Cá LÒNG TONG
lượt xem 33
download
Cá lòng tong, một loài cá nước ngọt vùng nhiệt đới, rất thân thiết với người dân nông thôn miền Nam Việt Nam, tuy là một nguồn thực phẩm tại Đông Nam Á, nhưng lại là một loài cá cảnh được nuôi trong các bồn cá tại các quốc gia Âu-Mỹ. Theo danh mục Cá nước ngọt của Bộ Thủy sản Việt Nam, có những loại cá lòng tong sau: - Cá lòng tong mương (Luciosoma bleekeri) - Cá lòng tong đá gồm những loài thuộc chi Rasbora. Đa số cá thuộc chi này được nuôi làm cá cảnh....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cá LÒNG TONG
- Cá LÒNG TONG Cá lòng tong, một loài cá nước ngọt vùng nhiệt đới, rất thân thiết với người dân nông thôn miền Nam Việt Nam, tuy là một nguồn thực phẩm tại Đông Nam Á, nhưng lại là một loài cá cảnh được nuôi trong các bồn cá tại các quốc gia Âu-Mỹ. Theo danh mục Cá nước ngọt của Bộ Thủy sản Việt Nam, có những loại cá lòng tong sau: - Cá lòng tong mương (Luciosoma bleekeri) - Cá lòng tong đá gồm những loài thuộc chi Rasbora. Đa số cá thuộc chi này được nuôi làm cá cảnh. - Cá lòng tong bay (Esomus longimanus). Tất cả đều thuộc họ cá Cyprinidae.
- (Trong sự việc một số lô hàng Cá smelt biển đưa từ Na Uy về Việt Nam chế biến để sau đó đưa ra thị trường tiêu thụ, bị thu hồi do không bỏ nội tạng , không biết dựa trên tiêu chuẩn nào, tên cá đã được dịch thành cá lòng tong ? (Xem bài viết về cá smelt). Ngoài ra danh từ Goujon của Pháp, tuy cũng được dịch thành cá lòng tong nhưng thật ra là một loài cá bống, có tên khoa học là gobio gobio). - Cá lòng tong đá: Đây là tên gọi chung cho các loài lòng tong thuộc chi Rasbora. Chi này có khá nhiều loài tại các kinh, mương, ao hồ Nam Việt Nam. Cá cũng phân bố rộng rãi tại Ấn độ, Thái Lan. Philippines, Campuchea..Cá ăn sâu bọ nhỏ, và vài loại rong tảo. Đa số các loài lòng tong đẻ trứng phân tán trong nước và trứng có thể bị cá khác ăn. Vài loài đẻ trứng giấu dưới lá. Trứng nở rất nhanh có khi chỉ một hay vài ngày sau khi cá đẻ. - Rasbora aurotaenia: Cá lòng tong lưng thấp (Pale rasbora) Cá có thân thon dài, dài tối đa 15 cm. Đầu nhỏ, mõm nhọn. Miệng nhỏ, xiên. Vảy lớn. Đường bên cong về mặt bụng và chấm dứt nơi nửa phần dưới của cuống đuôi. Cá có lưng màu vàng sáng, bụng màu bạc. Có một sọc đen chạy dọc giữa thân từ sau nắp mang đến tận cuối đuôi. Vây lưng màu vàng sáng, có rìa đen. Vây đuôi vàng có hai chóp màu đen. Các vây khác màu trắng nhạt.
