
Bệnh ung thư vòm họng
Bệnh nhân có một tổ chức loét, sùi ác tính ở bất cứ vị trí nào
trong vòm họng. Nguyên nhân chính gây ung thư vòm họng
chưa được xác định, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh
có liên quan tới virus EBV.
Các yếu tố nguy cơ khác của bệnh là viêm họng mạn tính kéo
dài, nghiện thuốc lá, uống rượu nhiều.
Ở giai đoạn sớm có tới 80% bệnh nhân ung thư vòm họng bị
nhức đầu lan tỏa, âm ỉ và thường ở một bên đầu. Ù tai chiếm
70% ca bệnh, đa số ù một bên tai, lúc nào cũng như có tiếng ve
kêu, ngạt một bên mũi lúc nặng, lúc nhẹ, có khi chảy máu mũi.
Ở giai đoạn muộn, người bệnh nhức đầu liên tục, có lúc đau dữ
dội. Ù tai tăng dần dẫn tới nghe kém hoặc điếc. Mũi ngạt nặng
liên tục và thường có chảy máu mũi.
Tổ chức ung thư vòm họng khi xâm lấn tới nền sọ (giai đoạn
muộn) có thể gây tổn thương các dây thần kinh sọ não. Thường
80% số bệnh nhân khi được chẩn đoán ung thư vòm họng đã có
hạch cổ. Hạch thường nằm ở cùng bên với khối u. Trong số đó

có trên 60% bệnh nhân nổi hạch cổ ngay từ đầu và chính vì sự
nổi hạch bất thường này mà người bệnh đi khám.
Khi bị ung thư vòm họng, các xét nghiệm cần làm là chẩn đoán
tế bào học và mô bệnh học. Chẩn đoán tế bào học là lấy tế bào
bong ở khối u bằng tăm bông, hoặc chọc kim nhỏ vào hạch lấy ít
tế bào, cố định trên lam kính, nhuộm rồi soi trên kính hiển vi
quang học có độ phóng đại 100 đến 1.000 lần. Chẩn đoán mô
bệnh học là lấy một mảnh nhỏ ở tổ chức u hoặc nghi ngờ khối u,
hoặc lấy ở hạch cổ bằng kim bấm chuyên dụng. Mảng sinh thiết
được cố định bằng dung dịch chuyên dụng, sau đó vùi trong
paraphin rồi cắt mỏng 3-4 phần nghìn milimét, nhuộm và soi
dưới kính hiển vi quang học.
Ngoài ra, có thể làm các xét nghiệm khác như: chụp X-quang
hộp sọ, chụp cắt lớp vi tính, chụp X-quang phổi, siêu âm gan,
xét nghiệm miễn dịch về virus EBV.
Ung thư vòm họng được điều trị chủ yếu bằng tia xạ. Các trường
hợp muộn có kết hợp hóa trị. Để điều trị di căn tới hạch, xương,
phổi, gan..., tùy trường hợp, có thể dùng phương pháp cắt bỏ kết
hợp với tia xạ hoặc hóa chất.

