng nổi mụn mủ ở vùng da mỏng, triệu chứng

thần kinh xuất hiện) hoặc với bệnh Parvo (tiêu chảy ói mửa dữ dội, ít khi kèm theo

triệu chứng hô hấp).

Điều trị các thể bệnh ở chó là dùng các kháng sinh dùng trong thú y như Nova-

Enrocin, Nova-D.O.T, Novasone, Nova-Doxyl. Bên cạnh đó có các liệu pháp hổ

trợ như cung cấp nước, chất điện giải, tăng cường sức đề kháng, sát trùng nơi

nhốt chó bằng NOVADINE, NOVAXIDE. Cần ly chó khỏe với chó bệnh, không

cho chó khỏe tiếp xúc với phân của chó bệnh, vệ sinh sát trùng sạch sẽ nơi ở của

chó để tránh lây lan mầm bệnh và có cả phòng bằng vaccin.

Bệnh Leptospirose (Lepto) ở người

Bệnh Leptospiroe ở người, biểu hiện bằng hai hội chứng: anicteric leptospirosis

(không vàng da) hoặc Icterohemorrhagic (xuất huyết kèm vàng da) hay bệnh Weil

·Hội chứng Anicteric leptospirosis (hội chứng xoắn khuẩn không gây vàng da):

chiếm hơn 90% các trường hợp. Một số ít các bệnh nhân có gan to, men gan và

bilirubin tăng cao. Bệnh diễn tiến theo hai giai đoạn: giai đoạn khởi phát bắt đầu

đột ngột, triệu chứng giống nhiễm virus, sốt. Giai đoạn này kéo dài 4-7 ngày,

trong đó Leptospira hiện diện ở máu hoặc dịch não tuỷ. Giai đoạn tiếp theo là sau

1-3 ngày cải thiện và kéo dài từ 4-30 ngày, đặc trưng bởi đau cơ, ói mửa, chướng

bụng, viêm màng não vô trùng có đến 80% bệnh nhân.

·Icterohemorrhagic (chứng xuất huyết vàng da) hay bệnh Weil: là một dạng cấp

tính nhiễm leptospiro chiếm từ 5-10% các trường hợp. Bệnh cũng biểu hiện bằng

hai giai đoạn nhưng kém rõ nét: giai đoạn khởi phát khởi phát có bieur hiện vàng

da kéo dài vài tuần, giai đoạn tiếp theo sốt có thể cao, với các biểu hiện ở gan,

thận. Có thể dẫn đến suy thận, loạn nhịp tim, viêm phổi xuất huyết, tỷ lệ tử vong

từ 5-40%

Leptospira gây bệnh xoắn khuẩn-là một bệnh lây nhiễm truyền từ động vật sang

người. (zoonose), bệnh bắt đầu bằng cơn sốt liên tục, gây tổn thương thận, xuất

huyết phổi, hoại tử gan và nhiều triệu chứng khác. Căn bệnh tác động đến hàng

chục triệu người mỗi năm và đặc biệt cao tại các nước vùng nhiệt đới nóng ẩm. Do

tính đa dạng của triệu chứng, bệnh Leptospira khó phát hiện và chẩn đoán nên tỷ

lệ tử vong tại một số vùng có thể lên đến 20-25%. Năm 1886, Weil đã phát hiện ra

bệnh Leptospirose ở người lần đầu tiên; nhưng đến năm 1915, các nhà khoa học

Nhật Bản và Pháp mới cùng tìm thấy xoắn khuẩn L. interrogans.