- Cá sống nơi tầng mặt tại ao, mương, thường nơi nước đục. Cá giao phối và đẻ trứng vào mùa mưa. - Rasbora myersi: Silver rasbora (Thái: Pla siew). Đây là một loài lòng tong tương đối nhỏ chỉ dài tối đa 8 cm, thân màu bạc, phần lưng nâu nhạt. Vây đuôi có viền màu đen. Cá sống dưới tầng sâu chừng 5m, ít khi được bán tại chợ. - Rasbora trilineata: Cá lòng tong sọc (Scissortail rasbora). Thân khá dài, dẹp bên, phủ vẩy to. Đầu nhỏ, mắt to, không râu. Dài đến 6 cm. Thân màu trắng bạc, lưng xanh sáng có một sọc đen hẹp chạy dọc theo thân từ sau nắp mang đến hết tia giữa của vây đuôi, có một vệt đen ngắn từ cuối vây hậu môn đến gốc vây đuôi. Vây ngực, vây bụng và vây hậu môn đều nhỏ, màu vàng hay trắng nhạt, riêng chóp hai thùy của vây đuôi có màu đen. Theo danh mục của FAO, tại lưu vực sông Cửu Long (Kampuchea, Thái Lan và Việt Nam) còn có những loài Rasbora như: - Rasbora sp.cf beauforti ( Stoplight rasbora), chỉ dài 2cm, thân nhiều màu, thường được nuôi làm cá cảnh. - Rasbora borapetensis (Blackline rasbora). Cá đỏ đuôi. Dài chừng 4.5 cm. Thân cá có hông màu vàng, bụng bạc, giữa hông có một sọc đen kéo dài
- từ sau nắp mang đến gốc đuôi, phần trước sọc mờ, phần sau rõ dần. Vây đuôi có khoang đỏ. Rất được giới nuôi cá cảnh ưa chuộng. - Rasbora daniconius (Slender rasbora) dài đến 6 cm. - Rasbora dusonensis: Rosefin rasbora dài 10 cm, vây đuôi màu hồng nhạt, gặp nhiều trong vùng Tân châu, Hồng ngự. - Rasbora espei (Lambchop rasbora) dài 2.5 cm. Phần thân trước bầu tròn; nuôi làm cá cảnh. - Rasbora pauciperforata (Red-line rasbora), dài 3.5 cm. thân có sọc dọc màu đỏ. Cá cảnh. - Rasbora paviei (Pavi rasbora, Sidestriped rasbora): Cá lòng tong kẻ. Đây là loài cá cảnh được xếp vào loại quý và hiếm (được VN xếp vào sách đỏ, cấm đánh bắt và khai thác). Thân dài đến 10 cm, dẹp một bên, phủ vảy. Đầu vừa, mõm nhỏ, mắt to. Điểm bắt đầu của vây lưng đối xứng với vây bụng. Thân màu bạc, lưng hơi xanh sáng: có một sọc xanh chạy dọc thân, từ gốc mang đến tận cùng của cuốn đuôi, tại đây có một đốm đen, ánh xanh. Ngoài ra còn có một sọc xiên trên lưng, phát xuất từ đỉnh đầu chạy xiên dọc thân. Các vây có màu vàng chanh, không có đốm.
- - Cá lòng tong mương. Lòng tong mương (tên gọi chung cho các loài thuộc chi Luciosoma) phân bố rộng rãi tại các hệ thống sông ngòi trong vùng châu thổ sông Cửu Long, rất thường gặp tại các tỉnh miền Nam Việt Nam, Campuchea, Thái Lan. Lòng tong mương di chuyển vào những vùng ruộng, rừng ngập nước trong mùa lũ lụt và sau đó trở về sông, ngòi khi nước rút vào các tháng 11 và 12. Lòng tong mương được gọi tại Âu Mỹ là Apollo shark. Đặc điểm chung là thân dài, lưng hơi cong, thuôn nhiều về phia đuôi. Miệng có râu nhỏ và ngắn. Cá sống nơi nước lưu thông, ăn sâu bọ nhỏ, cá và tép nhỏ. - Luciosoma bleekeri. Cá dài khoảng 25 cm và là loài thường gặp nhất. Miệng có râu ngắn. Thân có lưng màu xanh nâu, ánh xanh lục nhạt, bụng trắng nhạt. Dọc thân có lằn đậm hay những đốm xếp thành hàng chạy từ dưới mang suốt đến điểm chẻ đôi của vây đuôi. Vây lưng có 9 tia mềm màu cam nhạt và vây đuôi màu cam ít sáng hơn. Vây đuôi có một đốm xậm lớn, có thể kèm theo những đốm khác nhỏ hơn. - Luciosoma setigerum, tên theo FAO: Apollo Sharkminnow. Cá dài tối đa 27 cm. Miệng có râu khá phát triển. Dọc thân có những đốm tròn màu đậm, nhiều khi hợp lại để tạo thành vệt. Có khi vây cũng có vệt đốm đen. Vây đuôi có vạch đen viền theo hai thùy.
