Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

--0o0-- Chơng 1

chính sách tiền tệ trong nền kinh tế

thị trờng .

1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :

Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô

do Ngân hàng trung ơng khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của

mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trởng

kinh tế .

Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng: chính

sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm

thất nghiệp nhng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền

tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu t vào sản xuất kinh doanh từ đó

làm giảm lạm phát nhng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)

Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nớc thì

chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp

vào lĩnh vực lu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế

vĩ mô khác nh chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.

Đối với Ngân hàng trung ơng ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền

tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ

quốc gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.

1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :

*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay

giảm giá trị đồng tiền của nớc mình.Giá trị đồng tiền ổn định đợc xem xét trên 2 mặt: Sức

mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nớc)và sức mua đối

ngoại(tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hớng tới ổn định giá

trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì nh vậy nền kinh tế không thể phát triển

đợc,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.

*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hởng trực tiếp tới việc

sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hởng

tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận

một tỷ lệ lạm phát tăng lên.

*Tăng trởng kinh tế :Tăng trởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong

việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trởng đó

ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của

dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt đợc khi kết quả hai mục tiêu trên đạt

đợc một cách hài hoà.

Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời.

Nhng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau

thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt đợc các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW

trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.

1.3 Các công cụ của CSTT :

1.3.1.Nghiệp vụ thị trờng mở:

Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị

trờng mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lợng tiền cung ứng.

Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng

lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).

Nếu thị trờng mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi

lợng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi

ngay lợng tiền mặt trong lu thông(C)

Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trờng nên đây đợc coi là một công cụ

rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lợng chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ

với qui mô lợng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngợc tình

thế.Tuy vậy, vì đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các

chủ thể khác tham gia trên thị trờng và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có

sự phát triển đồng bộ của thị trờng tiền tệ ,thị trờng vốn.

1.3.2 Dự trữ bắt buộc:

Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do NHTW qui

định ,gửi tại NHTW,không hởng lãI,không đợc dùng để đầu t,cho vay và thông thờng đợc

tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng

thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng trực tiếp đến số nhân

tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm )

tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất

cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho lợng cung ứng tiền giảm (tăng).

Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nớc nên giúp NHTW chủ

động trong việc đIều chỉnh lợng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần

thay đổi một lợng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hởng tới một lợng rất lớn mức cung

tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp,

tốn kém và nó có thể ảnh hởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.

1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:

Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các

NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI chiết khấu (đối

với thơng phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ chiết khấu)

Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến

khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM

giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi

NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ

chiết khấu lại.

Ngoài ra, ở các nớc có thị trờng cha phát triển (thơng phiếu cha phổ biến để có thể

làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho

vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.

Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là ngời cho vay

cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế

kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc đIều

chỉnh cơ cấu đầu t đối với nền kinh tế thông qua việc u đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ

thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các

NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về

cung cầu vốn trên thị trờng.

Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lợng tiền cung ứng,trong một nền

kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần đến bất cứ một

công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các

giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt đợc mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các

công cụ điều tiết trực tiếp sau:

1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM

Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức d nợ của các NHTM không đợc vợt

quá một lợng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm

soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên

cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ

phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vợt quá hạn mức do NHTW quy

định .

Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lợng tiền

cung ứng,việc quy định pháp lý khối lợng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ

thuận chiều với qui mô lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.

Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát đợc lợng tiền cung ứng khi các công cụ

gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn

phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhợc điểm của nó rất lớn :

triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến

kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở

nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .

1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:

Khái niệm :NHTW đa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để

hớng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hởng tới qui mô tín dụng

của nền kinh tế và NHTW có thể đạt đợc quản lý mức cung tiền của mình.

Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hớng tăng hay giảm sẽ ảnh hởng

trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lợng tiền cung ứng thay

đổi theo.

Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của

từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi cha có điều kiện để phát huy tác dụng

của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền

kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải đợc hình thành từ chính

quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh

lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.

Chơng 2

Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.

2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.

Kể khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì quá trình thực hiện chính sách

tiền tệ cũng đợc xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực

tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:

Cách xác định lợng tiền cung ứng: Nếu nh trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan

niệm lợng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở

thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lợng tiền cung ứng

để thay đổi bên cạnh lợng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ

chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lợng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ

lệ lạm phát ớc tính, tốc độ tăng trởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ...

Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Đợc sử dụng một cách linh hoạt,

phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng

nh thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm...)

Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã đợc phân thành 2 cấp NHNN và các

NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân

hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách

nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.

2.2.1. Công cụ lãi suất:

ở Việt Nam, lãi suất đợc sử dụng nh công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu

tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá stập trung sang cơ chế thị trờng,

nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh

doanh.

Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất đợc thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết kiệm cao

hơn tốc độ trợt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các tổ chức kinh tế

tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát

(%)

Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát(%).

Từ T3/81- T10/91

1. Lãi tiết kiệm 3/89 6/89 7/89 2/90 IV/90 7/91 10/91

- Loại 3T 12 9 7 7 4 3,5 3,5

- Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1

2. Lãi cho vay vốn lu 6,8- 5,1- 3-4 3-4 1,8 1,8 2,1-

động 6,5 5,5 3,7

3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5

Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện đợc chủ trơng của Nhà nớc là đâỷ

lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn cho các xí nghiệp quốc

doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên bình diện toàn nền

kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu t vì lãi suất cho vay quá cao, vốn ngân

hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực : vay tiền chơi đề,

hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng

còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu giúp của Nhà nớc.

Việc thi hành chính sách lãi suất thực dơng đã đợc thực hiện nhng lại cha triệt để vì

thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động: Năm 1991 lãi

suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trợt giá bình quân 43,4% năm ; lãi suất cho vay

40,2% năm.

Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu đợc sử dụng nh công cụ chính của CSTT,

lãi suất thực dơng bắt đầu đợc duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt cùng với tỉ lệ lạm

phát và bám sát thị trờng (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-T8/1994 mức lãi suất đợc điều

chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế “sàn ” lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay và có một

bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi

cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%).

Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay để khuyến

khích đầu t phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã đợc sử dụng:

. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hớng tăng nhanh nguồn vốn có lãi suất

thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nớc ngoài, vốn ngân sách)

. Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ theo hớng

tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5% lên 8,5% năm

1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ theo biến động lãi mất

thị trờng TCQT SINGAPORE.

. Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho NHNN

tiến thêm một bớc trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất cho vay ngắn

hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi suất cho vay trung - dài hạn đợc

giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để các NHTM tuân thủ chênh

lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là 0,35% tháng.

Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn đợc cải cách theo hớng nâng lãi suất

tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân c cùng kì hạn để bảo đảm

lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gỉ tiền vào ngân hàng. Đồng thời

thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ

nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2%

lên 1,7% tháng.

Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM trong việc

ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín dụng thị trờng, tăng

sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo

điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu t theo mục tiêu chính sách tín

dụng.

Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất :“trần”

theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy

động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và

tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất

cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh

riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm

từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung- dài hạn giảm 21% năm xuống còn

16,2% năm.

Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn d thừa từ thành thị về nông thôn thì lãi suất

cho vay ở nông thông đợc duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay ở thành thị.

Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trởng kinh tế và phù hợp xu hớng giảm

lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn

giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng

xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35%

tháng(4,2% năm)

Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hớng lên giá và lãi xuất tiền gửi bằng USD ở

mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tợng ngời gửi

tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân c găm giữ USD gây khó

khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho thị

trờng tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ phần.

. Trớc tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 / QĐ-

NHNN1 với nội dung chủ yếu là:

- Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:

lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1- 1,25%

tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn.

Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích trữ USD ,tăng

vốn cho sản xuất kinh doanh.

- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm nh trớc đây

đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm

hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cờng cho việc quản lí

ngoại hối.

- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD đợc điều chỉnh giảm từ 8,5 % xuống

7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng thời góp phần

mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.

Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế

vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay trong

nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho

thấy mối tơng quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi đợc coi là tơng đối hợp lý. Từ đó,

quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ

tăng cao hơn. Thị trờng ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tơng đối ổn định.

Bớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trởng chững lại, để phù hợp với chỉ

số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trờng tiền tệ và thực hiện giải pháp kích cầu

về đầu t của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo

xu hớng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp

nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông

thôn- Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ ngời nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng

USD là 7,5% năm.

Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn biến của

nền kinh tế, kích thích tăng trởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát đang là chậm

lại tốc độ tăng trởng.

Năm 2000, lãi suất trong nớc có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ trơng

kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục đợc điều chỉnh theo xu

hớng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi

đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trờng tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi

suất thị trờng quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nớc cũng phải tăng theo (từ

3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.

Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ cơ

chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng

VND và cơ chế lãi suất thị trờng có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho

vay VND, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất cơ bản đợc công bố hàng tháng. Hiện

nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho

vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không

vợt quá lãi suất USD trên thị trờng liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí với cho

vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên

độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ

cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ

trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.

Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản nh trên cho thấy lãi suất cơ bản đợc xác định

trên cơ sở lãi suất thị trờng với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của

NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bớc tiến mới, bớc đi tiếp theo trong tiến

trình tự do hoá lãi suất.

Nh vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá

VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình ổn

định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và lòng tin của

dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng

bớc đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt Nam.

Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển cha cao, việc

sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là hoàn

toàn cần thiết và đúng đắn.

2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:

Đây là công cụ đợc coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kì đổi

mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát: Những năm 1990-

1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để khống chế lạm phát, NHNN chủ trơng

thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ đầu năm để giảm bớt lợng tiền cung ứng. Dựa trên một

số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/

năm), NHNN đa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng

so với năm trớc) . Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta đã đạt đợc kết quả thực

tế rất khả quan: mức tăng trởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm

phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.

ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH Ngoại thơng,

NH Công thơng, NH Nông nghiệp, NH đầu t phát triển) nhng sau vài năm đổi mới, do quy

mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lợng các NHTM ngày càng nhiều nên

NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm

1997 có 26 NHTM trong nớc phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nớc ngoài và

NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nớc)

nhng vẫn cha phải áp dụng hạn mức tín dụng.

Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính

sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa

phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tợng phổ biến là hầu hết các

NHTM đều có xu hớng vợt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng đợc giao, cụ thể .

Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).

1995 1996 1997 Quỹ T D

/1998 Năm

Danh mục KH giao Thực KH Thực KH Thực KH Thực

hiện giao hiện giao hiện giao hiện

Tăng so với 21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8%

năm trớc

Hiện tợng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng năm của

các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất yếu phải thực

hiện đầu t tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đờng để đầu t qua thị trờng tiền tệ,

thị trờng vốn là khó khăn trong điều kiện nớc ta lúc bấy giờ.

Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hớng giảm trần lãi suất cho vay trong khi

đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm lý

ngời dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất

huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25% tháng, thấp hơn so với trớc đây 0,3%-0,45%

tháng. Với chênh lệch nh vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt

động thì buộc các NHTM phải tăng d nợ đối với nền kinh tế.

Hiện tợng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995- 1997 mặc dù

lạm phát đợc kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ

tăng trởng cao 9,28% năm.

Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó

trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phơng tiện thanh toán vì lạm phát có xu hớng giảm

và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng

tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không

áp dụng công cụ này nh một công cụ thờng xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù

có thể coi nó nh một giải phóng tình thế khi cần thiết).

Công cụ này sẽ đợc xoá bỏ hoàn toàn khi thị trờng tiền tệ ổn định , thị trờng vốn phát

triển và thị trờng mở đi vào hoạt động có hiệu quả.

2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc

Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn đợc sử dụng sớm nhất ở Việt Nam

(từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30%

tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.

Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn

nhỏ bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB là

10%; đợc áp dụng cho các NHTMQD, NHTM cổ phần ,chi nhánh NH nớc ngoài,NH liên

doanh và các công ty tài chính.

Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10% nhất là các

NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này, trong năm 1994, NHNN đã

hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các

NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn:

13%;tiết kiện kì hạn 3,6 tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh

việc áp dụng quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.

Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ đợc tính đối với loại tiền gửi có

kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% đợc áp dụng cho tất cả các

NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ TDND tạm thời cha phải thực hiện).

Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên, lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong cơ cấu tiền gửi

DTBB; tiễn gửi DTBB đợc hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các NHTM vào một tài

khoản chung là tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền gửi dự trữ vợt đợc trả lãi

0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh dự trữ của

các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế lãi suất thị trờng và khối lợng tín

dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng hơn: Tiền

gửi DTBB tại NHNN đợc tính bình quân trong cả kì duy trì, tỷ lệ DTBB vẫn là 10%, tiền

dự trữ vợt đợc hởng lãi suất 0,2% tháng (bằng VND) và 4,86% năm (đối với USD). Đồng

thời NHTM nào thiếu tiền gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt theo mức 200% lãi suất

cho vay tái cấp vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích các NHTM thực hiện đúng

quy chế DTBB.

Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm 1999, quy chế

DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tợng áp dụng đợc mở rộng thêm (quỹ TDND, NH

hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay

cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trớc đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân

phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định.

Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB đợc điều chỉnh

nhiều lần theo xu hớng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu t, tiêu dùng.

Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999

Tỉ lệ DTBB (%) TCTD 1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99

1. NHTMQD, NHTM của đô thị, 10 7 6 5 5

chi nhánh NH nớc ngoài, NH

liên doanh & Công ty TC

- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3

2. NHTMCP nông thôn, NH hợp 0 5 4 1 1

tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.

3. TCTD có số d tiền gửi phải 0 0 0 0 0

tính DTBB dới 500trđ quỹ TDND

cơ sở, HTX tín dụng, NH phục

vụ ngời nghèo.

Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng,

giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các NHTM do lãi suất

giảm.

Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND nh năm 1999.

Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn chế việc các TCTD

huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động) để gửi ra nớc ngoài hởng chênh

lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nớc, ngày 1/10/2000 NHNN đã điều

chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dới 12 tháng là 8% kể từ kỳ

duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trơng trên ,ngày

1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2000.

Nh vậy, công cụ DTBB ngày càng đợc hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực của

NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.

2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu

ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã đợc sử dụng nh là một công cụ của CSTT ngay

từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì cha hội đủ những điều kiện nên việc áp

dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong

những năm gần đây nó đã trở thành công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu

của CSTT quốc gia.

Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu đợc thực hiện qua việc NHNN cho NHTM vay ngắn

hạn căn cứ vào khế ớc tín dụng ( có chất lợng ) do NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi

suất tái cấp vốn đợc xác định dựa theo lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và đợc

điều chỉnh linh hoạt theo mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu

kiềm chế lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua

việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM, riêng NH nông

nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngng tái cấp vốn cho các

NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và giảm cho vay tín dụng của các NHTM.

Nhờ đó, đến cuối 1995 d nợ cho vay chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với

1994. Năm 1996 ,để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH

đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trờng hợp tạm thời thiếu khả

năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn). Nhng áp dụng lãĩ suất

tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm đợc sự ổn định của hệ thống ngân

hàng, mặt khác hạn chế đợc khả năng cung ứng vợt qúa về tín dụng của các NHTM đồng

thời khuyến khích việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM

vay tiền của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, d nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng 3,5% so

với 1995.

Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phơng thức tái cấp vốn có thế chấp (bằng chứng

từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời trong thanh toán cho các

NHTM. Lãi suất tái cấp vốn đợc điều chỉnh từ quy định 100% lãi suất cho vay của các

NHTM đối với nền kinh tế sang quy định mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm

1997). Mức lãi suất tái cấp vốn quy định là 1,1% tháng, từ T8/1997là 0,9% ). Do trong

năm 1997 các NHTM đã tích cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn

tăng nên đến cuối 1997, d nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 1996.

Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự gia tăng lạm

phát do ảnh hởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã tăng lãi suất tái

chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,1% tháng.

Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trởng kinh tế, khắc phục nguy cơ giảm

phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng đầu

năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã đợc ban

hành để phát triển một bớc hiệu quả công cụ này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng

cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh đợc chiết

khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn

khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu đợc công bố là 0,45%

tháng.

Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của các

TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45% tháng

(31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời NHNN cũng giảm lãi suất tái

chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng (T3/2000) và xuống 0,35% tháng

(T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000 để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán

qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp

qua thị trờng mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trờng này, đồng thời tạo tín hiệu cho

các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái

cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng.

Nh vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần đợc áp dụng theo đúng bản chất của nó là

tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị trờng ở Việt

Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia...

2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trờng mở

Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở thông qua

việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN các loại giấy tờ có

giá ngắn hạn khác trên thị trờng tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia”

Trớc khi thị trờng mở chính thức đợc đa vào vận hành ở Việt Nam, NHNN đã từng

bớc tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát hành các loại tín phiêú, đó là:

Tín phiếu kho bạc Nhà nớc (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998 NHNN đã phối

hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc. Năm 1996, KBNN đã

phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó chủ yếu là phát hành trái phiếu

kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá trúng thầu năm 1997 là 2917,5 tỷ VND (37

đợt ); năm 1998 là 4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm

2000 là 4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tợng trúng thầu chủ yếu là các NHTM Quốc

doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo quy định của luật

NHNN thì các trái phiếu này không thể sử dụng làm công cho thị trờng mở đợc.

Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến thời điểm

tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức đợc 6 đợt phát hành tín phiếu NHNN. Các đợt này đều

đợc tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phơng tiện thanh toán và lạm phát có xu hớng

gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lu thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là

3.400 tỉ VND; phần lớn các tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng.

Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trơng đa nghiệp vụ thị trờng mở

vào hoạt động theo phơng hớng sử dụng nó nh là một công cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và

có hiệu quả của NHNN.

Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện đợc 17 phiên giao dịch thị trờng mở, trong đó

có 14 phiên mua đợc 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lợng chào mua với lãi suất trong

khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán đợc 550 tỷ đồng đạt 100% khối lợng chào bán

với lãi suất trong khoảng 4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng

qua thị trờng mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.

Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện đợc 3 phiên giao dịch mua đợc 160 tỉ

đồng chỉ đạt 50% khối lợng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6 %năm. Đã có 18 tổ chức tín

dụng đăng kí là thành viên của thị trờng (tuy vậy mỗi phiên giao dịch chỉ có thờng xuyên

từ 1 đến 3 thành viên tham gia)Phơng thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15

ngày -4tháng ) hoặc mua hẳn- bán hẳn.

Nh vậy,ở Việt Nam thị trờng mở đã tìm đợc con đờng đi riêng cho mình và tính u việt

của nó đã đợc phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định (đã giúp cho các NHTM đợc chủ

động hơn trong việc điều chỉnh lợng vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã

thực hiện đợc mục tiêu CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và

mang tính chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải đợc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.

2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những năm

qua.

2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.

*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng đợc ghi

nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ khối lợng tiền

cung ứng hàng năm và đó đợc xem nh một bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát,

ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống ngời dân

không ngừng đợc cải thiện.

Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phơng tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát

199 199 199 199 1995 199 1997 1998 1999 200

1 2 3 4 6 0

Năm

Chỉ tiêu

Tốc độ tăng 78 34 19,8 27,8 22,3 22,7 25,4 23,9 39,28 38

của

M2(%)

Tỷ lệ lạm 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6

phát (%)

Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bớc đợc điều chỉnh

phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần

đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập

khẩu.

Biểu 5: Tốc độ tăng trởng xuất nhập khẩu của Việt Nam

1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999

Năm

Chỉ tiêu

- Xuất khẩu 24 12 39 28 38 24 4 23,3

(%) =11.540 tr USD

- Nhập khẩu 9 53 48 24 54 -7 11 _

(%)

* Góp phần tăng trởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của nhân

dân vào đồng bản tệ, tạo môi trờng đầu t lành mạnh, thu hút đợc nguồn vốn đáng kể từ

trong và ngoài nớc. Đặc biệt việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt

buộc... của NHNN ở các giai đoạn cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh hởng tới việc huy

động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà

góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế liên tục qua các năm.

Biểu 6:Tình hình tăng trởng kinh tế (GDP) của Việt Nam

92 93 94 95 96 97 98 99 2000 9

1

Năm

Chỉ tiêu

6 DP (tỉ VND) 33.99 36.73 39.98 195.5 213.83 231.2 244.6 256.26 273.43

giá so sánh 1 5 2 67 3 64 76 9 9

1981-1994

Tăng trởng 6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7

6DP(%)

Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt

Nam đã góp phần đạt đợc hai mục đích thờng mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát

vừa tăng trởng kinh tế. Có đợc kết qủa này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô

khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta cha đạt đợc mức năng suất

biên của sản lợng tiềm năng trong nền kinh tế.

* Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm. Năm 1999 cả

nớc giải quyết đợc việc làm cho 1,2 triệu lao động và thực hiện chính sách xoá đói giảm

nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn (năm 2000,tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%).

2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT những

năm qua.

Trong những năm qua, chúng ta cha quan tâm đúng mức đến việc kiểm soát và điều

hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phơng pháp dự đoán không phù hợp, phơng thức

điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối

lợng tiền phát hành hàng năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phơng tiện thanh toán cho nền

kinh tế thông qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, cha đánh giá đúng khả

năng tạo tiền của các NHTM).

Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết sự tăng,

giảm khối lợng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian qua cũng bị hạn chế ở nhiều

mặt.

Nhóm các công cụ trực tiếp: Đợc sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết cung tiền thời

gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn

đầu nhng trong tơng lai sẽ không còn phù hợp nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã

bị loại bỏ từ quý II/98).

Lãi suất là công cụ đợc sử dụng thờng xuyên nhất trong điều hành CSTT ở Việt Nam

vừa qua. Tuy nhiên, cũng nh tình trạng ở các nứơc đang phát triển khác, ở Việt Nam lãi

suất không nhạy cảm lắm với đầu t. Điều này đợc thể hiện rõ rệt trong hai năm (1998,

1999) khi trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhng đầu t vẫn cha tăng mạnh, giá cả và sản

lợng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm (tuy điều này còn liên quan đến các

yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa).

.Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn (từ

1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay )đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng.Vì

lãi suất cho vay đợc điều chỉnh giảm (liên tục) trong khi đó lãi suất nhận gửi ở thời kì trớc

vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng.Việc

điều chỉnh theo xu hớng giảm trong thời gian qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng

cờng huy động vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh

toán trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng

bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến cho tổng số vốn huy động

của toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất ổn định

trong kinh doanh.

. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo của NHNN,

nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM.

. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị trờng vì thế nó có

tác dụng khẳng định hơn là hớng dẫn diễn biến thực tế. Mặt khác cơ sở để NHNN điều

chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trờng phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ

số giá cả thị trờng là chủ yếu, sự ảnh hởng của thị trờng vốn còn hạn chế)

. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải đợc hình thành trên cơ

sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trờng. Việc kiểm soát lãi suất của NHNN hiện nay chính

là một kiểu can thiệp giá của nhà nớc. Nếu cứ nh vậy sẽ là không phù hợp trong tơng lai

khi hệ thống thị trờng ở Việt Nam phát triển hoàn thiện hơn.

Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh NH T5/1990 )

chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này chỉ phù hợp trong thời kỳ

đầu nhng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu

linh hoạt song NHNN trong thời gian đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp

lệnh phải có thời gian.

Kể từ khi luật NHNN đợc thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có đợc điều chỉnh giảm đi (0-

20%) và linh hoạt hơn nhng theo nhiều chuyên gia đánh giá thì nó vẫn ở mức cao.

Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD cha nghiêm, tiềm ẩn các nguy

cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tợng phải áp dụng quy chế DTBB còn

cha đầy đủ, các đối tợng áp dụng thì mức độ tỉ lệ DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố

khộng hợp lý. Nh vậy NHNN vẫn cha thực sự tạo ra đợc một “sân chơi bình đẳng”đối với

các TCTD.

Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn chế, cha biểu

hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trờng, lãi suất tái cấp vốn, chúng ta đã

liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn cha thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả

biểu hiện còn khá khiêm tốn. Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay cha có một cơ chế

đầy đủ để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác

động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế.

Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng để thực hiện

nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thơng phiếu cha phát triển phổ biến trong các giao dịch

thơng mại; công cụ mà NHNN thực hiện nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu

NHNN. Theo lý thuyết, lơng tiền phát hành vào lu thông qua con đờng tái chiết khấu sẽ là

phù hợp hơn nếu nó đợc dựa trên các thơng phiếu(vì lợng tiền đó đợc bảo đảm bằng sự gia

tăng khối lợng hàng hoá của nền kinh tế) .

. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các NHTM

hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành tiền. Nó có thể đáp ứng nhu

cầu trớc mắt của các NHTM nhng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực trong qúa trình thực

hiện , cha kích thích sự năng động của các NHTM . Nh vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát,

gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia.

.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dờng nh chúng ta chỉ nặng về điều

chỉnh lãi suất chiết khấu mà cha chú ý đến “cửa sổ chiết khấu” của NHTW đối với các

NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của NHNN đối với các NHTM cũng phải

căn cứ vào thực lực của chính các NH đó).

Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng tính bao cấp ( u

tiên NHTMQD) do vậy vai trò “ngời cho vay cuối cùng” đối với mọi TCTD của NHNN

cha thực sự thể hiện rõ nét.

Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở: Về cơ bản thì đây cha thực sự trở thành một công

cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù theo lý thuyết vai trò của nó

là rất to lớn.

- Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:

. Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc,

phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính hành chính, các chủ thể tham

gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn

giản là giải quyết nguồn vốn khả dụng d thừa của họ.

. Việc mua bán lại tín phiếu còn cha phổ biến đối với công chúng khiến cho lợng tín

phiếu mà các TCTD sau khi mua đợc hầu nh lại nằm im trong két của họ điều đó cũng làm

giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị trờng sơ cấp.

.Trên thị trờng mở ,khối lợng giao dịch còn thấp , số thành viên tham gia cha nhiều

nên tác độngcủa thị trờng mở đến lợng vốn khả dụng của các NHTM còn rất hạn chế.

Nh vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hớng cơ bản và các giải pháp cụ

thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có hiệu quả ở Việt Nam.

Chơng 3

định hớng và giảI pháp hoàn thiện

các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam

3.1. Định hớng

3.1.1.Bối cảnh trong nớc và quốc tế

Bớc sang thế kỷ 21,đất nớc chúng ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển đó là :

sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh của đất nớc phục vụ cho sự

phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát

triển liên tục,cao thì lại đang có xu hớng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ

điều này.Lý do đợc giải thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc

xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu tơng

đối so với khu vực và thế giới .

Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt đẹp tạo cơ hội

để phát triển đất nớc ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các quốc gia trong khu vực và

thế giới ,tham gia nhiều hiệp ớc kinh tế nh AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp

với các tổ chức,định chế tài chính lớn nh IMF,WB,ADB..

Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có dấu hiệu

phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm qua.Đây là một trong những

nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trờng tàI chính tiền tệ ở nớc ta .

Trong xu hớng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao hiệu quả các

công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề còn phải lu tâm rất nhiều .

3.1.2. Một số định hớng cơ bản:

-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bớc hoà nhập với thông lệ quốc

tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định hớng của Đảng và Nhà nớc .

-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bớc một chuyển đổi từ việc sử dụng các công

cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn.

-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn đó là

thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác

để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .

3.2.Giải pháp :

3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trờng thuận lợi

-Việc hoạch định CSTT cũng nh các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh

thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trờng. CSTT cần đợc độc lập với chính sách

tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà

nớc.

-Thị trờng tiền tệ và thị trờng liên ngân hàng cần tiếp tục đợc củng cố và phát triển để

một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất

để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.

-Theo hớng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ thống NH để

đảm bảo một môi trờng cạnh tranh lành mạnh sôi động .

-Năng lực kỹ thuật của NHNN cần đợc nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập ,xử lý

thông tin và ra quyết định điều hành CSTT

-Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ chế thực thi

CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng đợc nghiêm minh và có hiệu quả hơn.

-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới

trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của

CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh

doanh ,thói quen sử dụng hoạt động thị trờng mở của các tổ chức tín dụng ...

3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ .

Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh nhanh chóng

hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn VN -phục vụ đắc

lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ phải đợc xây dựng và hoàn thiện

theo hớng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của

nhau .Cụ thể:

*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:

NHTN tuy không coi đây là một công cụ thờng xuyên nhng cũng cần phải theo

dõi tổng số d nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt

động này trong điều kiện cụ thể.

*Đối với công cụ lãi suất :

Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trờng trên nguyên tắc đảm

bảo lợi ích của cả ngời gửi tiền,tổ chức tín dụng và ngời vay tiền, tạo điều kiện tập

trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .

Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ

chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp;sự

biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu t; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị

trờng .

NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn

cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu t cho nền

kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hớng tăng hay giảm lãi suất

ngắn hạn trong từng thời kỳ .

Việc duy trì các mức lãI suất u đãi cho các đối tợng dân c gặp điều khó khăn là phù

hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các kênh tài trợ hoạt động này đặt

ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh.

Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý ,từng

bớc giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tợng “đô la hoá” trên đất Việt Nam .

Trớc mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những biểu

hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD đang gặp

phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản với

biên độ nh hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những hiện tợng thiếu tích cực

trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN có thể nên điều chỉnh giảm biên

độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía Nhà nớc nên có chính sách tài chính

phù hợp với các tổ chức tín dụng, các NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ

thuế vốn khá cao, do vậy thuế đánh vào các tổ chức tín dụng cần đợc điều chỉnh lại

cho phù hợp theo hớng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trớc thuế

Hiện nay chúng ta cha thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải hớng theo

mục tiêu đó và thực hiện từng bớc bởi một lẽ đó là xu hớng tất yếu và khi đó vai trò quản

lý vĩ mô của Nhà nớc bằng công cụ lãi suất vẫn đợc thể hiện qua sự định hớng theo tín

hiệu thị trờng .

* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :

-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung ứng tín dụng

cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ chế thị trờng thì NHNN cần phải

có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trờng cạnh tranh lành

mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên mở rộng đối tợng áp dụng qui chế dự trữ

bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đa ra phải phù hợp với diễn biến thị trờng tiền tệ ,với mục

tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín

dụng ở Việt Nam

- Cần phải có những biệp pháp tăng cờng kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc, đi

đôi với việc xử phạt nghiêm các trờng hợp vi phạm qui chế dự trữ để đảm bảo sự lành

mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT

-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự

trữ nh:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho

số tiền gửi d thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài

chính NHNN.

-Trong thời gian trớc mắt ,để thúc đẩy tăng trởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần

phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy

động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế .

-Trong tơng lai, khi thị trờng tiền tệ ,thị trờng vốn đã phát triển, các công cụ khác có

thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nớc nên có dự kiến

giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ đợc linh động, mạnh dạn hơn trong

hoạt động kinh doanh của mình .

* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:

-Thơng phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng thơng mại

trong nền kinh tế thị trờng ,ở nớc ta hiện nay các hình thức tín dụng thơng mại đã xuất

hiện,doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn ,giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa

các doanh nghiệp là rất lớn .Do vậy cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thơng phiếu

trong các quan hệ tín dụng thơng mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm

bảo ,trớc mắt đó là việc xúc tiến các hoạt động để đa pháp lệnh thơng phiếu (hiệu lực từ

1/7/2000) đi vào thực tiễn.

-NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái

cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh

mức cung tiền .

-Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng

đối tợng đợc vay chiết khấu để phát huy vai trò “ngời cho vay cuối cùng” của NHNN và

đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

- Phát triển thị trờng nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lợng) để NHNN có cơ sở

chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối

với hoạt động kinh doanh của các NHTM .Mặt khác ,cùng với xu hớng tự do hoá lãi suất

thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián

tiếp điều tiết lãi suất thị trờng một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế

* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trờng mở:

Phải phát triển thị trờng mở theo hớng đa nó trở thành một công cụ hữu hiệu ,linh

hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:

-Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến lạm phát lãi

suất ,đầu t...để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trờng mở nh thế nào

(mua bán tín phiếu) ,với lợng là bao nhiêu.

-NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tợng tham gia thị trờng mở và

linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trờng mở.

-Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trờng mở: làm đại lý phát hành

tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các

loại chứng chỉ tiền gửi...Muốn vậy NHNN phảI nắm đợc ( quản lý) đợc các hoạt động này

đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trờng mở.

-Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trờng

mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ

-Để thị trờng mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị trờng

khác đặc biệt là thị trờng tiền tệ liên ngân hàng và thị trờng thứ cấp

Kết luận

Nh vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng

trong nền kinh tế thị trờng nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các

công cụ đó nh thế nào sẽ có ảnh hởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời

điểm cụ thể.

ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trờng thì việc áp

dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong những năm

đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt

quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần

đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bớc sang một giai đoạn phát triển

mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới đợc đa vào sử dụng và cha thực sự

phát huy hết, hoặc cha thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực

của nền kinh tế.

Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hớng và giải pháp đúng trong việc hoàn

thiện các công cụ đó. Để có đợc điều này, bên cạnh sự định hớng đúng đắn của Đảng và

Nhà nớc, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM... và

nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.

Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam

phải đợc coi là cả một quá trình lâu dài và cần đợc tiếp tục phát triển về sau.