Bệnh Lepto là chủ yếu lây truyền qua đường da, niêm mạc. Xoắn khuẩn

Leptospira có sức đề kháng yếu, có thể chết sau 10 phút trong nhiệt độ 500C

nhưng lại chịu lạnh tốt, sống dai dẳng trong bùn lầy, nước đọng, nước cống tới 3

tuần. Nó lây sang người khi họ tiếp xúc với nước bùn, đất ô nhiễm, nước tiểu súc

vật đã nhiễm xoắn khuẩn, hoặc với phủ tạng động vật đã bị bệnh. Các triệu chứng

thường gặp của bệnh Lepto là cơ bắp chân đau, sốt cao đột ngột, rét run, sốt liên

tục hoặc kèm theo mạch nhanh, huyết áp dao động, mệt nhiều, đau đầu, nhức mắt,

buồn nôn và nôn, trường hợp nặng có biểu hiện li bì, vật vã, mê sảng. Sau khi qua

da và niêm mạc, Leptospira vào máu, gây nhiễm khuẩn huyết, giai đoạn khởi phát

này kéo dài khoảng 5-7 ngày. Sau đó, xoắn khuẩn khu trú và gây bệnh ở gan, thận,

màng não, tim, phổi, thượng thận. Bệnh nhân có triệu chứng vàng da do độc tố

xoắn khuẩn hủy diệt hồng cầu và gây viêm tổ chức trung diệp ở gan. Gan to ra,

xung huyết, xuất huyết vi thể, các bè gan đảo lộn, có thể có ổ hoại tử và xuất huyết

rải rác (có thể nhầm lẫn áp xe gan). Xoắn khuẩn cũng gây tổn thương ống thận,

dẫn đến thiểu niệu và vô niệu, tăng urê và creatinin máu - nguyên nhân chính làm

bệnh nhân tử vong. Thận bệnh nhân to ra, đôi khi có xuất huyết, các tế bào phình

lên và hoại tử, gây bít tắc, khe thận bị phù và xâm nhiễm tế bào đơn nhân (dễ bị

chẩn đoán nhầm với viêm gan virus, sốt xuất huyết dengue hoặc nhiễm khuẩn

huyết).

Về mức độ nguy hiểm của nhiễm Leptospira, tuy ít ảnh hưởng trực tiếp đến tính

mạng của người bệnh, song nhiễm Leptospira gây ra các tổn thương ở nhiều cơ

quan, trong đó đáng chú ý đến triệu chứng hoại tử cơ, hoại tử ống thận cấp có thể

gây suy thận cấp, tổn thương các mô, gan, viêm và xuất huyết khu trú ở tim, phổi;

gây tổn thương (không nguy hiểm lắm) ở não và màng não. Đặc biệt trên cơ địa

phụ nữ mang thai thì khi nhiễm Leptospira có thể gây ra sẩy thai ở phụ nữ đang

mang thai.

Hiện nguy cơ bùng phát bệnh Lepto tại các khu dân cư, bến xe, bến tàu, các khu

nhà trọ đông đúc, ẩm thấp hoặc các dãy nhà trên sông nước cạnh các kênh nước

đen (nơi định cư rất tốt cho chuột) là rất lớn do tình trạng vệ sinh môi trường kém,

úng ngập thường xuyên và kéo dài, gia tăng số lượng chuột. Một điều tra tại Hà

nội cho biết kết quả xét nghiệm trên 103 mẫu chuột bắt được tại 15 điểm ở Hà Nội

trong tháng 5 cho thấy 62% nhiễm xoắn khuẩn Leptospira (trong đó chuột cống

chiếm 64%, còn lại là chuột nhà). Kết quả xét nghiệm huyết thanh chuột tại ga

Giáp Bát, nhà máy bia Hà Nội và nhiều chợ trên địa bàn cho thấy, tỷ lệ nhiễm

Leptospira đều ở mức 50-100%. Đặc biệt, 100% mẫu ở ga Giáp Bát, chợ Cầu

Giấy, 130 Thụy Khuê đều dương tính). Điều cần thiết là đề nghị tổ chức diệt chuột

đồng loạt trước mùa mưa bão (vào tháng 6, 7) để ngăn chặn sự phát sinh và tạo

thành các ổ bệnh Lepto.

