Bệnh tự miễn - Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính

Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính lưu thông trong giòng máu và phát

hiện ra các chất, vật lạ đối với cơ thể. Khi gặp dị nguyên như vi khuẩn, chúng bao

lấy và tiêu diệt. Đại thực bào và bạch cầu đa nhân trung tính tiêu diệt kháng

nguyên lạ nhờ tạo ra các phân tử độc như phân tử oxygen trung gian phản ứng.

Nếu sản phẩm của các phân tử gây độc không được kiểm soát thì không chỉ các dị

nguyên bị tiêu diệt mà các mô chung quanh đại thực bào và bạch cầu đa nhân

trung tính cũng bị tiêu hủy.

Ví dụ như những người bị bệnh tự miễn có tên là u hạt Wegener, các đại thực bào

và bạch cầu đa nhân trung tính tác động quá mức gây tổn thương các mạch máu

tạo ra các phân tử gây độc và góp phần làm tổn hại mạch máu.

Còn trong bệnh viêm khớp dạng thấp, các phân tử oxygen trung gian hoạt động và

các phân tử gây độc khác được các bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào

hoạt động quá mức làm tổn tương khớp. Các phân tử gây độc góp phần tạo viêm

biểu hiện bằng sưng, nóng và góp phần làm tổn thương khớp.

- Đại thực bào

- Kháng thể

- Túi phân tử độc

- Vi khuẩn

- Vị khuẩn đang bị tiêu diệt

Đại thực bào đến bao lấy vi khuẩn và giải phóng các phân tử gây độc (oxygen

trung gian hoạt động) phá vỡ và tiêu diệt vi khuẩn.

- Virus

- MCH

- Tế bào thần kinh

- Virus đang tái sản xuất

- Kháng nguyên virus

- Tế bào thần kinh bị nhiễm virus

Tuy nhiên, để tế bào T đáp ứng với dị nguyên trên hệ MCH phải cần đến một phân

tử khác nằm trên tế bào đại diện kháng nguyên gởi tín hiệu thứ phát đến tế bào T.

Phân tử tương ứng trên bề mặt tế bào T nhận diện tín hiệu thứ phát này. Hai loại

phân tử thứ hai của tế bào đại diện kháng nguyên và tế bào T này được gọi là các

phân tử đồng kích thích.

Có một số tập hợp phân tử đồng kích thích tham gia trong việc tương tác với tế

bào đại diện kháng nguyên cùng với tế bào T. Khi các MCH, thụ thể của tế bào T,

các phân tử đồng kích thích được tương tác với nhau thì tế bào T sẽ được kích hoạt

để hoạt động theo một số cách. Các cách hoạt động đó gồm có hoạt hóa, dung nạp

hay chết tế bào T. Các bước nhỏ hơn sẽ tùy thuộc vào sự tác động và cách tương

tác của các thành phần trong phân tử đồng kích thích. Do các tương tác là đáp ứng

chính yếu của hệ miễn dịch nên các nhà nghiên cứu đặt nặng nghiên cứu để tìm ra

các phương cách điều trị mới nhằm kiểm soát hoặc ngưng sự tấn công của hệ tự

miễn trên chính các mô và cơ quan của cơ thể.

Một tế bào đại diện kháng nguyên (ví dụ như đại thực bào) và dị nguyên trên hệ

MCH được các thể tế bào T nhận diện. Ngoài ra các phân tử đồng kích thích trên

tế bào đại diện kháng nguyên và tế bào T tương tác nhau.

Kháng nguyên lạ trên hệ MCHCytokines và Chymokines

Sau khi có sự kết hợp (tương tác) giữa MHC và thụ thể tế bào T, hoặc có sự tương

tác giữa các phân tử đồng kích thích, tế bào T đáp ứng bằng cách chế tiết ra các

cytokines và chemokines. Cytokines là các protein bao quanh các tế bào hệ miễn

dịch để được kích hoạt, trưởng thành hay sẽ chết đi. Chúng cũng ảnh hưởng đến

các mô của hệ thống phi miễn dịch. Ví dụ như một số cytokines có thể cấu tạo nên

thành lớp dày sừng của da và biểu hiện ở người xơ cứng bì.

Sau khi các tế bào đại diện kháng thể và tế bào T tương tác với nhau qua MHC,

thụ thể tế bào T và các phân tử đồng kích thích thì tế bào T được hoạt hóa sẽ gởi

các tính hiệu cytokines đến các tế bào khác.

Các tế bào T khác

Tế bào T hoạt hóa

Các tính hiệu cytokinesChemokines là các phân tử cytokines nhỏ có thể thu hút

các tế bào hệ miễn dịch. Quá sản cytokines gây ra viêm và xâm lấn cơ quan đích

và biểu hiện ở các bệnh tự miễn. Ví dụ như quá sản cytokine ở khớp của người bị

viêm khớp dạng thấp gây ra hậu quả là xâm chiếm không gian khớp bằng cách phá

hủy các tế bào của hệ miễn dịch như đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính, tế

bào T.