- - Cá lòng tong bay. Các loài cá thuộc chi Esomus được gọi là lòng tong bay (Mekong Flying barb). - Esomus metallicus (Striped flying barb): Lòng tong sắt- Thân dài chừng 7.5 cm, dẹp một bên, đầu nhỏ, mắt trung bình, miệng nhỏ, hướng xiên lên trên, có hai đôi râu: râu mõm kéo dài đến viền sau mắt, râu hàm keo dài đến quá gốc vây bụng. Thân phủ vẩy cỡ trung bình. Toàn thân màu trắng sáng có ánh bạc, có một sọc đen đậm chạy dài giữa thân, từ mắt đến gốc vây đuôi. Vây lưng nằm lùi về phia sau, gần như đối sứng với vây hậu môn. Vây ngực dài và nhọn. Vây đuôi sẻ thùy sâu. Cá thường gặp trong mương nhỏ, ít khi sinh sống nơi giòng sông lớn. - Esomus longimanus: Cá rất nhỏ, chỉ dài 1cm. Thân dẹp một bên, bụng tròn. Miệng có râu dài. Vây ngực dài, cuối vây nhọn kéo đến vây hậu môn. Tại Thai Lan thường dùng làm nước mắm. Phương thức đánh bắt cá lòng tong Phương thức đơn giản nhất để đánh bắt cá lòng tong là dùng rổ hay vợt để xúc cá, vì cá xuất hiện rất nhiều khi mùa nước nổi bắt đầu dâng nhất ở các tỉnh đầu nguồn các sông Tiền giang và Hậu giang... lúc đó vùng hạ lưu
- sông Cửu long nước nổi mênh mông. Người dân nông thôn miền Nam có những cách đánh bắt cá rất đặc biệt như: - Đào và chặn ụ: Đào một ao khoảng chục thước vuông, mở một cửa có rãnh nhỏ, ngắn dẫn ra sông hay rạch và chặn để nước đưa cá vào ao. Đây là một phương thức đòi hỏi nhiều kinh nghiệm để đoán luồng cá và đưa chúng vào ao. - Làm mùng: Dùng những miếng vải mùng rộng, mắc vào 4 thanh tre như lưới và nhấn xuống dòng nước, rắc cám đễ làm mồi dụ cá. - Câu bằng cơm nguội như một phương thức giải trí. Thành phần dinh dưỡng Đối với giới tiêu thụ Phương Tây, cá lòng tong hầu như không được chú ý về tính cách dinh dưỡng, tuy nhiên cũng có một số nghiên cứu, phân chất thành phần của cá khi cá được dùng làm thực phẩm để nuôi các thú vật biển tại các Trung Tâm Nuôi và Trưng bày Thú biển (Marine Life). Kết quả phân chất của Joni Bernard và Duane Ullrey tại Comparative Nutrition Laboratory, Michigan State University ghi nhận: Cá lòng tong chứa ( %):
- - Chất đạm thô 64.6 - Chất béo tổng cộng 14.1 - Tro 14.5 - Calcium 3.71 - Phosphorus 3.01 - Magnesium 0.19 - Sodium 0.59 - Potassium 1.38 - Các khoáng chất khác (ppm=tỷ lệ phần triệu) : - Đồng 13 - Sắt 225 - Kẽm 165 - Manganese 17 - Selenium 0.82
- Về phương diện dinh dưỡng, cá long tong nhỏ, tỷ lệ thịt ít so với xương nên thường được ăn 'nguyên con', sẽ có được ưu điểm là trở thành một nguồn cung cấp lý tưởng về khoáng chất cho cơ thể nhất là Calcium và Phosphorus. Tỷ lệ chất đạm tuy khá cao nơi cá tươi nhưng thường bị biến chất qua những phương cách chế biến dùng nhiệt độ cao. Cá lòng tong trong ẩm thực Người dân nông thôn Nam Việt Nam có những món ăn đặc biệt chế biến từ những con cá tuy nhỏ nhưng rất nhiều và dễ đánh bắt' này. Tác giả Tạ Phong Tần, chuyên viết về các món ăn và sinh hoạt nông thôn miền Nam Việt Nam trong bài 'Cơm chiều kho cá lòng tong' đã giải thích về câu thơ Nam Bộ 'Chèo ghe bán cá lòng tong; Mũi chảy lòng thòng chẳng có ai mua' với ý nghĩa khôi hài về những chuyện 'trớt qướt' không ai làm khi chở các con cá nhỏ bằng gang tay bằng ghe thật lớn, đi bán tại các vùng mà thò tay cũng vớt được cá. Ngoài ra cũng còn một câu ví rất đặc biệt: ' Thiếp như con cá lòng tong Đói đem kho quẹt, đỡ lòng trống không'.