Phân biệt với bệnh truyền nhiễm khác, đặc biệt là sốt rét ác tính thể gan mật

Các biểu hiện của nhiễm Leptospira không đặc hiệu, có nghĩa là có thể gây nhầm

lẫn chẩn đoán với một số bệnh lý nội khoa và truyền nhiễm khác có thể gặp trong

vùng nhiệt đới. Do vậy, tiền sử bệnh nhân có tiếp xúc với nguồn nhiễm bệnh là

yếu tố dịch tễ chính nghĩ đến bệnh do nhiễm Leptospira. Các biểu hiện bệnh tùy

thuộc vào vị trí thương tổn và bệnh học, cần phân biệt với một số bệnh truyền

nhiễm khác, đặc biệt sốt rét ác tính thể tiêu hóa gan mật:

Chẩn đoán bệnh Leptospirose

Tuỳ theo từng thời kỳ hoặc giai đoạn bệnh của bệnh nhân mà có cách lấy bệnh

phẩm và chẩn đoán thích hợp. Nếu giai đoạn I, lấy máu bệnh nhân lúc còn sốt cao,

đem nuôi cấy và / hoặc tiêm truyền vào chuột lang, sau đó xác định và định danh

vi khuẩn; giai đoạn II, lấy nước tiểu bệnh nhân, ly tâm, tiêm vào phúc mạc chuột

lang rồi lấy máu tim chuột nuôi cấy tìm vi khuẩn.

Lấy máu làm phản ứng huyết thanh tìm Ab bằng phản ứng ngưng kết Martin-

Pettit. Kháng nguyên là Leptospira sống và huyết thanh được pha loãng, vì

Leptospira spp. có nhiều kháng nguyên nên hiệu giá kháng thể lần đầu phải cao

hơn 1/800 mới nghi ngờ và làm phản ứng lần 2 để xác định động lực Ab (tăng hiệu

giá Ab lần 2 so với lần 1, ít nhất là gấp 2 lần). Hiện nay đã có những kít chẩn đoán

nhanh về bệnh này.

Điều trị và phòng bệnh

Điều trị: dùng kháng sinh đặc hiệu, phổ rộng để điều trị Leptospira. Kháng sinh

cần được điều trị sớm, đúng kháng sinh nhạy cảm với vi khuẩn và dài ngày. Sử

dụng thêm một số thuốc điều trị triệu chứng như thuốc hạ sốt, giảm đau, uống

nhiều nước. Khi mắc bệnh, nên nghỉ ngơi, bổ sung dinh dưỡng, nhiều thức ăn chứa

vitamin, nâng sức đề kháng của cơ thể.

Phòng bệnh:

-Vấn đề phòng bệnh cần có sự phối hợp đa ngành, có sự tham gia tích cực của

cộng đồng và an toàn vệ sinh lao động bằng các biện pháp đơn giản (mang giày cổ

cao khi lội ruộng, bùn sình, mang thêm găng tay khi phải dùng đến tay để thao

tác);

-Các biện phápcắt đứt một trong các khâu thuộc dây chuyền sinh bệnh như diệt

chuột, phòng bệnh cho gia súc nhưng chủ yếu là phòng hộ lao động cho những đối

tượng thường phải tiếp xúc với nguồn lây, như các công nhân làm việc tại các trại

gia súc, vệ sinh cầu cống, làm việc trong hầm mỏ. Diệt chuột, vệ sinh sạch sẽ chất

thải của các loại thú nuôi;

-Vaccin phòng bệnh cho các đối tượng thường phải tiếp xúc với nguồn lây.

Tài liệu tham khảo

1.La leptospirose : une cause rare de rhabdomyolyse .

http://www.sciencedirect.com/science

2.Leptospirose: Profil de la maladie. http://www.phac-aspc.gc.ca/tmp-

pmv/info/leptospirosis-fra.php. Bosoins en matiére de recherches sur la

leptospirose.

3.Organisation mondiale de la Santé. Human leptospirosis: guidance for

diagnosis, surveillance and control.

4.Pillot J, Ryter A. Structure des spirochètes. 1. Etude des generes Treponema,

Borrelia et Leptospira au microscope electronique. Ann Inst Pasteur (Paris). 1965

Jun;108(6):791–804.

5.Plesko I, Lataste-Dorolle C. Immunité croisée en leptospirose expérimentale.

Effets protecteurs réciproques réalisés par des souches Grippotyphosa et des

souches d'autres sérogroupes. Ann Inst Pasteur (Paris). 1970 Oct;119(4):456–467.