CẢI CÁCH THỂ CHẾ ĐỂ THÚC ĐY MÔI TRƯỜNG KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TO
Lê Quốc Anh*
1, Bùi Tố Quyên**, Lê Thị Trâm Anh***
TÓM TT: Đẩy mạnh khởi nghiệp giúp đưa nhanh lao động tham gia vào công cuộc phát triển, giúp hệ
thống doanh nghiệp (DN) Việt tăng nhanh về lượng, tăng mức thành công trong hội nhập sâu rộng. Trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, cần đẩy mạnh khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) để DN
mới tránh sở đoản là năng lực cạnh tranh chưa cao, tạo việc làm cho trí thức trẻ, cải thiện về chất cho hệ
thống DN quốc gia. Song không dễ, khi còn trở ngại về kiến thức, khả năng đầu tư, thiếu các quỹ, các nhà
đầu tư thiên thần, đầu tư mạo hiểm, kết nối, định hướng khởi nghiệp. Kỳ vọng lớn và “rẻ” nhất là cải cách thể
chế, để thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST, giải phóng các tiềm năng, phát huy sức sáng tạo... Muốn
vậy, cần cải cách thể chế chính trị cho kịp với đổi mới kinh tế, cải cách thể chế nhà nước để đổi mới quản trị
quốc gia, cải cách thể chế kinh tế để tăng tính thị trường, cải cách thể chế hành chính để giảm trói buộc sự
sáng tạo, cản trở kinh doanh... Nhất thể hóa các chức danh chính, bớt tầng nấc trung gian, giảm điều kiện
kinh doanh, thủ tục hành chính, loại công chức dưới chuẩn, thương mại hóa giáo dục đại học, tăng quyền
cho đầu tư tư nhân, cải cách chế độ đãi ngộ...
Từ khóa: Đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, thể chế
1. ĐẶT VẤN Đ
Công cuộc Đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã mang về cho đất nước nhiều thành tựu
to lớn quan trọng. Sau hơn 20 năm, các động lực đã không còn đủ mạnh để tiếp tục đưa nền kinh tế
tiến lên, các yếu kém tích tụ còn làm phát sinh nhiều vấn đề nan giải. Thời kỳ 2007-2013 bất ổn vĩ
dai dẳng, một phần do bốn trụ cột của hình tăng trưởng đã tận khai, nhưng không được đổi mới
kịp thời. Mức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp nhưng cứ tăng cung vốn tạo ra tăng trưởng phụ thuộc
đầu công, tích lũy rủi ro, làm “bong bóng” bất động sản nợ công “phi mã”. “Tử huyệt” chính
khu vực DN ít về lượng, năm 2007 mới có 149.000 DN, chất lượng chưa cao, quản trị yếu kém, hiệu quả
thấp. Đây nguyên nhân làm Việt Nam lỡ hội thành “con hổ châu Á”, thành “chú mèo ngủ đông”
(Phạm Chi Lan, dẫn theo Trần Đông, 2010) bất lực… Từ năm 2015 tới nay, nước ta có thêm 2 hiệp định
thương mại tự do (FTA) đi vào cuộc sống, 2 FTA đang chờ phê chuẩn, 1 FTA hoàn tất đàm phán, cùng
Cộng đồng kinh tế ASEAN đi vào hoạt động. Lộ trình hội nhập sâu rộng, cùng việc CMCN 4.0 phát triển,
tạo ra hội phát triển chưa từng có, khó lặp lại, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ phụ thuộc sâu vào nước
ngoài. Vì vậy, cần đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp để tăng số DN, nhất là khởi nghiệp ĐMST để góp
phần nâng cao chất lượng DN. Nhưng không dễ, khi hệ sinh thái (HST) khởi nghiệp ĐMST chỉ ở cấp độ
đang phát triển, nhiều lĩnh vực mới ở cấp độ sơ khai. Rào cản lớn là thể chế ngăn cản sự phát triển của
các thành tố trong HST; ảnh hưởng đến tác động của từng thành tố, từng tổ hợp thành tố hoặc toàn HST
* Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam, tác giả nhận phản hồi: Lê Quốc Anh. Tel.: +84394338968. E-mail address: lequocanh161@gmail.com
** Học Viện Tài chính, Việt Nam.
*** University of New south Wales, Australia
1056 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TO QUỐC GIA
đến DN khởi nghiệp ĐMST... Để làm sáng tỏ việc muốn hỗ trợ phong trào khởi nghiệp ĐMST cần cải
cách thể chế như thế nào, bài viết này tập trung nghiên cứu: (i) Thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST
quốc gia trong điều kiện hội nhập nước phát triển chưa cao, (ii) Thực trạng môi trường khởi nghiệp
ĐMST ở Việt Nam, (iii) Giải pháp cải cách thể chế nhằm thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cải cách thể chế và khởi nghiệp ĐMST các vấn đề đã được quan tâm nhiều năm trước đây nước ta,
song chỉ thực sự được chú trọng từ khi Việt Nam khởi động và tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992, thúc đẩy
phong trào khởi nghiệp khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực. Do thời gian chưa dài, vấn đề mới mẻ, nên ở nước
ta hầu như chưa nghiên cứu chuyên sâu cải cách thể chế để thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST.
Mặt khác, vấn đề thể chế là vấn đề mang nặng sắc thái quốc gia, nên chuyên đề này chỉ giới hạn trong việc
cải cách thể chế nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là trí thức trẻ, trong lộ trình khởi nghiệp ĐMST trên
lãnh thổ Việt Nam. Đây là chuyên đề phân tích trong lĩnh vực kinh tế, nên cơ sở lý thuyết chính được dùng
trong chuyên đề là kinh tế học, trong đó dựa nhiều vào kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế đầu tư, kinh tế
phát triển, kinh tế quốc tế, pháp luật đại cương, pháp luật kinh tế, quản trị DN… Mặt khác, chuyên đề tập
trung phân tích ảnh hưởng của cải cách thể chế tới môi trường đầu tư, kinh doanh của DN Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và CMCN 4.0 đang bùng nổ. Nên còn cần dựa vào các: văn kiện, quan
điểm chính thống của Đảng, Chính phủ về: môi trường đầu tư, phát triển DN, về hội nhập quốc tế, về ứng
phó với CMCN 4.0. Bên cạnh đó, cần các thông tin, nhìn nhận, đánh giá về các vấn đề trên, cùng các diễn
biến của chúng của các quan chuyên ngành, người tham gia, chuyên gia, nhà nghiên cứu trong các lĩnh
vực trên. Do chưa đủ khả năng và quyền hạn tiếp cận nguồn dữ liệu quốc gia, chính thống, nên các dữ liệu
chính được sử dụng trong chuyên đề chủ yếu thu thập từ các sách báo chuyên khảo, các website uy tín. Từ
tài liệu thu thập được, tiến hành nghiên cứu định tính, thông qua các phương pháp, như: phương pháp phân
tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, phương
pháp nghiên cứu lịch sử… Trên quan điểm duy vật biện chứng: dùng phép diễn dịch để suy đoán hệ quả tất
yếu, dùng phép so sánh để đưa ra nhận định trung gian, từ đó sử dụng phép quy nạp để đưa ra các kết luận,
tổng hợp lại để đề đạt các kiến nghị, giải pháp...
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THẢO LUẬN
3.1. Thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước phát triển chưa cao
3.1.1. DN khởi nghiệp ĐMST và môi trường khởi nghiệp ĐMST quốc gia
“DN khởi nghiệp ĐMST” hay gọi tắt “DN khởi nghiệp sáng tạo”, là thuật ngữ phổ biến ở nước ta trong
thời gian gần đây, được giới chuyên môn cho từ Việt hóa của “startup” trong lĩnh vực kinh tế, được dùng
rộng rãi trên thế giới. Trong từ điển của các nước Anh, Mỹ, startup được giải nghĩa là công ty mới thành lập;
còn theo Investopedia, startup là công ty ở trong giai đoạn đầu của quá trình hoạt động. Giai đoạn đầu này có
khi là 1-2 năm, thường là 3 năm, đôi khi đến 5 năm, kết thúc khi startup thu về lợi nhuận, tức được thị trường
chấp nhận, và “tốt nghiệp” [1]. Song khác với DN khởi nghiệp thông thường, DN khởi nghiệp ĐMST có tính
đột phá sáng tạo, là cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Mức ĐMST đến đâu
thì không nước nào quy định, tùy nơi tùy lúc, tùy mức độ phát triển, miễn đủ để được các chuyên gia
chấp nhận. Thường ĐMST trong sản phẩm, hoặc trong hình thức kinh doanh, phân khúc thị trường, công
nghệ, cách tiếp cận thị trường... nhưng phải cao hơn, khác lạ, để thành sản phẩm mới. Đồng thời, phải có tiềm
1057
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
năng lập lại và mở rộng nhanh chóng, sản phẩm phải có nhu cầu lớn trên thị trường, để khi kinh doanh có tiềm
năng tăng trưởng nhanh. Vì vậy, để phát triển được nhiều DN khởi nghiệp ĐMST, cần phải có môi trường chất
lượng cao hơn môi trường khởi nghiệp thông thường, môi trường khởi nghiệp ĐMST. Đó tập hợp toàn
bộ các thành phần vật thể và phi vật thể, bao quanh DN khởi nghiệp ĐMST, ảnh hưởng tới sự hình thành, phát
triển và hoạt động kinh doanh của DN đó. Nó dung dưỡng các ý tưởng sáng tạo, cung cấp cho các thành viên
sáng lập DN khởi nghiệp ĐMST tri thức, sự hỗ trợ, kinh nghiệm. Giúp các nhân sự tinh hoa, có tầm, tri thức
thực tiễn thể khởi nghiệp từ ý tưởng riêng, nhận đầu tư từ nhà đầu tư thiên thần, đầu tư mạo hiểm... Song,
môi trường này có sự phân dị, tạo thành các không gian phát triển, mỗi không gian với các thành phần tương
đối đồng nhất, khác với không gian khác, thường được xem là một HST khởi nghiệp ĐMST.
3.1.2. HST khởi nghiệp ĐMST quốc gia
Theo ITP (Khu Công nghệ Phần mềm ĐHQG – HCM), HST khởi nghiệp là một cộng đồng, bao gồm
các thực thể cộng sinh, chia sẻ bổ sung cho nhau, tạo nên một môi trường thuận lợi thúc đẩy sự hình
thành nên các DN khởi nghiệp ĐMST và tăng trưởng nhanh. Dù hoạt động tập trung trong một khu vực địa
lý cụ thể, nhưng HST khởi nghiệp không có giới hạn về vật lý, cũng không có cấu trúc thứ bậc. Vì vậy, bất
kỳ đâu có hạ tầng thì trong thời đại kỹ thuật số này đều nằm trong một HST khởi nghiệp nào đó, khác nhau
về cấp độ phát triển. Đó thể mới HST khai, hay cao hơn HST nền tảng; trạng thái phổ biến
HST đang phát triển hoặc HST cơ bản hoàn thiện; cao hơn nữa là HST hiệu năng cao, vài nơi có HST phát
triển mạnh mẽ; còn ở các trung tâm công nghệ là HST tiên phong. Tiêu thức đánh giá cấp độ phát triển của
HST tùy thuộc vào mức độ tập trung, tầm ảnh hưởng của các thành phần, tác động qua lại giữa chúng, hoặc
với DN khởi nghiệp ĐMST. Các thành phần chính đó bao gồm: (i) Chính sách của chính phủ; (ii) Khung
luật pháp và cơ sở hạ tầng; (iii) Nguồn vốn, tài chính; (iv) Văn hóa; (v) Các nhà tư vấn, cố vấn, hệ thống hỗ
trợ; (vi) Các trường đại học đóng vai trò xúc tác; (vii) Giáo dục và đào tạo; (viii) Nguồn nhân lực; (ix) Các
thị trường trong nước quốc tế [2]. Chúng thể hiện phương diện tác động của nhiều thực thể khác nhau
trong hệ thống kinh tế-xã hội, vừa tạo phông nền vừa đóng vai trò là nguồn cung giúp các DN khởi nghiệp
ĐMST hình thành và phát triển. Song, để có DN khởi nghiệp ĐMST, cần có các nhà khởi nghiệp, nên khi
xem xét sức mạnh của một HST khởi nhiệp cần đánh giá bốn nhóm mục tiêu của nó. Cụ thể là: (a) Chủ thể
thực hiện khởi nghiệp; (b) Các nhà cung cấp nguồn lực khởi nghiệp; (c) Các nhà kết nối khởi nghiệp; và (d)
Định hướng khởi nghiệp trong HST [2]. Tùy nơi tùy lúc, tùy giai đoạn và mục tiêu khởi nghiệp, mà vai trò
và mức độ ảnh hưởng của các thành phần có thể khác nhau, song khởi đầu cho DN khởi nghiệp ĐMST bao
giờ cũng là ý tưởng kinh doanh; và chỗ dựa đầu tiên là chính sách của Nhà nước.
3.1.3. Những cải cách thể chế cần làm để thúc đẩy môi trường khởi nghiệp ĐMST ở nước phát triển thêm cao
Để nhiều DN khởi nghiệp ĐMST cần thúc đẩy phong trào khởi nghiệp ĐMST, cách thúc đẩy
được các nhà khởi nghiệp mong đợi đầu tiên, nhiều nhất thường là giúp cải thiện môi trường khởi nghiệp.
Các cải cách thể chế cần làm để phục vụ cho mục tiêu đó thường là: (i) Chỉnh sửa để thể chế thêm cởi
mở, thông thoáng, tháo gỡ tối đa các rào cản, khuyến khích, hỗ trợ ĐMST, bảo vệ được quyền sở hữu trí
tuệ cho nhà ĐMST. Cần hỗ trợ tốt về tài chính theo hướng chấp nhận rủi ro cho các ý tưởng tốt khả thi về
công nghệ, có tiềm năng thương mại và thị trường, làm cho cơ hội phát triển thêm rộng mở. (ii) Tạo thể
chế đặc thù cho DN khởi nghiệp ĐMST, hỗ trợ tốt cho chúng trong thời kỳ non nớt, thuận lợi cho việc
lặp lại và mở rộng ở giai đoạn phát triển nhanh. Giúp nâng cấp dần môi trường khởi nghiệp ĐMST theo
hướng đồng bộ, có kết nối toàn cầu để kế thừa các ý tưởng đã có, tránh đổi mới lặp lại hoặc lỗi thời trước
các ĐMST đã có. (iii) Tạo hành lang pháp lý và cơ chế giúp các HST khởi nghiệp nâng cấp dần về chất
1058 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TO QUỐC GIA
lượng, tiến tới hoàn thiện, nhất với HST khởi nghiệp trọng điểm, tăng sự phối hợp giữa chúng. Hoàn
thiện dần về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng trách nhiệm của từng thành tố trong chín thành phần của
HST khởi nghiệp, theo chuẩn mực quốc tế, để phát huy ảnh hưởng đến khởi nghiệp. (iv) Đổi mới tổ chức,
chế nhân sự của các chủ thể tác động chi phối đến các thành tố trong các thành phần của HST
khởi nghiệp, để các quyết định có liên quan có chất lượng cao. Có chế tài mạnh, đủ sức răn đe trước các
quan, viên chức thừa hành để tác động của từng thành tố trong các thành phần của HST khởi nghiệp
không bị méo mó khi đi vào cuộc sống. (v) Thiết lập lại cơ chế phối hợp giữa các tổ hợp đối tượng để đi
đến loại trừ các can thiệp phi kinh tế từ bên ngoài vào từng thành phần, vào mối quan hệ và tác động của
chúng. Xây dựng các chính sách, quy định cụ thể cho từng nhóm mục tiêu trong từng HST khởi nghiệp
cụ thể, chế phối hợp giữa chúng để phục vụ tốt cho các mục tiêu, quá trình phát triển. Ngoài ra,
còn cần cơ chế điều chỉnh tác động gián tiếp, thu gọn đầu mối quản lý, phát triển các thị trường còn kém
phát triển, minh bạch thông tin, có chính sách thu hút đầu nhân, các cam kết về quyền lợi của nhà
đầu tư, khuyến khích khiếu kiện khi bị gây khó dễ...
3.1.4. Một vài kinh nghiệm quốc tế về thể chế trong khởi nghiệp ĐMST
Ở Malaysia, Chính phủ đã “rót” ngân sách từ vài chục triệu đến vài trăm triệu USD cho khoảng 15
quỹ đầu mạo hiểm, liên tục đồng hành cùng phong trào khởi nghiệp. Nhờ các chế hỗ trợ hữu
hiệu, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo phát triển rộng khắp, tạo đà cho sự phát triển rực rỡ của
cộng đồng khởi nghiệp ĐMST, đang phát triển rất bền vững. Singapore nhờ triển khai những động thái
mạnh mẽ để đầu tư cho khởi nghiệp, đã tạo nên hiệu ứng rất tốt trong việc thu hút sự tham gia của khối
nhân. Quyết tâm chính trị rõ ràng và sự minh bạch của Chính phủ, cùng nguồn nhân lực chất lượng, thạo
ngoại ngữ làm thị trường vốn nước ngoài phát triển nhanh, bền vững tạo ra làn sóng đầu tư khởi nghiệp
ĐMST mạnh mẽ. Israel, để thúc đẩy khởi nghiệp, Bộ Tài chính Israel đã cho triển khai chương trình
Yozma, đầu 100 triệu USD tạo ra 10 quỹ đầu mạo hiểm mới. Quỹ ba đại diện gồm nhà đầu
mạo hiểm Israel, một hãng đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài và một công ty đầu tư hoặc ngân hàng Israel,
nhờ đó đã tăng được thị phần đầu tư mạo hiểm toàn cầu gấp đôi so với châu Âu [3]. Bên cạnh đó, nước ta
cần tham khảo nhiều kinh nghiệm của Isarel với thương hiệu “Quốc gia khởi nghiệp”, đang là đất nước
đi đầu thế giới về khởi nghiệp ĐMST, và đã thu về nhiều thành quả ấn tượng. Các kinh nghiệm lớn cần
học là: (i) Chính phủ tham gia sâu vào ươm tạo các DN khởi nghiệp ở giai đoạn đầu, hỗ trợ tới 85% kinh
phí, nhưng chỉ mang tính “đầu mồi”, mở đầu cho nhân đầu thêm. (ii) Ngân sách đầu trung bình
600.000 USD trong vòng 2 năm cho mỗi dự án, nếu chưa thành công, có thể tiếp tục nộp hồ sơ xin đầu
tư tiếp 90% ngân sách đầu tư cho các startup thất bại, dùng tăng trưởng nhanh của các startup thành
công để bù đắp. (iii) Không ưu đãi về thuế trong thu hút FDI vào ĐMST, mà tập trung chính sách để nhà
đầu tư nhìn thấy cơ hội tốt, thấy thị trường, nên đồng hành cùng startup, để khai thác lợi nhuận tiềm tàng
tăng giá trị thương hiệu [4]. (iv) Israel cho rằng vai trò sinh tử trong phát triển quốc gia văn hóa,
tầm nhìn của giới tinh hoa, thể chế vĩ mô và chiến lược thực thi, được kích xúc bởi văn hóa khởi nghiệp.
Theo họ tinh thần sáng tạo là tư duy xé rào, cần xem sáng tạo có trách nhiệm như là năng lượng sống,
khi mọi người cùng nhau hành động, không gì là không thể (Dan và Saul, 2014, tr. 9-10). Ngoài ra, Israel
tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, dùng tầm nhìn thay kinh nghiệm định hướng tương lai;
cho rằng đóng góp lớn nhất của họ trong lịch sử là sự không hài lòng, dù không tốt cho chính trị, nhưng
tốt cho khoa học (Dan và Saul, 2014, các tr. 11 & 377).
1059
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
3.2. Thực trạng môi trường khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam
3.2.1. Môi trường khởi nghiệp ĐMST ở nước ta đã khá phát triển
Quy nền kinh tế Việt Nam năm 2017 khoảng 223,8 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt
2.385 USD, bản vượt qua giai đoạn phát triển theo nguồn lực. Mới bước vào giai đoạn đầu phát triển
dựa vào sử dụng hiệu quả các nguồn lực, còn xa mốc 9.000 USD/người để chuyển hẳn sang phát triển dựa
trên ĐMST. Song, so với mặt bằng chung ở mức thu nhập này, thì môi trường khởi nghiệp ĐMST quốc gia
ở Việt Nam đã có nhiều phát triển. Cụ thể: (i) Trình độ phát triển tương đối cao, số chủ thể thực hiện khởi
nghiệp ĐMST khá đông, hiện đã có khoảng 3.000 DN khởi nghiệp ĐMST, dự kiến đến năm 2020 sẽ tăng
lên khoảng 5.000 DN. Chỉ chiếm 0,5% số DN hoạt động, nhưng là lực lượng DN tiên phong, hứa hẹn giúp
nước ta hội nhập quốc tế thành công, hòa nhập nhanh vào CMCN 4.0, tạo tăng trưởng cao cho đất nước. (ii)
nhiều thành tựu trong việc xây dựng môi trường khởi nghiệp ĐMST quốc gia, hành lang pháp định
hình trên cơ sở vận dụng các mô hình khởi nghiệp của Mỹ, Phần Lan và Israel [4]. Nhiều DN khởi nghiệp
ĐMST gọi vốn thành công, điển hình là Momo thu hút được 28 triệu USD, F88: 10 triệu USD, Got It!: hơn
9 triệu USD, Vntrip.vn: 3 triệu USD; gần đây, DN Foody đã được SEA mua lại hơn 82% cổ phần với giá
hơn 64 triệu USD [5]... (iii) Các nhà cung cấp nguồn lực khởi nghiệp ĐMST ngày càng đông, bên cạnh các
Quỹ Sáng tạo CMC, FPT Ventures, Viettel Venture hay Quỹ tăng tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA); còn
hơn 40 quỹ đầu mạo hiểm như IDG Ventures, CyberAgent Ventures, Captii Ventures... Đầu thiên
thần Việt Nam đã bắt đầu kết nối, hình thành một số câu lạc bộ, mạng lưới đầu tư cho khởi nghiệp ĐMST,
như: VIC Impact, Hatch! Angel Network, iAngel hay Angel4us [5]... (iv) Hoạt động kết nối khởi nghiệp
thuận lợi do giới trẻ giỏi về công nghệ thông tin, thâm nhập được vào các mô hình kinh doanh mới, có sự
liên kết, hỗ trợ từ mạng lưới du học sinh từ nhiều trường đại học ngoại uy tín. Nguồn huấn luyện viên, cố
vấn khởi nghiệp phát triển nhanh về lượng, bắt đầu có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ, nhờ đó hơn 900 dự án
khởi nghiệp được ươm tạo với 300 sản phẩm khởi nghiệp đã được kết nối với cộng đồng các quỹ đầu
tư. (v) Định hướng khởi nghiệp ĐMST được triển khai rốt ráo, như Đề án 844 Hỗ trợ phát triển HST khởi
nghiệp ĐMST quốc gia, xây dựng cổng thông tin kết nối cho HST khởi nghiệp, cho các tổ chức hỗ trợ ươm
tạo... Ngoài ra còn triển khai Đề án Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp, Đề án Phát triển hệ tri thức Việt
số hoá xây dựng nguồn tài nguyên dữ liệu mở, tổ chức các Techfest, cập nhật và truyền bá những thông tin
về xu hướng của các công nghệ tiên phong...
3.2.2. Môi trường khởi nghiệp ĐMST ở nước ta còn nhiều hạn chế
So với đòi hỏi phát triển của các HST khởi nghiệp tương xứng với quốc gia GDP bình quân đầu
người theo sức mua tương đương (PPP) đạt khoảng 6.925 USD vào năm 2017, thì môi trường khởi nghiệp
ĐMST nước ta còn nhiều hạn chế. Thường trên thế giới, nước có thu nhập GDP bình quân trên 7.000 USD/
năm đã nghiêng hẳn về tăng trưởng theo ĐMST, trong khi môi trường khởi nghiệp ĐMST ở nước ta còn:
(i) Thể chế chính trị kép, cồng kềnh, nhiều ban bệ, có cấu trúc, chức năng vẫn y nguyên như vài chục năm
trước, nhiều chỗ vẫn theo cơ chế xin-cho, thân hữu, nhiều công chức thoái hóa, biến chất. Thể chế kinh tế
trói buộc, lúc đến 7.000 điều kiện kinh doanh, bình quân mỗi loại hình kinh doanh 26 điều kiện
“con” nay vẫn còn hơn nửa, làm thui chột sáng tạo, bóp nghẹt ý tưởng kinh doanh mới. (ii) Nhiều thành tố
trong các thành phần của HST khởi nghiệp bị xem nhẹ như văn hóa, hoặc lệch lạc, chưa tương thích với
kinh tế thị trường đầy đủ, như giáo dục và đào tạo, đầu tư mạo hiểm, thị trường khoa học-công nghệ. Ngân
hàng, trường đại học chưa có sự độc lập cần thiết, tương quan giữa các thành phần thiếu đồng bộ, chưa
sự phối hợp cần thiết, cát cứ về quyền lực, còn xung đột về lợi ích, từ đó tự làm giảm ảnh hưởng tích cực,