- Cá lòng tong thường dùng trong các món như lăn bột chiên, kho tiêu, kho quẹt (kho với nước mắm, đường trên lửa nhỏ đên khi đặc sệt gần như khô kẹo lại), nướng. Đặc biệt nhất là món Cá lòng tong nấu đọt cóc được ghi lại như sau: “ Bắc nồi nước sôi lên bếp; cá làm sạch để ráo nước. Khi nước sôi, cho cá và một nhúm đọt lá cóc đã được rửa sạch vào. Nước sôi vài dạo, nêm mắm muối, bột ngọt vừa ăn, bắc xuống, múc ra tô thêm chút tiêu bộ”. Món ăn cũng được mô tả là một vị chua độc đáo, khác hẳn vị chua của các loại canh khác nấu bằng me, lá giang hay bần... Người Thái Lan và Lào cũng chế biến cá dưới dạng cá chiên (cá lớn, bỏ ruột, đánh vảy). Cá nhỏ nướng nguyên con, ướp với nam pa (nước mắm lào), rau thơm và sả, quấn trong lá chuối rồi nướng trên bếp than trong 20 phút sau đó ăn với cơm nếp. Tại Xieng Khoang (Lào), còn có món Pa-ten: ăn cá lòng tong tươi chỉ nhúng trong nước súp nóng (nấu với nhiều loại rau thơm, sả, cá...), theo kiểu bò nhúng giấm. Tiến sĩ Dược khoa Trần Việt Hưng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chương 5.b: KỸ THUẬT NUÔI CÁ RÔ ĐỒNG (Anabas testudineus Bloch, 1792)
6 p | 370 | 127
-
Kỹ thuật nuôi cua biển bằng lồng bè
4 p | 361 | 89
-
Bệnh thường gặp ở cá trắm cỏ và biện pháp phòng trị part 1
24 p | 301 | 85
-
Biện pháp phòng trị bệnh thường gặp ở cá trắm cỏ
234 p | 169 | 48
-
Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt
54 p | 280 | 23
-
Kỹ thuật sinh sản cá Ngân Long
3 p | 176 | 18
-
Xác định tác nhân gây bệnh trương bóng hơi trên cá tra
20 p | 115 | 8
-
nuôi thủy sản trong lồng nổi hdpe: phần 1
76 p | 107 | 8
-
Sự biến động của một số chỉ tiêu hình thái của cá bống cát tối Glossogobius giuris phân bố ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
8 p | 31 | 6
-
Đánh giá hiện trạng chất lượng nước vùng nuôi cá tra trọng điểm thuộc tỉnh An Giang năm 2022
13 p | 16 | 5
-
Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long: Số 15/2019
93 p | 28 | 4
-
Tổng quan hiện trạng ngành nuôi biển Việt Nam
11 p | 10 | 4
-
Thử nghiệm các phác đồ điều trị bệnh u nang đường ruột do bào tử sợi Thelohanellus kitauei trên cá chép (Cyprinus carpio)
10 p | 27 | 3
-
Các thông số di truyền tính trạng tăng trưởng và tỷ lệ sống trên cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) thế hệ chọn giống thứ 6 tại đồng bằng sông Cửu Long
10 p | 41 | 3
-
Tải lượng ô nhiễm trong nước thải ao nuôi cá lóc (Channa striata) tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
10 p | 30 | 2
-
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi lồng cá mú chấm đen, epinephelus malabaricus, bằng cá tươi và thức ăn viên
8 p | 57 | 2
-
Đánh giá khả năng sinh sản của một số giống gà lông màu nuôi trong điều kiện gia đình nông thôn Thanh Hóa
9 p | 61 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn