PHẦN A CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG THÚ Y

Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẨN ĐOÁN BỆNH

Tóm tắt chương: nội dung nói rõ một số khái niệm về chẩn đoán; các phương pháp chẩn đoán bệnh trong thú y. Mục tiêu: giúp cho sinh viên chuyên ngành Chăn nuôi – Thú y có những kiến thức cơ

bản trong khám bệnh cũng như các thuật ngữ chuyên ngành thường dùng 1.1. KHÁI NIỆM VỀ CHẨN ĐOÁN VÀ PHÂN LOẠI CHẨN ĐOÁN 1.1.1 Khái niệm chẩn đoán Chẩn đoán là phán đoán qua việc phát hiện, kiểm tra, phân tích, tổng hợp các triệu chứng để đưa ra kết luận chẩn đoán về bệnh gì và mức độ mắc bệnh.

Một chẩn đoán đầy đủ và chính xác cần phải làm rõ được các nội dung sau: Vị trí bệnh trong cơ thể Tính chất của bệnh Hình thức và mức độ của những rối loạn trong cơ thể bệnh Nguyên nhân gây bệnh Tuy nhiên, một quá trình bệnh diễn ra trong cơ thể thường phức tạp, chẩn đoán dù có tỉ mỉ đến đâu cũng khó phát hiện hết những thay đổi của các quá trình đó và trả lời được đầy đủ các nội dung trên. Chẩn đoán lâm sàng càng cẩn thận, tỉ mỉ dựa trên nhiều mặt thì càng chính xác.

Chú ý: Kết luận chẩn đoán có thể thay đổi theo quá trình bệnh. Gia súc có nhiều loại, đặc điểm sinh lý và các biểu hiện bệnh lý ở chúng cũng rất khác nhau. Phải cố gắng hiểu rõ và nắm được các đặc điểm sinh lý, các biểu hiện bệnh lý của từng loại gia súc, vận dụng thành thạo các phương pháp chẩn đoán thích hợp để rút ra một kết luận chính xác cho chẩn đoán. 1.1.2 Phân loại chẩn đoán

a. Phân loại theo phương pháp chẩn đoán Theo phương pháp người ta chia chẩn đoán ra thành: Chẩn đoán trực tiếp: Đây là phương pháp chẩn đoán dựa vào các triệu chứng chủ yếu. Biện pháp này chỉ thực hiện hiệu quả khi vật bệnh biểu hiện các triệu chứng đặc trưng, điển hình.

Ví dụ: Căn cứ vào các triệu chứng của trâu bò như lõm hông bên trái căng phồng, gõ vào thấy âm trống, con vật đau bụng, bồn chồn khó chịu,…để kết luận con vật bị chướng hơi dạ cỏ.

Chẩn đoán phân biệt: Đây là biện pháp tổng hợp tất cả các triệu chứng mà vật bệnh biểu hiện, sau đó phân tích, so sánh, liên hệ với các bệnh liên quan, dùng phương pháp loại trừ dần những bệnh có những điểm không phù hợp, cuối cùng còn lại một bệnh có nhiều khả năng mà bệnh súc cần chẩn đoán mắc nhất.

Chẩn đoán theo dõi: Trong một số trường hợp vật bệnh không biểu hiện các triệu chứng điển hình, do vậy ta không thể đưa ra được kết luận chẩn đoán sau khi khám mà phải tiếp tục theo dõi để phát hiện thêm những triệu chứng mới; thu thập thêm cơ sở, căn cư để kết luận chẩn đoán.

Chẩn đoán dựa vào kết quả điều trị: Nhiều trường hợp con vật có triệu chứng lâm sàng, mà triệu chứng này lại có ở hai hay nhiều bệnh khác nhau, khi khám ta rất khó kết luận là

1

bệnh nào. Khi đó ta dùng phác đồ điều trị một trong các bệnh đó và căn cứ vào kết quả điều trị để đưa ra kết luận chẩn đoán.

b. Phân loại theo thời gian chẩn đoán Theo thời gian chân đoán được chia làm các loại sau: Chẩn đoán sớm: Là đưa ra được các kết luận chẩn đoán ngay ở thời kì đầu của bệnh. Chẩn đoán sớm mang lại hiệu quả cao trong phòng và trị bệnh. Chẩn đoán muộn: Là các kết luận chẩn đoán được đưa ra vào thời kì cuối bệnh, thậm chí khi gia súc chết mổ khám mới chẩn đoán được bệnh.

c. Phân loại theo mức độ chính xác Theo mức độ chính xác chẩn đoán được phân ra làm các loại sau: Chẩn đoán sơ bộ: Là việc đưa ra các kết luận chẩn đoán ngay sau khi khám bệnh để làm cơ sở cho điều trị. Chẩn đoán sơ bộ đưa ra các kết luận chưa được chính xác, do vậy cần tiếp tục theo dõi vật bệnh để đưa ra các kết luận chẩn đoán chính xác hơn.

Chẩn đoán cuối cùng: Là việc đưa ra các kết luận chẩn đoán sau khi đã khám kĩ và căn cứ vào triệu chứng đặc trưng, sau một thời gian theo dõi cần thiết, căn cứ vào kết quả điều trị. Chẩn đoán nghi vấn: Đây là biện pháp thường gặp trong lâm sàng thú y, khi thấy một ca bệnh không có triệu chứng đặc trưng, điển hình, khi đó thường đưa ra các kết luận nghi vấn về bệnh để làm cơ sở cho điều trị. Kết luận nghi vấn cần được kiểm nghiệm thông qua việc theo dõi bệnh súc và kết quả điều trị. 1.2 KHÁI NIỆM VỀ TRIỆU CHỨNG VÀ PHÂN LOẠI TRIỆU CHỨNG 1.2.1 Khái niệm triệu chứng

Triệu chứng là những rối loạn bệnh lý do nguyên nhân bệnh gây ra như những biểu hiện khác thường về cơ năng (tăng nhịp tim, tăng huyết áp…) và những biểu hiện bệnh lý (ổ viêm, vết loét…). Triệu chứng xuất hiện khi nguyên nhân gây bệnh đủ sức làm rối loạn sự hoạt động bình thường của cơ thể.

Nhiệm vụ rất quan trọng của chẩn đoán là phát hiện triệu chứng của bệnh. Khi con vật mắc bệnh có thể biểu hiện rất nhiều các triệu chứng khác nhau, mỗi triệu chứng có một giá trị chẩn đoán nhất định. 1.2.2 Phân loại triệu chứng

a. Phân loại theo phạm vi biểu hiện Theo phạm vi biểu hiện, triệu chứng được chia làm hai loại sau: Triệu chứng cục bộ: Là những rối loạn bệnh lý xuất hiện ở một bộ phận hay một khí quan nào đó của vật bệnh.

Ví dụ: Khi con vật bị đau mắt: mắt có biểu hiện sưng đỏ, chảy nước mắt, nếu nặng chảy mủ, mắt sưng húp con vật không nhìn thấy được (hình 1.1)

Hình 1.1. Ngựa đau mắt

Triệu chứng toàn thân: Là những rối loạn bệnh lý xuất hiện do các phản ứng trên toàn bộ cơ thể đối với một nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ: Con vật có biểu hiện mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, sốt, rối loạn tuần hoàn. Như vậy, triệu chứng toàn than nói lên tình trạng cơ thể.

b. Phân loại theo giá trị chẩn đoán Theo giá trị chẩn đoán, triệu chứng được chia làm hai loại sau: Triệu chứng đặc thù: Là triệu chứng đặc trưng chỉ có ở một bệnh nào đó, khi gặp triệu chứng ấy thì chẩn đoán ngay được bệnh đó. Triệu chứng đặc thù chỉ có ở một số bệnh, không phải bệnh nào cũng có triệu chứng này. Ví dụ: Các dấu đỏ có hình: vuông, tròn, đa giác,…ở trên da của lợn trong bệnh Đóng dấu lợn là triệu chứng đặc thù (hình 1.2)

2

Triệu chứng chủ yếu và triệu chứng thứ yếu: Khi con vật bị bệnh nào đó có thể có nhiều triệu chứng. Trong đó, một số triệu chứng thường gặp hoặc đặc trưng trong bệnh đó, những triệu chứng này gọi là triệu chứng chủ yếu (có nhiều ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh). Một số triệu chứng khác ít gặp hoặc không đặc trưng gọi là triệu chứng thứ yếu (ít có ý nghĩa chẩn đoán).

Ví dụ: Khi con vật bị bệnh đường hô hấp thường có các triệu chứng chủ yếu là ho, khó thở,… có thể có các triệu chứng thứ yếu: rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, bỏ ăn…

Hình 1.2. Dấu son trên da lợn bệnh bệnh

Triệu chứng điển hình và triệu chứng không điển hình: Triệu chứng điển hình là những triệu chứng phản ánh quá trình phát triển điển hình của bệnh. Qua triệu chứng điển hình ta xác định được giai đoạn tiến triển của bệnh.

Ví dụ: Quá trình phát triển của bệnh thùy phế viêm thường có ba giai đoạn (xung huyết gan hóa, tiêu tan), tương ứng với ba giai đoạn này khi ta khám bằng cách gõ vào vùng phổi của con vật phát ra các âm như sau: Âm bùng hơi, âm đục, âm bùng hơi. Nhiều bệnh có những triệu chứng không hoàn toàn theo quy luật phát triển thường thấy của bệnh, những triệu chứng như vậy gọi là triệu chứng không điển hình.

Triệu chứng cố định và triệu chứng ngẫu nhiên: Triệu chứng cố định là triệu trứng thường có trong một số bệnh. Triệu chứng ngẫu nhiên là triệu chứng có lúc xuất hiện, có lúc không trong một bệnh nào đó. Ví dụ: Âm ran trong một số bệnh như viêm phế quản phổi, thùy phế viêm, viêm phổi hoại thư và hóa mủ,… là triệu chứng cố định. Trong bệnh viêm dạ dày ca ta mạn tính con vật đôi khi có triệu chứng thần kinh (run giẩy hoặc co giật), đó là triệu chứng ngẫu nhiên.

Triệu chứng trường diễn và triệu chứng nhất thời: Triệu chứng trường diễn là triệu chứng xuất hiện trong suốt quá trình bệnh. Triệu trứng nhất thời chỉ xuất hiện trong một giai đoạn tiến triển của bệnh.

Ví dụ: Trong bệnh viêm phế quản phổi, con vật ho suốt quá trình bệnh, lúc đầu là ho khan và ngắn, con vật có cảm giác đau. Sau đó tiếng ho ướt và kéo dài, con vật bớt đau. Như vậy, ho là triệu chứng trường diễn trong bệnh này. Khi nghe vùng phổi, lúc đầu thấy âm ran ướt sau thấy âm vò tóc, như vậy âm ran là triệu chứng nhất thời. Hội chứng: Là triệu chứng chung cho nhiều bệnh, thường gồm nhiều triệu chứng xuất hiện chồng lên nhau. Ví dụ: Hội chứng hoàng đản, hội chứng tiêu chảy, hội chứng đau bụng ngựa, hội chứng

ure huyết,… 1.3 KHÁI NIỆM VỀ TIÊN LƯỢNG VÀ PHÂN LOẠI TIÊN LƯỢNG 1.3.1 Khái niệm tiên lượng

Tiên lượng là việc người khám đưa ra các dự kiến về thời gian kéo dài của bệnh, các bệnh kế phát có thể xảy ra, khả năng cuối cùng của bệnh,… sau khi đã khám bệnh kĩ lưỡng và nắm chắc tình hình bệnh. Chẩn đoán bệnh là kết luận của hiện tại, còn tiên lượng là đưa ra các dự kiến trong tương lai.

Tiên lượng là một công việc phức tạp, đòi hỏi phải có sự suy xét nhiều mặt. Tiên lượng không chỉ đánh giá vật bệnh sống hay chết, khỏi hay không khỏi mà còn phải tính đến tốn kém bao nhiêu, có kinh tế hay không… Do vậy, tiên lượng rất có ý nghĩa trong điều trị lâm sàng thú y. Để đánh giá tiên lượng được tốt, người bác sĩ thú y phải vững về chuyên môn, giàu kinh nghiệm công tác và am hiểu về kiến thức kinh tế, xã hội. 1.3.2 Phân loại tiên lượng Tiên lượng gồm có các loại sau:

3

Tiên lượng tốt: Bệnh súc có khả năng khỏi bệnh, khôi phục được sức khỏe, khôi phục được khả năng sản xuất và vẫn giữ được giá trị kinh tế.

Tiên lượng không tốt: Bệnh súc chết hoặc không có khả năng khỏi bệnh hoàn toàn, mất khả năng sản xuất hoặc mất năng lực làm việc. Nếu điều trị khỏi cũng mất nhiều thời gian và tiêu tồn nhiều tiền của.

Tiên lượng nghi ngờ: Là trường hợp bệnh súc có biểu hiện bệnh phức tạp, triệu chứng không điển hình, không đủ cơ sở để đưa ra đánh giá tiên lượng về bệnh. Tuy nhiên, một số trường hợp cần cần có kết luận tiên lượng để có biện pháp sử lí tiếp, nhưng kết luận đó không chắn chắn, đó là tiên lượng nghi ngờ. 1.4. PHƯƠNG PHÁP GẦN VÀ CỐ ĐỊNH GIA SÚC 1.4.1 Phương pháp gần gia súc Để đảm bảo cho người và gia súc khi khám bệnh và trị bệnh cho gia súc phải biết các tiếp cận gia súc.

Trước khi tiếp xúc với gia súc cần phải hỏi kĩ chủ gia súc để biết được tính của con vật như con vật có hay cắn, hay đá không,… Người khám khi gần gia súc phải có thái đội ôn hòa, bình tĩnh, động tác nhẹ nhàng dứt khoát, không nên có những động tác thô bạo làm cho gia súc sợ sệt, phản ứng mạnh.

Đối với trâu bò và ngựa: Để tiếp cận, người khám nên đứng trước gia súc, cách khoảng 1 m, rồi từ từ tiến lại gần, một tay cầm dây cương (ngựa) hoặc dây mũi (trâu bò), tay kia xoa hoặc vỗ nhẹ nhàng để làm quen với con vật.

Đối với chó: Để tiếp cận người khám nên biết tên con vật và dùng thức ăn. Đối với lợn: Nên dùng thức ăn để tiếp cận. 1.4.2 Phương pháp cố định gia súc

a. Ý nghĩa của việc cố định gia súc Để tiến hành tốt các thao tác: tiêm, lấy máu, băng bó vết thương, làm các phẫu thuật ngoại khoa như mổ dạ cỏ, thiến trâu bò đực… hoặc để cho chúng uống thuốc người cán bộ thú y thường phải bắt giữ và cố định chúng (trâu, bò, lợn…). Hiệu quả của các công việc trên phụ thuộc rất lớn vào khâu cố định gia súc.

b. Các khâu chuẩn bị để cố định gia súc Kiểm tra kỹ các dụng cụ dùng để cố định như dây thừng, gióng gia súc,… xem có đủ và chắc chắn không.

Phải biết sơ qua về tính tình con vật trước khi tiếp xúc. Phải làm quen gia súc, phải thao tác nhanh nhẹn, dứt khoát, nhưng cũng tránh những động tác quá thô bạo làm cho gia súc sợ hãi hoặc phản ứng mạnh làm khó khăn cho viêc cố định chúng.

Hình 1.3. Kẹp cổ và 2 nút dây thắt

c. Một số phương pháp cố định gia súc * Đối với trâu bò Phương pháp kẹp cổ: Chọn 2 đoạn tre hoặc 2 đoạn cây chắc chắn, chôn xuống đất chéo nhau. Phía trên buộc lại tạo ra một khe vừa đủ cho trâu, bò chui qua (cũng có thể lợi dụng những cây có 2 chẽ phù hợp để cố định). Khi cố định trâu, bò thít chặt 2 dây ở 2 nút A, B. Có một người giữ thừng mũi (hình 1.3).

4

Hình 1.4. Cột hình số 8 sừng trâu vào cột hoặc gốc cây. Phương pháp cố định đứng (Cố định trâu bò trong giá 4 trụ) Phần đầu và phần cổ được kẹp và buộc chặt (hình 1.5) để gia súc chỉ đứng tại chỗ,

Phương pháp cột cố định và buộc sừng hình số 8 Chọn một gốc cây tự nhiên hoặc chôn một cột gỗ chắc chắn. Ghì trán trâu, bò vào sát cột và buộc sừng vào cột theo hình số 8, thít chặt sừng vào cột. Cần có một người giữ mũi trâu và đầu dây thừng số 8 để trâu đứng yên khi tiêm hoặc thực hiện các thủ thuật khác (hình 1.4)

không tiến lên, cũng không lùi lại được.

Hình 1.5. Giữ trâu bò đực trong giá 4 trụ để thiến

Hai chân sau dùng thừng buộc theo hình số 8. Phần ngực và bụng dùng dây thừng chắc buộc đỡ vào gióng. Không cho gia súc nằm xuống để dễ dàng thực hiện phẫu thuật hoặc khám bệnh.

Phương pháp vật trâu bò Trong một số phẫu thuật ngoại khoa bắt buộc phải vật ngã trâu, bò để cố định chúng. Có nhiều phương pháp vật trâu bò. Thường dùng phương pháp sau:

Chuẩn bị buộc: Lấy một dây thừng thật chắc chắn dài 5 – 6 m. Một đầu thừng buộc cố định vào hai sừng gia súc, phần còn lại cuốn lần lượt làm 2 vòng (hình dưới). Một vòng sau nách và một vòng trước đùi gia súc. Đoạn còn lại kéo thẳng dọc theo thân gia súc (hình 1.6)

Vật gia súc: Tiến hành theo trình tự sau: Một người khoẻ mạnh giữ 2 sừng để bẻ đầu con vật ngược theo chiều định cho con vật ngã.

Hai hoặc 3 người kéo đoạn dây thừng còn lại theo chiều dọc thân gia súc. Chú ý: Phải có sự thống nhất giữa người bẻ đầu gia súc và những người kéo thừng ở phía sau. Trước khi vật phải kiểm tra mặt đất không gồ ghề, không có gạch đá và không nên cho gia súc này ăn quá no.

5

Hình 1.6. Phương pháp vật bò để cố định

Khi con vật nằm xuống phải có người đè chặt đầu và ghìm sừng con vật xuống sát đất. Lấy dây thừng khác buộc hai chân sau và hai chân trước của trâu bò chụm lại với nhau. Dây thừng phải buộc sao cho khi không cần dùng nữa, cởi ra một cách dễ dàng nhanh chóng.

Hình 1.7. Cố định nghé (túm chân vật nằm)

Đối với bê nghé Người ta thường túm chân vật nằm, đè cố để cố định chúng (hình 1.7).

Hình 1.8. Phương pháp cố định dê

* Đối với dê cừu Để cố định, người ta thường đứng dọc theo chiều con vật hai chân hai bên kẹp vào 2 thành bụng, hai tay nắm chặt sừng con vật (hình 1.8)

6

Hình 1.9 A. Phương pháp cố định lợn

Hình 1.9 B. Phương pháp cố định lợn lớn

* Cố định lợn Đối với lợn lớn Lợn được cố định bằng cách lồng một thòng lọng vào hàm trên, sau đó lồng tiếp thòng lọng thứ 2 quanh mõm để giữ cho hàm của nó đóng lại (hình 1.9 A)

Hình 1.10. Phương pháp cố định lợn con (túm chân lợn kẹp giữa hai đùi)

Đối với lợn con Người ta thường dùng phương pháp túm chân lợn kẹp giữa hai đùi để cố định lợn con (hình 1.10)

*Cố định chó Đầu tiên phải đeo rọ mõm hoặc bộc mồm chó, sau đó dùng dây vải cho vào mồm, phía trong răng nanh, rồi buộc hàm dưới lại, vòng dây buộc lên hàm trên, cuối cùng thắt nút lại ở phía sau cổ (hình1.11)

7

Hình 1.11. Phương pháp rọ mõm chó

*Cố định gà Đối với gà lớn: Dùng bàn tay trái luồn xuống dưới lườn rồi nhấc gà ra khỏi chuồng. Hoặc dùng tay phải túm lấy 2 chân gà nhấc ra khỏi lồng. Sau đó đặt gà xuống, tay phải cố định 2 chân gà. Tay trái nhẹ nhàng mở cánh gà ra để người thứ 2 làm các

thao tác như chủng… Đối với gà con: Đặt gà con trong lòng bàn tay trái, dùng ngón trỏ và ngón cái cố định cổ gà để đầu gà hướng lên trên cho tiện việc nhỏ thuốc vào mắt, mũi gà hoặc cho gà uống thuốc.

1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH

Để khám bệnh cho gia súc có rất nhiều các phương pháp khác nhau. Các phương pháp khám bệnh cho gia súc được chia làm hai nhóm gồm các phương pháp khám cơ bản: quan sát (nhìn), sờ, nắn, gõ, nghe và các phương pháp khám bệnh đặc biệt: xét nghiệm, X – quang, siêu âm, nội soi,…

H.1.12.phương pháp quan sát

Phần lớn triệu chứng được phát hiện nhờ các phương pháp khám cơ bản, tuy nhiên khi mắc bệnh con vật còn có những biểu hiện phi lâm sàng, những biểu hiện này chỉ có thể phát được nhờ các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm bằng các phương pháp khám đặc biệt. 1.5.1 Các phương pháp khám cơ bản a. Phương pháp quan sát Đây là phương pháp khám bệnh đơn giản nhưng chính xác, được sử dụng rộng rại trong lâm sàng thú y, là phương pháp được sử dụng trước tiên trong chẩn đoán bệnh gia súc. Qua phương pháp này ta có thể biết được trạng thái gia súc, cách đi đứng, màu sắc và tình trạng lông da, niêm mạc và các triệu chứng khác của con vật. Đồng thời quan sát giúp ta đánh giá được chất lượng đàn gia súc, sàng lọc được những con có nghi vấn mắc bệnh.

Khi quan sát tùy theo mục đích và vị trí nhìn mà ta đứng xa hay đứng gần gia súc. Nhìn chung ta nên quan sát từ xa đến gần, từ tổng quát đến bộ phận (hình 1.12) Nhìn toàn thân: là quan sát trạng thái, thái độ, cử động, tình hình dinh dưỡng, dáng điệu,… của gia súc.

Nhìn cục bộ: nhìn lần lượt từ trước ra sau, từ trái qua phải, lần lượt các cơ quan bộ phận như đầu, cổ, lồng ngực, vùng bụng, bốn chân… để phát hiện những biến đổi bất thường nếu có như vết thương, vết loét, mụn, nốt, nước mắt, nước mũi, dử, lông rụng,…

Nên quan sát nhờ ánh sáng ban ngày, nếu buổi tối hoặc thiếu ánh sáng có thể sử dụng ánh sáng điện hoặc đèn chiếu. Cần quan sát đối chiếu, so sánh giữa hai bộ phận tương ứng của

8

H 1.13. phương pháp sờ nắn

con vật: hai bên mông, hai bên thành bụng, hai bên ngực, hai bên chân… và có sự so sánh giữa cơ quan tổ chức đau với cơ quan tổ chức lành để thấy được những biến đổi bất thường.

b. Phương pháp sờ nắn Sờ nắn là phương pháp dùng cảm giác của ngón tay, bàn tay để kiểm tra chỗ khám, xác định nhiệt độ, độ ẩm, trạng thái… và sự mẫn cảm của tổ chức cơ thể gia súc. Sờ nắn cũng biết được cảm giác của con vật khi đau. Qua sờ nắn người khám còn xác định được tình trạng mạch của gia súc, sờ nắn để đo huyết áp, để khám trực tràng. Do vậy, sờ nắn là phương pháp thường dùng trong thú y (hình 1.13). Sờ nắn có hai cách sau: Sờ nắn nông: là việc sờ nắn những cơ quan bộ phận nông để biết được ôn độ, độ ẩm của da, lực căng của cơ, tần số hô hấp, nhịp tim… Sờ nắn sâu: dùng để khám các khí quan, tổ chức sâu trong cơ thể gia súc (ví dụ: Sờ nắn dạ cỏ trâu bò). Khi sờ nắn kiểm tra các khí quan, tổ chức của cơ thể gia súc, nhờ cảm giác tay ta có thể nhận biết các trạng thái sau:

Dạng rất cứng: Như sờ vào xương. Dạng cứng: Như sờ vào gan, thận. Dạng bột nhão: Cảm giác mềm như bột, ấn tay rồi bỏ ra để lại vết. Dạng này thường do tổ chức bị thấm ướt (ví dụ: bị thủy thũng). Dạng ba động: Khi sờ thấy cảm giác lùng nhùng, di động, ấn vào giữa thì lõm xuống. Dạng này là do tổ chức mất đàn tính vì thấm đầy nước (Ví dụ: Các tổ chức bị mưng mủ).

Dạng khí thũng: Sờ vào thấy cảm giác mềm, chứa đầy khí. Ấn mạnh vào tổ chức nghe thấy tiếng kêu lép bép do khí lấn sang phần tổ chức bên cạnh. Dạng này có thể do tổ chức tích khí hoặc có túi không khí.

Sờ nắn là phương pháp khám bệnh đơn giản, tuy nhiên để sờ nắn mang lại hiệu quả cao đòi hỏi người khám phải nắm vững về vị trí giải phẫu và có kinh nghiệm trong chẩn đoán bệnh.

c. Phương pháp gõ Gõ là phương pháp khám bệnh cơ bản, mà cơ sở của nó là ẩm hưởng, âm thanh do các vật thể chấn động tạo ra. Các vật thể khác nhau, ở trong các trạng thái khác nhau khi gõ sẽ cho các âm thanh khác nhau. Do vậy, các khí quan tổ chức khác nhau trong cơ thể gia súc có cấu tạo và tính chất khác nhau nên khi gõ sẽ phát ra các âm thanh khác nhau. Trong trạng thái bệnh lí, các cơ quan tổ chức cũng thay đổi về tính chất, khi đó âm phát ra khi gõ sẽ thay đổi.

Kỹ thuật gõ Tùy theo gia súc cần khám bệnh lớn hay nhỏ mà ta có thể áp dụng các phương pháp gõ sau: * Gõ trực tiếp: Dùng ngón trỏ và ngón giữa của tay thuận gõ theo chiều thẳng đứng

Hình.1.14. búa gõ và bản gõ

(vuông góc) vời bề mặt của tổ chức khí quan cần khám. Với cách gõ này, lực gõ không lớn, âm phát ra nhỏ, thường áp dụng với gia súc nhỏ. * Gõ gián tiếp: là các phương pháp gõ qua một vật trung gian

Gõ qua ngón tay: Dùng ngón giữa và ngón trỏ tay trái đặt sát lên bề mặt tổ chức khí quan cần khám của gia súc, ngón giữa và ngón trở của tay phải gõ lên vuông góc với hai ngón tay trái. Phương pháp này thường áp dụng để khám cho các loài gia súc nhỏ: dê, cừu, chó, mèo,…

9

Gõ bằng búa qua bản gõ Búa gõ có kích thước và trọng lượng khác nhau tùy theo vóc dáng của gia súc. Đối với gia súc nhỏ thường dùng loại búa có trọng lượng nhẹ từ 60 – 75 gam, gia súc lớn dụng loại búa nặng hơn 120 – 160 gam (hình 1.14)

Bản gõ được làm cùng vật liệu với búa gõ, có thể bằng gỗ, sừng, nhựa hay kim loại. Bản gõ có loại hình vuông, hình tròn dài, hình chữ nhật,… sao cho thuận tiện, dễ thao tác, áp sát được vào thân con vật.

Cách gõ: Tay trái cầm bản gõ (phiến gõ) đặt sát lên bề mặt khí quan tổ chức của gia súc cần khám. Tay phải cầm búa gõ, gõ dứt khoát từng tiếng một. Lực gõ mạnh hay nhẹ phụ thuộc vào tổ chức cần gõ to hay bé, ở nông hay sâu. Khi gõ mạnh, các chấn động có thể lan trên bề mặt cơ thể từ 4 – 6 cm, sâu đến 7 cm, còn nếu gõ nhẹ các chấn động lan 2 – 3 cm và sâu 4 cm. Khi gõ nên để gia súc ở nơi yên tĩnh, không có tạp âm để tránh làm lẫn tạp với âm gõ. Do vậy, nên để gia súc ở trong phòng có diện tích phù hợp và đóng kín cửa.

* Những âm gõ Tùy theo đặc điểm và tính chất của các tổ chức, khí quan khi gõ ta có thể thấy các âm sau:

Âm trong: âm này vang mạnh, âm hưởng kéo dài Ví dụ: Khi gia súc khỏe mạnh nếu ta gõ vùng phổi và vùng manh tràng thí ấm phát ra sẽ trong.

Âm đục: âm này có tiếng vang yếu và ngắn Ví dụ: Khi gõ vùng gan hoặc vùng có bắp cơ dày sẽ phát ra âm đục. Khi phổi bị thùy phế viêm ở giai đoạn gan hóa ta gõ cũng sẽ nghe thấy có âm đục. Âm đục tương đối: là âm phát ra khi ta gõ vùng rìa phổi, vùng quanh tim hoăc vùng

phổi bị xung huyết (vừa chứa nước vừa chứa khí)… Âm trống: là những âm to nhưng không vang Ví dụ: Âm phát ra khi ta gõ vào vùng dạ cỏ hoặc vùng manh tràng ở gia súc nhai lại khỏe mạnh.

d. Phương pháp nghe: nghe là phương pháp dùng trực tiếp tai hoặc qua dụng cụ chuyên dụng để nghe những âm phát ra từ các khí quan bộ phận của của cơ thể gia súc như tim, phổi, dạ dày, ruột,…để biết được trạng thái và sự hoạt động của các cơ quan, bộ phận đó.

Hình 1.15. Nghe tim bò

* Các phương pháp nghe: có hai phương pháp nghe Nghe trực tiếp: là các dùng trực tiếp tai, áp sát vào cơ thể gia súc để nghe, người nghe có thể dùng một miếng vải hoặc miếng khăn sạch phủ lên vùng cần nghe trên cơ thể gia súc để giữ vệ sinh.

Khi nghe phần ngực của gia súc thì người nghe quay mặt về phía đầu gia súc, còn khi nghe phần bụng của gia súc thì người nghe quay mặt về phía sau của con vật. Khi nghe tay bên trong của người nghe đặt lên sống lưng của con vật.

Nghe gián tiếp: Đây là phương pháp nghe qua ống nghe. Hiện nay người ta thường dùng ống nghe hai loa có độ phóng đại âm thanh lớn, sử dụng thuân lợi nhưng dễ lẫn tạp âm, làm tính chất âm thay đổi (hình 1.15)

* Điều kiện nghe Khi khám gia súc bằng phương pháp nghe phải thực hiện các điều kiện sau: Để gia súc ở nơi yên tĩch, tránh gió to, không làm gia súc rung da, gia súc phải đứng ở tư thế thoải mái. Nghe lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, ở mỗi vị trí phải nghe lâu để xác định rõ âm thanh nghe được.

10

Khi nghe phải có sự so sánh đối chiếu giữa hai bên ngực, nếu muốn nghe rõ thì cho gia

súc vận động trong vài phút. 1.5.2. Các phương pháp khám đặc biệt

Trong nhiều trường hợp, các phương pháp khám cơ bản không thể đưa ra những kết luận chẩn đoán chính xác hoặc cần phải có thêm căn cứ để kết luận về bệnh thì việc sử dụng các biện pháp khám đặc biệt là cần thiết. Các phương pháp khám đặc biệt bao gồm có các phương pháp sau

a. Xét nghiệm Trong một số bệnh cụ thể cần phải tiến hành một số xét nghiệm cận lâm sàng (trong phòng thí nghiệm) như các xét nghiệm máu, phân, nước tiểu, sữa…

b. X quang Chẩn đoán X-quang là những phương pháp dùng tia Rơnghen để khám xét trong cơ thể.

Hình.1.16. Chụp X-quang

Những phương pháp đó dựa vào: Tính chất đâm xuyên sâu của tia X-quang. Sự hấp thụ tia X- quang khác nhau của các phần tử trong cơ thể. Do các mô hấp thụ tia X-quang khác nhau nhiều hay ít nên nó tạo ra những hình X-quang đậm hay nhạt.

Vì tia X-quang không tác dụng trên võng mạc mắt nên để thấy các hình ảnh đó, người ta phải dùng các phương pháp đặc biệt sau:

Phương pháp chụp X- quang: dùng phim ảnh để chụp (hình 1.16). Phương pháp chiếu X- quang hay chiếu điện: dùng màn chiếu huỳnh quang hoặc dùng tăng sáng truyền hình. Hiện nay, người ta không dùng chiếu X- quang dưới màn huỳnh quang mà chỉ chiếu X-quang dưới tăng sáng truyền hình để giảm liều nhiễu xạ, bảo vệ cho thầy thuốc và cơ thể bệnh, đồng thời cho chất lượng hình ảnh tốt hơn.

Khi cần thấy rõ chi tiết cấu tạo của một bộ phận cụ thể của cơ thể như: xương, phổi… người ta sử dụng phương pháp chụp X-quang. Tuy nhiên, khi muốn khám xét các bộ phận theo đủ mọi hướng và muốn thấy sự chuyển động của các cơ quan như: nhu động của dạ dày ruột… người ta dùng phương pháp chiếu X-quang. Hai phương pháp trên không mâu thuẫn với nhau mà được sử dụng kết hợp với nhau nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác chẩn đoán bệnh.

Hình 1.17. siêu âm chẩn đoán bệnh

c. Siêu âm (hình 1.17) * Nguyên lý J. Curie (1880) và Lippman (1981) đã tìm ra sóng siêu âm trên cơ sở hiệu ứng áp

điện. Trên cơ sở tinh thể áp điện ép vào, giãn ra dưới ảnh hưởng của dòng điện xoay chiều tạo ra năng lượng âm học, người ta chế tạo ra các đầu dò phát và thu sóng siêu âm. Các sóng âm được phát ra từ đầu dò xuyên qua các tổ chức cơ thể, dội lại một phần năng lượng nếu gặp các tổ chức kháng âm của tổ chức khác nhau. Phần sóng âm còn lại tiếp tục truyền đi và dội lại tới khi không còn năng lượng.

Các sóng âm dội lại trở về đầu dò phát sóng được đưa vào bộ phận tiếp nhận khuyếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hiện sóng. Tín hiệu ghi nhận trên màn hiện sóng phản ánh cấu trúc của tổ chức khi sóng siêu âm truyền qua như kích thước, độ dày, biên độ di động, khoảng cách giữa các cấu trúc,…

11

Siêu âm là những sóng âm có tần số cao hơn 20.000 Hz, có đặc tính: Sự phát xạ của siêu âm Tính dẫn truyền của siêu âm. Sự phản hồi của siêu âm khi truyền qua môi trường khác nhau của các cơ quan. Sự suy giảm của siêu âm * Tính ưu việt của siêu âm Phương pháp thăm dò không chảy máu Không độc hại cho cơ thể nên thăm dò được nhiều lần để theo dõi diễn biến bệnh. Sử dụng dễ dàng và có kết quả nhanh chóng. d. Nội soi Để chẩn đoán bệnh nhất là bệnh đường tiêu hoá, hiện nay trong y học dùng các phương

pháp nội soi: soi dạ dày - tá tràng, soi đại tràng, soi hậu môn - trực tràng, soi ổ bụng (hình 1.18)

Soi dạ dày - tá tràng là phương pháp thăm dò bên trong ống tiêu hoá từ thực quản đến tá tràng nhờ máy nội soi dạ dày tá tràng ống mềm.

Hình 1.18. Phương pháp nội soi khí quản ở gia súc

Soi đại tràng, hậu môn - trực tràng là phương pháp chẩn đoán có sử dụng ống soi mềm đưa từ hậu môn đi ngược lên manh tràng để quan sát tổn thương của từ hậu môn lên đại tràng. Soi ổ bụng là phương pháp thăm dò trực tiếp

về hình thái một số cơ quan trong ổ bụng, đánh giá tình trạng bất thường và mối liên quan giữa các cơ quan đó. Qua soi ổ bụng có thể sinh thiết để chẩn đoán bệnh. Phương pháp này đòi hỏi sự vô trùng tuyệt đối, tuân theo những chỉ định và chống chỉ định để hạn chế những tai biến có thể xảy ra, nguy hiểm đến con bệnh (Thí dụ: Nhiễm trùng, chảy máu,…). Ngày nay, người ta áp dụng nội soi điều trị để thay thế một số phẫu thuật thường qui ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các cơ sở nội khoa, ngoại khoa, sản khoa. Phẫu thật qua nội soi có nhiều ưu điểm: thời gian ngắn hơn, chăm sóc sau phẫu thuật đơn giản hơn, có lợi cho sức khoẻ con bệnh.

Chương 2

TRÌNH TỰ KHÁM BỆNH

Tóm tắt chương: Nói về trình tự khi khám một vật nuôi mắc bệnh, tác dụng của bệnh án và bệnh lịch về mặt nghiên cứu khoa học và hành chính pháp lý, cách hỏi bệnh đối với chủ vật nuôi Cách tiến trình khám tổng thể một con bệnh như kiểm tra niêm mạc, khám lông và da, khám thân nhiệt,…

Mục tiêu: Cung cấp cho sinh viên những kiến thức về cách lập hồ sơ bệnh, cách ghi chép từng phần trong hồ sơ bệnh đảm bảo tính khoa học và trung thực

Giúp cho sinh viên có những kỹ năng khám tương ứng với mỗi một cơ quan nhất định và có những kiến thức tổng thể vè cách khám, đánh giá một cơ quan mắc bệnh theo sự biểu hiện khác nhau của các triệu chứng

12

2.1. HỎI BỆNH (hỏi chủ nhà về con vật ốm)

Việc hỏi chủ nhà sẽ giúp ta có những thông tin quan trọng ban đầu về biểu hiện bệnh

trên con vật ốm, về phương thức chăn nuôi và các lý do khác làm cho con vật ốm.

2.1.1. Hỏi thông tin về con vật

* Nguồn gốc vật nuôi: loài, giống, xuất xứ? (giống mua từ đâu về hay tự gia đình sản

xuất được?).

Rất nhiều bệnh có liên quan đến các thông tin này. Ví dụ: gà ta thường ít mắc bệnh so

với gà công nghiệp.

Còn về xuất xứ: nếu giống mua ở nơi khác về thì có thể mang bệnh theo hoặc bị mắc

bệnh trong quá trình vận chuyển...

* Tuổi: vật nuôi còn non, trưởng thành, đã già ? Có rất nhiều bệnh chỉ xảy ra ở một độ

tuổi nào đó. Ví dụ: bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh giun đũa bê nghé.

* Tính biệt: đực hay cái ?

Nếu là gia súc cái: thời gian phối giống, chửa, đẻ, sảy thai hoặc các vấn đề khác như thế

nào ?

Nhiều bệnh có liên quan đến tính biệt của vật nuôi. Ví dụ: bệnh xảy thai, viêm vú chỉ có

ở gia súc cái.

* Tình trạng hiện tại của vật nuôi: còn ăn hay bỏ ăn ? Có đứng, đi lại được hay nằm

lả,…

Qua các thông tin trên có thể biết được bệnh nặng hay nhẹ và có hướng can thiệp kịp

thời.

2.1.2. Hỏi biểu hiện của bệnh Xảy ra từ khi nào ?

Tiến triển của bệnh nhanh hay chậm ?

Con vật ốm có biểu hiện gì khác thường kể từ khi bắt đầu ốm cho đến khi kiểm tra ? Triệu chứng ở con vật ốm ?

Có bao nhiêu con chết trong tổng đàn vật nuôi của gia đình ?

Bệnh đã từng xảy ra bao giờ chưa ?

Các loại vật nuôi khác trong nhà có bị bệnh không ? Vật nuôi nhà hàng xóm có bị bệnh

như thế không?

13

Qua đó có thể biết được mức độ nặng nhẹ (chết nhiều hay ít), bệnh cấp tính (tiến triển

nhanh) hay mãn tính (tiến triển chậm), mức độ lây lan nhanh hay chậm?.

2.1.3. Hỏi thông tin về môi trường xung quanh

Thức ăn, nước uống: cho vật nuôi ăn thức ăn gì? Thức ăn có thay đổi gì không? Thức

ăn có đủ không ? Cách cho ăn? Nước uống có đủ sạch sẽ không?

Phương thức chăn nuôi: nuôi nhốt hay thả rông?

Chuồng nuôi: Có khô ráo không? Có vệ sinh sạch sẽ, có thường xuyên tắm chải cho vật

nuôi không ? Mật độ nuôi, nhốt có quá đông không?

Có nhập đàn vật nuôi mới không?

Có mua thịt hoặc sản phẩm chăn nuôi ở chợ mang về nhà không ?

Có khách đến tham quan không ?

Qua các thông tin trên, có thể định hướng được: liệu có phải là bệnh do nguyên nhân

chăm sóc, nuôi dưỡng và sử dụng, hoặc có thể do bệnh lây lan từ xung quanh qua người hoặc

động vật khác (nhất là đối với các bệnh truyền nhiễm).

2.1.4. Tác động của chủ vật nuôi Đã phòng vắc-xin cho con vật chưa ? Tên vắc-xin ? Ai dùng và khi nào ?

Có cách ly con vật ốm không ?

Có điều trị bằng thuốc không ? dùng thuốc gì ? Mua thuốc ở đâu ? Ai chữa ? Liều

lượng thế nào ?

Qua đó có thể loại bỏ khả năng xảy ra của các bệnh đã được phòng bằng vắc-xin và

giúp định hướng cho việc chẩn đoán, điều trị.

2.2. KHÁM CHUNG

2.2.1. Quan sát bên ngoài con vật ốm

Quan sát để xem tình trạng con vật tại chuồng nuôi và các biểu hiện khác thường của

nó, đồng thời kiểm tra lại những thông tin đã được cung cấp từ chủ vật nuôi.

a. Tình trạng hiện tại.

Tư thế của con vật: đi đứng có bình thường không ? Có chân nào bị liệt hay bị đau

không ? Đau ở chỗ nào ? Trong trường hợp con vật bị viêm khớp hoặc tổn thương ở các cơ

quan vận động hay bị bệnh Lở mồm long móng thì đi lại rất khó khăn và con vật có biểu hiện

đau.

14

Con vật có còn tỉnh táo hay mệt mỏi, nằm lả, ủ rũ ? (hình 2.1) Nếu nằm bệt một chỗ thì

tư thế nằm như thế nào ?

Con vật gầy hay béo ? Trong một số bệnh mạn tính, bệnh do ký sinh trùng và bệnh do

dinh dưỡng thì con vật sẽ gầy còm, ốm yếu.

Bụng con vật như thế nào ? Có bị chướng bụng không ? Ví dụ: trâu bò bị chướng hơi dạ

Hình 2.2.Chảy nước mũi

Hình 2.1 Con vật ủ rũ

cỏ thì bụng bên trái sẽ phình to lên.

Các lỗ tự nhiên (mắt, lỗ mũi, lỗ đái, hậu môn,...) của con vật có dịch viêm chảy ra

không ? Trong nhiều bệnh, nhất là khi bị viêm nhiễm, các lỗ tự nhiên sẽ có dịch viêm, mủ,

thậm chí lẫn cả máu chảy ra. Ví dụ: khi bị bệnh nhiệt thán, các lỗ tự nhiên của trâu bò thường

chảy máu đen khó đông, khi bị viêm phổi nước mũi chảy nhiều (hình 2.2)

b. Lông, da

Mượt hay xơ xác ? Sạch hay bẩn?

Có chỗ nào bị sưng không ?

Màu sắc của da có thay đổi gì không?

Có điểm, đám tụ huyết hay xuất huyết không?

Hình 2.3. Xuất huyết dưới da

Có tổn thương gì trên da không ?

Có ký sinh trùng ngoài da không ?

Trong nhiều bệnh, trên da sẽ có các dấu hiệu rất điển hình. Ví dụ: Lợn bị 1 trong 4 bệnh

đó thì trên da sẽ có các điểm tụ huyết hoặc xuất huyết (hình 2.3)

c. Hô hấp

Con vật thở như thế nào ? Có khó thở không ? Cách thở

Hình 2.4. Thở khó

ra sao ? Nhịp thở nhanh hay chậm ? Có bị ho không ?

Các triệu chứng trên thường có ở một số bệnh về đường

15

hô hấp. Ví dụ: khi bị bệnh viêm phổi con vật thường khó thở (hình 2.4)

2.2.2. Kiểm tra phân

Trạng thái của phân có bình thường không? Có bị nhão ?

Lỏng ? Táo (hình 2.5)

Hình 2.5.Lợn ỉa chảy

Màu sắc của phân có thay đổi không ?

Trong phân có lẫn mủ, máu, màng nhầy không

Trong phân có lẫn giun, sán không ?

Trong phân có lẫn thức ăn chưa tiêu hoá không

Phân có mùi thối khắm không ?

2.2.3. Kiểm tra nước tiểu.

Số lượng nước tiểu nhiều hay ít?

Trong nước tiểu có lẫn máu, mủ không ?

Màu sắc của nước tiểu có thay đổi không ? (vật nuôi bị xuất huyết nặng ở thận hoặc bị

bệnh ký sinh trùng đường máu thì nước tiểu có màu đỏ hoặc nâu đỏ).

2.3. SỜ NẮN VÀ KHÁM CÁC CƠ QUAN

2.3.1. Khám hạch lâm ba Khám hạch lâm ba rất có ý nghĩa trong chẩn đoán bệnh truyền nhiễm, nhất là trong

bệnh lao hạch, bệnh tị thư, bệnh lê dạng trùng, thay đổi hạch lâm ba rất đặc hiệu.

Trong cơ thể có rất nhiều hạch lâm ba, nhưng ta chỉ

khám được các hạch nằm dưới da. Khi gia súc ốm một số

hạch sẽ sưng to.

a. Phương pháp khám: Nhìn, sờ nắn, chọc dò lúc

cần thiết.

Hình 2.6.Vị trí hạch lâm ba ngoài

Trâu, bò: Hạch dưới hàm, hạch trước vai, hạch

trước đùi, hạch trên vú. Hạch dưới hàm ở trâu, bò nằm ở

phía trong phần sau xương hàm dưới, to bằng nhân quả đào, tròn và dẹp. Khi bị lao hạch cổ,

hạch trên lỗ tai, hạch hầu nổi rõ có thể sờ được (hình 2.6)

Ngựa: Hạch dưới hàm, hạch trước đùi. Ở ngựa hạch dưới hàm hình bao dài, to bằng

ngón tay trỏ, nằm dọc theo mặt trong hai xương hàm dưới hai bên. Sau gờ động mạch dưới

hàm. Khi có bệnh hạch bên tai, hạch cổ, hạch trước vai nổi rõ. 16

Lợn, chó, mèo: Hạch bẹn trong. Các hạch khác thường ở sâu khó sờ thấy. Khi khám hạch dưới

hàm, người khám đứng bên trái hoặc bên phải gia súc tùy theo cần khám hạch nào, một tay

cầm dây cương hay dây thừng, tay còn lại sờ hạch. Thế thuận lợi là ngưới khám đứng bên trái

gia súc tay trái cầm dây cương tay phải khám.

Hạch trước vai: ở trên khớp bả vai một ít, mặt dưới chùm cơ vai. Dùng cả 4 ngón tay

ấn mạnh vào mặt trước chùm cơ bả vai, lần lui tới sờ tìm hạch. Những gia súc béo thường khó

khám.

Hạch trước đùi to bằng hạt mít, nằm dưới phần trùng mặt trước cơ căng mạc đùi. Lúc

khám một tay để lên sống lưng làm điểm tựa, tay còn lại theo vị trí trên lần tìm hạch.

Hạch trên vú: ở bò sữa nằm dưới chân bồng vú về phía sau.

Cần cố định ga súc để khám nhất là ngựa hay đá về phía sau.

b. Những triệu chứng. Những triệu chứng ở hạch cần chú ý:

Hạch sưng cấp tính: Thể tích hạch to, nóng, đau và cứng, các thùy nổi rõ mặt trơn và

ít di động.

Hạch sưng trong các bệnh truyền nhiễm cấp tính, do những bộ phận gần hạch bị viêm

( như viêm mũi, viêm thanh quản) làm hạch dưới hàm sưng.

Trâu, bò bị lê dạng trùng, hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch trên vú sưng rất rõ.

Hạch hóa mủ: Thường do viêm cấp tính phát triển thành. Lúc dầu hạch sưng, nóng,

đau, sau đó phần giữa nhũn, phổng cao, bùng nhùng, lông dụng và thường hạch vỡ hoặc lấy

kim trọc thì có mủ chảy ra.

Ở ngựa hạch dưới hàm sưng to, hóa mủ, chung quanh hạch viêm thẩm ướt là triệu

chứng của bệnh viêm hạch lâm ba truyền nhiễm. Nếu mủ trong hạch ít, tổ chức quanh hạch

không viêm thường do lao hay tị thư.

Cũng có trường hợp hạch hóa mủ là do tổ chức đó bị viêm lâu ngày.

Hạch tăng sinh và biến dạng: Do viêm mãn tính, tổ chức tăng sinh viêm dính với tổ

chức lành sung quanh làm thể tích hạch to không di động được. ấn vào không đau, mặt hạch

không đều.

Ở ngựa thấy triệu chứng trên trong bệnh tỵ thư, viêm xoang mũi mãn tính.

Bò do lao hạch, xạ khuẩn. Các hạch trên toàn thân sưng to thường do bệnh bạch

huyết( leucosia).

Lợn: Hạch cổ, hạch sau hầu sưng cứng do lao.

17

2.3.2. Khám phần đầu

Khám miệng: dùng miếng vải kéo lưỡi con vật ra khỏi miệng. Khám trong miệng xem

có dị vật gì không ? Miệng, lưỡi có bị tổn thương gì không ?

Khám mắt, mũi: xem có dị vật không ? Có viêm, sưng không ?, màu sắc niêm mạc như

thế nào?

Nếu có ổ viêm thì tại vị trí viêm có 4 biểu hiện đặc trưng là: sưng, nóng, đỏ, đau.

2.3.3. Khám phần chân Khớp: có bị viêm ?

Gầm bàn chân có dị vật ?

Vành móng, kẻ móng: có mụn nước ? có tổn thương ?

2.3.4. Khám cơ quan sinh dục:

Có dịch viêm, mủ, máu chảy ra không ?

Gia súc đẻ thì có bị sót nhau ?, có bị sát nhau ? lộn tử cung không?

2.3.5. Khám vú

Sờ nắn bầu vú gia súc cái xem có bị sưng, nóng, đỏ, đau hoặc có mụn nước lở loét

không ? Tuyến sữa có bình thường không? có mủ, máu chảy ra từ tuyến sữa không

2.4. KHÁM THÂN NHIỆT.

Thân nhiệt cao hay thấp được coi là triệu chứng bệnh quan trọng. Có thể căn cứ vào

thân nhiệt:

Để chẩn đoán là bệnh cấp tính hay mãn tính, bệnh nặng hay bệnh nhẹ (bệnh cấp tính có

thân nhiệt cao, còn bệnh mạn tính thân nhiệt thường không cao)

Dựa vào thân nhiệt có thể chẩn đoán phân biệt giữa bệnh truyền nhiễm với hiện tượng

trúng độc (bệnh truyền nhiễm thân nhiệt tăng cao, trúng độc thân nhiêt không tăng so với bình

thường).

Dựa vào thân nhiệt hàng ngày để theo dõi kết quả điều trị và tiên lượng (bớt sốt từ từ

thường do điều trị đúng và tiên lượng tốt. Nếu đang sốt cao thân nhiệt đột ngột tụt xuống là

triệu chứng xấu)

2.4.1.Thân nhiệt bình thường

18

Động vật có vú, gia cầm thân nhiệt ổn định ngay cả khi điều kiện môi trường sống thay

đổi.

Chăn nuôi giống nhau, thân nhiệt gia súc non cao hơn gia súc trưởng thành, gia súc già.

Ở con cái cao hơn con đực. Trong một ngày đêm thân nhiệt thấp lúc sáng sớm (1-5 giờ), cao

nhất vào buổi chiều (16-18 giờ). Mùa hè, trâu bò làm việc dưới trời nắng gắt thân nhiệt có thể cao hơn bình thường, 1,0-1,80C. Thân nhiệt dao động trong vòng 10C nằm trong phạm vi sinh lý; nếu vượt quá 10C, kéo dài sẽ ảnh hưởng các hoạt động của cơ thể.

* Cách đo thân nhiệt: Dùng nhiệt kế có khắc độ “C” theo cột thủy ngân (hình 2.7)

Trước khi dùng vẩy mạnh cho thủy ngân đến vạch cuối cùng. Đo thân nhiệt ở trực

Hình 2.7.Cách đo thân nhiệt gia súc

tràng, con cái khi cần có thể đo ở âm đạo. Thân nhiệt đo ở trực tràng thấp hơn nhiệt độ của máu 0,5-1,00C, ở âm đạo thấp hơn ở trực tràng 0,2- 0,50C,nhưng lúc có chửa lại cao hơn 0,50C.

Trong một ngày đo thân nhiệt vao buổi sáng lúc 7-9 giờ, buổi chiều lúc 16-18 giờ

* Đo thân nhiệt trên trâu, bò: không cần cố định gia súc. Một người giữ dây thừng hoặc

cột lại, người đứng sau gia súc tay trái nâng đuôi lên, tay phải đưa nhẹ nhiệt kế vào trực tràng

hơi hướng về phía dưới. Nhiệt kế lưu lại trong trực tràng trong 5 phút.

* Đo thân nhiệt lợn, chó, mèo, dê, cừu: để đứng hoặc cho nằm, gia cầm giữ nằm để đo.

* Đo thân nhiệt ngựa: Cần thận trọng vì ngựa rất mẫn cảm và đá về phía sau. Cho ngựa

vào gióng cố định cẩn thận. Người đo đứng bên trái gia súc, trước chân sau, mặt quay về phía

sau gia súc. Tay trái cầm đuôi bắt quay về phía sau và giữ lên trên sương khum. Tay phải cho

nhiệt kế vào trực tràng, hơi nghiêng về phía trên một tý, lần nhẹ nhiệt kế về phía trước. Lúc

niêm mạc ruột bị xây sước và chảy máu thì phải thụt thuốc tím ngay để sát trùng.

19

Thân nhiệt bình thường của vật nuôi

Loài gia súc

Thân nhiệt ( 0C) 37,5-39,5 37,0-38,5 37,5-38,5 38,5-40,0 38,0-40,0 37,5-39,0 38,0-39,5 38,5-39,5 40,0-42,0 41,0-43,0 38,5-38,7 40,0-41,0 41,0-43,0 37,5-38,5 Bò Trâu Ngựa Cừu, dê Lợn Chó Mèo Thỏ Gà vịt chuột lang ngỗng ngan la, lừu

2.4.2. Rối loạn thân nhiệt:

Khi cơ thể ở trong trạng thái bệnh lý, thân nhiệt sẽ bị thay đổi. Trên lâm sàng thường

thấy có hai sự thay đổi: Thân nhiệt cao hơn bình thường (sốt), thân nhiệt thấp hơn bình

thường (hạ thân nhiệt).

Sốt: Là phản ứng toàn thân đối với tác nhân gây bệnh mà đặc điểm chu yếu là cơ thể

sốt (thường gặp khi cơ thể bị nhiễm khuẩn). Quá trình đó là do tác động của vi khuẩn, độc tố

của nó và những chất độc khác hình thành trong quá trình bệnh. Những chất đó thường là

protein hay sản phẩm phân giải của nó. Sốt là khi thân nhiệt cao vượt khỏi phạm vi sinh lý.

* Cơ chế sốt:

Do nhiều nhân tố kích thích (vi khuẩn và độc tố của nó, virus, nấm, phản ứng miễn

dịch, các hormone, thuốc, các sản phẩm phân hủy của tổ chức,…) gọi chung là chất sinh nhiệt

ngoại sinh.

Chất sinh nhiệt ngoại sinh tác động qua một chất sinh nhiệt nội sinh. Lý luận này rút ra

từ những kết quả thực nghiệm trên động vật thí nghiệm. Chất sinh nhiệt đồng chất với

Interlertin-I, sản phẩm tế bào đơn nhân của tế bào đơn nhân (monocyte) và đại thực bào. Sản

sinh chất sinh nhiệt/ IL-I là khởi phát nhiều phản ứng - đáp ứng của giai đoạn cấp tính.

Chất sinh nhiệt/IL-I gắn với các nơ ron cảm nhiệt vùng dưới đồi dẫn đến tăng đột ngột

quá trình sinh nhiệt trong cơ bắp (rùng mình), sau đó giảm mất nhiêt (co mạch ngoài da).

Ở bên trong vùng dưới đồi, chất sinh nhiêt/IL-1 kích thích quá trình tổng hợp prosta

glandin E1(PG E1) từ các axit của các màng tế bào hoạt hóa sinh nhiệt và giải nhiệt.

20

Chất sinh nhiệt/ IL-1 có vai trò chủ chốt trong kích thích đáp ứng miễn dịch: nó hoạt

hóa các tế bào T hỗ trợ tổng hợp Interletin 2 kích thích đáp ứng miễn dịch tế bào T đơn dòng.

IL/1 kích thích tăng sinh tế bào B và tăng sản xuất kháng thể đặc hiệu. IL-1 kích thích tủy

xương tăng sinh bạch cầu trung tính và monocyte. Hoạt hóa các tế bào trên, kích thích oxi hóa

diệt khuẩn của tế bào trung tính. IL-1 gây cảm ứng làm giảm cường độ sắt và kẽm trong huyết

tương, những nguyên tố rất cần cho vi khuẩn phát triển. Ở các cơ bắp với vai trò trung gian

của men clo-oxygenaza và PG E1, protein bị thủy phân cho các axit amin cung cấp cho các tế

bào khác như 1 chất dinh dưỡng. Và cũng do protein cơ bị thủy phân, cơ bị teo vì vậy con vật

bị sút cân nhanh chóng.

* Những triệu chứng thường thấy khi sốt:

Ức chế: Ở gia súc thường ủ rũ, không có triệu chứng co giật như thường thấy ở trẻ em

sốt cao. Do rối loạn điều hòa nhiệt, các cơ bắp run, lúc đầu nhẹ sau lan ra toàn thân. Ở lợn thì

triệu chứng này rất rõ.

Hệ tim mạch: Tim đập nhanh, mạch nảy, Sốt cao hơn 1 độ thì tấn số mạch tăng từ 8-10

lần. Khi hạ sốt mạch giảm, hệ số mạch không giảm, chú ý suy tim. Sốt cao gây suy tim, huyết

áp hạ, ứ máu toàn thân. Những hiện tượng này thường ít thấy ở gia súc. Chú ý trong các bệnh

truyền nhiễm ở gia súc, như nhiệt thán ở trâu bò, dịch tả ở lợn, do sốt cao và suất huyết toàn

thân cơ thể có triệu chứng choáng, mạch tăng nhanh, gia súc chết

Sốt thở nhanh và sâu, là phản ứng tỏa nhiệt.

Thân nhiệt quá thấp: Thân nhiệt thấp dưới mức bình thường. Thân nhiệt thấp dưới mức bình thường khoảng 10C thường gặp trong các bệnh thần kinh ức chế nặng: Bò liệt sau khi đẻ, chứng xêtôn huyết, viêm não tủy, một số trường hợp trúng độc, mất nhiều máu, thiếu máu nặng, suy nhược. Thân nhiệt hạ thấp 2- 30C, có lúc đến 40C thấy ở ngựa vỡ dạ dày, vỡ ruột. Thân nhiệt quá thấp, da ra mồ hôi lạnh, tim đập yếu, tần số hô hấp giảm.

Ghi nhớ

Muốn biết được bệnh phải khám bệnh

Phương pháp khám đúng thì chẩn đoán mới đúng

Không bỏ qua một biểu hiện khác thường nào

Luôn đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi.

21

Chương 3

KHÁM CÁC KHÍ QUAN TRONG CƠ THỂ

Tóm tắt chương: Nói về trình tự khi khám các khí quan trong cơ thể một vật nuôi mắc bệnh Hoạt động bình thường của các khí quan và những rối loạn bệnh lý khi các khí quan đó bị bệnh

Mục tiêu: Giúp cho sinh viên có những kiến thức khi khám các khí quan trong cơ thể vật nuôi mắc bệnh, các chỉ tiêu khi các khí quan hoạt động bình thường và những rối loạn bệnh lý của các khí quan đó. Từ đó, là cơ sở giúp cho việc chẩn đoán bệnh.

3.1. KHÁM HỆ TIM MẠCH

Bệnh ở hệ tim mạch gia súc không nhiều, nhưng

do hoạt động của hệ tim mạch liên quan mật thiết với

các khí quan khác trong cơ thể, bệnh ở các khí quan

khác ít nhiều ảnh hưởng đến hệ tim mạch. Vì vậy, khám

hệ tim mạch, định mức độ tổn thương ở tim, mạch, mức

độ rối loạn tuần hoàn máu, không chỉ có ý nghĩa chẩn

đoán bệnh, mà cũng có ý nghĩa lớn về mặt tiên lượng

Hình 3.1. Cấu tạo của tim

bệnh.

3.1.1. Sơ lược về hệ tim mạch

a. Thần kinh tự động của tim

Ngoài sự điều tiết và chi phối của vỏ đại não và hệ thống thần kinh thực vật, thì hệ

thống thần kinh tự động của tim có vai trò quan trọng giúp tim hoạt động nhịp nhàng và có

tính tự động nhất định.

Hệ thống thần kinh tự động của tim:

Nốt Keith- Flack ở phần trước vách tâm nhĩ phải, nơi tĩnh mạch chủ đổ vào.

Nốt Aschoff-Tawara ở vào phần dưới vách nhĩ thất, nên còn gọi là nốt nhĩ thất.

Bó Hiss bắt nguồn từ nốt Aschoff-Tawara, chia làm 2 nhánh trái và phải.

Chùm Parkinje do hai nhánh bó Hiss phân ra và tận cùng ở cơ tâm thất.

22

Hưng phấn bắt nguồn từ nốt Keith-Fach, truyền đến tâm nhĩ, theo cơ tâm nhĩ đến nốt

Aschoff-Tawara. Tâm nhĩ bóp. Sau đến nốt Aschoff-Tawara, hưng phấn truyền nhanh đến bó

Hiss, chùm Purkinje; và sau tâm nhĩ bóp tâm thất bóp.

b. Thần kinh điều tiết hoạt động của tim

Tim hoạt động chịu sự điều tiết của hoạt động thần kinh giao cảm và phó giao cảm.

Thần kinh giao cảm đến từ nốt thần kinh sao (Ganglion stellatum), còn gọi là thần kinh tăng

nhịp tim. Thần kinh phó giao cảm đến từ thần kinh mê tẩu và còn gọi là thần kinh ức chế tim

đập.

Thần kinh mê tẩu tới từ nốt Keith - Flack, Aschoff - Tawara và cơ tim. Nhánh thần kinh

mê tẩu bên phải hưng phấn làm tim đập chậm, vì nó liên hệ chặt với nốt Keith - Flack, còn

thần kinh nhánh bên trái phân bố chủ yếu đến nốt Aschoff - Tawara, nên hưng phấn của nó ức

chế dẫn truyền giữa nhĩ thất làm tim đập yếu hoặc ngừng.

Thần kinh giao cảm bên phải tác động chủ yếu ở tâm nhĩ; nhánh bên trái chủ yếu chi

phối tâm thất. Thần kinh giao cảm hưng phấn làm tim đập nhanh và mạnh.

Vỏ đại não điều tiết trung khu dưới khâu não, sau đó là trung khu ở hành tuỷ. Trung khu

ở hành tuỷ điều tiết hoạt động của tim thông qua thần kinh giao cảm và phó giao cảm.

c.Thần kinh điều tiết mạch quản

Trung khu điều tiết vận mạch ở hành tuỷ và dọc tuỷ sống. Những trung khu này tự hoạt

động và vẫn có sự điều tiết của vỏ đại não. Sung động từ các trung khu theo thần kinh vận

động mạch quản, theo tình trạng tuần hhoàn của cơ thể mà kích thích mạch quản mà mạch

quản co hay dãn mạch. Thần kinh làm co mạch do dây giao cảm phân ra; còn thần kinh giãn

mạch, một phần do dây giao cảm, một phần do dây phó giao cảm phân thành.

* Điều tiết hoạt động cơ năng của tim:

Tim tuy có khả năng phát sinh rung động và tự động co bóp, nhưng mọi hoạt động của

nó đều thông qua hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm với sự khống chế và điều tiết của

thần kinh trung ương.

Thần kinh giao cảm tăng cường nhịp đập tim, cường độ tim co bóp và tác dụng tăng

cường dinh dưỡng; nó còn tăng cường tính hưng phấn và khả năng dẫn truyền của cơ tim.

23

Thần kinh phó giao cảm làm tim đập chậm và yếu lại, ức chế tính hưng phấn và dẫn truyền

của cơ tim

Huyết áp cao, qua cơ quan thụ cảm hoặc bằng phản xạ kính thích trung khu thần kinh

điều tiết hoạt động của tim và độ căng mạch quản cho phù hợp điều tiết huyết áp.

* Tham gia điều tiết hệ tim mạch còn có

Các nội tiết tố, như kích tố thượng thận (Adrenalin), làm co mạch quản tăng huyết áp.

Những chất tiết của tổ chức như Histamin làm giãn mạch quản:

Các chất từ trong thận, đặc biệt là Renin tác dụng từ Hypertensinogen thành Hypertensin

hoạt tính, làm co mạch quản, gây cao huyết áp; và một số chất khoáng: natri, kali, canxi…

c.Vị trí của tim

Tim trâu bò: 5/7 quả tim ở bên trái, đáy nằm ngang nửa ngực. Đỉnh tim ở phần sụn của

sườn 5, cách xương ngực 2 cm. Mặt trước tim tới xương sườn 3, mặt sau xương sườn 6, tim

sát vách ngực khoảng sườn 3 – 4 cm; phần còn lại bị phổi bao phủ.

Tim dê, cừu: trong lồng ngực giống tim trâu bò, nhưng cách xa thành ngực hơn.

Tim ngựa: 3/5 ở trên bên trái; đáy ở nửa ngực đỉnh tim ở dưới, nghiêng về bên trái , cách

xương ngực 2cm. Mặt trước tim đến gian sườn 2 , mặt sau đến gian sườn 6. Bên phải tim

ứng với gian sườn 3 – 4.

Tim lợn: khoảng 3/5 quả tim ở bên trái ngực, đáy tim ở giữa, đỉnh tim về phía dưới đến

chỗ tiếp giáp giữa phần sụn của sườn 7 và xương ức, cách xương ức khoảng 1,5 cm

Tim chó: khoảng 3/5 quả tim nằm bên trái, đáy tim nằm ở giữa ngực; đỉnh tim nghiêng

về phía sau, xuống dưới đến phần sụn của sườn 6 - 7, có con đến sụn sườn 8, cách xương ức 1

cm.

3.1.2. Khám tim

a. Nhìn vùng tim

Chú ý tim đập động là hiện tượng chấn động thành ngực vùng tim, do tim co bóp gây

nên chấn động. Ở động vật lớn - trâu bò, ngựa, lạc đà, tim đập động do thân quả tim đập vào

lồng ngực; ở gia súc nhỏ lại do đỉnh quả tim.

Có thể thấy rõ tim đập động ở những gia súc gầy, nhất là chó.

24

b. Sờ vùng tim

Áp tay vào vùng tim. Chú ý vị trí, cường độ thời gian tim đập và tính mẫn cảm.

Sờ tim đập động ở gia súc lớn: bên trái khoảng xương sườn 3 - 4 - 5. Trâu bò lớn, vùng tim đập động rộng khoảng 5 – 7 cm2, con nhỏ: 2 - 4 cm2, ngựa: 4 - 5 cm2. Lợn gầy, vùng tim đập động 3 - 4 cm2 chó mèo, gia súc nhỏ khác tim đập động ở khoảng sườn 3 - 4.

Thể vóc gia súc, độ béo ảnh hưởng rất lớn đến tim đập động.

Tim đập động phụ thuộc lực cơ tim co bóp, tình trạng tổ chức dưới da ngực và độ dày

của thành ngực

Tim đập động mạnh: do tâm thất co bóp mạnh, tiếng tim thứ nhất tăng. Do trời nóng bức,

lao động nặng, sốt cao. Viêm nội tâm mạc, xẹp phổi. Viêm cơ tim cấp tính, các trường hợp

thiếu máu tim đập động rất mạnh.

Tim đập động yếu: lực đập yếu, diện tích đập động hẹp. Do thành ngực thuỷ thũng, lồng

ngực tích nước, phổi khí thũng, tim suy.

Vị trí tim đập động có thể thay đổi khi dạ dày giãn, dạ cỏ chướng hơi, ruột chướng hơi,

thoát vị cơ hoành – vùng tim đập động dịch về phía trước.

Xoang ngực trái tích nước, tích khí vùng tim đập động xuất hiện bên phải gia súc.

Vùng tim đau: khi sờ thì gia súc tránh, rên, tỏ ra khó chịu. Do viêm bao tim, viêm màng

phổi.

Tim đập động âm tính: là lúc tim đập cùng với hiện tượng chấn động, thành ngực hơi

lõm vào trong. Do viêm bao tim, thành ngực và tổ chức xung quanh dính lại với nhau.

Tim rung (cordialis): là những chấn động nhẹ vùng tim do bệnh ở van tim hoặc bao tim,

lỗ động mạch chủ hoặc lỗ nhĩ thất trái hẹp.

Chú ý phân biệt: nếu chấn động nhẹ vùng tim gắn liền cùng với hai kỳ hoạt động của

tim, là do bệnh ở van tim hoặc ở bao tim; nếu gắn liền với hai nhịp thở thường do màng phổi.

Do viêm màng phổi sần sùi cọ sát gây nên.

c. Gõ vùng tim

Thường gõ vùng tim ngựa, chó. Với các loài gia súc khác, do thành ngực dày, xương

sườn to, gõ vùng tim không có giá trị chẩn đoán.

25

Vùng âm đục tuyệt đối của tim

Là vùng mà tim và thành ngực tiếp giáp với nhau. Vùng bao quanh – gữa tim và thành

ngực có lớp phổi xen, là vùng âm đục tuyệt đối.

Cách gõ: gia súc lớn để đứng, kéo chân trái trước về trước nửa bước để lộ rõ vùng tim,

gia súc nhỏ để nằm. Theo gian sườn 3 gõ từ trên xuống; đánh dấu các điểm âm gõ thay đổi.

Sau đó, theo gian sườn 4, 5, 6 gõ và ghi lại các điểm như trên. Nối các điểm lại sẽ có hai

vùng: âm đục tuyệt đối ở trong, bao quanh là vùng âm đục tương đối.

Ở trâu, bò chỉ có vùng âm đục tương đối giữa gian sườn 3 và 4. Vùng âm đục tuyệt đối

chỉ xuất hiện khi tim to hoặc do viêm bao tim.

Ở ngựa: vùng âm đục tuyệt đối là một tam giác mà đỉnh ở gian sườn 3, dưới đường

ngang kẻ từ khớp vai 2 – 3 cm, cạnh trước cơ khuỷu giới hạn; cạnh sau là một đường cong

đều kéo từ đỉnh đến mút xương sườn 6. Vùng âm đục tương đối bao quanh vùng âm đục tuyệt

đối, rộng khoảng 3 - 5cm. Vùng âm đục ở dê, cừu giống ở trâu bò. Ở lợn thường không xác

định được vùng âm đục.

Chó: vùng âm đục tuyệt đối ở khoảng gian sườn 4 - 5

Các triệu chứng cần chú ý:

Vùng âm đục mở rộng về phía trên và phía sau một hay hai xương sườn, do tim nở dày,

bao tim viêm, phổi bị gan hoá.

Vùng âm đục thu hẹp hoặc mất, do phổi bị khí thũng đẩy tim xa thành ngực.

Vùng âm đục di chuyển (Giống phần “Sờ nắn vùng tim”).

Âm bùng hơi: do bao tim viêm, vi khuẩn lên men sinh hơi tích trong bao tim.

Gõ vùng tim đau: viêm màng phổi, viêm bao tim, viêm cơ tim.

d. Nghe tim

Tiếng tim

Khi tim đập phát ra hai tiếng “Pùng-pụp” đi liền nhau. Tiếng thứ nhất phát ra lúc tim

bóp, gọi là tiếng tâm thu; tiếng thứ hai phát ra lúc tim giãn gọi là tiếng tâm trương.

Tiếng tâm thu do: tiếng tâm nhĩ co bóp đẩy máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất; tiếng do cơ

tâm thất căng do máu từ tâm nhĩ xuống, tiếng động mạch chủ, động mạch phổi căng ra lúc

26

máu từ tim dồn vào, và thành phần chủ yếu tạo thành tiếng tâm thu là do van nhĩ thất trái phải

đóng lại gây ra.

Tiếng tâm trương do van động mạch chủ và van động mạch phổi đóng lại tạo thành.

Giữa thứ tiếng thứ nhất và thứ tiếng thứ hai có quãng ngỉ ngắn (ở chó: 0,2 giây); sau tiếng thứ

hai là quãng nghỉ dài (ở chó: 0,45 giây). một chu kỳ tim đập được tính từ tiếng thứ nhất đến

hết quãng nghỉ dài.

Căn cứ mấy đặc điểm sau đây để phân biệt hai tiếng tim:

Tiếng thứ nhất ầm, dài và trầm; tiếng thứ hai ngắn và vang. Quãng nghỉ sau tiếng thứ

nhất ngắn, quãng nghỉ sau tiếng thứ hai và trước tiếng thứ nhất dài. Tiếng thứ nhất rõ ở đỉnh

tim, tiếng thức hai ở đáy tim. Tiếng tim thứ nhất xuất hiện lúc tim bóp, đồng thời với động

mạch cổ đập; tiếng thứ hai sau một lúc.

Ở gia súc nhỏ, vì tim đập nhanh, hai quãng nghỉ gần giống nhau, nếu căn cứ mạch đập

xuất hiện cùng với lúc nào để phân biệt.

Tiếng tim thay đổi

Do bệnh và các nguyên nhân khác, tiếng tim có thể mạnh lên, yếu đi, tách đôi v.v...

Tiếng tim thứ nhất tăng: do lao động nặng, hưng phấn, gia súc gầy, lồng ngực lép. Do

bệnh: viêm cơ tim, thiếu máu, sốt cao.

Tiếng tim thứ hai tăng: do huyết áp trong động mạch chủ tăng và huyết áp trong động

mạch phổi tăng. huyết áp động mạch chủ tăng lúc viêm thận, tâm thất trái nở dày. huyết áp

động mạch phổi tăng do phổi khí thũng, viêm phổi, van hai lá đóng không kín, lỗ nhĩ thất trái

hẹp.

Tiếng tim thứ nhất giảm: do viêm cơ tim, cơ tim bị biến tính, tim dãn

27

Tiếng thứ hai giảm: van động mạch chủ hay van động mạch phổi đóng không kín

Tiếng tim tách đôi: một tiếng tim tách làm hai bộ phận đi liền nhau. Nếu tiếng tim tách

hai bộ phận không rõ ràng gọi là tiếng tim trùng phục. Tiếng tim kéo dài, tiếng tim trùng

phục, tiếng tim tách đôi chỉ là một quá trình bệnh lý và ý nghĩa chẩn đoán như nhau. Nguyên

nhân ở cơ tim và thần kinh điều tiết hoạt động khiến hai buồng tâm thất không cùng co giãn.

Tiếng tim thứ nhất tách đôi: do hai buồng tâm thất không cùng co bóp, van hai lá, van ba

lá không cùng đóng gây nên. Do một buồng tâm thất thoái hoá hay nở dày hoặc một bên bó

Hiss trở ngại dẫn truyền.

Tiếng tim thứ hai tách đôi: do van động mạch chủ và van đông mạch phổi không đóng

cùng một lúc. Huyết áp động mạch chủ hay huyết áp động mạch phổi thay đổi, và bên nào

huyết áp tăng, áp lực cảm thụ lớn, buồng tâm thất bên đó co bóp trước. Còn nguyên nhân các

van nhĩ thất, lỗ nhĩ thất không bình thường, độ đầy máu hai buồng tâm thất không đồng đều;

và bên nào máu đầy hơn co bóp dài hơn, van đóng sớm hơn gây nên tiếng tim tách đôi.

Tiếng ngựa phi (Gallop rhythm): tiếng tim thứ nhất, tiếng tim thứ hai và kèm theo một

tiếng tim thứ ba, khi tim đập có nhịp điệu ngựa phi.

Có các trường hợp sau:

Tiếng ngựa phi tiền tâm thu:tiếng phụ xuất hiện trước kỳ tim bóp và trước tiếng thứ

nhất. Nguyên nhân do bó Hiss dẫn truyền trở ngại, sung động từ tâm nhĩ xuống tâm thất

chậm, tâm nhĩ co bóp sớm không liền với tâm thất co bóp tạo nên tiếng phụ.

Tiếng ngựa phi tâm thu: tiếng phụ liền sau tiếng thứ nhất. Do một nhánh của bó Hiss

thoái hoá, sung động từ tâm nhĩ xuống buồng tâm thất trở ngại, buồng tâm thất ấy đập chậm

tạo ra tiếng phụ.

Tiếng ngựa phi tâm trương: tiếng phụ xuất hiện kỳ nghỉ, lúc tim giãn. có thể do tâm thất

nhão, máu chảy vào căng mạnh gây nên tiếng phụ.

Chú ý: tiếng ngựa phi là triệu chứng tim rối loạn nặng, là tiên lượng bệnh không tốt.

Tiếng thai nhi: lúc tim đập nhanh, 2 bên tiếng tim như nhau, quãng nghỉ như nhau, là

triệu chứng tim suy.

28

e. Tạp âm

Tạp âm do những tổ chức bên trong quả tim (các lỗ, các van) không bình thường gây ra,

gọi là tạp âm trong tim. Tạp âm do tổn thương ở bao tim, ở màng phổi gọi là tạp âm ngoài

tim.

Tạp âm trong tim

Tạp âm trong tim có tạp âm do bệnh về thực thể và tạp âm do cơ năng rối loạn.

Tạp âm do bệnh biến thực thể do các nguyên nhân sau: các van đóng không kín, máu

chảy ngược trở lại; các lỗ trong tim hẹp, máu chảy qua cọ xát. Bệnh ở các van thường do

viêm, van cứng hoặc teo lại làm thay đổi hình dạng và mất đàn tính. Do viêm tăng sinh, mép

lỗ dày và sần sùi, van và các dây chằng dính liền nhau.

Tạp âm trong tim còn gọi là tiếng thổi

Tiếng thổi tâm thu: xuất hiện liền với tiếng thứ nhất hay trùng với tiếng thứ nhất—Pùng-

xì-pụp.

Nguyên nhân:

Lỗ động mạch chủ hẹp.

Lỗ động mạch phổi hẹp.

Lỗ nhĩ thất trái hở.

Lỗ nhĩ thất phải hở.

Nếu lỗ nhĩ thất hở thì tạp âm cùng với tiếng thứ nhất; nếu lỗ động mạch chủ hay lỗ động

mạch phổi hẹp thì tạp âm sau tiếng thứ nhất một tý.

Tiếng thổi tâm trương: tạp âm ở kỳ tim nghỉ dài, sau tiếng tim thứ hai: Pùng – pụp- xì

Nguyên nhân:

Lỗ động mạch chủ hở.

Lỗ động mạch phổi hở.

Lỗ nhĩ thất trái hẹp.

Lỗ nhĩ thất phải hẹp.

Tiếng thổi tiền tâm thu: tạp âm trước tiếng tim thứ nhất một tý: Xì -pùng-pụp

29

Nguyên nhân:

Lỗ nhĩ thất trái hẹp.

Lỗ nhĩ thất phải hẹp.

Tạp âm do cơ năng tim rối loạn.

Loại tạp âm này không ổn định. Có hai loại.

Tiếng thổi do hở van: van nhĩ thất trái, van nhĩ thất phải đóng không kín, máu chảy

ngược lại gây tạp âm. Nguyên nhân: do tim nhão hoặc các dây chằng của các van loạn dưỡng;

các van, do đó, đậy không kín.

Loại tạp âm này thường thấy ở ngựa suy dinh dưỡng, ngựa già yếu. Tiếng thổi do thiếu

máu do máu loãng, độ nhớt thấp, máu chảy nhanh gây tạp âm. Tiếng thổi do thiếu máu trong

bệnh lê dạng trùng, bệnh thiếu máu ở ngựa.

Tạp âm ngoài tim

Bệnh ở bao tim hay ở màng phổi.

Tiếng cọ bao tim: do bao tim viêm, fibrin đọng lại tương mạc sần sùi, khi tim co bóp các

màng cọ sát gây ra. Tạp âm phát ra cùng với hai kỳ hoạt động của quả tim.

Tiếng cọ bao tim- màng phổi. Màng phổi viêm fibrin đọng lại trên bề mặt bao tim và

màng phổi, lúc tim co bóp cọ xát gây ra tiếng. Nghe rõ khi gia súc thở mạnh.

Tiếng vỗ nước. Do viêm bao tim, tích dịch thẩm xuất đọng lại trong bao tim, tim co bóp

gây ra tiếng óc ách. Nếu dịch đọng lại nhiều, tim đập yếu, tiếng tim yếu, mạch chìm, vùng âm

đục tuyệt đối của tim mở rộng; tiếng vỗ nước không rõ.

Viêm màng phổi thẩm xuất nặng có lúc xuất hiện triệu chứng vỗ nước ở vùng ngực.

3.2. KHÁM HỆ HÔ HẤP

Bệnh đường hô hấp ở gia súc gặp rất nhiều:

Ở trâu bò, dê cừu thường gặp bệnh tụ huyết trùng, viêm phổi – màng phổi, viêm phổi,

viêm phế quản, lao,…

Ở lợn: thường gặp bệnh tụ huyết trùng, suyễn, viêm phổi, viêm phế quản, dịch tả lợn.

30

Ở ngựa: thường gặp bệnh viêm mũi, viêm hầu, viêm khí quản, viêm phổi cata, viêm phổi

thùy;

Ở gà: thường gặp bệnh viêm màng mũi, lao

Ở chó: viêm phổi, carê.

Phương pháp chẩn đoán hệ hô hấp thường dùng: nhìn, sờ, nắn, gõ và nghe.

Khi cần thiết chọc dò xoang ngực, kiểm tra đờm và dịch mũi. Chiếu X-quang chỉ có tác

dụng đối với gia súc nhỏ. Soi khí quản, ghi động tác hô hấp chưa được sử dụng rộng rãi, kết

quả rất hạn chế.

Trình tự khám hệ hô hấp: khám động tác hô hấp, đường hô hấp trên, khám ngực, khám

đờm và các phương pháp khám đặc biệt khác như chọc dò xoang ngực, chiếu chụp X-quang

và xét nghiệm vi khuẩn gây bệnh đường hô hấp.

3.2.1. Khám động tác hô hấp

Bao gồm khám: tần số hô hấp, thể hô hấp, nhịp điệu hô hấp và những rối loạn hô hấp:

thở khó, ho.

a. Tần số hô hấp

Tần số hô hấp là số lần hô hấp trong một phút. Thường đếm số lần hô hấp trong 2-3 phút,

rồi lấy số bình quân.

Có hai cách đếm tần số hô hấp:

Cách thứ nhất: người khám quan sát sự lên xuống của hõm hông thành bụng trong một

phút.

Cách thứ hai: người khám dùng lòng bàn tay đặt trước mũi gia súc để nhận biết hơi thở

của gia súc vào lòng bàn tay. Trong thực tế tần số hô hấp theo dõi trong mười năm giây nhân

với bốn, đếm ba đến bốn lần rồi lấy trung bình. Tần số hô hấp chỉ lấy số nguyên.

Tần số hô hấp thay đổi theo con đực hay con cái, giống gia súc, tuổi, trạng thái dinh

dưỡng, thời tiết, khí hậu,….

Trâu bò 10 - 30 lần /phút

Ngựa

8 - 16 lần /phút

Mèo

Lợn

10 - 20 lần/phút

20 - 30 lần/phút

Tần số hô hấp của một số gia súc khoẻ:

31

Dê,cừu

12 - 20 lần/ phút

Thỏ

50 - 60 lần/phút

Chó

10 - 30 lần/phút

Thường con đực thở chậm hơn con cái, gia súc thể vóc nhỏ thở nhanh hơn con lớn, con

non thở nhanh hơn con già. Mùa nóng ẩm thở nhanh hơn mùa lạnh khô. Buổi trưa nóng thở

nhanh hơn buổi tối mát.

Thở nhanh (Polypnoe): thường do các trường hợp sau đây:

Những bệnh thu hẹp diện tích hô hấp ở phổi (viêm phổi, lao phổi), làm mất đàn tính ở

phổi (phổi khí thũng), những bệnh hạn chế phổi hoạt động (đầy hơi dạ dày, đầy hơi ruột).

Những bệnh gây sốt cao, bệnh thiếu máu nặng, bệnh ở tim, bệnh thần kinh hay do quá

đau đớn.

Thở chậm (Oligopnoe): do bệnh làm hẹp thanh quản, hẹp khí quản (viêm, thủy thũng),

ức chế thần kinh nặng (viêm não, u não, xuất huyết não, thủy thũng não, kí sinh trùng não), do

trúng độc, chức năng thận rối loạn, bệnh ở gan nặng, liệt sau khi đẻ, sắp chết. Trong bệnh

xêtôn huyết ở bò sữa, viêm não tủy truyền nhiễm ở ngựa, tần số hô hấp giảm rất rõ.

b. Thể hô hấp

Hầu hết gia súc khoẻ thở thể hỗn hợp.

Thở hỗn hợp: khi thở thì thành bụng, thành ngực cùng hoạt động, trừ chó.

Thở thể ngực: lúc gia súc thở thành ngực hoạt động rõ, còn thành bụng hoạt động ít hay

không rõ. Chó thở thể ngực là trạng thái sinh lý bình thường còn những gia súc khác thở thể

ngực là do viêm màng bụng, liệt cơ hoành; những bệnh làm cho thể tích bụng to lên: giãn dạ

dày, đầy hơi ruột, đầy hơi dạ cỏ, dạ cỏ bội thực, cổ chướng: do gan sưng, lách sưng, bàng

quang bí đái.

Thở thể bụng: lúc gia súc thở thành bụng hoạt động rõ, thành ngực hoạt động yếu hơn

hoặc không rõ. Do viêm màng phổi, khí thũng phổi, tràn dịch màng phổi; có khi do liệt cơ

liên sườn, xương sườn gẫy.

c. Thở khó

Thở khó là trạng thái rối loạn hô hấp phức tạp mà biểu hiện là thay đổi lực thở, tần số hô

hấp, nhịp thở, thở sâu và hậu quả: cơ thể thiếu oxy, niêm mạc tím bầm, trúng độc toan huyết.

32

Hít vào khó do đường hô hấp trên hẹp. Gia súc hít vào cổ vươn dài, vành mũi mở rộng, 4

chân dạng, lưng còng, bụng thóp lại.

Do viêm thanh quản, liệt thanh quản, thanh quản thủy thũng hoặc do bộ phận bên cạnh

viêm sưng chèn ép.

Thở ra khó do phế quản nhỏ bị viêm, phổi mất đàn tính. Lúc gia súc thở ra khó bụng

thóp lại, cung sườn nổi lên, lòi hậu môn, các bệnh: phổi khí thũng, viêm phế quản nhỏ, viêm

phổi, viêm màng phổi.

Thở khó hỗn hợp là động tác hít vào thở ra đều khó khăn.

Do các bệnh sau đây:

Các bệnh ở hệ hô hấp: viêm phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi, tràn dịch màng

phổi, tràn khí màng phổi, u phổi làm giảm diện tích hô hấp; khí thũng phổi làm giảm đàn tính

của phổi.

Viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc, suy tim, những bệnh thiếu máu.

Những bệnh làm tăng thể tích xoang bụng hạn chế hoạt động hô hấp: dạ dày đầy hơi,

ruột đầy hơi, bội thực dạ cỏ, gan sưng to

Những bệnh làm rối loạn thần kinh trung khu: u não, sung huyết não, viêm màng não…,

và những bệnh gây sốt cao, nhất là bệnh truyền nhiễm cấp tính (nhiệt thán, tụ huyết trùng).

3.2.2. Khám đường hô hấp trên

a. Nước mũi

Gia súc khỏe không bị chảy nước mũi. Trâu bò có ít nước nhưng tự lau khô. Ngựa lúc

kéo nặng có ít nước mũi.

Số lượng nước mũi:

Chảy nhiều do: viêm ca ta niêm mạc mũi, viêm thanh quản, cúm gia súc. Viêm niêm

mạc mũi cấp tính, tỵ thư cấp tính, viêm màng mũi thối loét ở bò, viêm màng mũi truyền

nhiễm ở thỏ, nước mũi chảy nhiều. Những bệnh mạn tính: viêm phế quản mạn tính, viêm

phổi mạn tính, lao, tỵ thư mạn tính, nước mũi chảy nhiều.

Nước mũi chảy một bên thường do bên đó viêm; nếu chảy cả hai bên, có thể do viêm

phổi, viêm phế quản lớn.

33

Độ nhầy của nước mũi: do chất nhày, mủ, mảnh tổ chức, sản phẩm của quá trình viêm

tạo thành. Nước mũi là dịch trong suốt, không màu, do viêm cấp tính ở giai đoạn đầu.

Nước mũi nhầy, đục do có mủ lẫn, do viêm thanh quản, viêm niêm mạc mũi mạn tính.

Nước mũi đặc như mủ, có lẫn nhiều mảnh tổ chức thối rữa; do viêm tổ chức hóa mủ,

viêm phổi hoại thư…

Màu của nước mũi: nếu chỉ tương dịch nước mũi trong không màu; có mủ, màu vàng,

xanh, màu tro. Nước mũi màu đỏ tươi do lẫn máu trong các bệnh tỵ thư ở ngựa, xuất huyết

phổi. Nước mũi màu rỉ sắt là triệu chứng của bệnh viêm phổi thùy.

Mùi nước mũi - mùi thối : do viêm phổi hoại thư, viêm khí quản hoại thư.

Nước mũi lẫn bọt khí do phổi thủy thũng, xuất huyết phổi. Mảnh thức ăn lẫn do liệt

thanh quản. hi thở ra thối do đường hô hấp hoại thư, phổi hoại thư. Bò xeton huyết thở ra có

mùi xeton.

b. Khám niêm mạc mũi

Dùng tay mở rộng vành mũi, hướng cho gia súc cao sao cho ánh sáng mặt trời chiếu vào

vào hoặc dùng đèn pin soi sáng để khám.

Xuất huyết lấm tấm đỏ trên niêm mạc do các bệnh truyền nhiễm có bại huyết, thiếu máu

truyền nhiễm.

Niêm mạc xung huyết do viêm màng mũi cấp tính, viêm họng.

Niêm mạc mũi trắng bệch, tím bầm, hoàng đản (xem phần “ khám kết mạc”).

Niêm mạc sưng căng, mọng nước do viêm niêm mạc mũi.

Niêm mạc có những mụn loét trên bề mặt do viêm cata, viêm hạch lâm ba, viêm màng

mũi thối loét, dịch tả trâu bò.

c. Khám thanh quản và khí quản

Nhìn bên ngoài, thanh quản sưng ở ngựa do viêm hạch truyền nhiễm; ở trâu bò: bệnh

truyền nhiễm, thủy thũng, xạ khuẩn. Nếu sưng cả vùng rộng lan xuống cả vùng cổ, do thủy

thũng ở bò là triệu chứng viêm bao tim do ngoại vật.

Sờ vùng thanh quản nóng: viêm tại chỗ.

34

Thanh quản, khí quản bị viêm, lòng hẹp do sưng, dịch thẩm xuất đọng lại, khi gia súc thở

có tiếng nghẹt, sờ có thể biết. Đặt ống nghe vào vùng hầu sẽ nghe được tiếng “khò” lúc gia

súc thở. Viêm thanh quản, viêm thanh quản thủy thũng, u thanh quản tiếng “khò” rất to. Có

khi có tiếng ran khô, ran ướt có dịch thẩm xuất, fibrin đọng lại.

Khám bên trong: nhìn trực tiếp hay qua đèn soi

Với gia súc nhỏ: mở rộng mồn, dùng thìa sắt đã sát trùng đè mạnh lưỡi xuống để quan

sát niêm mạc họng, thanh quản, niêm mạc viêm xung huyết đỏ ửng.

Với gia súc lớn cỏ thể sờ trực tiếp, nhưng chú ý nguy hiểm.

Với gia cầm: dùng tay kéo rộng miệng để xem những thay đổi bên trong.

d. Kiểm tra ho

Ho là một phản xạ nhằm tống ra ngoài những vật lạ như chất tiết, bụi bẩn, vi khuẩn…

kích thích niêm mạc đường hô hấp. Cung phản xạ ho bắt đầu từ nốt nhận cảm trên niêm mạc

qua thần kinh mê tảu đến trung khu ho ở hành tủy. Kích thích hầu, khí quản, cuống lưỡi,

màng phổi, niêm mạc mũi đều có thể gây ho.

Gây ho bằng cách bóp mạnh vào phần sụn giữa thanh quản và đốt khí quản thứ nhất. Với

trâu bò có thể dùng vải gạc bịt chặt mũi để gây ho, gia súc nhỏ thì kéo dúm da vùng tai, tay

còn lại ấn mạnh xuống lưng có thể gây ho.

Khi viêm thanh quản, khí quản gây ho dễ dàng. Gia súc khỏe mạnh như trâu, bò gây ho

khó khăn.

Ho từng cơn do viêm phế quản, viêm thanh quản, lòng khí quản có nhiều đờm ho đến lúc

hết chất kích thích đó.

Ho khoẻ, vang thường do bệnh ở họng, khí quản, phế quản; tổ chức phổi không bị viêm.

Ho yếu, tiếng trầm do tổ chức phổi bị tổn thương, bị thấm ướt đàn tính giảm, màng phổi

bị dính trong bệnh viêm phổi, viêm màng phổi, lao, tỵ thư, viêm phổi thuỳ, viêm phế quản

nhỏ.

Tiếng ho ngắn hay ho dài do thanh quản quyết định. Tiếng ho vang gọn là do thanh quản

khoẻ, đóng kín; tiếng ho “bể” là do thanh quản viêm, thủy thũng thanh quản đóng không kín,

động tác ho kéo dài.

35

Ho đau biểu thị là lúc ho gia súc khó chịu, cổ vươn dài, chân cào đất, rên. Do viêm màng

phổi, thủy thùng thanh quản, viêm họng nặng.

3.2.3. Khám ngực

Áp dụng các phương pháp: nhìn, sờ nắn, gõ và nghe; lúc cần thiết chọc dò xoang ngực;

chụp, chiếu X- quang có kết quả ở gia súc non.

a. Nhìn vùng ngực

Gia súc khoẻ lúc thở hai bên lồng ngực hoạt động rõ và đều đặn. Nếu lồng ngực co, thở

không rõ có thể do phổi khí thũng, viêm màng phổi, viêm phế quản nhỏ.

Dùng tay sờ nắn và ấn mạnh vào các khe sườn. Từng vùng da nóng do viêm tại chỗ; sờ

nắn gia súc đau do viêm màng phổi hay bị thương tại chỗ, tổn thương cơ, gẫy xương sườn

vùng ngực. Những gia súc gầy, lồng ngực lép, lúc viêm màng phổi, sờ bên ngoài cảm giác

được hiện tượng cọ màng phổi.

b. Gõ vùng phổi

Căn cứ tính chất của tiếng phát ra lúc gõ vào vùng phổi để chẩn đoán tình trạng của phổi.

Với gia súc lớn dùng bản gõ và búa gõ; với gia súc nhỏ gõ bằng ngón tay. Nên gõ theo trình

tự từ trước ra sau, từ trên xuống dưới; mỗi điểm gõ hai cái, điểm này cách điểm kia 3 – 4 cm.

Gõ cả hai bên phổi phải và phổi trái để so sánh và phát hiện vùng phổi bị viêm.

Gõ vùng phổi

Vùng gõ phổi là vùng ngực trong có

phổi. Có vùng ngực trong có phổi nhưng

Hình 3.2. vùng gõ phổi ở chó và bò

không gõ được như vùng trước bả vai,

Vị trí phổi của bò

Vị trí phổi của chó

vùng bả vai.

vùng Ở loài nhai lại: vùng gõ phổi là một

tam giác trước là vùng cơ khuỷu làm ranh giới; cạnh trên cách sống lưng trên dưới một bàn

tay, và cạnh sau là một đường cong đều bắt đầu từ gốc sườn 12 và qua các giao điểm của

đường kẻ ngang kẻ từ gờ xương cánh hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ khớp vai và

xương sườn thứ 8 và tận cùng ở gian sườn 4, tiếp với vùng âm đục tuyệt đối của tim.

Những con bò sữa gầy có một vùng trước xương bả vai khoảng một bàn tay có thể gõ

phổi được nhưng kết quả không rõ lắm.

36

Ngựa, la, lừa: cạnh trước và cạnh trên của vùng gõ phổi giống ở trâu bò. Cạnh sau là

một đường cong đều bắt đầu từ gốc sườn 17 qua các giao điểm của đường ngang kẻ từ gờ

xương cánh hông và xương sườn thứ 16, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và xương sườn

thứ 14, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và xương sườn thứ 10 và tận cùng ở gian sườn

thứ 5.

Lợn: cạnh sau bắt đầu từ gốc sườn 11 qua giao điểm của đường kẻ ngang kẻ từ mỏm

xương ngồi và xương sườn thứ 9, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và xương sườn 7, tận

cùng ở gian sườn 4.

Ở chó: cạnh trước giáp xương bả vai, cạnh trên cách sống lưng 2 – 3 ngón tay; cạnh sau

bắt đầu từ gốc xương sườn 12 qua các giao điểm của đường kẻ từ gờ xương cánh hông và

xương sườn 11, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và xương sườn 10, đường ngang kẻ từ

khớp bả vai và xương sườn 8, tận cùng ở gian sườn 6.

Xác định vùng gõ phổi: kẻ 3 đường ngang: một đường qua gờ xương cánh hông, một

đường qua mỏm xương ngồi và một đường qua khớp vai. Gõ theo 3 đường đó để định giới

hạn phía sau. Từ ranh giới phía sau gõ về phía trước, lần lượt từ trên xuống dưới để định diện

tích vùng gõ và so sánh với diện tích bình thường.

Chú ý: những gia súc nhỏ, vùng cơ khuỷu và cơ lưng dày, vùng phổi hẹp.

Diện tích vùng phổi thay đổi:

Vùng phổi mở rộng hay thu hẹp do bệnh ở phổi hay xoang ngực quyết định.

Vùng phổi mở rộng về phía sau và do diện tích phổi tăng hoặc do khí tích trong lồng

ngực. Phổi khí thũng, thể tích tăng, ranh giới phía sau ngang cung sườn; vùng âm đục của tim

thu nhỏ. Phổi khí thũng mạn tính thường kéo theo tim nở dày, vùng âm đục của tim thay đổi

không rõ. Một bên phổi có tổn thương: viêm, xẹp, u, giun phổi; bên phổi còn lại làm bù dần

đến khí thũng, diện tích vùng phổi mở rộng.

Vùng phổi thu hẹp: ranh giới lùi về phía trước. Do dạ cỏ chướng hơi, ruột chướng hơi,

gan sưng đẩy cơ hoành về phía trước. Vùng phổi thu hẹp do vùng âm đục tim mở rộng: tim nở

dày, viêm bao tim, bao tim tích nước, tim giãn.

Âm gõ phổi

37

Phế âm: tiếng phát ra khi gõ lên vùng phổi. Ở giữa vùng phổi, phổi dày, nhiều khí, phế

âm vang; ngược lại hai bên rìa do phổi mỏng, cơ che khuất phế âm nhỏ, đục. Gia súc thể vóc

to, béo, tầng mỡ dày, phế âm nhỏ. Gia súc bé gầy thì ngược lại.

Những âm gõ phổi bệnh:

Âm đục: Do lượng khí trong phế nang giảm, phổi xẹp hoặc chất thẩm xuất đọng lại trong

phế nang, trong phế quản, trong xoang ngực. Các bệnh sau vùng phổi có âm đục hoặc âm đục

tương đối.

Viêm phổi thùy (Pneumonia crouposa) ở thời kỳ gan hóa. Vùng âm đục thường ở vùng

rìa dưới phổi, tiếp giáp với vùng âm đục của tim. Khi phổi bị gan hoá gõ vào nền phổi thu

được âm đục tập trung, mở rộng theo đường cánh cung.

Viêm phổi – phế quản, vùng âm đục thường phân tán; xen kẽ những vùng âm đục nhỏ là

những vùng phổi thường hay vùng có âm bùng hơi:

Ở bò sữa gặp trong bệnh lao, giun phổi, viêm màng phổi; ở ngựa: tỵ thư, viêm phổi-

màng phổi truyền nhiễm; ở lợn: dịch tả lợn mạn tính.

Khi phổi bị thủy thũng dịch tiết làm tắc phế nang, nếu thủy thũng nhẹ âm gõ không thay

đổi.

Những bệnh ở màng phổi: viêm màng phổi thì vùng âm đục ở dưới và có ranh giới nằm

ngang. Viêm màng phổi mạn tính vùng âm đục ở dưới lâu dài.

Những gia súc lớn, lồng ngực rộng nên khi viêm màng phổi có nhiều dịch thẩm xuất

nhưng không có vùng âm đục trên màng phổi.

Tràn dịch màng phổi cũng có triệu chứng tương tự:

Chú ý các nguyên nhân ngoài phổi: da ở vùng ngực viêm, tổ chức dưới da thủy thũng,

khối u…

Âm bùng hơi: do tổ chức phổi đàn tính kém, trong phế quản, phế nang chứa nhiều khí,

bọt khí. Âm bùng hơi là triệu chứng bệnh thường gặp ở gia súc lớn như:

Lao phổi nhất là khi có hang lao gần thành ngực; viêm phế quản mạn tính, phế quản

giãn. Bệnh viêm phổi thùy ở giai đoạn sung huyết và giai đoạn tiêu tan; Viêm phổi – phế

quản, vùng âm đục xen kẽ lẫn âm bùng hơi. Tràn dịch màng phổi: gõ vùng dưới có âm đục,

38

phần trên có âm bùng hơi. Tràn khí phổi vùng phổi cũng có âm bùng hơi. Thoát vị cơ hoành,

đầy hơi ruột nặng, dạ cỏ trướng hơi nặng.

Âm hộp: phổi khí thũng nặng, phế nang dãn, phổi căng, âm gõ gần giống âm bùng hơi

nhưng âm hưởng ngắn.

Âm bình rạn: phổi bị bệnh có các hang thông với phế quản, lúc gõ khí qua lại giữa hang

và phế quản tạo thành. Thường thấy trong bệnh giãn phế quản nặng, lao phổi.

Âm kim thuộc: do trong xoang ngực có hang kín chứa đầy khí; như tràn khí màng phổi

nặng, bao tim tích khí nặng, thoát vị cơ hoành.

c. Nghe phổi

Khi đường hô hấp, phổi có bệnh, thì âm thanh quản, âm khí quản, âm phế quản nhất là

âm phế nang thay đổi, ngoài ra còn có những âm mới lạ gọi là âm hô háp bệnh lý.

Nghe trực tiếp: phủ lên gia súc một miếng vải mỏng để tránh bẩn, áp sát tai nghe trực

tiếp, ít áp dụng.

Nghe gián tiếp: nghe qua ống nghe.

Nghe phổi gia súc khó vì tiếng phế nang rất yếu. Nên chỗ làm việc phải hết sức yên tĩnh,

gia súc phải đứng im mới nghe rõ. Nên bắt đầu nghe ở giữa phổi, sau đó nghe về phía trước,

nghe về phía sau, trên và xuống dưới, những vùng tiếng phế nang yếu hơn vùng ở giữa phổi.

Nghe từ điểm này sang điểm khác, không nghe cách quãng; mỗi điểm nghe vài ba lần thở.

Khi nghe tiếng phế nang không rõ có thể dùng tay bịt mũi gia súc để gia súc thở dài và dâu,

nghe được rõ hơn.

Vùng nghe phổi trên ngực giống vùng gõ phổi. Ở trâu bò có thể nghe được vùng trước

xương bả vai.

Âm hô hấp sinh lý

Âm thanh quản: Do khí thở từ xoang mũi vào hầu, rồi vào khí quản cọ sát vào khí quản

gây nên. Âm nghe được giống phát ra âm chữ “kh” khá rõ.

Âm khí quản: Là âm thanh quản vọng vào, nghe ở vùng giữa cổ, tiếng nhỏ hơn âm thanh

quản.

39

Âm phế quản: tiếng nghe rõ khoảng sườn 3 – 4, kẹp trong xương bả vai. Trừ ngựa, các

gia súc khác đều nghe được âm phế quản.

Âm phế nang: Trên toàn phổi gia súc đều nghe được một tiếng nhẹ, như phát âm chữ “f”,

đó là âm phế nang, âm phế nang nghe rõ khi gia súc hít vào, và yếu hơn khi thở ra.

Âm phế nang do:

Hoạt động co giãn của phế nang.

Khí từ phế quản vào phế nang, xoáy;

Hoạt động của các cơ hô hấp gây ra tiếng; và

Âm phế quản vọng vào tạo thành.

Những gia súc gầy, lồng ngực hẹp, âm phế nang nghe rõ; ngược lại, gia súc lớn, tầng mỡ

dày, âm phế năng yếu, có khi nghe không rõ.

Ở chó, âm phế nang rõ ở toàn bộ vùng phổi. Ở trâu, bò, âm phế nang nghe rõ ở giữa

vùng phổi, vùng sau bả vai.

Âm hô hấp thay đổi:

Âm phế nang tăng: nghe rõ, thô và sâu hơn bình thường.

Âm phế nang tăng đều cả hai bên vùng phổi do trung khu thần kinh hưng phấn. Các bệnh

truyền nhiễm cấp tính, các bệnh có sốt cao, hoạt động hô hấp tăng cường, âm phế nang tăng.

Âm phế nang tăng ở bộ phận phổi bên cạnh bộ phận âm phế nang giảm hoặc mất, thường thấy

trong các bệnh viêm phổi – phế quản. Một bên phổi, hoặc một vùng phổi rộng mất âm phế

nang, phần còn lại âm phế nang tăng trong bệnh viêm phổi thùy.

Âm phế nang giảm: gia súc thở nông yếu. Âm phế nang giảm có thể do tổ chức dưới da

thủy thũng, sưng dày, chủ yếu do phổi hoặc màng phổi có bệnh.

Viêm màng phổi, do đau, gia súc thở yếu nên âm phế nang yếu; do màng phổi bị dính, bị

sưng dày, xoang ngực tích nước, âm phế nang giảm.

Âm phế nang thô: gia súc thở nặng nề, tiếng thở không gọn, không lan nhẹ khắp vùng

phổi. Thường do phế quản viêm, sưng dày, lòng phế quản rộng hẹp không đều; hoặc do phổi

bị khí thũng từng bộ phận, khi gia súc hít vào, khí từ ngoài vào các phế nang không đều, phế

nang nở ra không đồng thời làm âm phế nang thô.

40

Âm phế nang mất: do phế nang bị tắc hay mất đàn tính; phế quản tắc.

Từng vùng nhỏ mất âm phế nang: viêm phổi, lao, tỵ thư, u,thủy thũng phổi.

Cả vùng phổi phía dưới mất âm phế nang: tràn dịch màng phổi, viêm màng phổi thẩm

xuất.

Những âm thở bệnh lý

Âm phế quản bệnh lý

Trên ngực ngựa khỏe chỉ nghe được tiếng âm phế nang thuần, nhẹ; còn ở các gia súc

khác, âm nghe được trên vùng ngực là âm phế quản lẫn với âm phế nang. Nếu ở ngựa, trên

vùng ngực nghe được âm phế quản (âm thô, rõ hơn âm phế nang) thì đó là âm phế quản bệnh.

Ở gia súc khác, khi trên vùng ngực chỉ nghe được âm phế quản mà không có âm phế nang lẫn

vào thì đó cùng là âm phế quản bệnh.

Cần chú ý các đặc điểm sau đây để phân biệt âm phế quản bệnh lý và âm phế nang tăng:

âm phế nang tăng nghe rõ đều trên toàn bộ vùng phổi và càng gần rốn phổi, nghe càng rõ. Gõ

phổi không có âm gõ bệnh. Còn âm phế quản bệnh nghe thô, không lan đều, nghe rõ cả khi hít

vào, thở ra; gõ phôi thường có âm đục.

Âm phế quản bệnh khó phân rõ với âm phế nang thô, chỉ có khác là vùng phổi âm phế

nang thô, gõ không có âm đục.

Nhu mô phổi bị thấm ướt, lòng phế quản tắc là nguyên nhân của âm phế quản bệnh; Các

bệnh: viêm phổi thùy, suyễn lợn, viêm phổi – màng phổi, lao, viêm màng phổi…

Tiếng ran (Rhonchi)

Trong nhiều bệnh ở phổi, lòng phế quản chứa nhiều chất thẩm xuất hoặc bị hẹp lại, khi

thở khí qua lại tạo thành tiếng gọi là tiếng ran.

Tiếng ran khô (Rhonchi sicca): do dịch thẩm xuất khô lại, thành phế quản sưng dày hoặc

phế nang căng rộng chèn ép phế quản lòng phế quản hẹp lại. Hoặc dịch thẩm xuất đông laị

khô tạo thành sợi. Trong nhiều tình trạng trên khi thở, khí qua lại tạo thành tiếng ran. Tùy tình

trạng bệnh, động tác hô hấp và lòng phế quản to nhỏ, tiếng ran rất to như tiếng mèo kêu, cũng

có thể rất nhỏ như tiếng rít…

Tiếng ran khô ở một vùng phổi nhỏ: lao phổi, ổ mủ, viêm phế quản, viêm phổi – phế

quản. Trên một vùng phổi rộng: viêm phổi - phế quản, khí thũng phổi, viêm phổi thùy. Gia 41

súc non sau khi bị viêm phổi, tiếng ran khô còn lại một thời gian khá lâu mặc dù bệnh đã

lành.

Tiếng ran ướt (Rhonchi humidi): do trong lòng phế quản có dịch hoặc bọt khí. Tiếng ra

ướt nghe như tiếng bọt vỡ, như tiếng nước chớm sôi…

Tiếng ran ướt nhe rất nhỏ, như tiếng bọt vỡ, phát ra ở phế quản gần phế nang nghe rõ lúc

thở ra, còn kỳ hít vào có khi nghe không được. Các quá trình bệnh làm tổ chức phổi thấm ướt:

viêm phổi, lao phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi.

Tiếng vò tóc (Crepitatio)

Nghe như tiếng ran nhỏ, nhưng min và đều hơn. Do lòng phế nang và phế quản nhỏ bị

thấm ướt, lúc thở ra chúng dính lại và khi thở ra chúng tách ra gây tiếng vò tóc. Tiếng vò tóc

là triệu chứng của bệnh viêm phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi. Nếu dịch thẩm xuất

nhiều thì tiếng vò tóc mất.

Căn cứ vào các đặc điểm sau để phân biệt tiếng vò tóc và tiếng ran nhỏ

1. Tiếng vò tóc mịn, phát ra diện rộng; còn các tiếng ran thì thô hơn, to nhỏ không đều,

phát ra trên diện hẹp.

2. Tiếng vò tóc ổn định, còn tiếng ran không ổn định, chỗ này mất chỗ kia xuất hiện;

3. Tiếng vò tóc phát ra thời gian ngắn, còn tiếng ran thì lâu dài, cho đến khi bệnh lành.

4. Tiếng vò tóc nghe rõ lúc hít vào, còn tiếng ran nghe rõ ở cả hai kỳ thở.

Tiếng thổi vò: phổi có ổ mủ, ổ hoại tử, lao tạo thành những hang thông với phế quản;

khi thở khí qua lại với hang và lòng phế quản tạo thành tiếng thổi vò. Ở gia súc ít thấy triệu

chứng này.

Tiếng cọ màng phổi:

Màng phổi viêm, có nhiều fibrin đọng lại làm cho màng phổi viêm sần sùi, lúc thở các lá

của màng phổi cọ sát nhau gây ra tiếng cọ màng phổi. Tiếng cọ màng phổi to nghe rất dễ;

nhưng có khi nghe rất nhỏ, lúc nghe chú ý phân biệt với tiếng ran nhỏ, tiếng vò tóc, nhu động

ruột. Tiếng cọ màng phổi do viêm màng phổi thường có kèm theo triệu chứng sờ vùng ngực

gia súc đau. Viêm màng phổi trong các trường hợp sau không có tiếng màng phổi:

Dịch thẩm xuất nhiều làm cho lá thành và lá tạng tách ra.

42

Màng phổi bị dính.

Viêm mạn tính, màng phổi bị bào trơn.

Tiếng vỗ nước (Succusio Hippocratis)

Tiếng óc ách như nước xao động trong lồng ngực. Có thể do dịch thẩm xuất hoặc dịch

thẩm lậu gây ra. Dịch thẩm xuất do viêm màng phổi; dịch thẩm lậu do nguyên nhân toàn thân.

Chú ý: tiếng vỗ nước có lúc rất ổn định. Ở tư thế nào của gia súc cũng nghe được. Nhưng

có ca bệnh, chỉ nghe được tiếng vỗ nước ở những tư thế nhất định.

3.2.4. Chọc dò xoang ngực

a. Ý nghĩa chẩn đoán

Khi nghi trong xoang ngực có dịch, con vật thở khó, thể thể bụng, gõ có vùng âm đục tập

trung, nghe thấy tiếng vỗ nước hoặc tiếng cọ, lúc đó chúng ta mới tiến hành chọc dò xoang

ngực kiểm tra dịch chọc dò đó là dịch viêm hay dịch phù. Chọc dò xoang ngực đơn giản,

không nguy hiểm, nhưng đặc biệt chú ý vô trùng, nhất là chọc dò xoang ngực ngựa.

b. Vị trí chọc dò

Loài nhai lại: khe sườn 6 bên trái, khe sườn 5 bên phải, trên tĩnh mạch ngoài ngực hoặc

trên dưới đường ngang kẻ từ khớp khuỷu.

Ngựa: gian sườn 7 bên trái, gian sườn 6 bên phải. trên dưới giống loài nhai lại.

Lợn: gian sườn 8 bên trái, gian sườn 7 bên phải. Ở chó: gian sườn 8 bên trái, gian sườn 6

bên phải.

Nên chọc dò bên phải, lúc cần thiết mới chọc dò bên trái; vì tránh vùng tim.

Kim chọc dò dài 10 – 15 cm, cỡ kim 12 – 14; cồn iôt 5% để sát trùng và kéo cắt lông.

c. Kiểm nghiệm dịch thẩm xuất – dịch viêm hay dịch thẩm lậu- dịch phù

Phản ứng Mopit (Mopitz).

Dùng 2 – 3ml dịch kiểm nghiệm, thêm vài giọt axit axêtic 5%

Đục kết tủa: phản ứng dương tính;

Đục, không kết tủa: phản ứng âm tính;

Kiểm nghiệm qua kính hiển vi:

43

Dịch chọc dò sau khi lấy phải được kiểm nghiệm ngay. Lấy 10 ml chọc dò cho vào ly

tâm, lấy giọt cặn phiết kính để khô trong không khí, cố định bằng Methanol trong 5 phút và

nhuộm bằng Giemsa hoặc Xanh methyle 1%. Soi qua vật kính dầu.

Một ít hồng huyết cầu trong một thị trường. Thường do chọc dò gây chảy máu; nếu số

lượng nhiều: trong xoang ngực chảy máu.

Nhiều tế bào bạch cầu, nhất là bạch cầu trung tính: do viêm màng phổi.

Nhiều tế bào lympho: lao màng phổi.

3.3. KHÁM HỆ TIÊU HOÁ

Bệnh ở hệ thống tiêu hóa xảy ra khá phổ biến ở vật nuôi, chiếm khoảng từ 30 – 40%

trong các bệnh nội khoa. Bệnh gây ra thường do khâu chăm sóc, nuôi dưỡng không hợp lý.

Như thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh: các chất độc, độc tố nấm mốc lẫn trong thức

ăn. Chuồng trại bẩn, không có hệ thống chống nóng, chống lạnh và chống ẩm. Ngoài ra còn

do các nguyên nhân khác gây nên như các bệnh truyền nhiễm gây tổn thương ở hệ tiêu hóa:

phó thương hàn, phó lao, dịch tả và các loại ký sinh trùng đường ruột.

Khám bộ máy tiêu hóa theo thứ tự: khám ăn, khám uống, khám miệng, hầu và thực quản;

khám dạ dày, ruột, khám phân, khám gan…bằng các phương pháp: quan sát, sờ nắn, gõ, nghe,

chọc dò xoang bụng, siêu âm, nội soi xoang bụng và các xét nghiệm phân, dịch chọc dò và

một số chỉ tiêu chức năng gan

3.3.1. Kiểm tra trạng thái ăn uống

a. Ăn

Ăn kém do rối loạn tiêu hóa.

Ăn nhiều thức ăn tinh: do viêm dạ dày tăng axit.

Ăn nhiều thức ăn thô: do viêm dạ dày giảm axit.

Ăn nhiều: sau thời gian ốm, do rối loạn trao đổi chất.

Ăn bậy: do gia súc thiếu khoáng, viêm dạ dày cata mạn tính, chó dại.

b. Uống

Uống ít: do tắc ruột, thủy thũng, tê liệt thần kinh mặt…

44

Uống nhiều: do sốt, ỉa chảy, nôn mửa, ra nhiều mồ hôi, viêm thận mạn tính, trúng độc

muối.

c. Cách lấy thức ăn, nước uống

Ngựa dùng môi lấy thức ăn, hàm dưới đưa thức ăn vào miệng. Bò dùng lưỡi lấy thức ăn;

lợn ngoạm từng miếng.

Lấy thức ăn khó khăn: bệnh ở lưỡi, ở môi, niêm mạc miệng, răng, cơ nhai, họng, các

bệnh thần kinh.

Ngựa lấy thức ăn khó khăn, nhai thức ăn uể oải, nhiều khi gục đầu vào máng, là triệu

chứng của viêm não, u não, não thủy thũng.

d. Nhai

Gia súc nhai chậm, uể oải do sốt, bệnh ở dạ dày, rối loạn tiêu hóa.

Nhai đau, cổ vươn ra, miệng há hốc: viêm chân răng, răng mòn không đều; viêm niêm

mạc miệng, viêm lưỡi gặp ở bệnh lở mồm long móng.

Nhai rất đau, không nhai, hai hàm răng khép chặt: viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi

nặng, bệnh thần kinh.

Nghiến răng: Ngựa ngiến răng do đau bụng, trúng độc, viêm não tủy truyền nhiễm. Bò

nghiến răng do viêm dạ dày cata, viêm ruột cata, liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong do ngoại vật. Lợn

nghiến răng: bệnh dịch tả. Cừu nghiến răng: ấu sán não.

e. Nuốt

Rối lọan nhẹ: đầu gia súc vươn thẳng, lắc lư, hai chân cào đất, nuốt khó khăn do viêm

họng, tắc thực quản.

Rối loạn nuốt nặng: thức ăn trào ra đằng mũi, trào ngược thực quản do viêm họng nặng,

tắc thực quản, trong các bệnh hệ thần kinh.

g. Nhai lại

Bò khỏe sau khi ăn no 30 phút đến một giờ rưỡi thì bắt đầu nhai lại. Một ngày đêm nhai

lại 6 – 8 lần, mỗi lần từ 50 – 60 phút.

45

Rối loạn nhai lại: nhai lại chậm và yếu gặp trong trường hợp chướng hơi, bội thực và

nghẽn dạ lá sách. Không còn phản xạ nhai lại gặp ở liệt dạ cỏ; chướng hơi, bội thực nặng; các

trường hợp trúng độc.

h. Ợ hơi

Trâu bò mỗi ngày ợ hơi khoảng 20 – 40 lần. Nhờ ợ hơi mà các khí lên men tích lại trong

dạ cỏ được tống ra ngoài.

Ợ hơi tăng: ăn nhiều thức ăn dễ lên men, chướng hơi dạ cỏ giai đoạn đầu.

Ợ hơi giảm: do dạ cỏ liệt, tắc rãnh thực quản, sốt cao, các bệnh nặng. Liệt dạ cỏ mạn

tính, hơi ợ ra hôi thối.

Không ợ hơi: tắc rãnh thực quản, chướng hơi dạ cỏ nặng.

Loài gia súc dạ dày đơn, hơi trong dạ dày thường được tống ra ngoài theo phân và hấp

thu vào máu. Nếu ợ hơi là triệu chứng bệnh lý gặp trong trường hợp viêm loét dạ dày, thức ăn

trong dạ dày lên men nhiều,…

k. Nôn mửa

Nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích.

Nôn mửa do phản xạ thường do bệnh ở cuống lưỡi, họng, dạ dày, đường ruột;có trường

hợp bệnh ở màng bụng, ở tử cung cũng có thể gây nôn.

Nôn do trung khu nôn bị kích thích trực tiếp: viêm hành tủy, viêm màng não, khối u não,

độc tố vi trùng tác động (trong các bệnh truyền nhiễm) và trong các trường hợp trúng độc.

Đặc điểm của loại nôn này là nôn liên tục, lúc dạ dày trống vẫn nôn.

Loài ăn thịt và loài ăn tạp nôn là triệu chứng bệnh; thường do viêm dạ dày cata cấp tính.

Loài nhai lại nôn thường do dạ dày đầy hơi cấp tính, bội thực. Con vật nôn rất khó khăn:

đầu vươn thẳng, hai chân sau dạng ra, bụng thót lại thức ăn phọt ra theo mồm, theo đường

mũi.

Ngựa nôn khó nhất: lúc nôn, bụng co rút, toàn thân toát mồ hôi, thức ăn phun ra theo lỗ

mũi và sau khi nôn gia súc rất mệt mỏi. Ngựa nôn thường do bội thực hoặc giãn dạ dày cấp

tính.

Kiểm tra nôn cần chú ý:

46

Nôn một lần, sau đó không nôn lại gặp ở lợn, con non và loài ăn thịt do ăn quá no.

Nôn nhiều lần trong một ngày gặp trường hợp do trúng độc thức ăn, các loại thuốc bảo

vệ thực vật.

Nôn ngay sau lúc ăn: bệnh ở dạ dày, ăn một lúc mới nôn do tắc ruột.

Chất nôn lẫn máu: viêm dạ dày xuất huyết, loét dạ dày ở lợn, hay gặp trong bệnh phó

thương hàn, dịch tả lợn.

Chất nôn màu vàng lục (mật) do tắc ruột non.

Chất nôn lẫn phân, mùi thối – do tắc ruột già.

3.3.2. Khám miệng

Khám miệng để chẩn đoán bệnh xảy ra ở cục bộ vùng miệng:

môi, răng, niêm mạc miệng và lưỡi. Đồng thời để chẩn đoán một số

bệnh khác ở đường tiêu hoá (hình 3.3)

Chảy rãi: do trở ngại nuốt, viêm tuyến nước bọt, ngoại vật

Hình 3.3. Khám miệng

cắm vào hàm răng. viêm họng, sốt lở mồm long móng, viêm tuyến

mang tai.

a. Môi

Gia súc khỏe lúc đứng hai môi ngậm kín. Ngựa già môi dưới thường trễ, hở lợi ra ngoài.

Môi ngậm chặt: viêm màng não, uốn ván.

Môi sưng: viêm niêm mạc miệng, dịch tả trâu bò, côn trùng đốt.

Ở ngựa môi nứt do tụ cầu trùng. Môi hoại thư do trúng độc thức ăn, viêm mành não

truyền nhiễm.

b. Miệng

Mùi trong miệng: mùi thối do viêm lợi, loét niêm mạc miệng, viêm họng. Thức ăn đọng

lại lâu, miệng thối.

Nhiệt độ trong miệng: cho ngón tay vào miệng để có cảm giác nhiệt độ miệng. Miệng

nóng do các bệnh gây sốt cao, viêm niêm mạc miệng, viêm họng.

Miệng lạnh do mất máu, suy nhược và sắp chết.

47

Độ ẩm: miệng đầy nước bọt do trở ngại nuốt, tuyến nước bọt bị kích thích.

Do viêm niêm mạc miệng, viêm tuyến nước bọt, viêm họng, lở mồm long móng. Miệng

khô do mất nước: ỉa chảy lâu ngày, sốt cao, đa niệu, đau bụng.

Màu sắc niêm mạc miệng thay đổi (xem phần khám niêm mạc mắt).

Ở trâu bò, chú ý bệnh lở mồm long móng: niêm mạc miệng nổi đầy mụn nước.

Trong bệnh dịch tả lợn, đậu cừu, niêm mạc nổi mụn mủ, bọc mủ. Ở ngựa có viêm miệng

hóa mủ truyền nhiễm: niêm mạc nổi những mụn mủ bằng hạt vừng, hạt đậu trong suốt, sau có

máu, có mủ.

c. Lưỡi

Bựa lưỡi là một lớp tế bào thượng bì tróc ra đọng lại, màu xám

hay màu xanh; thấy trong hầu hết các bệnh có sốt, viêm đường tiêu

Hình 3.4. Khám lưỡi trâu

hóa. Bựa càng dày bệnh càng nặng; ngược lại bựa càng giảm là

bệnh chuyển biến tốt.

Lưỡi sưng to do xây sát, do có đinh gai chọc, do xạ khuẩn.

Lưỡi có nhiều mụn nước, loét: do lở mồm long móng (hình 3.4)

d. Răng

Chú ý răng mòn không đều, hà, viêm lợi.

3.3.3. Khám họng

Nhìn ngoài: viêm họng thì cổ hơi cứng và vươn thẳng; nuốt khó, thức ăn nước uống có

thể trào ra qua mũi.

Sờ nắn: viêm họng thì vùng họng sưng, nóng. Nếu hạch lâm ba sưng to thường do xạ

khuẩn.

Khám trong: với gia súc to thì mở miệng, dùng thìa đè lưỡi xuống. Với gia cầm vạch mỏ

để xem, đối với trâu bò thì người khám phải mở miệng và kéo lưỡi gia súc ra ngoài để nhìn rõ

bên trong.

48

3.3.4. Khám thực quản

Phần thực quản vùng cổ thì sờ nắn và nhìn; phần sâu hơn thì phải dùng ống thông thực

quản và soi X – quang.

Nhìn bên ngoài: những chỗ tắc, phồng to. Tắc thực quản thì có thể dùng tay vuốt ngược

lên miệng. Thực quản kinh luyến cơn co giật từ dưới lên.

Sờ thực quản: người khám đứng bên trái gia súc, quay mặt về phía sau; tay trái cố định

rãnh thực quản, tay phải lần theo rãnh thực quản từ dưới lên trên. Nếu gia súc đau: thực quản

bị viêm.

a. Thông thực quản:

Thông thực quản để chẩn đoán bệnh và còn để điều trị bệnh.

Với trâu bò, ngựa dùng cùng một loại ống thông bằng cao su,

dài 200 – 300 cm, đường kính ngoài 18 – 20 mm, đường kính

trong 8 – 14 mm, ống thông thực quản lợn dài 95 cm, đường kính

Hình 3.5. Ống thông thực quản

ngoài 4 mm; với lợn, ống to 5 – 7 mm (hình 3.5)

Thông thực quản trâu bò: cố định gia súc, mở miệng bằng giá gỗ có đục một lỗ ở giữa

để cho ống thông. Đưa ống thông qua miệng vào thực quản, sau đó theo nhu động của thực

quản, đẩy dần ống thông vào dạ cỏ. Từ miệng đến dạ cỏ dài khoảng 120 – 140 cm, nếu khi

cho ống thông vào hầu, thực quản mà gia súc nôn thì cho đầu gia súc chúi xuống và hết nôn

lại tiếp tục cho ống thông vào. Trường hợp gia súc nôn nhiều thì phải kéo ống thông ra.

Thông thực quản ngựa: phải cố định tốt gia súc, đun sôi ống thông cho mềm và khi

thông phải bôi trơn bằng vaselin. Theo rãnh thực quản, đo từ mũi đến sườn 16 và lấy dây

buộc ống thông làm dấu độ dài. Cho ống thông vào lỗ mũi, nhẹ nhàng đẩy vào hầu và từ từ

lần theo động tác nuốt mà đẩy ống thông vào dạ dày.

Cần chú ý những dấu hiệu sau đây để phân biệt ống thông vào thực quản hay vào khí

quản:

Vào thực quản Vào khí quản

1. Có động tác nuốt 1. Không có động tác nuốt

2. Không ho 2. Thường ho

49

3. Sờ được ống thông qua 3. Không sờ được

thực quản

4. Đẩy ống thông vào thấy có 4. Đẩy nhẹ, không có hằn chuyển động.

Lực cản và ở rãnh thực quản có hằn

5. Có khí ra 5. Không có khí ra theo ống thông

Với lợn, chó, gia cầm đều thông thực quản qua miệng.

Chú ý: Lúc gia súc khó thở, viêm mũi, viêm họng thì không nên thông thực quản.

b. Chẩn đoán:

Tắc thực quản: không cho ống thông vào được và theo độ dài ngắn của ống thông trong

thực quản để định vị trí thực quản bị tắc.

Thực quản hẹp: đẩy ống thông vào khó khăn.

Thực quản giãn và ống thông có thể lọt vào chỗ giãn , không đẩy vào được.

Thực quản bị viêm: khi cho ống thông vào gia súc đau, thực quản co bóp liên tục.

3.3.5. Khám vùng bụng

a. Quan sát:

Khi quan sát vùng bụng thấy thể tích vùng bụng căng to hơn bình thường, gặp những

trường hợp sau:

Tích thức ăn dạ dày, ruột: Ở trâu bò: bệnh bội thực dạ cỏ. Ngựa: tích thức ăn manh tràng,

kết tràng. Chó, lợn: tích thức ăn ở dạ dày.

Tích khí do thức ăn lên men làm cho bụng căng to, da căng. Ở trâu bò: chướng hơi dạ cỏ;

ngựa: đầy hơi ruột.

Tích nước do thẩm xuất hoặc thẩm lậu làm cho bụng ỏng, dùng tay ấn lùng nhùng gõ có

vùng âm đục nằm ngang.

Gan sưng do ổ mủ, ung thư, xơ cứng làm vùng bụng to.

Vùng bụng nổi lên cục sưng: thoát vị (Hernia), ổ mủ, thủy

Hình 3.6. Hecnia ở lợn

thũng, huyết thũng (hình 3.6)

50

Ngược lại khi quan sát thấy thể tích vùng bụng bé gặp trong các trường hợp gia súc bị

suy dinh dưỡng, gầy yếu, ỉa chảy mạn tính, liệt dạ cỏ ở trâu bò.

b. Sờ nắn vùng bụng:

Ở gia súc nhỏ thành bụng mỏng, sờ nắn vùng bụng có thể chẩn đoán ruột bị lồng, bị tắc;

dị vật trong dạ dày. Cách khám: hai tay để hai bên, ấn nhẹ lần theo cung sườn từ trước ra sau;

ấn sâu có thể sờ đến các khí quan trong xoang bụng.

Với trâu bò, sờ nắn để khám dạ cỏ, dạ tổ ong.

Ở ngựa thành bụng dày, căng sờ nắn bên ngoài để khám bệnh ít có kết quả; thường phải

khám qua trực tràng. Cách khám: một tay đặt vào sống lưng làm điểm tựa, tay còn lại ấn

mạnh vào vùng bụng để khám.

Ấn vào vùng bụng thấy gia súc đau, thường gặp khi: viêm màng bụng, lồng ruột, xoắn

ruột.

Thành bụng cứng: uốn ván, viêm màng bụng, viêm não tủy truyền nhiễm,…

3.3.6. Khám dạ dày loài nhai lại

Gồm: dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Ở gia súc trưởng thành dạ cỏ có thể tích

lớn nhất, gia súc đang kỳ bú sữa dạ múi khế lớn hơn dạ cỏ.

Dạ dày loài nhai lại chia làm 4 túi nhưng chúng hoạt động mật thiết với nhau. Ví dụ: lúc

dạ cỏ co bóp mạnh dạ múi khế tăng cường phân tiết, độ axit tăng. Lúc dạ cỏ liệt, độ axit dạ

múi khế giảm rõ rệt.

Trong thực tế dạ dày loài nhai lại thường mắc các bệnh sau: tích thức ăn dạ cỏ, liệt dạ cỏ,

chướng hơi dạ cỏ, nghẽn dạ lá sách và viêm dạ tổ ong do ngoại vật.

a. Khám dạ cỏ

Vị trí: dạ cỏ nằm hoàn toàn phía bên trái thành bụng.

Quan sát:

Thể tích dạ cỏ căng to hơn bình thường gặp trong trường hợp: bội thực dạ cỏ và

chướng hơi dạ cỏ. Trường hợp chướng hơi cấp tính thể tích dạ cỏ phình to vượt quá cột sống,

con vật thở khó, nếu không can thiệp kịp thời con vật chết nhanh ở trạng thái ngạt thở.

51

Thể tích dạ cỏ bé hơn bình thường gặp trong trường hợp gia súc bị đói ăn lâu ngày, ỉa

chảy cấp tính, liệt dạ cỏ.

Sờ nắn dạ cỏ:

Dùng nắm tay ấn vào hõm hông phía bên trái, khi bị chướng hơi có cảm giác như ấn

vào quả bóng bơm căng chứa đầy khí. Sức đàn hồi bề mặt da dạ cỏ rất lớn. Ngược lại khi bị

bội thực ấn vào dạ cỏ thấy thức ăn trong dạ cỏ chắc như túi bột, sức căng của bề mặt da dạ cỏ

Hình 3.7. Gõ vùng dạ cỏ

a- Vùng âm bùng hơi

b, c- Vùng âm đục tương đối

d- Vùng âm đục tuyệt đối.

kém, thường để lại vết lõm, sau một thời gian mới trở lại bình thường.

Gõ dạ cỏ:

Ở trạng thái khoẻ, gõ vùng dạ cỏ chia làm 3 phần: phía trên cùng của dạ cỏ là âm trống

do tích hơi; phần giữa dạ cỏ do lẫn hơi và thức ăn - âm đục tương đối; phần dưới cùng của dạ

cỏ tích toàn bộ thức ăn - âm đục tuyệt đối. Khi bị bội thực dạ cỏ, gõ xuất hiện toàn bộ âm

đục. Ngược lại chướng hơi dạ cỏ, gõ thấy toàn bộ âm trống.

Nghe dạ cỏ:

Dùng ống nghe đặt vào hõm hông phía bên trái của loài nhai

lại, để nghe nhu động của dạ cỏ. Ở trạng thái khỏe, nhu động dạ cỏ

trong 2 phút: trâu bò 2 – 5 lần; dê 2 – 4 lần; cừu 3 – 6 lần. Nghe

Hình 3.8. Nghe vùng dạ cỏ

tiếng nhu động dạ cỏ như tiếng sấm từ xa vọng lại (hình 3.8)

52

Nghe thấy nhu động dạ cỏ giảm, gặp trong trường hợp cơ dạ cỏ co bóp yếu: do liệt dạ cỏ,

tích thức ăn dạ cỏ, các bệnh nặng, các bệnh làm cơ thể sốt cao.

Trường hợp nghe mất hoàn toàn nhu động: liệt dạ cỏ, chướng hơi cấp tính, bội thực dạ

cỏ, nghẽn dạ lá sách, viêm màng bụng và các bệnh nặng.

Nhu động dạ cỏ tăng, co bóp nhiều, lực co bóp mạnh: giai đoạn đầu chướng hơi dạ cỏ,

trúng độc thức ăn, ăn phải các loại thức ăn lên men mạnh, mốc, thối, hàm lượng gluxit cao

(hình 3.8)

Xét nghiệm chất chứa trong dạ cỏ:

Sau khi trâu, bò ăn từ 2 – 3 giờ bắt đầu dùng ống thông lấy dịch dạ cỏ ra kiểm tra:

Màu sắc dịch dạ cỏ tuỳ thuộc vào chất chứa, thức ăn trong dạ cỏ. Nếu dịch có màu đen,

cà phê, gạch là do có quá trình viêm loét trong dạ cỏ.

Nếu dịch dạ cỏ có mùi thối do liệt dạ cỏ lâu ngày.

Độ pH chất chứa trong dạ cỏ ở trạng thái sinh lý giao động từ 6,8 – 7,4 và độ axít chung

từ 0,6 - 9,2 đơn vị. Khi kiểm tra thấy độ axit tăng (30 - 40 đơn vị) do quá trình lên men trong

dạ cỏ mạnh, làm độ pH giảm so với bình thường.

Kiểm tra số lượng vi khuẩn hữu ích (Infuzoria – vi khuẩn phân huỷ xenluloza) trong dạ

cỏ trên kính hiển vi ở trạng thái bình thường cho thấy: trong 1ml dịch dạ cỏ có 200.000 -

500.000 vi sinh vật. Trên một lam kính khi soi kính hiển vi đếm được trung bình từ 15 – 20 vi

sinh vật. Khi số lượng vi khuẩn hữu ích giảm, cơ thể trâu bò rơi vào trạng thái loạn khuẩn dạ

cỏ.

b. Khám dạ tổ ong

Ở trâu bò nước ta thường hay gặp viêm dạ tổ ong do ngoại vật. Khi bị viêm dạ tổ ong do

ngoại vật thường kế phát chướng hơi dạ cỏ.

Vị trí dạ tổ ong: Dạ tổ ong nằm trên xương mỏm kiếm, khoảng xương sườn 6 - 8, hơi

nghiêng về trái.

Khám dạ tổ ong:

53

Khám dạ tổ ong nhằm mục đích phát hiện phản ứng đau của trâu, bò khi bị viêm dạ tổ

ong do ngoại vật. Trong thực tế thường dùng các phương pháp phát hiện phản ứng đau của

trâu, bò như sau:

Dùng đòn khiêng hoặc đoạn gậy có độ dài 1 m đặt sau 2 chân trước vào vị trí dạ tổ ong,

hai người hai bên nâng ép lên vùng dạ tổ ong và quan sát trâu bò có phản ứng đau hay không?

Dắt trâu, bò lên dốc và xuống dốc và quan sát. Khi đi lên, các khí quan trong xoang bụng

dồn về phía sau, dạ tổ ong không bị chèn ép, con vật dễ chịu. Lúc đi xuống, dạ tổ ong bị chèn

ép, nếu có ngoại vật trâu, bò sẽ tỏ ra đau đớn.

Cho trâu, bò nhảy qua rãnh hay bờ tường và quan sát phản ứng đau của con vật, khi bị

viêm dạ tổ ong do ngoại vật trâu, bò thường đứng dừng lại không dám nhảy.

Dắt trâu, bò quay phải hoặc quay trái đột ngột. Khi bị viêm dạ tổ ong do ngoại vật, dắt

quay trái trâu, bò đau đớn và thường chùn chân, không bước vì dạ tổ ong bị chèn ép, khi quay

phải trâu, bò vẫn đi bình thường.

Dùng Arecolin hoặc Pilocarpin tiêm vào dưới da cho trâu, bò, sau khi tiêm khoảng từ 5

– 10 phút quan sát thấy trâu, bò có phản ứng đau dữ dội. Phản ứng đau dữ dội này là do thuốc

tăng cường cơ trơn dạ tổ ong co bóp mạnh tác động vào ngoại vật gây phản ứng đau.

Trường hợp ngoại vật là kim loại có thể dùng máy dò mìn đặt vào vị trí dạ tổ ong để

phát hiện.

c. Khám dạ lá sách

Vị trí dạ lá sách:

Dạ lá sách ở bên phải loài nhai lại, trong khoảng xương sườn 7 - 9, trên dưới đường

ngang kẻ từ khớp vai song song với mặt đất.

Sờ nắn: Dùng ngón tay hay nắm tay ấn mạnh vào các gian sườn 7, 8, 9 vùng dạ lá sách.

Nếu con vật tỏ ra khó chịu, đau, né tránh, thường là triệu chứng nghẽn dạ lá sách và viêm dạ

tổ ong do ngoại vật.

Gõ: Dùng búa gõ: gõ nhẹ nhàng vùng dạ lá sách, có âm đục lẫn âm bùng hơi và không có

phản ứng đau là trạng thái bình thường. Nếu gia súc tỏ ra khó chịu, đau là triệu chứng nghẽn

dạ lá sách, viêm dạ múi khế.

54

Nghe: Dùng ống nghe đặt vào vị trí dạ lá sách để nghe. Tiếng nhu động của dạ lá sách

gần giống tiếng nhu động của dạ cỏ, nhưng nhỏ hơn. Sau lúc ăn nhu động của dạ lá sách khá

rõ. Chú ý: lúc gia súc ăn thức ăn nhiều nước thì nhu động dạ lá sách gần giống như nhu động

ruột. Nhu động dạ lá sách mất là triệu chứng nghẽn dạ lá sách; nếu yếu thường gặp trong các

bệnh sốt cao.

Chọc dò: Dùng kim chọc dò vào vị trí dạ lá sách, quan sát không thấy đốc kim quay hình

con lắc hoặc dùng sering bơm dung dịch MgSO4 25% vào dạ lá sách, nếu thấy nặng tay, kết

hợp với các triệu chứng lâm sàng có thể kết luận con vật bị nghẽn dạ lá sách.

d. Khám dạ múi khế

Vị trí: Dạ múi khế nằm phần dưới bụng, sát cung sườn, từ xương sườn 12 đến mỏm kiếm

bên phải.

Sờ nắn: Đối với trâu, bò, dùng 3 đầu ngón tay ấn mạnh theo cung sườn phải, vào trong

và về phía trước. Bê, nghé, dê, cừu thì cho nằm nghiêng bên trái để sờ nắn dạ múi khế.

Gõ: Gõ dạ múi khế có âm đục, âm bùng hơi là trạng thái bình thường.

Nghe: Nghe tiếng nhu động dạ múi khế như tiếng nước chảy, gần giống nhu động ruột.

Nhu động dạ múi khế tăng khi viêm dạ múi khế; nhu động giảm khi dạ cỏ bị liệt hoặc bội

thực.

Đối với bê, nghé ở giai đoạn bú sữa thường hay bị rối loạn tiêu hóa do bị viêm dạ múi

khế, loét dạ múi khế, viêm ruột ỉa chảy do E.coli (Colibacillosis) và Salmonella.

3.3.7. Khám dạ dày đơn

a. Dạ dày ngựa

Dạ dày nằm sâu trong xoang bụng nên khám bên ngoài không có giá trị chẩn đoán. Quan

sát các triệu chứng biểu hiện bên ngoài, khi cần có thể dùng ống thông dạ dày, khám trực

tràng và xét nghiệm dịch dạ dày.

Ngựa biểu hiện triệu chứng: cơ thể gầy sút, trạng thái uể oải, hay ngủ gật, thiếu máu,

niêm mạc vàng thường do viêm loét dạ dày.

Ngựa biểu hiện đau bụng đột ngột, nôn mửa, ngồi như chó ngồi, vùng bụng từ khoảng

sườn 15 - 17 bên trái căng đầy thường do co thắt thượng vị, giãn dạ dày cấp tính.

55

Khi tiến hành thông dạ dày: hơi ra nhiều, chua, gia súc dịu những cơn đau thưòng do

giãn dạ dày cấp tính. Nếu con vật vẫn đau đớn thì tìm nguyên nhân khác.

Với ngựa thể vóc nhỏ mà dạ dày bị giãn nặng, có thể khám qua trực tràng đưa tay về

phía trước thận trái, sờ gặp dạ dày tròn, đàn hồi và di động theo nhịp thở.

b. Dạ dày lợn

Vị trí bên trái xoang bụng. Khi quan sát thấy vùng bụng bên trái căng to thường bị đầy

hơi hoặc bội thực.

Khi dạ dày bị chướng hơi sờ vào như bóng khí. Khị dạ dày bị bội thực sờ vào thấy thức

ăn rắn chắc, ấn mạnh làm lợn có phản xạ nôn. Ngoài ra một số bệnh gây viêm loét dạ dày

(dịch tả lợn, phó thương hàn lợn) khi ấn mạnh vào vùng dạ dày cũng có thể gây nôn.

c. Dạ dày chó, mèo

Bội thực, đầy hơi thì vùng bụng trái căng to.

Khi ấn mạnh tay vào vùng bụng, dạ dày bội thực thì thức ăn trong dạ dày cứng và chắc

như ấn vào túi bột. Còn trường hợp dạ dày bị đầy hơi ấn tay vào có cảm giác như ấn vào túi

khí. Khi ấn tay vào vùng bụng gia súc đau, giãy giụa thì do viêm màng bụng, viêm dạ dày.

Dùng phương pháp gõ vùng bụng giúp cho việc chẩn đoán các bệnh trên.

3.3.8. Khám ruột

Tiếp theo dạ dày là rụột non: tá tràng, không tràng, hồi tràng và ruột già: manh tràng, kết

tràng (đại kết tràng. tiểu kết tràng), trực tràng liền với hậu môn.

Động mạch treo tràng trước và động mạch treo tràng sau cung cấp máu cho đường ruột.

Hệ lâm ba ruột rất phát triển. Thần kinh thực vật chi phối hoạt động của đường ruột: dây phó

giao cảm hưng phấn tăng nhu động và phân tiết ở ruột. Dây thần kinh giao cảm có tác dụng

ngược lại.

Do cấu tạo đường ruột ở lòai gia súc không giống nhau nên phương pháp khàm bệnh

cũng khác nhau.

a. Khám ruột loài nhai lại

Ruột loài nhai lại tập trung trong hốc bụng phải ở một khu vực khá hẹp, nên khám lâm

sàng cho giá trị chẩn đoán ít nhất là đối với gia súc lớn.

56

Sờ nắn: ấn mạnh vùng bụng bên phải gia súc đau đớn: do lồng ruột, xoắn ruột, thoát vị,

viêm màng bụng.

Gõ: tá tràng ở dưới mỏm ngang của xương khum phía bên phải; bờ trước giáp vùng âm

đục của gan, bờ sau là cung sườn. Gõ tá tràng trâu bò có âm bùng hơi.

Manh tràng ở phía trước và phía dưới cánh xương hông; gõ có âm đục.

Kết tràng ở giữa vùng âm đục của gan và manh tràng; gõ có âm bùng hơi.

Không tràng và hồi tràng ở mé dưới bụng sau dạ lá sách và dạ múi khế. Phần trên có âm

bùng hơi, phần dưới có âm đục.

Lúc gõ vùng ruột chú ý các biểu hiện tắc ruột, xoắn ruột, lồng ruột…

Nghe ruột: Nhu động ruột loài nhai lại nghe mịn, tiếng nhu động yếu. Nhu động ruột

mất: do tắc ruột (do thức ăn tích lại trong ruột, lồng ruột, xoắn ruột) và liệt ruột.

Nhu động ruột tăng: do kinh luyến ruột, viêm dạ dày và ruột cấp tính, các nguyên nhân

gây ỉa chảy khác, gia súc bị trúng độc cấp tính.

Khám trực tràng:

Chủ yếu để khám thai và khám bàng quang, khám thận.

Người khám phải cắt móng tay và mài thật nhẵn. Tập khám

bằng tay trái vì thuận lợi cho việc sờ vùng bụng phải gia súc. Khi

khám phải cố định gia súc thật chắc chắn.

Sờ vào trực tràng trâu, bò khỏe thấy phân nhão. Nếu có nhiều

Hình. 3.9. Khám trực tràng bò

dịch nhày, lẫn máu, mùi khắm gặp trong các bệnh như lồng ruột,

xoắn ruột, thoát vị. Trực tràng đầy máu do xuất huyết, cầu

trùng, nhiệt thán, chấn thương cơ giới (hình 3.9).

Cho tay lần theo thành bụng để phát hiện thoát vị, tắc ruột, xoắn ruột (ruột cuộn thành

một đám to). Ấn mạnh tay gia súc đau do ruột lồng thành một đoạn ruột thẳng, cứng. Nếu tắc

ruột do phân gây táo bón thì sờ vào có cảm giác rất cứng.

Ngoài ra có thể khám một số bộ phận khác như bàng quang, tử cung, buồng trứng và

thận phải.

b. Khám ruột ngựa, la, lừa

57

Quan sát: vùng bụng phải chướng to do tích hơi ở ruột già; vùng bụng thóp lại do ỉa chảy

mạn tính, đói ăn.

Sờ nắn: áp dụng với ngựa nhỏ, những con gầy và chú ý hiện tượng thoát vị, viêm màng

bụng.

Gõ: chia bụng trái làm 3 phần: phần trên là tiểu kết tràng, phần giữa là ruột non và phần

dưới là đại kết tràng. Bên phải kẻ đường ngang từ xương cánh hông xuống dưới, về phía

trước; phần dưới là vùng kết tràng chạy dọc theo cung sườn, phần trên là manh tràng.

Vùng ruột non bình thường gõ có âm đục tương đối. Vùng tiểu kết tràng: khi ruột trống

gõ có âm bùng hơi; đầy phân - âm đục. Nếu tắc ruột vùng đại kết tràng gõ có vùng âm đục

mở rộng. Khi ruột tích đầy hơi gõ xuất hiện âm trống chiếm ưu thế.

Vùng manh tràng: phần trên là âm bùng hơi, phần dưới là âm đục tương đối hay âm

bùng hơi. Khi manh tràng tích thức ăn gõ xuất hiện âm đục. Ngược lại khi manh tràng tích hơi

gõ xuất hiện âm trống.

Nghe: bên phải, vùng hõm hông nghe được tiếng nhu động của manh tràng; phía dưới

theo cung sườn là tiếng nhu động của đại kết tràng. Phía bụng trái nghe lần lượt từ trên xuống

là tiếng nhu động của tiểu kết tràng, của ruột non và dưới cùng là tiếng nhu động của đại kết

tràng.

Tần số nhu động của ruột già: 4 - 6 lần/phút, ruột non 8 - 12 lần/phút. Tiếng nhu động

của ruột non nghe rõ gần như tiếng nước chảy. Ruột già nhu động nhẹ, tiếng yếu không rõ.

Nhu động của ruột phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất thức ăn, quá trình viêm nhiễm

trong đường ruột.

Nhu động ruột tăng do thức ăn, nước uống quá lạnh; thức ăn bị nhiễm độc; viêm ruột;

giai đoạn đầu đầy hơi ruột.

Nhu động ruột giảm do ỉa chảy lâu ngày; đầy hơi ruột nặng; ruột liệt, tắc; viêm ruột

nặng; thần kinh phó giao cảm quá ức chế.

Khám qua trực tràng: thường để chẩn đoán hội chứng đau bụng ngựa: do tắc ruột, lồng

ruột, xoắn ruột,… ngoài ra, để khám thận, bàng quang, khám thai, gan, lách.

Ruột non ngựa, la ,lừa, xếp trong xoang bụng theo thứ tự: tá tràng, không tràng, hồi

tràng. Ruột già: manh tràng; đại tràng phía dưới bên phải, gấp khúc hoành mô; đại kết tràng

58

dưới bên trái, gấp khúc chậu hông; đại kết tràng trên bên trái gấp khúc hoành mô; đại kết

tràng trên bên phải; manh nang của đại kết tràng; tiểu kết tràng và trực tràng.

Khi tiến hành khám phải cố định gia súc chắc chắn. Cố định gia súc trong gióng, buộc

hai chân sau kéo về phía trước và kéo đuôi sang một bên. Dùng tay phải để khám và thụt cho

hết phân trong trực tràng trước khi khám. Chụm 5 đầu ngón tay lại, đưa vào rực tràng lần nhẹ

đẩy tay về phía trước.

Nếu cơ vòng hậu môn co thắt mạnh: do tắc ruột, xoắn ruột, lồng ruột, kinh luyến ruột,

uốn ván.

Nếu cơ vòng hậu môn giãn: do gia súc ỉa chảy lâu ngày, nằm lâu ngày, xương khum bị

tổn thương.

Trường hợp trực tràng có nhiều chất nhày lẫn máu: do tắc ruột, xoắn ruột, lồng ruột,

viêm ruột xuất huyết, cầu trùng.

Nếu trực tràng có máu tươi thường tác động cơ giới gây xuất huyết ở trực tràng.

Cho tay đến bờ trước xương chậu gặp tiểu kết tràng, phía dưới là bàng quang. Vùng tiểu

kết tràng ruột đánh thành túi dài, đầy những cục phân cứng: tắc ruột do táo bón.

Vùng bụng trái là khu đại kết tràng. Ngay dưới xương chậu, phía dưới, hơi nghiêng về

bên trái là gấp khúc chậu hông. Nếu bị tắc ruột thì đại kết tràng bên trái đoạn trên, đoạn dưới

và gấp khúc chậu hông chứa đầy phân căng to chiếm hết khoang bụng trái.

Kết tràng đầy hơi, bụng căng. Chú ý trường hợp kết tràng tắc và phần trước lại đầy hơi.

Ruột non hay xoắn với gấp khúc chậu hông của kết tràng bên trái hay với gốc manh

tràng.

Nếu cơ hoành bị thủng, ruột chảy vào xoang ngực, xoang bụng trở nên rỗng, áp lực rỗng

và ruột di chuyển nhẹ theo động tác thở.

Trong xoang bụng, nếu ruột non lồng vào nhau tạo thành những khúc như lạp sườn, ấn

mạnh gia súc đau.

Manh tràng bị tắc tạo thành túi to như quả bưởi lớn, phần trên là khí, dưới cứng thường

có sỏi.

Manh tràng đầy hơi chướng to chiếm cả xoang bụng.

59

Ruột non bị tắc thường ít gặp.

Chú ý thành bụng: không trơn, ấn gia súc đau do viêm màng bụng.

c. Khám ruột non gia súc nhỏ

Khám ruột lợn

Ruột non bên phải, ruột già bên trái.

Bụng chướng to: do đầy hơi, bội thực. Bụng xẹp do ỉa chảy lâu ngày.

Dùng hai tay ép hai bên thành bụng, ấn mạnh vào vùng bụng, thấy tụ lại cục cứng do tắc

ruột, táo bón.

Khám ruột dê, cừu

Hai chân người khám kẹp cổ con vật ở tư thế đứng, dùng tay ép hai bên thành bụng, ấn

mạnh, nếu gia súc có cảm giác đau thường do táo bón, viêm nhiễm đường ruột.

Khám ruột chó, mèo

Khi khám có thể cho con vật đứng hay nằm. Dùng đầu ngón tay ấn mạnh vùng bụng, con

vật đau do tắc ruột, lồng ruột, xoắn ruột, viêm ruột. Sờ vào thấy phân đọng lại cục xếp thành

chuỗi trong xoang bụng do táo bón. Sờ vào vùng bụng có cảm giác bùng nhùng do tích dịch

trong xoang bụng.

Gõ để phát hiện ruột đầy hơi, táo bón.

Nghe thấy nhu động ruột giảm, mất do con vật bị tắc ruột, viêm màng bụng.

Với chó có thể dùng X-quang và phương pháp nội soi, siêu âm vùng bụng.

3.3.9. Khám phân

Phân gia súc gỗm bã thức ăn (chất xơ, protit, lipit,…), chất tiết của tuyến tiêu hóa, tế

bào thượng bì niêm mạc ruột tróc ra, chất khoáng và một số vi sinh vật thường có trong

đường ruột.

a. Khám phân bằng mắt thường

Số lượng: tùy thuộc vào số lượng và chất lượng thức ăn.

Trâu bò khỏe một ngày đêm đi khoảng 15 – 35 kg phân; ngựa: 15 – 20 kg; dê, cừu: 2 -3

kg; lợn: 1 – 3 kg; chó : 0.5 kg. Lượng phân của loài gia súc ăn thịt ít hơn của loài ăn cỏ.

60

Các trường hợp ỉa chảy phân nhiều nước, số lượng tăng. Gia súc bị taó bón phân cứng,

số lượng ít.

Ruột tắc gia súc không đi ngoài.

Trong hầu hết các bệnh có sốt cao đều gây táo bón và lượng phân ít.

Độ cứng: có liên quan đến lượng thức ăn và tình trạng tiêu hóa của đường ruột. Phân

trâu bò tỷ lệ nước khoảng 85%, nhão, đi ngoài thành từng bãi. Phân ngựa, 75% nước, hình

ống ruột, đi ngoài thành hòn tròn. Phân dê, cừu khô, 5,5% nước, đi ngoài thành viêm tròn,

cứng. Phân lợn hình ống ruột, phân gia cầm khô, bên ngoài có lớp màng trắng.

Các nguyên nhân gây tăng nhu động ruột – viêm ruột, nhiễm độc tố, lạnh,…gây ỉa chảy,

phân nhão và nhiều.

Nhu động ruột giảm, phân tiết ít gây táo bón (do liệt ruột, viêm ruột cata,…) thì phân khô

cứng.

Màu sắc: phụ thuộc rất nhiều màu sắc thức ăn và tuổi gia súc.

Phân màu trắng ở gia súc non: bệnh phân trắng (do không tiêu, do Colibacillosis), phó

thương hàn.

Phân nhạt màu: do sắc tố mật ít trong bệnh viêm gan,tắc ống mật.

Phân màu đỏ do lẫn máu. Nếu đỏ tươi do chảy máu phần ruột sau; đỏ thẫm chảy máu ở

dạ dày, phần trước ruột.

Phần táo bón thường màu đen, do gia súc bị sốt cao.

Chú ý: màu phân thay đổi do uống thuốc.

Mùi: phân loài ăn thịt thối, phân các loài gia súc khác không thối.

Phân thối thường do rối loạn tiêu hóa, đường ruột có quá trình lên men, thối rữa.

Niêm dịch nhiều, màng giả, mủ máu lẫn trong phân thường do bệnh.

Tăng niêm dịch dạ dày do phân tiết trên niêm mạc đường ruột tăng, táo bón lâu ngày,

viêm cata ruột già. Tắc ruột, phân toàn niêm dịch lẫn máu.

Phân có màng giả do những sợi huyết (fibrin), huyết cầu, những mảnh tổ chức niêm mạc

ruột bong ra, dính với nhau tạo thành, theo phân ra ngoài thành từng mảng hoặc theo hình ống

ruột. 61

Màng giả là triệu chứng viêm ruột nặng và tiên lượng điều trị không tốt.

Mủ, có khi cả những mảnh tổ chức nhỏ lẫn trong phân do niêm mạc ruột, niêm mạc dạ

dày bị loét long tróc ra.

Phân lẫn máu: do ký sinh trùng (cầu trùng, lê dạng trùng), loét ruột, xoắn ruột, lồng ruột,

viêm nặng, các bệnh truyền nhiễm như nhiệt thán, dịch tả…

Phân lẫn những bọt khí: do rối loạn tiêu hóa và lên men.

Phân gia súc có thể có những mảnh vật lạ do gia súc ăn bậy gặp trong bệnh dại, thiếu

khoáng.

b. Hóa nghiệm phân

Một số ca bệnh cần phải xét nghiệm phân để giúp cho quá trình chẩn đoán được chính

xác (độ kiềm toan trong phân, máu trong phân, sắc tố mật trong phân, axit hữu cơ trong

phân,...). Nhưng trong thực tế lâm sàng người ta thường xét nghiệm:

* Độ toan, kiềm của phân: phụ thuộc vào thành phần và tính chất của thức ăn. Gia súc

ăn cỏ, bề mặt của phân có tính toan yếu, bên trong phân có tính kiềm. Phân loài ăn thịt và ăn

tạp, phân thường mang kiềm, cũng có khi toan hay trung tính phụ thuộc vào tính chất thức ăn.

Trong ruột, thức ăn giàu protit phân giải, phân thường kiềm tính, thức ăn giàu lipit và

gluxit lên men tạo ra nhiều axit béo, phân toan.

Phương pháp xét nghiệm: nhúng giấy quỳ vào nước cất cho ướt sau đó áp nhẹ vào phân

và đọc kết quả.

Hoặc: lấy 2 - 3 g phân cho vào ống nghiệm, rồi thêm vào 10 ml nước cất, ngoáy cho tan

đều và để yên trong phòng 6 - 8 giờ. Quan sát phần nước trên trong: toan; đục: kiềm.

Trong chẩn đoán viêm ruột cần xác định độ kiềm, toan của phân để biết con vật bị viêm

ruột thể toan hay thể kiềm.

* Máu trong phân: xét nghiệm phát hiện máu trong phân được sử dụng trong trường

hợp nghi phân có máu mà mắt thường không nhìn thấy được.

Thuốc thử:

1/ Benzidin 1% trong axit axetic đặc (glacian, pha và dùng ngay).

2/ Nước oxy già (H2O2) 3%.

62

Cách làm: 2 – 3 g phân kiểm nghiệm trong ống nghiệm, thêm vào 3 – 4 ml nước cất,

ngoáy cho tan rồi đun sôi. Để nguội, lấy vài giọt hỗn dịch trên vào một ống nghiêm khác, cho

thêm 10 - 12 giọt 1% Benzidin, nước oxy già cùng lượng 3%. Nếu hỗn dịch xuất hiện màu

xanh: dương tính (có máu).

Có thể làm: 3 g phân, 1 ml axit axetic đặc, 1ml ete (ether) etylic (ethylic); lắc đều và để

yên. hút vài giọt phần trong ở trên và thêm vào 10 - 20 giọt 1% Benzidin, nước oxy già cùng

lượng. Hỗn dịch xuất hiện màu xanh: phản ứng dương tính.

Các phản ứng tìm máu với tuốc thử Bezidin đều dựa trên nguyên tắc trong hồng cầu có

men oxydaza, ở môi trường toan tính giải phóng oxy trong nước oxy già dưới dạng oxi

nguyên tử. Oxy nguyên tử oxy hóa benzidin thành dẫn xuất màu xanh.

Gia súc ăn các loại thức như thịt, tiết, gan…, hai ngày sau phản ứng tìm máu trong phân

vẫn có kết quả dương tính. Do vậy, lúc cần xét nghiệm máu trong phân của chó, mèo phải chú

ý kiểm tra khẩu phần thức ăn của chúng 1 - 2 ngày trước.

3.3.10. Chọc dò xoang bụng

a. Ý nghĩa chẩn đoán

Khi quan sát thấy con vật bụng to, thở khó, gõ vào vùng bụng thấy âm đục song song với

mặt đất, chúng ta tiến hành chọc dò xoang bụng lấy dịch ra để kiểm tra xem dịch đó là dịch

viêm hay dịch phù, từ đó chẩn đoán được nguyên nhân gây ra bệnh và đưa ra phương pháp

điều trị thích hợp.

b. Phương pháp chọc dò

Khi chọc dò xoang bụng phải cố định gia súc đứng thật chắc chắn.

Vị trí chọc: hai bên, cách đường trắng 2 – 3 cm, cách xương mỏm kiếm 10 – 15 cm về

phía sau. Ở ngựa nên chọc về bên trái để tránh manh tràng; với trâu, bò chọc bên phải để tránh

dạ cỏ.

Tùy gia súc to nhỏ, dùng kim số 16, 14 để chọc. Chú ý:

kim chọc dò được nối liền ống hút khi cần thiết để hút dịch.

Phải sát trùng tốt dụng cụ chọc dò, nhất là đối với ngựa và

Hình.3.10. Chọc dò xoang bụng lợn

chó.

Cắt sạch lông, sát trùng bằng cồn iốt 5%.

63

Chọc kim thẳng góc với thành bụng, đẩy nhẹ vào tránh chọc thủng khí quan bên trong. Ở

gia súc khoẻ dịch chọc dò trong xoang bụng có khoảng 2 - 5 ml, dịch có màu vàng.

Nếu gia súc đau bụng mà dịch chọc dò ra nhiều, màu vàng có thể ruột biến vị.

Dịch chọc dò có máu, nhiều chất nhầy do gia súc bị xoắn ruột.

Dịch đục, nhiều niêm dịch, sợi huyết do gia súc bị viêm màng bụng.

Dịch chọc ra toàn máu do vỡ gan, lách hay mạch quản lớn. Nếu dịch lẫn mảnh thức

ăn, mùi chua, máu do vỡ dạ dày. Dịch chọc dò có nước tiểu do vỡ bàng quang.

Chú ý phản ứng Rivanta để phân biệt dịch phù và dịch viêm (xem phần “chọc dò

xoang ngực”).

3.3.11. Khám gan

a. Ý nghĩa chẩn đoán

Khám gan để phát hiện các trường hợp viêm gan, xơ gan và rối loạn chức năng của gan.

Ở gia súc gan thường bị viêm, thoái hoá, xơ gan…Đặc biệt ở trâu, bò nước ta tỷ lệ nhiễm sán

lá gan rất nặng, thường gây tổn thương ở gan dẫn đến cơ thể gầy yếu, ỉa chảy, năng suất lao

động và hiệu quả chăn nuôi không đạt được.

Những bệnh gan ở gia súc và gia cầm tiến triển cấp tính, triệu chứng rõ, như viêm gan

cấp tính, thường chẩn đoán không khó như viêm gan vịt.

b. Vị trí khám gan

Trâu bò: gan nằm ở vùng bên phải, từ xườn 6 đến xườn cuối. Phần sau gan lộ ra ngoài

phổi, tiếp giáp với thành bụng khoảng xườn 10 - 12.

Gõ từ xườn 10 - 12 trên dưới đường kẻ ngang từ mỏm xương hông, là vùng âm đục của

gan. Phía sau là vùng tá tràng, phía trước là phổi, gan sưng to, vùng âm đục mở rộng về phía

sau, có thể kéo đến xườn 12, trên đường ngang kẻ từ mỏ xương ngồi; về phía dưới âm đục của

gan có thể đến trên đường ngang kẻ từ khớp vai.

Trường hợp gan sưng rất to, lòi ra ngoài cung sườn, làm cho hõm hông bên phải nhô cao.

Sờ được bằng tay một cục cứng chuyển động theo nhịp thở.

Gan trâu bò sưng to: viêm mạn tính, lao gan, xơ do sán lá gan, ổ mủ, ung thư.

64

Ở những bò sữa cao sản, gan sưng to thường do trúng độc thức ăn dẫn đến rối loạn trao

đổi chất lâu ngày gây nên.

Vùng gan ở dê, cừu giống ở trâu bò.

Ngựa, la, lừa: gan nằm sâu trong hốc bụng, bị rìa phổi

lấp kín cả hai bên phải trái thành bụng.

Không sờ, gõ được vùng gan khỏe.

Gan sưng to, gõ theo cung xườn bên trái khoảng gian

Hình 3.11. Vùng gan ngựa sưng to

sườn 7 - 10, bên phải: 10 - 17. Khi ấn tay theo cung sườn có

thể sờ thấy gan cứng, chuyển động theo nhịp thở.

Gan sưng to: viêm mạn tính, ổ mủ, khối u.

Khi khám vùng gan ở ngựa cần chú ý các triệu chứng lâm sàng khác: hoàng đản, tim đập

chậm, thành phần nước tiểu thay đổi rõ. Gia súc ủ rũ, hôn mê.

Gia súc nhỏ: để gia súc đứng và quan sát so sánh hai bên bụng. Sờ theo cung sườn, ấn từ

nhẹ đến nặng. Chú ý gan to nhỏ, độ cứng và phản ứng đau.

Chó: gan bên phải từ sườn 10-13, bên trái: đến sườn 12. Gan chó thay đổi vị trí theo độ

dày của dạ dày.

Gan chó sưng to: viêm, tụ máu; gan chó bị leucosis, sưng rất to, lồi hẳn ra ngoài cung

sườn.

Gan lợn: khám giống ở chó và bằng cách sờ nắn và gõ kết quả không rõ.

c. Các xét nghiệm cơ năng

Gan tổng hợp phần lớn protein huyết thanh, albumin, globulin, fibrinogen, protrombin. Ở

gan diễn ra quá trình chu chuyển amin, hình thành sản phẩm cuối cùng của trao đổi amin là

ure. Gan tham gia tích cực vào quá trình đông máu bằng cách tạo ra fibrinogen, protrombin,

heparin.

65

Gan dự trữ khối lượng lớn lipit cho cơ thể, nơi hình thành các phospholipit, cholesterol.

Các axit béo được oxy hóa thành các sản phẩm như thể xeton và các axit đơn giản khác cũng

xảy ra ở gan. Vitamin A, B1 và K được tạo thành trong gan.

Các chất độc từ các tổ chức, khí quan, sản phẩm của lên men trong đường ruột, các sản

phẩm của quá trình trao đổi chất trong cơ thể, tất cả những chất cặn bã đó đều qua gan và

bằng các phản ứng hóa học phức tạp, bị phá hủy chuyển thành các chất không độc và bài thải

ra ngoài cơ thể.

Tế bào gan bị tổn thương nhất định kéo theo chức năng của nó rối loạn.

Khám bệnh gan, ngoài các phương pháp phát hiện tổn thương thực thể, còn có các

phương pháp phát hiện chức năng – gọi là các xét nghiệm chức năng.

Hiện nay có hàng trăm nghiệm pháp chức năng, tùy theo yêu cầu chẩn đoán cụ thể để

chọn phương pháp thích hợp.

3.4. KHÁM HỆ THỐNG TIẾT NIỆU

Khám bệnh ở các cơ quan hệ thống tiết niệu của gia súc,

chủ yếu là các bệnh ở thận và ở bàng quang. Ngoài ra tiến hành

xét nghiệm nước tiểu để có tư liệu giúp chẩn đoán bệnh ở đường

tiết niệu cũng như bệnh ở toàn thân (hình 3.12)

Hình. 3.12. Hệ thống tiết niệu

3.4.1. Khám động tác đi tiểu

Nước tiểu từ các thận tiểu cầu, chảy về bể thận, rồi theo bể

thận theo ống dẫn liện tục xuống bàng quang. Trong bàng quang nước tiểu tích tụ đầy đến

mức độ nào đó, làm căng bàng quang sẽ gây kích thích đi tiểu, tống nước tiểu ra ngoài.

Khám động tác đi tiểu: tư thế đi tiểu, lượng nước tiểu và các biểu hiện khác thường.

a. Tư thế đi tiểu

Gia súc khỏe đi tiểu đều có chuẩn bị, như đang nằm thì đứng dậy, ngừng làm việc,

ngừng ăn…

Bò cái khi đi tiểu, hai chân sau dạng ra, đuôi cong, bụng thóp lại; trâu bò đực lại vừa đi

vừa ăn vừa đi tiểu, nước tiểu chảy ròng ròng.

Ngựa lúc đi tiểu, hai chân sau dạng ra, hơi lùi về phía sau và phần thân sau thấp xuống.

66

Lợn cái đi tiểu giống trâu, bò cái. Lợn đực đi tiểu từng giọt liên tục.

Nếu đường dẫn nước tiểu có bệnh, tư thế gia súc đi tiểu thay đổi. ví dụ: khi viêm niệu

đạo, gia súc đi tiểu đau, rên rỉ, đầu quay nhìn bụng, hai chân sau chụm lại.

b. Số lần đi tiểu

Trong một ngày đêm, trâu, bò đi tiểu 5 - 10 lần; ngựa 5 - 8 lần; dê, cừu 1 - 3 lần; chó,

lợn: 2 - 3 lần. Chó đực khi ngửi thấy mùi nước tiểu là đi tiểu.

Chú ý các triệu chứng sau:

Đi tiểu ít (Oliguria): số lần đi tiểu ít, lượng nước tiểu ít. Nước tiểu màu sẫm, tỷ trọng cao.

Do viêm thận cấp tính, các bệnh làm cho cơ thể mất nước nhiều – ỉa chảy nặng, ra nhiều

mồ hôi, sốt cao, thẩm xuất, nôn mửa.

Không đi tiểu (Anuria): không đi tiểu do thận, như lúc viêm thận cấp tính nặng, thì bàng

quang trống. Có thể chẩn đoán qua trực tràng.

Gia súc không đi tiểu được do bàng quang, nếu bị vỡ bàng quang thì gia súc đau đớn,

nước tiểu tích lại trong xoang bụng, chẩn đoán qua trực tràng và chọc dò xoang bụng.

Nếu do co thắt cơ vùng bàng quang, liệt bàng quang, tắc niệu đạo thì nước tiểu căng đầy

bàng quang, chẩn đoán phân biệt qua trực tràng.

Chú ý: ở gia súc nhất là trâu bò đực giống hay viêm bàng quang xuất huyết dẫn đến tắc

niệu đạo.

Đi đái dắt (Pollakiuria): là đi đái nhiều lần ít một; đi đái nhiều lần, lượng nước tiểu

nhiều, gọi là đa niệu (Polyuria).

Đi đái dắt: Sỏi niệu đạo, gia súc cái động hớn, nhất là viêm niệu đạo.

Đa niệu là triệu chứng viêm thận mạn tính, hấp thụ tiêu dịch thấm xuất trong cơ thể.

Uống nhiều nước, uống thuốc lợi tiểu cũng gây đa niệu.

Gia súc đa niệu nước tiểu màu nhạt, tỷ trọng thấp, trong suốt.

Đi đái không cầm được (Enuresis): đi đái không có động tác chuẩn bị, nước tiểu chảy rỉ

liên tục.

Do không điều tiết được động tác đi tiểu: liệt cơ vòng co thắt bàng quang, cột sống lưng

bị tổn thương; gia súc hôn mê, nằm lâu ngày. 67

Đi đái đau (Stranguria): gia súc đi đái rên, đầu quay nhìn bụng, đuôi cong chân cào đất…

bệnh: viêm bàng quang, viêm niệu đạo, tắc niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt.

3.4.2. Khám thận

Ở gia súc thường chỉ chú ý bệnh viêm thận (Nephritis), bệnh thận (Nephrosis) và bệnh

viêm bể thận (Pyelitis).

Chẩn đoán những bệnh trên thường khó; vì gia súc không biết nói, triệu chứng đau vùng

thận thường bị bỏ qua.

a. Những triệu chứng chung

Những triệu chứng chung sau đây cần chú ý khi khám thận bị bệnh:

Thủy thũng ở mi mắt, bìu đái, dưới bụng, bốn chân…Do bệnh có thận, bài tiết trở ngại,

NaCl tích lại nhiều trong máu, trong tổ chức; Albumim trong máu theo nước tiểu ra ngoài…

làm thay đổi áp lực keo của máu, của tổ chức, gây thủy thũng.

Động tác đi tiểu, lượng nước tiểu, tích chất nước tiểu thay đổi. Trong nước tiểu có thể có

huyết sắc tố, những cặn bệnh lý khác…

Trúng độc ure do chất độc, chất thải của trao đổi chất trong cơ thể không thải ra ngoài,

tích lại trong tổ chức cơ thể gây ra. Gia súc ủ rũ, tiêu hoá rối loạn, nôn có khi ỉa chảy. Động

tác hô hấp thay đổi, thở khó có trường hợp viêm phổi, thủy thũng phổi. Trúng độc ure nặng,

bệnh súc hôn mê, chết.

Tim thay đổi: huyết áp cao, tiếng tim thứ hai tăng, trường hợp nặng tiếng tim thứ hai tách

đôi, tâm thất trái nở dày, mạch cứng.

Đáy mắt gia súc viêm thận có thay đổi đáng chú ý: vi mạch quản sung huyết, thần kinh

thị giác thủy thũng; xung quanh thể vàng những điểm xuất huyết xen lẫn những điểm trắng.

b. Nhìn và sờ nắn vùng thận

Nhìn vùng thận có thể phát hiện những thay đổi vùng thận những gia súc nhỏ khi thận có

bệnh.

Vị trí của thận: nằm hai bên cột sống.

Ở loài nhai lại: thận trái từ đốt sống lưng thứ 2 - 3 đến đốt thứ 5 - 6; bên phải từ xương

sườn thứ 12 đến đốt sống lưng thứ 2 - 3. Thận trâu bò có nhiều thùy; thận dê, cừu trơn.

68

Ngựa: thận trái: xương sườn thứ 17 - 18 đến đốt sống lưng 2 - 3; thận phải: xương sườn

thứ 14 - 15 đến xương sườn cuối cùng.

Thận lợn nằm dưới đốt sống lưng 1 - 4.

Thận loài ăn thịt: đốt sống lưng 2 – 4 ở bên trái; thận phải đốt 1 - 3.

Khi khám: gia súc nhỏ để đứng tự nhiên; gia súc lớn cố định và khám qua trực tràng.

Sờ nắn bên ngoài: tay trái người khám để nhẹ lên vùng khum lưng làm điểm tựa; tay phải

gõ nhẹ lên sống lưng theo vùng thận và theo dõi phản ứng của gia súc. Viêm thận nặng, gõ

vùng thận gia súc đau – tránh xa.

Sờ qua trực tràng

Với trâu bò: lần thẳng tay về phía trước, sờ được thận trái treo dưới cột sống, di động.

Thận sưng to do viêm; mặt quả thận gồ ghề: viêm thận mạn tính, lao thận. Quả thận bé – teo.

Ở ngựa qua trực tràng, thẳng tay lần đến đốt sống lưng thứ 2 - 3 thì sờ được thận trái. Ấn

nhẹ quả thận, gia súc đau- tỏ ra khó chịu: do viêm thận cấp tính hoặc ổ mủ. Quả thận to, sờ

lùng nhùng: thận thủy thũng (ở gia súc rất ít thấy). Thận cứng, gồ ghề: u thận.

Khám thận gia súc nhỏ: hai tay hai bên theo cột sống vùng khum, lần mạnh sờ vùng

thận, chú ý gia súc có biểu hiện đau đớn. Lợn có tầng mỡ dầy, sờ nắn bên ngoài để khám thận

kết quả không rõ.

c. Thử nghiệm chức năng thận

Trong thực tiễn thú y thường không cần thiết phải tiến hành thử nghiệm chức năng. Do

vậy, việc nghiên cứu về mặt này cũng không được chú ý.

3.4.3. Khám bàng quang

Bàng quang nằm ở phần dưới xương chậu: ở trâu bò hình quả lê, ở ngựa hình tròn; lúc chứa đầy nước tiểu to bằng cái bát.

Cho tay qua trực tràng hướng xuống xoang chậu có thể sờ được bàng quang lúc đầy

nước tiểu.

Gia súc khỏe, bàng quang bình thường: ấn nhẹ tay vào bàng quang có nước tiểu sẽ kích

thích bàng quang co thắt đẩy nước tiểu ra cho đến lúc hết.

Nếu bàng quang xẹp, nhưng gia súc lại bí đái thì cần thiết chọc dò xoang bụng:

Xoang bụng có nước tiểu – vỡ bàng quang. 69

Xoang bụng trống – bí đái do thận (viêm thận cấp tính nặng).

Bàng quang căng đầy nước tiểu:

Ấn mạnh tay vào bàng quang, nước tiểu chảy ra; thôi ấn, nước tiểu thôi chảy – liệt bàng

quang.

Ấn mạnh, nước tiểu vẫn tích đầy căng bàng quang – tắc niệu đạo trong bệnh viêm bàng

quang xuất huyết, sỏi niệu đạo (ít thấy).

Bí đái ở gia súc trong nhiều ca bệnh do táo bón: móc hết phân ở trực tràng thì hết bí đái.

Sờ ấn bàng quang gia súc đau: viêm bàng quang cấp tính, sỏi niệu đạo. Ở ngựa: chú ý

viêm màng bụng.

Soi bàng quang

Khám bàng quang gia súc cái

Kính soi bàng quang gồm một cán bằng kim loại gắn với một bóng đèn nhỏ.

Trước khi soi, nên thông bàng quang lấy hết nước tiểu, rửa sạch bằng nước sinh lý, nhất

là nhưng ca bệnh nước tiểu đục có lẫn máu, mủ.

Soi bàng quang phát hiện vùng viêm, loét, sỏi trong bàng quang.

Với gia súc thể vóc nhỏ có thể chiếu hoặc chụp bằng X – quang và siêu âm.

3.4.4. Khám niệu đạo

Niệu đạo con đực bị tắc, viêm, bị sỏi; niệu đạo con cái: viêm, tắc, hẹp.

Khám niệu đạo con đực: phần niệu đạo nằm trong xoang chậu thì khám qua trực tràng,

nhưng khó khăn; đoạn vòng qua dưới xương ngồi thì sờ nắn bên ngoài.

Niệu đạo con cái mở ra trên mặt dưới âm đạo. cho ngón tay vào sờ nắn qua âm đạo.

Thông niệu đạo

Trong nhiều ca chẩn đoán cần thông niệu đạo. Thông niệu đạo còn để điều trị viêm tắc

niệu đạo.

Dụng cụ thông: ống thông niệu đạo các loại, tùy gia súc to nhỏ.

Chuẩn bị: rửa thật sạch ống thông, nhất là trong ,lòng ống. Bôi vaselin phần ống thông

nằm trong niệu đạo. 70

Nếu thông niệu đạo con cái thì phải cắt nhẵn ngón tay trỏ để khi cố định cửa niệu đạo

không gây sây sát âm hộ.

Thông niệu đạo trâu bò đực: vì có đoạn niệu đạo hình chữ S nên khó thông. Khi cần

thiết: gây tê tại chỗ bằng 15 - 20 ml novocain 3% và dùng ống thông mềm.

Thông niệu đạo trâu, bò cái, ngựa cái

Chú ý: cố định tốt gia súc.

Rửa sạch âm hộ gia súc.

Người thông đứng sau gia súc, tay phải cầm ống thông. Cho ngón trỏ tay trái vào âm hộ

tìm lỗ niệu đạo, rồi dùng đầu ngón tay cố định. Cho ống thông vào theo ngón tay trỏ. Lần dần

ống thông làm sao ống thông lọt được vào cửa niệu đạo mà ngón tay đang cố định. Khi đã

chắc chắn ống thông vào lỗ niệu đạo, kéo ngón tay ra và đồng thời đẩy ống thông vào. Đến

bàng quang nước tiểu lập tức chảy ra.

Thông niệu đạo ngựa đực: cố định tốt ngựa đực trong gióng, tránh nguy hiểm cho người

chẩn đoán.

Rửa sạch dương vật và kéo quy đầu ra, dùng vải gạc bọc lại để cố định. Cho ống thông

vào từ từ cho đến lúc nước tiểu chảy ra.

3.4.5. Xét nghiệm nước tiểu

Nước tiểu xét nghiệm phải hứng lúc gia súc đi tiểu; khi cần thì thông bàng quang để lấy.

Nước tiểu lấy xong phải kiểm tra ngay. Nếu để qua

đêm thì phải bảo quản tốt, tốt nhất là trong tủ lạnh, cứ 1

lít nước tiểu cho vào 5ml chloroform hoặc một ít timon

(thylmol) hay benzen để phủ trên một lớp mỏng chống

thối.

Nước tiểu để xét nghiệm vi trùng thì lấy phải tuyệt

Hình. 3.13. Hứng nước tiểu để kiểm nghiệm 1,2. Ngựa đực; 3. Ngựa cái; 4. Bò cái

đối vô trùng và không cho chất chống thối.

Trước khi xét nghiệm nước tiểu nên tinh khiết

nước tiểu bằng cách lọc qua giấy lọc.

a. Những nhận xét chung

71

Số lượng nước tiểu

Trâu, bò một ngày đêm đái từ 6 - 12 lít nước tiểu, nhiều nhất 25 lít. Nước tiểu màu vàng

nhạt, mùi khai nhẹ, trong suốt; để lâu màu thẫm lại chuyển sang màu nâu.

Ngựa 24 giờ cho khoảng 3 - 6 lít, nhiều nhất là 10 lít. Nước tiểu ngựa màu vàng nhạt

đến màu vàng nâu, nồng, đục, nhớt, để lâu sẽ lắng một lớp cặn, đó chính là các muối carbonat

canxi, oxalat canxi…Phenon (phenol) oxy hóa thành một lớp màu đen trên bề mặt, để càng

lâu lớp đó càng dày.

Lợn một ngày đêm: 2 - 4 lít, nước tiểu màu vàng, trong suốt, mùi khai, để lâu cũng lắng

cặn.

Chó đái 0,5 - 2 lít, màu vàng nhạt, để lâu lắng ít cặn.

Lượng nước tiểu thay đổi rất nhiều theo chế độ ăn uống, theo thức ăn, khí hậu và chế độ

làm việc.

Với cơ thể gia súc, lượng nước tiểu liên quan mật thiết với chức năng thận, tim, phổi,

đường ruột và quá trình ra mồ hôi.

Gia súc đái ít, lượng nước tiểu ít: các bệnh có sốt cao, viêm thận cấp tính, bệnh ra nhiều

mồ hôi; viêm màng phổi thẩm xuất, viêm màng bụng thẩm xuất; trong các ca nôn mửa, ỉa

chảy nặng, mất nhiều máu. Không đi tiểu (xem phần “ động tác đi tiểu”).

Đi đái nhiều, lượng nước tiểu tăng: viêm thấm xuất hấp thu, kỳ tiêu tan trong viêm phổi

thùy, viêm thận mạn tính.

Số lượng nước tiểu (lít) của gia súc trong 1 ngày đêm:

Trâu bò 6 - 12

Ngựa 3 – 6

0,5 - 1 Dê, cừu

2 - 4 Lợn

Chó 0.25 - 1

Mèo 0,1 - 0,2

0.04 - 0.1 Thỏ

Màu sắc nước tiểu

72

Cho nước tiểu vào cốc thủy tinh, che đằng sau một tờ giấy trắng để quan sát. Nước tiểu

trâu bò màu vàng nhạt, nước tiểu ngựa thẫm hơn. Nước tiểu chó vàng tươi, của lợn nhạt gần

như nước.

Đi đái ít, nước tiểu ít thì tỷ trọng cao, màu sẫm.

Nước tiểu thẫm gần như đỏ: trong các bệnh sốt cao, viêm thận cấp tính, viêm gan, các

bệnh truyền nhiễm, huyết bào tử trùng.

Nước tiểu loãng, nhạt – chứng đa niệu.

Nước tiểu đỏ: vì có hồng cầu, huyết sắc tố (xem phần “ Xét nghiệm huyết niệu”).

Nước tiểu màu vàng: chứng bilirubinuria và urobilinuria.

Nước tiểu có màu trắng: trong nước tiểu có nhiều hạt mỡ hoặc trụ mỡ. Chú ý Lipuria hay

có ở chó.

Nước tiểu đen: vì có nhiều indican trong bệnh xoắn ruột, lồng ruột.

Chú ý màu của thuốc: uống antipirin nước tiểu màu đỏ; Satonin, nước tiểu màu vàng đỏ;

tiêm Xanh metylen (methylen blue), nước tiểu có màu xanh.

Độ trong

Quan sát nước tiểu trong bình thủy tinh.

Nước tiểu của ngựa, la, lừa đục vì có nhiều caxi carbonat và canxi photphat không tan,

để lâu sẽ lắng cặn. Nếu nước tiểu các gia súc trên trong là triệu chứng bệnh.

Nước tiểu các gia súc khỏe trong, không lắng cặn. Nếu đục, lắng nhiều cặn là triệu chứng

bệnh. Vì trong nước tiểu có nhiều niêm dịch, các tế bào hồng cầu, các tế bào thượng bì, các

mảnh tổ chức – cặn bệnh lý làm nước tiểu đục.

Xét nghiệm nước tiểu đục

1. Cho nước tiểu đục qua giấy lọc, nước tiểu trong suốt, chứng tỏ nước tiểu đục do cặn

bệnh lý không tan.

2. Cho ít axit axetic, nước tiểu nổi bọt và trở thành trong suốt - đục do muối carbonat;

nếu nước tiểu không sinh bọt, nhưng cũng trong suốt – do các muối photphát.

3. Đun sôi hoăc cho kiềm vào, nước tiểu trong suốt: do có nhiều muối urat; đun sôi vẫn

đục, cho thêm HCl loãng thì nước tiểu ở trên nên trong- vì nhiều muối oxalat. 73

4. Thêm KOH 20% vào, nước tiểu đục trở thành trong suốt dạng thạch loãng - do có mủ

lẫn vào.

5. Cho ete hoặc cồn (ethylic) cùng lượng với nước tiểu, nước tiểu trở nên trong suốt –

trong nước tiểu có nhiều hạt mỡ.

Qua các bước trên nước tiểu vẫn đục thì do có nhiều vi trùng.

Độ nhớt

Nước tiểu khai do lên men ure thành amoniac: do nước tiểu tắc ở bàng quang – liệt bàng

quang, tắc niệu đạo.

Nước tiểu thối: viêm bàng quang hoại thư.

Tỷ trọng nước tiểu

Lọc nước tiểu qua các vải gạc rồi cho vào cốc thủy tinh và nhẹ nhàng cho tỷ cho kế vào.

Nếu nước tiểu quá ít thì pha thêm nước tự nhiên vào và kết quả tính bằng cách: nhân (x)

hai số sau cùng với số lần pha loãng nước tiểu.

Ví dụ: Số đọc trên tỷ trọng kế = 1,025, nước tiểu được pha loãng 2 lần thì tỷ trọng thực:

1,050 (25 x 2).

Chú ý: số ghi trên tỷ trọng kế với nước tiểu đo ở nhiệt độ 150C. Nhiệt độ thay đổi, tỷ trọng thay đổi: nếu nhiệt độ tăng 30C thì ghi trên tỷ trong kế + 0,001; và thấp 30C thì làm ngược lại – trừ 0,001.

Tỷ trọng nước tiểu của gia súc.

Bò 1,025 - 1,050

1,025 - 1,055 Ngựa

1,015 - 1,065 Dê, cừu

1,018 - 1,022 Lợn

Chó 1,020 - 1,050

mèo 1,020 - 1,040

1,010 - 1,015 Thỏ

Tỷ trọng nước tiểu tăng do nước tiểu đặc: thiếu nước do gia súc ra nhiều mồ hôi, nôn

mửa, viêm thận cấp, suy tim và viêm thẩm xuất.

74

Nước tiểu loãng, tỷ trọng giảm: thức ăn nhiều nước, viêm thận mạn tính, xetôn huyết ở bò, hấp thu dịch thẩm xuất.

b. Hoá nghiệm nước tiểu: hiện nay, trong Thú y hoá nghiệm nước tiểu ngoài việc sử dụng các phương pháp cổ điển người ta còn sử dụng giấy Test và máy xét nghiệm nước tiểu (hình 3.14).

Abumin niệu (Albuminuria) Gọi albumin niệu là do thói quen, thật ra phải gọi là protein niệu (proteinuria), vì nếu có albumin trong nước tiểu thì có cả globulin.

Các xét nghiệm albumin trong nước tiểu đều dựa trên nguyên tắc protein sẽ kết tủa khi gặp nhiệt độ cao, axit hoặc kim loại nặng.

Hình 3.14. Máy xét nghiệm nước tiểu

Nước tiểu kiểm nghiệm phải trong suốt. Nếu đục phải lọc, nếu kiểm phải toan hoá, nhất là nước tiểu ngựa.

Các xét nghiệm định tính

Đun sôi. Trong 1 ống nghiệm: 5 ml nước tiểu, 2 - 3 giọt axit axetic 10%, lắc đều và đun từ từ trên ngọn lửa đèn cồn.

Nếu nước tiểu đục, cho thêm 1 - 2 giọt axit nitric 25% không mất đục – phản ứng dương tính.

Độ mẫn cảm của phương pháp 1/30.000 – 1/40.000.

Chú ý: khi toan hoá nước tiểu theo liều lượng trên. Nếu toan hóa quá nhiều axit, protein sẽ bị hoà tan, kết quả xét nghiệm sẽ sai.

Căn cứ độ đục theo phương pháp đun sôi để tính lượng protein trong nước tiểu:

Ký hiệu Hàm lượng protein trong nước tiểu Phản ứng trong ống nghiệm

- Không có Trong suốt

(cid:61617) 0.01 – ít hơn Đục mờ

0.01 – 0.05 Vẩn đục yếu

+ 0.1 Đục và tủa khoảng 1/10 cột nước tiểu

+++ 0.2 – 0.3 Kết tủa như bông, cao khoảng ¼ cột nước tiểu

++++ Rất nhiều 0.5-1.0 Kết tủa thành cục, cao khoảng1/2 cột

2 – 3 Đông hoàn toàn

75

Phương pháp dùng axit nitric (phương pháp Heller)

Trong ống nghiệm: 3 - 5 ml axit nitric 50% và theo thành ống cho tiếp 2 - 3 ml nước tiểu

kiểm nghiệm (đã toan hoá). Nếu vòng tiếp xúc vẫn đục trắng:

Phản ứng dương tính: trường hợp lượng protein ít, vòng đục xuất hiện sau 2 - 3 phút.

Độ nhạy của phương pháp: 0.033%.

Phương pháp dùng axit sunphoxalixilic 20% (axit sunfosalicilic) – phương pháp Rock

– Williame)

Trong ống nghiệm: 5 ml nước tiểu rồi nhỏ thêm 10 giọt axit sunphoxalixilic 20%. Nước

tiểu vẩn đục như mây, có thể kết tủa.

Nếu là anbumo (albumone) với axit sunphoxalixilic 20% cũng cho kết tủa nhưng đun

sôi thì hết, để nguội lại xuất hiện.

Độ nhạy của phương pháp: 1/60.000. Phương pháp này dùng phổ biến trong lâm sàng,

đặc biệt khi kiểm nghiệm nước tiểu kiềm tính.

Phương pháp dùng cồn

Trong ống nghiệm 5ml nước tiểu, rồi nhẹ nhàng theo thành ống nghiệm cho 1 lớp cồn.

Nếu vòng tiếp xúc cho kết tủa trắng thì phản ứng dương tính.

Ý nghĩa chẩn đoán:

Trong nước tiểu gia súc không có protein, các phương pháp tìm anbumin đều cho kết quả

âm tính. Nếu có albumin niệu là triệu chứng cần chú ý.

Anbumin niệu từ thận do cơ năng siêu lọc của thận bị rối loạn, protein trong máu theo

nước tiểu ra ngoài – gọi là anbumin niệu thật.

Anbumin niệu thật sinh lý: do lao động quá sức, thời gian chửa, do quá lạnh, có lúc do ăn

quá nhiều protein… loại anbumin này xuất hiện thời gian ngắn, trong nước tiểu không có cặn

bệnh lý.

Anbumin niệu thật do bệnh: viêm thận cấp tính trong hàng loạt các bệnh truyền nhiễm,

các trường hợp trúng độc, bỏng nặng, một số bệnh nội khoa nặng… Do thận có tổn thương,

protein niệu theo nước tiểu ra ngoài. Đặc điểm loại anbumin niệu này là trong nước tiểu có

cặn bệnh lý và có bệnh cảnh tương ứng.

76

Anbumin niệu ngoài thận - Anbumin niệu giả: do viêm bể thận, viêm bàng quang, viêm

niệu đạo.

Để phân biệt anbumin niệu thật với anbumin niệu giả cần xét nghiệm cặn nước tiểu và

kết hợp với bệnh cảnh.

Bệnh lan tràn từ thận đến bể thận, bàng quang gây anbumin niệu thì gọi là anbumin niệu

hỗn hợp.

Trong lâm sàng anbumin niệu thường là triệu chứng thận tổn thương – Nhưng chú ý là

số lượng anbumin trong nước tiểu không tỷ lệ thuận với mức độ bệnh ở thận.

Xét nghiệm hồng cầu và huyết sắc tố (Hemoglobin) trong nước tiểu

Các xét nghiệm dưới đây đều cho kết quả phản ứng dương tính khi trong nước tiểu có

hồng cầu, huyết sắc tố hoặc sắc tố của cơ thể (mioglobin).

Phương pháp dùng thuốc thử Benzilin (phương pháp Adler)

Trong một ống nghiệm: một ít bột benzilin bằng hạt kê và 2 ml axit axetic đặc, lắc cho

đều. Thêm vào 2 ml H2O2 3%, lắc đều. Rồi cho nước tiểu kiểm nghiệm vào từ từ theo thành

ống. Vòng tiếp xúc xuất hiện màu xanh – phản ứng dương tính.

Nếu máu trong nước tiểu ít, có thể làm theo cách sau để rễ nhận kết quả:

Trong 1 ống nghiệm: 10 ml nước tiểu đun sôi để phá vỡ men oxy hoá, thêm 10 giọt axit

axetic để toan hoá nước tiểu. Cho 3 ml ete etylic lắc đều rồi để yên để ete nổi lên trên. Hút lấy

phần ete trong có phần huyết sắc tố để làm phản ứng benzilin theo các bước như trên.

Độ nhạy của phản ứng: 1/40.000.

Phương pháp dùng thuốc thử Pyramidon

Trong ống nghiệm: 0,5 mlaxit axetic đặc, 2 ml nước tiểu, lắc đều; thêm vào 2 ml

pyramidon 5% (trong cồn) và 0,5 ml H2O2 3%. Hỗn hợp biến thành màu tím – phản ứng

dương tính.

Phương pháp dùng Phenolphtalein (phương pháp Collo)

Trong ống nghiệm 3 ml nước tiểu và 3 ml thuốc thử Phenoltalein; trộn đều rồi thêm

1ml H2O2 5%. Vòng tiếp xúc đỏ tím – phản ứng dương tính

Thuốc thử:

77

Phenolfthalein 2 g

KOH 20 g

10 g Bột kẽm

100 ml. Nước cất

Ý nghĩa chẩn đoán:

Trong nước tiểu có hồng cầu gọi là huyết niệu (Hematuria), có huyết sắ tố – huyết sắc tố

niệu (Hemoglobinuria) và có Mioglobin – Mioglobinuria. Trong chẩn đoán thường chú ý 2

dạng đầu.

Huyết niệu xuất hiện khi ở thận hoặc bể thận, ống thận, bàng quang, niệu đạo tổn

thương, xuất huyết.

Huyết niệu do thận: vỡ thận, viêm thận cấp tính. Nhiều bệnh truyền nhiễm gây xuất

huyết: nhiệt thán, dịch tả trâu bò, dịch tả lợn, phó thương hàn. Huyết niệu do thận nước tiểu

sẫm, cặn có nhiều cục máu, có tế bào thượng bì thận.

Huyết niệu do bể thận: sỏi bể thận, giun thận, viêm bể thận xuất huyết.

Huyết niệu do bàng quang: viêm bàng quang, sỏi bàng quang, loét niệu đạo, viêm niệu

đạo chảy máu… Để chẩn đoán phân biệt cần xét nghiệm cặn nước tiểu.

Để phân biệt các trường hợp xuất huyết ở đường tiết niệu bằng cách: hứng 3 cốc nước

tiểu ở 3 thời điểm. Nước tiểu giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối của quá trình đi

tiểu, quan sát màu sắc của 3 cốc.

Nếu màu của cốc đầu đậm – do xuất huyết ở niệu đạo.

Cốc sau đậm – xuất huyết ở bàng quan.

Nếu cả 3 cốc có màu đỏ như nhau thì xuất huyết ở thận hoặc bể thận.

Huyết sắc tố niệu là do hồng cầu vỡ quá nhiều trong cơ thể và ra ngoài theo nước tiểu.

Phân biệt huyết niệu và huyết sắc tố niệu

Huyết niệu Huyết sắc tố niệu

Mắt thường Đục Trong suốt

Không có Để lắng Hồng cầu lắng

78

Kiểm kính Hồng cầu nguyên vẹn Hồng cầu vỡ từng mảng

Lọc nhiều lần Mất màu Không mất màu

Xét nghiệm đường trong nước tiểu

Phương pháp Heines

Nguyên tắc: nếu có đường sẽ khử Cu++ thành Cu+ trong Cu2O kết tủa màu gạch hay màu

vàng đậm.

Phương pháp này mẫn cảm thích hợp để kiểm nghiệm nước tiểu gia súc nhất là nước

tiểu ngựa.

Thuốc thử Heines:

1. Hoà 13,3 g CuSO4 tinh khiết trong 400 ml nước cất.

2. Hoà 50 g KOH trong 400 ml nước cất.

3. 15 ml glyxelin tinh khiết trong 200 ml nước cất.

Trộn 1 và 2 lại, quấy đều rồi đổ 3 vào, lắc đều đựng chai nút mài sử dụng lâu dài.

Xét nghiệm

Trong ống nghiệm: 3ml thuốc thử Heines, đun sôi, rồi nhỏ 10 giọt nước tiểu kiểm

nghiệm. Nếu có tủa màu đỏ gạch: phản ứng dương tính.

Phương pháp Nylander Nguyên tắc: trong môi trường kiềm sous nitras bismuth bị đường khử oxy để thành oxy

bismuth hoặc bismuth kết tủa màu nâu hoặc màu đen.

Thuốc thử:

Sous nitras bismuth 2.0 g.

4.0g. Kali – natri tartrat

Kali hydroxit (KOH) 100ml.

Hoà tan lọc qua giấy lọc, bảo quản trong chai thuỷ tinh màu.

Xét nghiệm:

Trong ống nghiệm 3 - 5ml nước tiểu kiểm nghiệm, thêm vào 1 - 2 ml nước tiểu

Nylander, đun sôi. Hỗn dịch biến thành màu nâu đen: phản ứng dương tính.

79

Chú ý: nếu nước tiểu có nhiều indican và các sắc tố khác, lúc đun cũng có kết tủa màu

đen. Vì vậy, trước khi kiểm nghiệm cho ít HCl 25% và bột xương lắc đều lọc và loại đi. Nước

tiểu có nhiều nhầy (muxin) cũng có thể cho phản ứng dương tính giả.

Phương pháp Benedict

Giống như phương pháp Heines, nhưng có ưu điểm là axit uric. Muối urat và các cặn

hữu cơ không có khả năng khử oxy trong thuốc thử Benedict. Phương pháp Benedict được sử

dụng rộng rãi.

Trong thuốc thử Benedict:

1) 173 g Natri xitrat (Na2C6H5O7.11H2O) và 90 g Natri carbonat khan (hoặc 180 g Natri carbonat kết tinh) trong 600 ml nước cất, đun nhẹ, lắc cho tan, lọc hết cạn rồi cho thêm nước cất đến 850 ml.

2) 17,3 g CuSO4.5H2O trong 100ml nước cất, lắc cho tan rồi cho thêm nước cất đến 150 ml.

Trộn dung dịch 1 với dung dịch 2, lắc đều.

Xét nghiệm

Trong 1 ống nghiệm: 1,5 ml thuốc thử Benedict và 3 giọt nước tiểu kiểm nghiệm. Lắc đều và đun nóng trong 2 phút. Kết tủa màu gạch cua: phản ứng dương tính.

Có thể dựa vào kết quả phản ứng với thuốc thử Benedict để tính lượng đường trong nước tiểu.

Màu dung dịch Kết quả Nồng độ đường trong nước tiểu %

- 0 Không thay đổi

(cid:61617) Màu xanh không tủa Từ 0,1 - 0,3

+ 0,5 Kết tủa xanh

Màu vàng ++ 1,0

+++ 1,5 Màu đỏ da cam

++++ Màu đỏ nhạt 2,0 và nhiều hơn

Ý nghĩa chẩn đoán:

Các phương pháp xét nghiệm trên phát hiện glucoza. Trong nước tiểu động vật, ngoài

glucoza còn có frutoza, lactoza, levuloza, pentoza. Chú ý các chất vitamin C, creatinin, axit

uric cũng khử oxy như glucoza, nên phản ứng dương tính với các xét nghiệm glucoza.

80

Các xét nghiệm đường niệu dương tính là triệu chứng bệnh lý và đường niệu sinh lý.

Đường niệu sinh lý: Ăn quá nhiều đường, đường huyết cao vượt ngưỡng thận. Các

trường hợp: gia súc sợ hãi, hưng phấn, lạnh đột ngột. Nước tiểu gia súc có chửa có đường

lactoza và hiện tượng này mất đi sau khi gia súc đẻ sau 2 - 3 tuần.

Đường niệu bệnh lý: thường là các bệnh thần kinh. Chó dại, sung huyết não, viêm não

tuỷ, các trường hợp trúng độc (trúng độc oxyt cacbon, trúng độc thuỷ ngân, trúng độc chloral

hydrat). Một số bệnh truyền nhiễm gây tổn thương ở thận và kích thích thần kinh trung ương.

Viêm thận mạn tính xuất hiện đường niệu. Đường niệu ở ngựa, chó là triệu chứng bệnh đái

đường (Diabet).

Xét nghiệm thể xeton trong nước tiểu

Thể xeton trong nước tiểu thường có 3 chất:

Trong thú y thường chỉ xét nghiệm định tính.

Phương pháp Lieben

Phản ứng của Lugol với axeton trong môi trường kiềm sẽ cho kết tuả màu vàng mùi

iodoform.

Xét nghiệm: cho vào 1 ống nghiệm: 10 ml nước tiểu, vài giọt Lugol, vài giọt KOH 10%.

Kết tủa màu vàng đục, mùi iodoform: phản ứng dương tính.

Phương pháp Lange

Trong môi trường kiềm axeton kết hợp với nitroferricyanic tạo thành hỗn hợp màu đỏ

tím.

Xét nghiệm: trong ống nghiệm: 2 - 3 ml nước tiểu, 5 giọt Natri nitroferricyanats bão hoà

mới pha và 0,5 ml axit axeton bốc khói. Lắc đều, nhẹ nhàng nhỏ theo thành ống thêm vào 2

ml dung dịch amoniac. Vòng tiếp xúc xuất hiện màu đỏ tím: phản ứng dương tính.

81

Một cách khác: cho vào ống nghiệm 3 ml nước tiểu, 1ml thuốc thử Natri nitroferricyanat

(natri nitroferricyanat 0,3 g, amon nitrat 30 g và 80 ml nước cất).

Lắc đều, rồi nhỏ từ từ theo thành ống nghiệm 2 – 3ml nước amoniac đặc. Vòng tiếp xúc

xuất hiện màu đỏ: phản ứng dương tính.

Ý nghĩa

Lượng xeton trong gia súc khoẻ rất ít: một lít nước tiểu ngựa có 0,38 – 3.56 mg%, bò :

0.2 – 2.4 mg xeton.

Hàm lượng xeton tăng trong máu – chứng xeton huyết; và xeton trong nước tiểu tăng –

chứng xeton niệu (ketonuria).

Xeton niệu là triệu chứng rối loạn trao đổi chất lipit và gluxit. Trong thú y, xeton niệu

được chú ý trong bò sữa, là triệu chứng quan trọng của chứng xeton huyết của bò

(Ketonemia).

Xeton niệu còn thấy trong bệnh liệt sau khi đẻ, nằm lâu ngày, đái đường (Liabet).

c. Xét nghiệm cặn nước tiểu

Làm tiểu bản: ly tâm nhẹ hay để lắng cặn. Hút một giọt cặn nước tiểu cho lên phiến kính

rồi đậy lamen; thêm 1 giọt lugol để dễ phân biệt tế bào thượng bì với tế bào bạch cầu.

Có thể phết kính, cố định bằng cồn metylic (methanol), nhuộm bằng thuốc nhuộm

Giemxa hoặc xanh methylen 1%. Kiểm nghiệm dưới kính hiển vi.

Những cặn hữu cơ:

Tế bào thượng bì thận: hình tròn hay vuông, trong nguyên sinh chất có nhiều hạt nhỏ;

nhân tròn. Tế bào to bằng bạch cầu, tróc ra từ thận tiểu cầu. Có nhiều tế bào thựơng bì thận:

viêm thận cấp tính.

Tế bào thượng bì bể thận và ống thận: to hơn tế bào thượng bì thận, gấp 3 - 4 lần tế bào

bạch cầu. Tế bào hình quả lê, hình bầu dục. Do viêm bể thận.

Tế bào thượng bì bàng quang: đa dạng giống vẩy cá, nhâ tròn. Loại tế bào tróc ra từ tầng

sâu vách bàng quang thì hình nhỏ hơn. Có nhiều tế bà no loại này: viêm bàng quang.

Chú ý: trong nước tiểu thường có tế bào niêm mạc âm đạo gần giống như tế bào bàng

quang, nhưng to hơn, hình đa giác, thường có 1 - 2 nhân.

82

Tế bào hồng cầu: nhiều trong nước tiểu do đường tiết niệu chảy máu. Nếu do viêm thận

xuất huyết thì trong nước tiểu còn có cục máu đỏ, trụ hồng cầu, tế bào thượng bì. Chảy máu ở

bể thận ở bàng quang thì cặn nước tiểu không có những thành phần đó.

Dưới tiêu bản kính, hồng cầu màu vàng nhạt, nếu nhiều tập trung lại thành từng đám.

Nếu nước tiểu kiềm, tế bào hồng cầu phình to; nước tiểu toan - hồng cầu nhăn nheo lại.

Tế bào bạch cầu: cũng như hồng huyết cầu, thay đổi hình dạng theo tính chất nước

tiểu. Trong nước tiểu toan tính, bạch cầu co tròn lại, nhưng vẫn to hơn hồng cầu nhiều. Trong

nước tiểu kiềm tính, bạch cầu phình to, hạt trong nguyên sinh chất không rõ, kết cấu mơ hồ.

Để phân biệt với tế bào thượng bì thận, cho 1 giọt lugol vào phiến kính, bạch cầu có màu

nâu, tế bào thượng bì màu vàng nhạt.

Bạch huyết cầu nhiều trong nước tiểu là triệu chứng của viêm: viêm thanạ, viêm bể

thanạ, viêm niệu đạo.

Trụ niệu: Khi thận có bệnh, những tế bào thượng bì thận, những huyết cầu bài xuất ở

các tổ chức bệnh dính lại với nhau bởi niêm dịch, protein…trong ống dẫn ở thận tạo thành

những vật thể hính ống với những kết cấu khác nhau- trụ niệu.

Trụ thượng bì: do tế bào thượng bì ở thận khi thận bị viêm, tróc ra thoái hoá dính lại với

nhau mà thành.

Trụ trong: thành phần chủ yếu là niêm

dịch và protein huyết thanh bài xuất khi thận

viêm cấp tính và viêm mạn tính. Trụ trong

dưới kính hiển vi hình thù không rõ, ống

thẳng hoặc cong queo.

Hình 3.15.Cặn hữu cơ và trụ niệu trong nước tiểu

Trụ hồng cầu: chủ yếu là do hồng huyết

cầu và sợi huyết (Fibrin) kết dính lại với nhau.

Dưới kính hiển vi, nhiều hồng huyết cầu còn hình ảnh nguyên khá rõ

Trụ hồng cầu xuất hiện trong nước tiểu: viêm thận, viêm phổi thuỳ, huyết truyền

nhiễm,…

83

Trụ hạt: do tế bào thượng bì thận tróc ra, thoái hoá kết dính với nhau thành từng mảng

dài hoặc gây thành từng đoạn ngắn, trong suốt. Trụ hạt là triệu chứng viêm thận mạn tính,

thận biến tính.

Trụ mỡ: là trụ thượng bì hay trụ hạt thoái hoá thành từng đoạn dài ngắn trong có hạt mỡ

nhỏ trống, do thận biến tính.

Trụ sáp: màu trắng, trong suốt, không ánh, hình ống cong queo. Trụ sáp là tiên lượng xấu của bệnh viêm thận cấp tính, viêm thận mạn tính.

Trụ giả: giống trụ sáp nhưng có niêm dịch, CaCO3, muối urat kết tụ lại thành, kết cấu không rõ; do viêm cata ống dẫn nước tiểu.

Cặn vô cơ: Trong chẩn đoán thú y xét nghiệm cặn vô cơ không thông dụng

Nhận xét cặn vô cơ qua hình thái kết tinh và qua hoá nghiệm

Trong nước tiểu loài ăn cỏ thường có các cặn vô cơ sau

Canxi carbonat (CaCO3) kết tinh hình tròn nhỏ có tua ra hoặc hình đá mài. nước tiểu loài ăn thịt, loài hỗn thực có kết tủa nhiều CaCO3 là triệu chứng bệnh.

Xét nghiệm: cặn nước tiểu có hình nghi có CaCO3.

Thêm vài giọt axit axetic thì kết tinh CaCO3 mất và sủi bọt CO2.

Muối phosphat [Ca3(PO4), Mg3(PO4)] trong nước tiểu kiềm tính kết tủa hình thái không

nhất định hoặc thành từng hạt liti màu tro; trong nước tiểu toan tính, các muối phosphat kết

tủa thành hình 3 cạnh, từng bó, hình tròn.

Amoni – Magnesi phosphat (NH4MgPO4. H2O) kết tinh hình trụ nhiều gốc, hình lông vũ và xuất hiện nhiều lúc viêm bể thận, viêm bàng quang.

Amoni urat [C5H3(NH4)2N2O] kết tinh hình phiến, hình tua.

Trong nước tiểu loài ănthịt có các loại sau đây. Canxi oxalat (CaC2O4.3H2O) kết tinh hình cầu, hình phiến tám mặt. Nhiều canxi oxalat là triệu chứng rối loạn trao đổi chất, viêm thận cấp tính và một số bệnh thần kinh.

Canxi sunphat (CaSO4): hình tròn lăng trụ dài, hình kim từng bó.

Axit uric (C5H4N4O3): hình đá mài, hình lá cây. Axit uric nhiều: đói bệnh sốt cao.

Muối urat, chủ yếu là Kali urat, natri urat, kết tinh thành hạt nhỏ, màu vàng nâu. muối

urat nhiều do có quá trình phân giải protit mạnh.

84

Xét nghiệm phân biệt cặn vô cơ trong nước tiểu

Loại cặn Màu sắc Với NH4OH Với axit axetic Với HCl Với KOH Đun sôi

+ + - CaCO3 Có khí Có khí Không màu Vàng nhạt

+ + - - Muối phosphat Màu trắng tro

Không + + - - NH4MgPO4.H2O

Vàng + + + + + C5H3(NH4)2N4O3

Không _ + - - CaC2O4.3H2O

Không - - - CaSO4

Vàng - - + - + C5H4N4O3

Vàng + + + + Muối urat ( K- Na)

3.5. KHÁM HỆ THỐNG THẦN KINH

Hệ thống thần kinh thực hiện sự thống nhất hoạt động của các khí quan, tổ chức trong cơ

thể; giữ thăng bằng giữa cơ thể và ngoại cảnh. Một cơ thể bị bệnh thì các cơ năng, nhất là cơ

năng phản xạ bảo vệ của hệ thần kinh rối loạn. Bệnh phát sinh và quá trình phát triển của bệnh

lý ít nhiều phản ánh trong trạng thái hoạt động của hệ thống thần kinh.

Mục đích chủ yếu khám hệ thống thần kinh là nhằm phát hiện bệnh ở hệ thống đó; ngoài

ra, qua rối loạn của hệ thống thần kinh để phán đoán tính chất mức độ và quá trình phát triển

của bệnh ở các khí quan, hệ thống khác trong cơ thể góp phần chẩn đoán, định tiên lượng và

phương pháp điều trị đúng.

Khám hệ thống thần kinh theo thứ tự:

Khám đầu và cột sống

Khám cơ năng thần kinh trung khu, cơ năng thần kinh vận động

Khám cảm giác da, khí quan cảm giác

Khám hoạt động phản xạ

Khám hệ thần kinh thực vật

Xét nghiệm dịch não tủy 85

3.5.1. Khám đầu và cột sống

Não trong xương sọ, tủy sống trong cột xương sống, không khám trực tiếp được mà phải

khám qua đầu và cột sống.

Sự tổn thương ở sọ và cột xương sống, khối u ở não, còi xương, mềm xương,…có thể

làm hình dáng xương sọ, cột sống thay đổi. Do vậy, khi khám đầu và cột sống cần chú ý hình

dáng, độ cứng của xương sọ và cột sống.

Nhiệt độ vùng đầu tăng cao: thường gặp trong các trường hợp: viêm màng não, viêm não

tủy truyền nhiễm, cảm nắng cảm nóng.

Phần mềm bao quanh xương sống sưng to, đau: thường gặp khi gãy cột sống

Xương sống văn vẹo: thường gặp trong trường hợp còi xương, mềm xương, người khám

sờ nắm rất dễ phát hiện.

Gõ hộp sọ có âm đục: khi não có khối u, ấu sán

3.5.2. Khám chức năng thần kinh trung khu

Trong nhiều bệnh, chức năng của vỏ đại não rối loạn và biểu hiện ra bên ngoài bằng

những triệu chứng hưng phấn, ức chế.

Khi khám cần chú ý sắc mặt, tư thế gia súc, hoạt động của

các khí quan (tai. mắt,...)

a. Ức chế

Ức chế là khả năng cảm thụ đối với kích thích yếu, phản xạ

Hình 3.16.Trạng thái ủ rũ

với các kích thích bên ngoài giảm hoặc mất. Ức chế thường phát

ra sau hưng phấn. Tuỳ mức độ nông sâu, ức chế có các mức sau:

Ủ rũ: Ức chế nhẹ, gia súc uể oải (như ngơ ngác, đầu gục, mắt lim dim, đi lại chậm chạp,

không vững) (Hình 3.16)

Ngù li bì: Gia súc nằm yên, đầu hơi ngẩng, mắt nhắm. Thường phải dùng kim châm,

đánh bằng roi, dội nước lạnh con vật mới tỉnh. Ngủ li bì là triệu chứng cơ năng vỏ đại não ức

chế sâu, thường xuất hiện trong các bệnh có sốt cao, viêm não

tủy truyền nhiễm, não tích nước, kỳ cuối bệnh xuất huyết não;

trong các ca trúng độc xêtôn huyết, bại liệt sau khi đẻ ở bò,

trúng độc urê, các ca viêm gan nặng. (Hình 3.17)

Hình 3.17. Trạng thái ngủ li bì

Hôn mê: Cơ năng thần kinh bị tê liệt, các phản xạ mất, cơ

toàn thân nhão, đồng tử mở rộng, cảm giác da mất,... cơ năng

thần kinh thực vật rối loạn (tần số hô hấp, tần số mạch chậm; nhịp thở, nhịp tim không đều). 86

Hôn mê thường gặp trong các trường hợp: Trúng độc urê,

chứng xeton huyết, các ca viêm gan nặng. Ngủ li bì, hôn mê còn

xuất hiện ở giai đoạn cuối các bệnh truyền nhiễm (dịch tả lợn, đóng

Hình 3.18.Trạng thái hôn mê

dấu lợn, tụ huyết trùng...). (Hình 3.18)

b. Hưng phấn

Ngược với trạng thái ức chế, hưng phấn khi vỏ đại não bị kích thích mạnh, gia súc lồng

lộn, cắn xé, chảy nước dãi (hình 3.19) Thần kinh hưng phấn trong trường hợp này là do những

kích thích bên trong tăng, phản xạ đối với kích thích bên ngoài lại giảm. Hưng phấn xuất hiện

trong bệnh viêm não tủy truyền nhiễm, viêm màng não, xung huyết não, các trường hợp trúng

độc, chứng đau bụng ở ngựa

Chú ý:

Trong nhiều ca bệnh xuất hiện cả triệu chứng thần kinh ức

chế và hưng phấn. Thường sau triệu chứng hưng phấn là ức chế

hoặc ngược lại.

Hình 3.19.Chó chảy nước rãi

Ngựa hưng phấn lồng lên, lao về phía trước, băng qua những

vật cản; có lúc quay vòng quanh. Chó bị bệnh dại chạy lồng

lộn, cắn xé, chảy nước rãi (hình 3.19)

3.5.3. Khám chức năng vận động

Qua sát và nhận xét những biểu hiện khác thường lúc gia súc đứng, lúc đi, trạng thái cơ

(bắp thịt).

a. Trạng thái cơ (bắp thịt)

Trong trạng thái bình thường, do những kích thích từ bên ngoài không ngừng tác động

lên thần kinh thụ cảm trên da, thông qua thần kinh tủy sống, cơ thể đáp lại những phản xạ liên

tục các bắp cơ luôn như có một trương lực giữ một độ căng

nhất định.

* Trạng thái cơ trong trường hợp bệnh lý:

Cơ căng giảm, các bắp thịt chùng, lúc gia súc đi quan sát

rất rõ. Dùng tay kéo chân gia súc ra phản xạ kéo trở lại yếu.

Lúc đi, chân lê phía sau. Cơ căng giảm hay mất do thần kinh

Hình 3.20.Trạng thái bắp cơ căng

hoặc tủy sống bị tổn thương, do bệnh ở tiểu nào.

87

Bắp cơ căng, các bắp thịt co cứng nổi rõ, nhất là vùng cơ bụng. Lực căng cơ tăng do

trung khu vận động hay thần kinh vận động tổn thương. Trong bệnh uốn ván; trúng độc, một

số ca bệnh gây đau đớn mạnh, kỳ hưng phấn bệnh viêm não tủy truyền nhiễm, cơ co cứng

toàn thân (hình 3.20)

* Chú ý: Khi khám trạng thái cơ nên chú ý vùng cơ trên thân và cơ 4 chân.

b. Tính hiệp đồng vận động

Gia súc khoẻ đứng, đi lại, các hoạt động khác đều có phối hợp phịp nhàng giữa các bắp

thịt và các khí quan vận động nhờ có hiệp điều vận động của hệ thống thần kinh. Điều tiết

hiệp điều vận động này do trung khu vận động ở vỏ đại não, trung khu ở tiểu não, các khí

quan cảm thụ, thần kinh tiền đình, thị giác. Gia súc bị bệnh, một trong các trung khu trên bị

tổn thương thì vận động bị rối loạn.

* Rối loạn tính hiệp điều vận động: Gia súc đứng tư thế khác thường, các khớp co không

đều, 4 chân chụm lại; có lúc 4 chân lại dạng ra để giữ thăng bằng. Lúc nằm thì nghiêng về

một bên hay úp bụng xuống đất. Lúc đi thân hình lảo đảo, bước không vững, bước dài bước

ngắn không đối xứng. Điều tiết vận động vẫn còn nhưng phản xạ chậm nên vận động thiếu

hiệp điều.

Rối loạn hiệp điều vận động thường vì gốc lưng thần kinh tuỷ sống bị tổn thương, hoặc

bệnh ở tiền đình, ở tiểu não. Vận động không hiệp điều thường thấy ở gia cầm, đầu cong lui

phía sau, quay quanh, đi lại lảo đảo.

c. Tê liệt

Cơ năng vận động yếu hoặc mất hoàn toàn gọi là tê liệt. Có hai loại tê liệt:

Tê liệt do thần kinh ngoại vi: giây thần kinh vận động bắt đầu từ gốc bụng ở tủy sống

đến các sợi vận động chi phối các bắp cơ. Bất kỳ một vị trí nào trên đường thần kinh đó bị tổn

thương đều gây tê liệt vùng cơ dưới đó (hình 3.21)

Vị trí tổn thương càng gần tủy sống, vùng cơ tê liệt

càng rộng. Triệu chứng chung của loại tê liệt này là cơ teo,

lực căng giảm, gia súc đi lại không vững, chân bước loạng

Hình 3.21.Trạng thái tê liệt

choạng dễ ngã, vận động không theo ý muốn. Phản xạ da

và gân thường mất. Nếu ngay gốc bụng tủy sống tổn

thương thì bắp cơ bị liệt phân vùng rất rõ và đau đớn.

Tê liệt do thần kinh trung khu. Tổn thương ở trung khu vận động của đại não hoặc ở

những bó vận động từ đại não đến tủy sống. Tê liệt do thần kinh trung khu khác là tê liệt do

88

thần kinh ngoại vi: Thần kinh trung khu bị tổn thương không điều tiết được hoạt động của tủy

sống, do đó bắp cơ co, phản xạ gân mạnh; phản xạ da giảm và không có hiện tượng teo cơ. Tê

liệt do thần kinh trung khu xuất hiện trong bệnh chó dại, viêm não tuỷ truyền nhiễm, viêm

màng não, xuất huyết não. Có lúc do tổn thương cơ giới. Tuỳ vị trí thần kinh tổn thương mà

bộ phận này hay bộ phận khác trên cơ thể bị tê liệt:

Nếu một vùng cơ hay một chân bị tê liệt (Monoplegia) do tổn thương ở trung khu vận

động và cũng có thể do tổn thương ở dây thần kinh ngoại vi.

Một nửa thân bị tê liệt (Hemipiegia) do tồn thương ở

não.

Từng khí quan đối xứng nhau tê liệt (Paraplegia) như

hai chân trước, hai chân sau,... do tổn thương ở tuỷ sống

Hình 3.22. Trạng thái tê liệt

(hình 3.22)

d. Co giật (Spasmus)

Cơ vận động không theo ý muốn gọi là co giật. Cơ co giật do vỏ đại não hay trung khu

dưới vỏ đại não hưng phấn.

Cơ co giật từng cơn: Từng cơ, một chùm cơ co giật từng cơn nhanh và ngắn. Thường

cơn co giật phát ra nhanh rồi tắt, cũng có lúc kéo dài. Thường gặp các loại co giật từng cơn

sau:

Một vài bó cơ co giật rồi lan ra: chùm cơ khuỷu co giật rồi lan đến cơ bả vai, cơ cổ, cơ

ngực. Loại co giật này thường có trong các bệnh có sốt cao, bệnh gây đau đớn (viêm dạ tổ

ong do ngoại vật, viêm bao tim, viêm gan).

Run rẩy (Tremor): Từng đám cơ co giật nhẹ giống cơ run khi gặp lạnh. Cơ run rõ khi con

vật vận động; trong trạng thái yên tĩnh cơ run nhẹ hay mất. Cơ run rẩy ở gia súc xuất hiện

trong các trường hợp trúng độc, bệnh cấp tính ở não tuỷ.

Động kinh (Epilepsia) hay co giật toàn thân: Thường bắt đầu ở vùng cơ vai, cơ cổ, cơn

co giật lan ra toàn thân. Hoạt động thần kinh rối loạn nặng,

mắt trắng dã, đi ngoài rối loạn. Động kinh do tổn thương ở

vỏ đại não và thường xuất hiện trong các ca trúng độc, thiếu

sinh tố (vitamin) ở gia súc non, trong một số bệnh truyền

nhiễm có sốt cao.

Hình 3.23. Trạng thái cơ co cứng

Cơ co cứng (Spasmus Tonicus): Cơ co và giữ mãi ở

trạng thái co cứng. Đầu bị kéo co lại, răng cắn chặt, không

89

nuốt được đều do cơ co cứng. Ngựa viêm não, đầu con vật bị kéo co về phía sau. Ở bò triệu

chứng đó xuất hiện trong viêm màng não, liệt sau khi đẻ, chứng xêtôn huyết. Hai hàm răng

cắn chặt trong bệnh uốn ván, trúng độc strychninsunfat (hình. 3.23).

3.5.4. Khám cảm giác ở da

Nhận cảm từ da theo đường thần kinh đến tuỷ sống, đến hành tuỷ, đại não và sau đó

phản ứng đáp đi đột ngột trở lại da. Trên đường thần kinh đó bất kỳ điểm nào tổn thương đều

gây rối loạn cảm giác.

Khám cảm giác da gia súc khó chính xác vì con vật không đứng yên, dễ bị những kích

thích bên ngoài. Nên khám nhẹ nhàng, gia chủ đứng bên cạnh và bịt mắt con vật lại. Dùng

que nhỏ kích thích nhẹ vào da, bắt đầu từ vùng cổ, vai rồi quan sát. Gia súc khoẻ khi bị kích

thích đầu quay trở lại, co chân, vai vểnh. Kích thích vào vành tai con vật khó chịu phản ứng

rất rõ.

Kiểm tra cảm giác đau: dùng kim chích từ nông đến sâu; bắt đầu từ vùng bờm, hai bên

cổ, hai bên ngực, hai bên thành bụng. Quan sát mức độ con vật phản ứng: đầu quay lại, tai

vểnh, chân co lên.

* Khi khám cảm giác da cần chú ý các triệu chứng sau đây:

Da mẫn cảm: Dùng kim chích nhẹ hay ấn bằng đầu ngón tay, con vật biểu hiện đau đớn

như da co lại, con vật tránh xa, khó chịu. Vùng da mẫn cảm khi da bị viêm, thần kinh cảm

giác tổn thương. Màng tủy sống, gốc lưng của thần kinh tủy sống viêm, vùng da tương ứng

đau kịch liệt.

Cảm giảm da giảm: Bằng những kích thích nhẹ con vật không có phản ứng. Chỉ dùng

kim châm mạnh, nhổ lông, dẫm lên móng chân con vật mới có cảm giác đau. Triệu chứng này

thường do thần kinh cảm giác tê liệt, đường thần kinh dẫn truyền tổn thương.

Cảm giác da một bên thân giảm hay mất tổn thương trên đường dẫn truyền từ vỏ đại não

đến hành tuỷ.

Cảm giác da hai bên thân đối nhau mất: tổn thương ở tủy sống. tuỷ sống bị dập đứt, bị

chèn ép, viêm nặng, do bị tổn thương không liên hệ được với não, cảm giác da phần thân sau

đó bị mất.

Cảm giác da mất ở một vùng: tổn thương thần kinh ngoại vi chi phối vùng da đó. Nhiều

bệnh ở hệ thần kinh như u não, liệt sau khi đẻ, viêm não,... con vật hôn mê, cảm giác da giảm

hay mất.

90

3.5.5. Khám các khí quan cảm giác

Cơ năng của các khí quan cảm giác rối loạn thường do bệnh ở khí quan đó hoặc bệnh ở

thần kinh trung khu.

a. Khám thị giác: Chú ý mu mắt, kết mạc, nhãn cầu, đồng tử và võng mạc.

Mu mắt trễ: Do thần kinh mặt, thần kinh cơ kéo mắt bị

tổn thương. Trong viêm não truyền nhiễm, mu mắt trễ là triệu

chứng bệnh giai đoạn nặng.

Mu mắt sưng to, mọng do tổn thương cơ gới, viêm. Một

Hình 3.24. Mu mắt sung to mọng

số bệnh truyền nhiễm (loét da quăn tai ở trâu bò, dịch tả lợn,

bạch hầu ở gà), do độc tố phá hoại mạch máu làm mu mắt

sưng mọng. Mu mắt sưng mọng trong chứng đau bụng ngựa do quá đau đớn vật lộn. Bệnh

nặng con vật nằm liệt lâu, liệt sau khi đẻ, mu mắt trễ ((hình 3.24).

Nhãn cầu lồi ra ngoài: do ngạt thở, quá đau đớn.

Nhãn cầu co giật: Nhãn cầu như luôn động theo một hướng này hoặc hướng khác, do tổn

thương ở tiền đình, tiểu não. Nhãn cầu lệch biểu hiện thần kinh cơ mắt tổn thương.

Phản xạ của đồng tử. Thần kinh thị giác mà trung khu ở phần trước củ não sinh tư, điều

khiển hoạt động của mắt: lúc gặp ánh sáng mạnh qua hoạt động của thần kinh cơ kéo mặt co,

đồng tử thu hẹp lại; ở chỗ tối đồng tử mở rộng ra.

Lúc khám, phải bịt mắt gia súc lại hoặc cho vào chỗ tối dùng đèn pin để soi và quan sát

phản xạ của đồng tử.

Đồng tử thu hẹp: do áp lực trong sọ não tăng gây ức chế thần

kinh giao cảm; trong các bệnh tích dịch sọ não, viêm màng não,

Hình 3.25. Đồng tử mắt co lại

xuất huyết não. Đồng tử hẹp, nhãn cầu lệch do tổn thương ở dây

thần kinh giao cảm hay ở trung khu giao cảm (hình 3.25).

Đồng tử mở rộng: Khi dùng đèn pin soi đồng tử không thu hẹp, hoặc chỉ thu hẹp một ít,

do thần kinh điều tiết mắt bi liệt, thường gặp trong các bệnh: viêm não tủy truyền nhiễm ở

ngựa, u não, ổ mủ não; trong một số ca trúng độc hoặc quá đau đớn.

Giác mạc đục: trong bệnh cúm ở ngựa, lê dạng trùng, loét da quăn tai ở trâu bò. Những

ca nặng có thể thấy viêm giác mạc, loét giác mạc.

Khám thị võng mạc: tiêm Atropin để đồng tử mở rộng rồi dùng đèn pin soi để khám.

91

Thị võng mạc viêm: đục, không rõ, mạch quản nổi rõ, do ứ máu và những điểm tro trong

viêm võng mạc. Thị võng mạc viêm thường gặp trong bệnh viêm màng não, loét da quăn tai

trâu bò, viêm não - tủy truyền nhiễm và còn thấy trong những bệnh làm áp lực sọ não tăng.

Gia súc non thiếu vitamin A thì đáy mắt vàng xanh nhạt, đục, có những điểm đen nổi rải

rác.

b. Khám thính giác

Người khám đứng ở vị trí mà gia súc không thấy, huýt sáo hay gọi khẽ con vật quay lại

ngay. Thần kinh thính giác tai trong tổn thương thì khả năng nghe giảm. Nếu bệnh ở tai giữa

hay tai ngoài, thính giác bình thường. Giai đoạn đầu viêm não tủy truyền nhiễm thính giác rất

mẫn cảm. Tổn thương ở hành tuỷ, vỏ đại não thính giác giảm, có khi mất.

3.5.6. Kiểm tra phản xạ

Phản xạ của động vật là kết quả của hoạt động thần kinh: cơ quan cảm thụ nhận kích

thích, xung động thần kinh được truyền đến thần kinh trung khu và vỏ đại não; từ vỏ đại não

xung động thần kinh trở lại bắp cơ, da, các khí quan phản ứng đáp lại. Kiểm tra phản xạ nhằm

mục đích khám thần kinh ngoại vi, thần kinh trung khu và tình trạng chung của cơ thể.

Phản xạ tai: Dùng chiếc lông gà hay mảnh giấy cuộn tròn kích thích trong vành tai, gia

súc khoẻ thì quay đầu lại ngay.

Phản xạ hội âm: Kích thích nhẹ dưới khấu đuôi, đuôi sẽ cụp xuống ngay che âm môn.

Phản xạ hậu môn: Kích thích quanh hậu môn cơ vòng hậu môn co thắt lại.

Phản xạ hạ nang: Kích thích da phía trong hạ nang sẽ có phản ứng co kéo dịch hoàn lên

cao.

Phản xạ ho: Dùng hai ngón tay cái và trỏ ấn mạnh vào phần giữa đốt sụn thứ nhất của

khí quản, gia súc ho ngay.

Phản xạ hắt hơi: Kích thích nhẹ vào niêm mạc mũi, mũi nhăn lại và hắt hơi.

Phản xạ giác mạc mắt: Dùng mảnh giấy mềm kích thích giác mạc, mắt nhắm lại.

Phản xạ gân (hay kiểm tra gân đầu gối), mục đích để khám cơ năng tủy sống (trung khu

cung phản xạ gân đầu gối ở khoảng đốt sống 3-4 xương sống lưng).

Cách kiểm tra: Đại gia súc nằm nghiêng, kéo chân sau lên một tý rồi gõ nhẹ vào đầu gối,

chân sau duỗi ra ngay.

Tuỳ theo tình trạng thần kinh cảm thụ, thần kinh vận động, não và hành tủy mà các phản

xạ tăng giảm hoặc mất.

92

Phản xạ giảm, mất: não, hành tủy, dây thần kinh cảm thụ, thần kinh vận động bị tổn

thương.

Phản xạ tăng: các thần kinh trên bị viêm, bị kích thích liên tục do chất độc.

PHẦN B

BỆNH NỘI KHOA THÚ Y

Chương 4

NỘI KHOA ĐẠI CƯƠNG

Tóm tắt chương: nội dung chủ yếu nói về khái niệm chung về bệnh và

bệnh nội khoa gia súc, những nguyên nhân gây bệnh, các thời kỳ tiến triến

của bệnh, khái niệm về điều trị học và các nguyên tắc điều trị cũng như các

phương pháp điều trị ở vật nuôi mắc bệnh.

Mục tiêu:

Giúp cho sinh viên hiểu được khái niệm chung về bệnh cũng như khái

niệm về bệnh nội khoa gia súc, các nguyên nhân gây bệnh và các thời kỳ tiến

triển của bệnh.

Giúp sinh viên nắm được các nguyên tắc điều trị và các phương pháp

điều trị ở vật nuôi mắc bệnh.

4.1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH

Khái niệm về bệnh phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố:

Trình độ văn minh của xã hội đương thời.

Thế giới quan (bao gồm cả triết học của mỗi thời đại).

Một số quan niệm về bệnh bao giờ cũng chi phối chặt chẽ các nguyên tắc chữa bệnh,

phòng bệnh. Do vậy nó có vai trò rất lớn trong thực hành.

4.1.1. Một số khái niệm về bệnh trong lịch sử

a. Thời kỳ mông muội

93

Người nguyên thuỷ khi biết tư duy cho rằng bệnh là sự trừng phạt của các đấng siêu linh

đối với con người ở trần thế.

Với quan niệm như vậy thì người xưa chữa bệnh chủ yếu

bằng cách dùng lễ vật để cầu xin (hình.4.1): cụ thể cầu xin trực

tiếp hoặc thông qua những người làm nghề mê tín dị đoan. Bao

Hình 4.1.Sự tín ngưỡng

giờ cũng vậy, giá trị của lễ vật luôn luôn nhỏ hơn giá trị của điều

cầu xin.

Tuy nhiên, trên thực tế người nguyên thuỷ đã bắt đầu biết dùng thuốc, không phải mặc

số phận cho thần linh.

b. Thời kỳ các nền văn minh cổ đại

Trước công nguyên nhiều ngàn năm, một số vùng trên thế giới đã đạt trình độ văn minh

rất cao so với mặt bằng chung. Ví dụ: Trung Quốc, Hy Lạp - La Mã, Ai Cập hay Ấn Độ,...

Trong xã hội hồi đó đã xuất hiện tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, khoa học (gồm cả

y học) và triết học.

Nền y học lúc đó ở một số nơi đã đạt được những thành tựu lớn về y lý cũng như về

phương pháp chữa bệnh và đã đưa ra những quan niệm về bệnh của mình.

* Thời kỳ Trung Quốc cổ đại Khoảng 2 hay 3 ngàn năm trước công nguyên, y học chính thống Trung Quốc chịu ảnh

hưởng lớn của triết học đương thời, cho rằng vạn vật được cấu tạo tố 5 nguyên tố: Kim, Mộc,

Thuỷ, Hoả, Thổ, tồn tại dưới dạng 2 mặt đối lập (âm và dương) trong quan hệ hỗ trợ hoặc áp

chế lẫn nhau (tương sinh hoặc tương khắc).

Các nhà y học cổ đại Trung Quốc cho rằng bệnh là sự mất cân bằng âm dương và sự rối

loạn quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ Hành trong cơ thể.

Từ đó, nguyên tắc chữa bệnh là điều chỉnh lại, kích thích mặt yếu (bổ), áp chế mặt mạnh

(tả).

* Thời kỳ văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại Muộn hơn ở Trung Quốc hàng ngàn năm

Y học cổ đại ở nhiều nước Châu Âu cũng chịu ảnh hưởng khá rõ của Trung Quốc, nổi

bật nhất là ở Hy Lạp - La Mã cổ đại.

Gồm hai trường phái lớn

94

Trường phái Pythagore (600 năm trước công nguyên): Dựa vào triết học đương thời cho

rằng vạn vật do 4 nguyên tố tạo thành với 4 tính chất khác nhau: thổ (khô), khí (ẩm), hoả

(nóng), thuỷ (lạnh). Trong cơ thể, nếu 4 yếu tố đó phù hợp về tỷ lệ, tính chất và sự cân bằng:

sẽ tạo ra sức khoẻ; nếu ngược lại, sẽ sinh bệnh. Cách chữa bệnh cũng là điều chỉnh lại, bổ

sung cái thiếu và yếu, loại bỏ cái mạnh và thừa.

Trường phái Hippocrat (500 năm trước công nguyên) không chỉ thuần tuý tiếp thu và

vận dụng triết học như Pythagore mà tiến bộ và cụ thể hơn đã quan sát trực tiếp trên cơ thể

sống. Hippocrat cho rằng cơ thể có 4 dịch lớn, tồn tại theo tỷ lệ riêng, có quan hệ cân bằng

với nhau để tạo ra sức khoẻ. Đó là:

Máu đỏ: do tim sản xuất, mang tính nóng; ông nhận xét rằng khi cơ thể lâm vào hoàn

cảnh nóng (sốt) thì tim đập nhanh; mặt, da đều đỏ bừng. Đó là do tim tăng cường sản xuất

máu đỏ.

Dịch nhày: không màu, do não sản xuất, thể hiện tính lạnh; xuất phát từ nhận xét: khi cơ

thể bị lạnh thì dịch mũi chảy ra rất nhiều; ngược lại, khi niêm dịch xuất tiết nhiều cũng là lúc

cơ thể nhiễm lạnh.

Máu đen: do lách sản xuất, mang tính ẩm.

Mật vàng: do gan sản xuất, mang tính khô.

Ở thời kỳ này cho rằng: bệnh là sự mất cân bằng về tỷ lệ và quan hệ giữa 4 dịch đó.

* Thời kỳ các nền văn minh khác Cổ Ai Cập

Dựa vào thuyết Pneuma (sinh khí) cho rằng khí đem lại sinh lực cho cơ thể. Cơ thể phải

thường xuyên hô hấp để đưa sinh khí vào. Bệnh là do hít phải khí xấu, không trong sạch. Từ

đó, các nhà y học đề ra những nguyên tắc chữa bệnh.

Cổ Ấn Độ

Y học chính thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học đạo Phật cho rằng cuộc sống là

một vòng luân hồi (gồm nhiều kiếp), mỗi kiếp trải qua 4 giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Như

vậy, bệnh là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà y học cổ Ấn Độ vẫn sáng tạo ra

nhiều phương thuốc công hiệu để chữa bệnh.

c. Thời kỳ Trung cổ và Phục hưng

* Thời kỳ Trung cổ

95

Các quan điểm tiến bộ bị đàn áp nếu trái với những tín điều trong kinh thánh, khoa học

lâm vào tình trạng trì trệ và thụt lùi. Các nhà khoa học tiến bộ (Brno, Gallile,...) bị khủng bố.

Quan niệm chính thống về bệnh tỏ ra rất mê muội (sự trừng phạt của chúa đối với tội

lỗi của con người), không coi trọng chữa bệnh bằng thuốc (thay bằng cầu xin), y lý phải

tuân theo các giáo lý của nhà thờ (mỗi vị thánh trấn giữ một bộ phận trong cơ thể), một số

giáo sĩ cấm đọc sách thuốc,... Những nhà y học có quan điểm tiến bộ bị ngược đãi.

* Thời kỳ Phục Hưng Nhiều thuyết tiến bộ về y học liên tiếp xuất hiện. Tính duy vật tuy còn thô sơ, tính biện

chứng vẫn còn máy móc, nhưng so với thời kỳ y học cổ truyền thì đã có những bước tiến nhảy

vọt vật chất. Các thuyết đều cố vận dụng các thành tựu mới nhất của khoa học khác: Cơ, lý,

hoá, sinh, sinh lý, giải phẫu.

Thuyết cơ học (Descarte): cơ thể như một cỗ máy, ví tim như cái máy bơm, mạch máu là

các ống dẫn; các xương như những đòn bẩy và hệ cơ như các lực. Bệnh được ví như trục trặc

của "máy móc".

Thuyết hoá học (Sylvius 1614-1672): coi bệnh tật là sự thay đổi tỷ lệ các hoá chất trong

cơ thể, hoặc sự rối loạn các phản ứng hoá học.

Thuyết lực sống (Stalil, 1660-1734): các nhà sinh học hồi đó cho rằng các sinh vật có

những hoạt động sống và không bị thối rữa là nhờ trong chúng có cái gọi là lực sống

(vitaminalisme). Lực sống cũng chi phối sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể bằng lượng và chất

của nó.

* Thế kỷ 18-19 Rất nhiều quan niệm về bệnh ra đời, với đặc điểm nổi bật là dựa trên những kết quả đã

được thực nghiệm kiểm tra và khẳng định

Thuyết bệnh lý tế bào: Wirchow vĩ đại là người sáng lập môn giải phẫu bệnh cho rằng

bệnh là do các tế bào bào tổn thương, hoặc các tế bào tuy lành mạnh nhưng thay đổi số lượng

(heterometric), vị trí (heterotopic) và về thời điểm xuất hiện (heterocromic).

Thuyết rối loạn hằng định nội môi: Claud Benard- nhà sinh lý học thiên tài, người sáng

lập môn y học thực nghiệm (tiền thân của sinh lý bệnh) đã đưa thực nghiệm vào y học một

cách hệ thống và sáng tạo, đã đưa ra khái niệm "hằng định nội môi", cho rằng bệnh xuất hiện

khi có rối loạn cân bằng này trong cơ thể

4.1.2. Quan niệm về bệnh hiện nay

96

a. Hiểu về bệnh qua quan niệm về sức khoẻ

WHO/OMS 1946 đưa ra định nghĩa " sức khoẻ là tình trạng thoải mái về tinh thần, thể

chất và giao tiếp xã hội, chứ không phải chỉ là vô bệnh, vô tật ". Đây là định nghĩa mang tính

mục tiêu xã hội, "để phấn đấu", được chấp nhận rất rộng rãi.

Tuy nhiên dưới góc độ y học, cần có những định nghĩa phù hợp và chặt chẽ hơn. Các nhà

y học cho rằng "Sức khoẻ là tình trạng lành lặn của cơ thể ví cấu trúc chức năng cũng như khả

năng điều hoà giữ cân bằng nội mô, phù hợp và thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh".

b. Những yếu tố để định nghĩa bệnh

Đa số các tác giả đều đưa vào khái niệm bệnh những yếu tố sau:

Sự tổn thương, lệch lạc, rối loạn trong cấu trúc và chức năng (từ mức phân tử, tế bào,

mô, cơ quan đến mức toàn cơ thể). Một số bệnh trước kia chưa phát hiện được tổn thương

siêu vi thể, nay đã quan sát được. Một số bệnh đã được mô tả đầy đủ cơ chế phân tử như bệnh

thiếu vitamin B1.

Do những nguyên nhân cụ thể có hại, đã tìm ra hay chưa tìm ra.

Cơ thể có quá trình phản ứng nhằm loại trừ tác nhân gây bệnh, lập lại cân bằng, sửa chữa

tổn thương. Trong cơ thể bị bệnh vẫn có sự duy trì cân bằng nào đó, mặc dù nó đã lệch ra

khỏi giới hạn sinh lý. Hậu quả của bệnh tuỳ thuộc vào tương quan giữa quá trình gây rối loạn,

tổn thương và quá trình phục hồi, sửa chữa.

Bệnh làm giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh.

Với người, các tác giả đề nghị thêm: bệnh làm giảm khả năng lao động và khả năng hoà

nhập xã hội.

Một trong những định nghĩa "thế nào là một bệnh" hiện nay đang lưu hành là:

"Bệnh là bất kỳ sự sai lệch hoặc tổn thương nào đó về cấu trúc và chức năng của bất kỳ

bộ phận, cơ quan, hệ thống nào của cơ thể biểu hiện bằng một bộ triệu chứng đặc trưng giúp

cho thầy thuốc có thể chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt, mặc dù nhiều khi ta chưa

rõ nguyên nhân, về bệnh lý học và tiên lượng" (từ điển y học Dorlands, 2000).

Định nghĩa ở mức này rất có ích trong thực tiễn: để phân lập một bệnh và để đề ra tiêu

chuẩn chẩn đoán nó. Tìm cách chữa và xác định thế nào là khỏi bệnh và mức độ khỏi.

Cố nhiên ngoài định nghĩa chung "thế nào là một bệnh", mỗi bệnh cụ thể còn có một

định nghĩa riêng của nó để không thể nhầm lẫn với bất kỳ bệnh nào khác. Chẳng hạn định

nghĩa viêm phổi, lỵ, hen, sởi,...

97

Cụ thể nhất là xác định bệnh ở mỗi cơ thể bệnh cụ thể

Dù một bệnh nào đó đã có định nghĩa chung, ví dụ bệnh viêm phổi; nhưng viêm phổi ở

cơ thể A không giống ở cơ thể B.

Loại định nghĩa này rất có ích trong điều trị hàng ngày. Nó giúp thầy thuốc chú ý đến

từng cơ thể bệnh riêng biệt.

4.1.3. Khái niệm về bệnh nội khoa Thú y

Bệnh nội khoa Thú y hay còn gọi là bệnh thông thường, là những bệnh không có tính

chất truyền nhiễm, không lây lan từ con này sang con khác.

Ví dụ: Bệnh viêm ruột cata; bệnh viêm thận, bệnh viêm phổi là những bệnh nội khoa

Bệnh nội khoa và bệnh truyền nhiễm có sự khác nhau về :

a. Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh nội khoa gồm nhiều yếu tố (môi trường, thời tiết, thức ăn, chăm

sóc nuôi dưỡng,...).

Ví dụ: Bệnh viêm phế quản phổi ở gia súc do nhiều yếu tố gây nên:

Do chăm sóc nuôi dưỡng gia súc kém

Do gia súc bị nhiễm lạnh đột ngột

Do kế phát từ một số bệnh khác (kế phát từ bệnh giun ở phế quản,...)

Do gia súc hít phải một số khí độc trong chuồng nuôi (H2S, NH3,...)

Nguyên nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi sinh vật và chỉ có một. Ví dụ: bệnh tụ huyết

trùng ở gia súc chỉ do vi khuẩn Pasteurella gây nên, bệnh phó thương hàn ở gia súc chỉ do vi

khuẩn Salmonella gây nên.

b. Tính chất lây lan

Bệnh nội khoa: không có sự lây lan giữa con vật khoẻ với con vật ốm khi tiếp xúc với

nhau, hoặc khi con vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với chất thải của con vật ốm. Ví dụ ở bệnh viêm

ruột, bệnh viêm phổi, bệnh viêm thận,...

Bệnh truyền nhiễm: có sự lây lan giữa con vật khoẻ với con vật ốm khi tiếp xúc với

nhau, hoặc con vật khỏe tiếp xúc với chất thải của con vật ốm và dễ dàng gây nên ổ dịch lớn.

Ví dụ: ở bệnh dịch tả lợn, bệnh lở mồm long móng, bệnh cúm gà,...

c. Sự hình thành miễn dịch

98

Ở bệnh nội khoa: không có sự hình thành miễn dịch của cơ thể sau khi con vật bệnh khỏi

bệnh. Do vậy, trong quá trình sống con vật có thể mắc một bệnh nhiều lần. Ví dụ: bệnh viêm

thận cấp, bệnh viêm ruột, bệnh viêm phổi,...

Ở bệnh truyền nhiễm: hầu hết các bệnh truyền nhiễm có sự hình thành miễn dịch của cơ

thể khi con vật bệnh khỏi bệnh. Do vậy, trong quá trình sống con vật hiếm khi mắc lại bệnh

đó nữa. Ví dụ khi gà mắc bệnh Newcastle và khỏi bệnh thì con gà đó hiếm khi mắc lại bệnh

này nữa.

4.2. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH

Nguyên nhân có thể do:

Mầm bệnh

Các yếu tố khác của môi trường xung quanh.

* Nhóm nguyên nhân do mầm bệnh

Nhóm này bao gồm:

Vi sinh vật

Ký sinh trùng

Do vi sinh vật

Vi sinh vật gây bệnh bao gồm:

Vi khuẩn (vi trùng)

Vi rút (siêu vi trùng)

Nấm.

(cid:61510) Gọi là vi sinh vật vì chúng là những sinh vật vô cùng nhỏ bé, mắt thường không thể

nhìm thấy được.

(cid:61510) Vi rút nhỏ hơn vi khuẩn rất nhiều.

(cid:61510) Bệnh do vi khuẩn gây ra thì có thể điều trị bằng kháng sinh

Ví dụ:

Bệnh do vi khuẩn gây ra ở vật nuôi:

Bệnh Tụ huyết trùng trâu bò, lợn, gia cầm.

Bệnh Đóng dấu lợn.

Bệnh Lợn nghệ.

Hình 4.2. Vi khuẩn yếm khí

Bệnh do vi rút gây ra ở vật nuôi:

Bệnh Lở mồn long móng

Bệnh Dịch tả lợn.

99

Bệnh Niu -cát -xơn (Gà rù).

Bệnh do nấm gây ra ở vật nuôi:

Bệnh Nấm phổi gia cầm

Bệnh Ngộ độc thức ăn do độc tố nấm.

Tác hại:

Bệnh do vi sinh vật gây ra thường lây lan nhanh, gây thiệt hại lớn về kinh tế bởi vì:

Làm ốm, chết nhiều vật nuôi

Tốn kém cho việc phòng, trị bệnh

Do ký sinh trùng

Ký sinh trùng là những sinh vật sống ký sinh (ăn bám) ở

cơ thể vật nuôi.

Gồm 2 loại: nội ký sinh trùng và ngoại ký sinh trùng.

Nội ký sinh trùng: sống ký sinh ở bên trong cơ thể vật

Hình 4.3. Sán lá ruột lợn

nuôi. Ví dụ: giun đũa, sán lá ruột lợn sống ký sinh trong ruột

lợn (hình 4.3).

Tác hại:

Cướp đoạt chất dinh dưỡng, hút máu

Gây tổn thương các cơ quan nội tạng.

Trực tiếp hoặc gián tiếp làm lây truyền mầm bệnh khác. Làm con vật gầy yếu dần,

nặng hơn có thể bị chết.

Ngoại ký sinh trùng: sống ký sinh ở bên ngoài cơ thể vật nuôi.

Ví dụ: con ghẻ sống ký sinh ở da lợn (hình 4.4)

Tác hại:

Hút máu

Gây tổn thương da, tạo lối vào cho các mầm bệnh khác

Gây ngứa ngáy, khó chịu làm con vật kém ăn gầy dần.

* Nhóm nguyên nhân do các yếu tố khác của môi trường

Hình 4.4. Lợn bị ghẻ

xung quanh

Do chất độc

Ăn phải cây cỏ độc: một số loại cây cỏ thực vật có độc chất, khi gia súc ăn phải sẽ bị ngộ

độc

Ví dụ: nếu gia súc ăn nhiều lá sắn tươi, vỏ củ sắn sẽ bị ngộ độc, nặng hơn có thể bị chết.

100

Bị rắn độc, nhện độc cắn

Cần lưu ý khi chăn thả vật nuôi ở nơi gò hoang, bụi rậm dễ bị các loại rắn độc, nhện

độc cắn dẫn tới vật nuôi có thể bị chết.

Do ăn phải hoá chất độc:

Vật nuôi có thể bị ngộ độc do ăn phải:

Thuốc trừ sâu

Bả chuột

Phân hoá học

Một số loại hoá chất độc khác.

Do chất lượng thức ăn kém

Thức ăn bị ôi thiu, mốc.

Thức ăn có quá nhiều muối.

Do uống phải nguồn nước bị nhiễm độc:

Nhiễm các loại hoá chất độc, thuốc trừ sâu

Nhiễm các kim loại nặng: thuỷ ngân, chì...

Hình 4.5. Ngựa gầy yếu

Do nuôi dưỡng, chăm sóc và sử dụng.

Do nuôi dưỡng kém

Thiếu thức ăn, đặc biệt là trong vụ đông giá rét làm cho vật nuôi gầy yếu, dễ

mắc bệnh.

Thành phần thức ăn không cân đối dẫn đến vật nuôi còi cọc, chậm lớn, táo bón,

ỉa chảy, mền xương.

Ví dụ: lợn nái nuôi con mà thiếu khoáng thì dễ bị liệt chân.

Nước uống không đủ hoặc bị nhiễm bẩn dễ làm cho con vật mắc bệnh.

Do chăm sóc kém

Chăm sóc không chu đáo, không cẩn thận cũng là nguyên nhân làm vật nuôi gầy yếu

và dễ bị mắc bệnh (hình 4.5). Ví dụ: chuồng nuôi quá chật chội, quá bẩn, quá ẩm ướt, quá

nóng hoặc bị gió lùa vào mùa đông.

Đánh nhau

Bị tai nạn khi chăn thả, làm việc

Con non mới đẻ yếu ớt bị mẹ hoặc con khác đè, dẫm lên

Bắt giữ, vận chuyển thô bạo dễ làm con cái sẩy thai.

Vệ sinh đỡ đẻ kém dễ làm cho con mẹ và vật sơ sinh bị uốn ván,...

101

Do sử dụng không hợp lý:

Không hợp lý về thời gian: phải làm việc quá sớm về mùa đông, quá muộn về

mùa hè.

Phải làm việc quá sức

Gia súc trong thời kỳ chửa đẻ, gia súc non phải làm việc nặng.

Do thời tiết bất lợi:

Thời tiết phù hợp sẽ cho con vật khoẻ mạnh, ít mắc bệnh. Nhưng khi thời tiết

bất lợi, con vật dễ mắc bệnh.

Quá rét: làm vật nuôi tốn nhiều năng lượng để chống rét nên gầy yếu, dễ nhiễm

bệnh.

Quá nóng: làm cho con vật nuôi khó chịu, ỉa phân nhiều nước, chuồng trại ẩm

ướt sức khoẻ giảm sút là cơ hội tốt cho mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh.

4.3. CÁC THỜI KỲ TIẾN TRIỂN CỦA MỘT BỆNH

Điển hình, một bệnh cụ thể gồm 4 thời kỳ, mặc dù nhiều khi thiếu một thời kỳ nào đó.

* Thời kỳ ủ bệnh (tiềm tàng): Là khoảng thời gian từ khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể

con vật đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên. Nhưng ngày nay bằng các biện pháp hiện đại,

nhiều bệnh đã được chẩn đoán ngay từ thời kỳ này. Nhiều bệnh quá cấp tính do các tác nhân

quá mạnh, có thể không có thời kỳ này (chết do bỏng, điện giật, mất máu quá lớn, các bệnh ở

thể quá cấp tính,...).

Thời gian ủ bệnh ngắn hay dài phụ thuộc vào mầm bệnh và sức khoẻ của con vật, có thể

là 3 - 5 ngày, cũng có thể là 10 - 15 ngày hoặc dài hơn.

Hiểu biết về sự ủ bệnh ở vật nuôi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong:

Cách ly, nhập đàn

Tiêm chủng vaccin

Ví dụ:

Vật nuôi nhìn thấy khoẻ mạnh bình thường, sau khi mang về vài ngày thì bị ốm, lây

sang các con khác.

Khi tiêm chủng vaccin, con vật khoẻ mạnh bình thường, sau vài ngày thấy phát bệnh.

(cid:61510) Qua 2 ví dụ trên có thể suy đoán rằng những con vật trên đang ủ bệnh và chúng sẽ

ốm sau đó vài ngày.

Thời kỳ khởi phát: xuất hiện một số triệu chứng đầu tiên (khi chẩn đoán chính xác). ở

thời kỳ này xét nghiệm có vai trò rất lớn.

102

Thời kỳ toàn phát: xuất hiện triệu chứng đầy đủ và điển hình nhất. Tuy nhiên vẫn có

những thể không điển hình.

Thời kỳ kết thúc: có thể khác nhau tuỳ bệnh, tuỳ cá thể (khỏi, chết, di chứng, trở thành

mạn tính).

Tuy nhiên, nhiều bệnh hoặc nhiều thể bệnh có thể thiếu một hay hai thời kỳ nào đó. Ví

dụ: bỏng toàn thân, hoặc điện giật không có thời kỳ ủ bệnh.

4.4. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐIỀU TRỊ HỌC

4.4.1. Khái niệm về điều trị học

Khái niệm về điều trị học có liên quan rất mật thiết với sự hiểu biết của con người về

nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh. Chính vì vậy, cũng như các khái niệm khác, khái niệm về

điều trị luôn thay đổi qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử loài người.

Ở thời kỳ mông muội: với khả năng tư duy và hiểu biết của con người với thế giới tự

nhiên còn hết sức hạn chế, người ta cho rằng vạn vật đều do đấng thần linh, siêu nhiên tạo ra.

Do đó, bệnh tật là sự trừng phạt của đấng thần linh, là sự quấy phá, ám ảnh của ma tà, quỷ

quái. Chính vì vậy, quan niệm về điều trị ở thời kỳ này là tế lễ, cúng khấn và cầu xin các

đấng thần linh hoặc nhờ các đấng thần linh xua đuổi tà ma để ban cho được khỏi bệnh.

Đây là những quan niệm duy tâm hết sức sai lầm về các vật và các hiện tượng trong tự

nhiên cũng như về bệnh. Quan niệm này hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số các thôn bản của

các vùng miền núi, hoặc một bộ phận dân cư trong các xã hội văn minh.

Đến thời kỳ văn minh cổ đại: con người đã biết sản xuất và sử dụng các công cụ lao

động bằng kim loại, từ đó với các trực quan của mình người Trung Quốc cổ đại đã cho rằng:

Vạn vật trong tự nhiên đều được cấu thành 5 nguyên tố (kim, mộc, thuỷ, hoả thổ). Các mối

quan hệ này nằm trong mối tương sinh hoặc tương khắc ràng buộc lẫn nhau và cùng nhau tồn

tại. Bệnh tật là sự mất cân bằng giữa các mối quan hệ này. Từ đó người ta cho rằng điều trị là

lập lại mối cân bằng giữa các yếu tố này bằng cách kích thích mặt yếu (bổ) và áp chế mặt

mạnh (tả).

Ở thời kỳ hiện đại: Khi trình độ khoa học đã có những bước phát triển vượt bậc trên

nhiều lĩnh vực, con người đã có những hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về bệnh nguyên học

và sinh bệnh học thì quan niệm về điều trị cũng chuẩn xác và khoa học hơn. Và từ đó người ta

đưa ra những khái niệm về điều trị học có tính khoa học.

103

Điều trị học là môn học nhằm áp dụng những phương pháp chữa bệnh tốt nhất, an toàn

nhất tác động đối với cơ thể bệnh để làm cho cơ thể đang mắc bệnh nhanh chóng hồi phục trở

lại bình thường và mang lại sức khoẻ và khả năng làm việc, như:

Dùng thuốc (như dùng kháng sinh trong điều trị nhiễm khuẩn, bổ sung canxi, phospho và

vitamin D trong bệnh mềm xương và còi xương,...).

Dùng hoá chất (như dùng xanh methylen trong điều trị trúng độc HCN, dùng Na2SO4

hoặc MgSO4 trong tẩy rửa ruột ở bệnh viêm ruột hay trong chướng hơi dạ cỏ, tắc nghẽn dạ lá

sách).

Dùng lý liệu pháp (như dùng ánh sáng, dùng nhiệt, dùng nước, dùng dòng điện,...).

Điều tiết sự ăn uống và hộ lý tốt (như trong bệnh xeton huyết phải giảm thức ăn chứa

nhiều protein, lipit và tăng thức ăn thô xanh, trong bệnh viêm ruột ỉa chảy phải giảm thức ăn

xanh chứa nhiều nước và thức ăn tanh,...).

4.4.2. Những nguyên tắc cơ bản trong điều trị học

Điều trị học hiện đại là kế thừa sự nghiệp của các nhà y học lỗi lạc (Bôtkin, Pavlop,...).

Dựa trên quan điểm cơ bản là “Cơ thể là một khối thống nhất, hoàn chỉnh, luôn luôn liên hệ

chặt chẽ với ngoại cảnh và chịu sự chỉ đạo của thần kinh trung ương”. Với sự tiến bộ không

ngừng của sinh học, y học, dược học, điều trị học luôn luôn thay đổi vớ phương pháp và kỹ

thuật. Tuy vậy, vẫn có những nguyên tắc không thay đổi và luôn luôn đúng mà người thầy

thuốc phải nắm vững. Những nguyên tắc chính gồm:

a. Nguyên tắc sinh lý

Chúng ta thấy rằng mọi hoạt động của cơ thể đều chịu sự chỉ đạo của hệ thần kinh với

mục đích là để thích nghi với ngoại cảnh luôn luôn thay đổi, nâng cao được sức chống đỡ với

bệnh nguyên mà ta gọi chung là phản xạ bảo hộ của cơ thể (đó là hiện tượng thực bào, quá

trình sinh tế bào, mô bào mới, hình thành miễn dịch, giải độc,...). Do vậy, theo nguyên tắc này

tức là chúng ta phải tạo cho cơ thể bệnh thích nghi trong hoàn cảnh thuận lợi để nâng cao sức

chống đó bệnh nguyên, cụ thể:

Điều chỉnh khẩu phần thức ăn (ví dụ: trong chứng xeton huyết phải tăng lượng gluxit và

giảm lượng protein, lipit trong khẩu phần thức ăn; trong bệnh viêm ruột ỉa chảy phải giảm

khẩu phần thức ăn xanh nhiều nước và thức ăn tanh,...).

Tạo điều kiện tiểu khí hậu thích hợp (ví dụ: trong bệnh cảm nóng, cảm nắng phải để gia

súc nơi thoáng và mát).

104

Giảm bớt kích thích ngoại cảnh (ví dụ: trong bệnh uốn ván, chó dại thì phải tránh ánh

sáng, nước, các kích thích tác động mạnh)

Tìm mọi biện pháp để tăng sức đề kháng cơ thể, tăng cường sự bảo vệ của da và niêm

mạc (bằng dùng vitamin A, vitamin C), tăng cường thực bào của bạch cầu, tăng sự hình thành

kháng thể, tăng sự giải độc của gan và thận,...

b. Nguyên tắc chủ động tích cực

Theo nguyên tắc này đòi hỏi người thầy thuốc phải thấm nhuần phương châm “chữa

bệnh như cứu hoả”. Tức là phải:

Khám bệnh sớm

Chẩn đoán bệnh nhanh

Điều trị kịp thời

Điều trị liên tục và đủ liệu trình

Chủ động ngăn ngừa những diễn biến của bệnh theo các chiều hướng khác nhau (Ví dụ:

trong bệnh chướng hơi dạ cỏ sẽ dẫn tới tăng áp lực xoang bụng và chèn ép phổi làm cho gia

súc ngạt thở mà chết. Do vậy, trong quá trình điều trị cần theo dõi sự tiến triển của quá trình

lên men sinh hơi trong dạ cỏ.

Kết hợp các biện pháp điều trị để thu được hiệu quả điều trị cao. Ví dụ: trong bệnh viêm

phổi ở bê, nghé có thể dùng một trong các biện pháp điều trị sau:

Dùng kháng sinh tiêm bắp kết hợp với thuốc trợ sức, trợ lực và các thuốc điều trị triệu

chứng.

Dùng kháng sinh kết hợp với Novocain ở nồng độ 0,25- 0,5% phong bế hạch sao. Trong

2 phương pháp này thì phương pháp phong bế có hiệu quả điều trị và hiệu quả kinh tế cao

nhất. Do vậy ta nên chọn phương pháp điều trị thứ hai.

c. Nguyên tắc tổng hợp (Điều trị phải toàn diện)

Cơ thể là một khối thống nhất và chịu sự chỉ đạo của hệ thần kinh. Do vậy, khi một khí

quan trong cơ thể bị bệnh đều ảnh hưởng đến toàn thân. Cho nên trong công tác điều trị muốn

thu được hiệu quả cao chúng ta không chỉ dùng một loại thuốc, một biện pháp, điều trị cục bộ

đối với cơ thể bệnh mà phải dùng nhiều loại thuốc, nhiều biện pháp, điều trị toàn thân. Ví dụ:

trong bệnh viêm ruột ỉa chảy do nhiễm khuẩn ở gia súc. Ngoài việc dùng thuốc diệt vi khuẩn

còn phải dùng thuốc nâng cao sức đề kháng, trợ sức, trợ lực, bổ sung các chất điện giải cho cơ

thể kết hợp với chăm sóc hộ lý tốt.

105

Trong bệnh bội thực dạ cỏ, ngoài biện pháp dùng thuốc làm tăng nhu động dạ cỏ còn

phải dùng thuốc làm nhão thức ăn trong dạ cỏ, trợ sức, trợ lực và tăng cường giải độc cho cơ

thể còn phải làm tốt khâu hộ lý chăm sóc (cụ thể: để gia súc ở tư thế đầu cao đuôi thấp, xoa

bóp vùng dạ cỏ thường xuyên).

d. Nguyên tắc điều trị theo từng cơ thể (điều trị phải an toàn và hợp lý)

Cùng một loại kích thích bệnh nguyên, nhưng đối với từng cơ thể thì sự biểu hiện về

bệnh lý có khác nhau (sự khác nhau đó là do sự phản ứng của từng cơ thể và do cơ năng bảo

vệ, loại hình thần kinh của mỗi con vật có khác nhau). Do vậy trong điều trị cần phải chú ý tới

trạng thái của từng con bệnh để đưa ra phác đồ điều trị thicch hợp, tránh trường hợp dùng một

loại thuốc cho một loại bệnh, một loại thuốc cho tất cả các loại con bệnh khác nhau mà không

qua khám bệnh, tránh trường hợp nghe bệnh rồi kê đơn.

Sử dụng thuốc nào hoặc một phương pháp điều trị nào, trước hết phải chú ý đến vấn đề

an toàn (trước hết phải không có hại). Từ lâu đời nay nay vẫn là một phương châm hàng đầu

mỗi khi tiến hành điều trị. Tất nhiên trong điều trị đôi khi cũng có thể xảy ra những biến

chứng hoặc những tác dụng phụ không mong muốn, nhưng phải lường trước và phải hết sức

hạn chế sự xuất hiện của chúng ở mức tối đa cho phép và phải có sự chuẩn bị đối phó khi

chúng xuất hiện.

Mỗi khi tiến hành điều trị cho bất cứ con bệnh nào, phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng. Cho

thuốc gì phải dựa trên cơ sở chẩn đoán bệnh chính xác và toàn diện, phân biệt bệnh chính và

bệnh phụ, nguyên nhân và triệu chứng, thể bệnh và biến chứng, cơ địa và hoàn cảnh của con

bệnh. Điều này làm được tốt hay không là tuỳ thuộc vào độ chuyên môn của người thầy

thuốc, kiến thức và bệnh học, kinh nghiệm hành nghề của từng người. Chất lượng điều trị phụ

thuộc phần lớn vào độ chính xác của chẩn đoán, sự theo dõi sát sao của người thực hiện y

lệnh và khả năng đánh giá tiên lượng bệnh của thầy thuốc.

Ví dụ. Trong bệnh bội thực dạ cỏ thuốc có tác dụng làm tăng nhu động dạ cỏ mạnh nhất

là pilocarpin, nhưng ở gia súc có chửa thì không dùng được (vì nó sẽ gây sẩy thai). Cho nên,

để không gây sẩy thai và con vật vẫn khỏi bệnh thì người bác sĩ phải trực tiếp khám bệnh và

đưa ra phác đồ điều trị thích hợp.

Tóm lại theo nguyên tắc này, người ta đã đưa ra những chỉ định và chống chỉ định khi

dùng thuốc, liều lượng thuốc cho từng loại, từng cá thể, tuổi của gia súc,... Nhằm mục đích là

tạo điều kiện cho con bệnh nhanh chóng trở lại khỏe mạnh bình thường và không gây tác hại

gì cho cơ thể. 106

e. Điều trị phải có kế hoạch

Đánh trận phải có kế hoạch tác chiến, chiến đấu với bệnh tật cũng phải có kế hoạch cụ

thể, tuỳ theo tình trạng bệnh nặng hay nhẹ, cấp hay mạn tính.

Muốn làm kế hoạch điều trị, phải dựa trên cơ sở biết bệnh, biết con bệnh, biết thuốc.

Biết bệnh

Là có chẩn đoán rõ ràng, có trường hợp nguyên nhân biết được ngay, dễ dàng do đó có

thể điều trị ngay nguyên nhân, đó là trường hợp lý tưởng. Nhưng cũng có trường hợp khi chưa

biết ngay nguyên nhân, lúc này phải có hướng tìm bệnh ngay từ lúc đầu, và sau sẽ điều chỉnh

lại chẩn đoán. Biết bệnh về phương diện điều trị học còn là biết khả năng của y học hiện nay

có thể giải quyết được bệnh hay không. Nếu là trường hợp bệnh thuộc loại có thể điều trị khỏi

hẳn được thì lúc này nên khẩn trương điều trị. Nếu là trường hợp bệnh chưa có thể chữa được

chắc chắn thì phải cho loại thải

Biết con bệnh

Biết bệnh cũng chưa đủ để điều trị mà còn cần phải biết con bệnh. Trong việc điều trị

bệnh, người thầy thuốc có một vai trò quan trọng. Họ phải có kiến thức y học rộng, phải

nắm được những điều cần biết tối thiểu về các chuyên khoa khác, có như vậy mới tránh

được thiếu sót trong công tác hàng ngày, nhất là đối với những trường hợp cấp cứu.

Biết thuốc

Thầy thuốc phải nắm vững những thuốc mình dự định dùng trong điều trị. Do vậy, biết

bệnh, biết con bệnh cũng chưa đủ mà cần biết rõ thuốc và phương pháp điều trị để áp dụng

cho đúng chỉ định, đạt hiệu quả tối ưu. Cụ thể là cần phải biết dược tính, liều lượng, khả năng

tác dụng của thuốc, nắm chắc cách sử dụng thuốc như uống, tiêm, truyền, thuốc dán, thuốc

đạn, thuốc nhỏ. Về biệt dược (hiện nay có rất nhiều, từ nhiều nguồn trong nước và nước

ngoài) cần phải biết hoạt chất là gì, liều lượng tối đa, tối thiểu. Về thuốc độc, cần biết thuốc

bảng nào của quy chế thuốc độc, liều lượng tối đa cho một lần và cho 24 giờ.

f. Điều trị phải được theo dõi chặt chẽ

Theo dõi tác dụng của thuốc

Phải theo dõi chặt chẽ để xem thuốc có tác dụng hay không, đặc biệt chú ý khi cho thuốc

đúng quy cách nhưng bệnh không thuyên giảm, không khỏi. Trong trường hợp này, nên kiểm

tra xem chủ con bệnh có thực hiện đúng như trong đơn thuốc hay không, thuốc còn thời hạn

107

hay đã quá hạn, đã bị hư hỏng, thuốc pha chế có đúng tiêu chuẩn dược điển hay không. Cũng

nên kiểm tra lại chế độ ăn uống, chế độ nghỉ ngơi. Có trường hợp cần xét lại chẩn đoán xem

có biến chứng mới xuất hiện hay không.

Trường hợp dùng nhiều thuốc cùng một lúc

Khi dùng nhiều thuốc cùng một lúc, phải lưu ý đến khả năng tương kỵ thuốc. Tương kỵ

thuốc là ảnh hưởng tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều vị thuốc với nhau, dẫn tới sự biến đổi

một phần hoặc toàn bộ các tính chất lý hoá của thuốc trong đơn thuốc hoặc tác dụng chữa

bệnh của những vị thuốc chính trong đơn thuốc đó.

Trước khi pha chế thuốc, cần nghiên cứu kỹ xem có tương kỵ giữa các chất không.

Muốn vậy cần phải vận dụng những kiến thức đã nắm được cũng như kinh nghiệm trong thực

tế pha chế để có thể kết luận đơn thuốc có tương kỵ hay không và từ đó đưa ra cách khắc phục

nếu có thể được.

Việc theo dõi các tai biến có thể xảy ra

Công tác điều trị phải là một việc tính toán kỹ lưỡng, cân nhắc giữa nguy hiểm do bệnh

và nguy hiểm do thuốc gây ra. Có những nguy hiểm bất ngờ không lường trước được. Cũng

có những nguy hiểm có thể biết trước được nhưng thầy thuốc và con bệnh có thể chấp nhận

được vì không thể có giải pháp nào hơn được. Có những tai biến do thuốc quá liều. Đáng chú

ý là những trường hợp không phải là quá liều tối đa quy định trong dược lý, dược điển mà quá

liều so với tình trạng con bệnh. Vì những lý do trên, khi đã tiến hành điều trị phải có theo dõi

sát sao

4.4.3. Các phương pháp điều trị

Trong quá trình đấu tranh với bệnh tật, con người có một số kinh nghiệm truyền lại từ

đời này qua đời khác với sự phát triển của y học nói riêng và khoa học nói chung, những kinh

nghiệm đó được sàng lọc cho đến ngày nay. Những phương pháp điều trị hiệu quả được cải

tiến và nâng cao không ngừng. Những phương pháp ít hiệu quả hoặc có hại được loại bỏ dần

dần, những bài thuốc và kỹ thuật phòng chữa bệnh càng đa dạng phong phú. Điều trị học là

môn học được thay đổi, bổ sung nhiều nhất với thời gian.

Có nhiều phương pháp điều trị, nhìn chung các nhà điều trị học chia làm hai loại dùng

phổ biến nhất, đó là điều trị học bằng thuốc và điều trị học bằng vật lý. Trong mỗi loại đó có

nhiều kỹ thuật khác nhau.

108

a. Điều trị bằng thuốc

* Thuốc lấy nguyên liệu từ thảo mộc (hình 4.6)

Từ rất lâu đời, nhân dân và thầy thuốc đã biết sử

dụng những thành phần từ cây cỏ để chữa bệnh. Người ta

cũng đã dùng lá cây, rễ cây, thân cây, vỏ cây, nụ và hoa

Hình 4.6. Thuốc được chế từ thảo mộc

để làm ra các thuốc chữa bệnh. Hiện nay vẫn còn sử dụng

nguồn dược liệu phong phú này nhưng với trình độ khoa học cao hơn, người ta đã chiết xuất

hoạt chất, phối hợp các loại thảo mộc với nhau, tạo ra

những dạng bào cho thích hợp. Ngay cả những nước có

một nền công nghiệp dược phẩm phát triển hiện nay cũng

có xu hướng trở lại sử dụng thuốc nguồn gốc thảo mộc

Hình 4.7. Thuốc sản xuất từ hoá chất

dưới dạng giản đơn mỗi khi tình hình bệnh tật cho phép.

* Thuốc sản xuất từ hoá chất (hình 4.7)

Trong y học hiện đại, hoá trị liệu tiến rất mạnh và rất nhanh, nhờ những thành tựu to lớn

trong khoa học. Xu hướng này ngày càng phát triển vì nó cho phép sản xuất tập trung có tính

chất công nghiệp nên sản lượng thường rất lớn, hoạt chất lại hằng định và dễ lượng hoá.

Không những thế việc tổng hợp nhiều chất cho phép nhân ra nhiếu chủng loại thuốc, tạo điều

kiện cho sự phát triển nhiều loại biệt dược phù hợp với từng thể loại bệnh. Việc bảo quản, vận

chuyển các loại thuốc này dễ dàng hơn thuốc thảo mộc. Đối với phần lớn thuốc do sản xuất

được với quy mô lớn nên giá thành cũng rẻ, góp phần đáng kể vào việc điều trị bệnh cho đại

đa số.

* Thuốc lấy nguyên liệu từ động vật (hình 4.8)

Ngay từ cổ xưa, người ta đã biết sử dụng cao xương, sừng

hươu nai, tê giác, dùng các phủ tạng một số động vật để chữa

bệnh. Một số sản phảm động vật được sử dụng như sữa ong

chúa, nọc ong, nọc rắn, mật gấu, tắc kè,...

Hình 4.8. Thuốc lấy nguyên liệu từ động vật

Hướng sử dụng loại nguyên liệu nguồn gốc động vật rất

thịnh hành trong y học cổ truyền - y học hiện đại cũng dùng

một số phủ tạng động vật, có xử lý theo phương pháp hoá học để chữa trị như tinh chất giáp

trạng, cao gan, huyết thanh chữa uốn ván, bạch hầu, tinh chất bào thai.

109

* Thuốc có nguồn gốc hormon

Hormon là các chất sinh học có tác dụng rất đặc hiệu, đối với cơ thể dưới dạng rất nhỏ

với liều lượng rất thấp. Rất nhiều nội tiết được chiết xuất từ các tuyến nội tiết của động vật

(Oestrogen, Insulin,...) hoặc tổng hợp (Corticoid) và đã đem lại nhiều kết quả tốt. Nhờ tổng

hợp được nên thuốc rẻ, tai biến ngày càng ít so với những lần đầu

tiên dùng hormon lấy từ sinh vật để chữa bệnh.

* Thuốc có nguồn gốc từ nấm (Hình. 4.9)

Các thuốc kháng sinh là một phát minh vĩ đại của con người

Hình 4.9. Thuốc có nguồn gốc từ nấm

trong việc bảo vệ cơ thể chống lại với vi khuẩn. Nó đánh dấu một

giai đoạn rất quan trọng trong việc giải quyết các bệnh nhiễm khuẩn, sau khi Pasteur tìm ra các

vi sinh vật gây bệnh này. Chất kháng sinh nấm đầu tiên Penicillin do Fleming người Anh tìm ra

năm 1942. Từ đó đến nay rất nhiều thuốc kháng sinh được ra đời. Việc tìm kiếm các thuốc

kháng sinh có nguồn gốc vi sinh vật, hoặc tổng hợp, hoặc bán tổng hợp. Sự ra đời của kháng

sinh bên cạnh tác dụng tích cực cũng đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ nhất là hiện tượng kháng

kháng sinh của vi khuẩn, hiện tượng dị ứng ngày càng hay gặp làm cho việc sử dụng phải rất

thận trọng.

* Các vitamin

Vitamin là những chất hữu cơ, có phân tử lượng thấp, cơ thể không tự tổng hợp được,

phần lớn phải lấy từ ngoài vào, có hoạt tính với lượng nhỏ, rất cần thiết cho sự tồn tại, chuyển

hoá và điều hoà, phát triển, sinh sản. Số lượng vitamin cần thiết tuỳ theo hoạt động của các tổ

chức, hoạt động này lại biến đổi tuỳ theo tuổi, tình trạng thần kinh trung ương, sinh hoạt, chế

độ ăn và trạng thái đặc biệt, trạng thái bệnh lý. Các vitamin được sắp xếp thành hai nhóm lớn,

tuỳ theo tính chất hoà tan của chúng. Có loại vitamin hoà tan trong dầu (như vitamin A, D, E,

K,...). Có loại vitamin hoà tan trong nước (như vitamin B1, B2, B3, B6,...). Vitamin tham gia

vào hệ thống enzim làm xúc tác cho phản ứng oxy hoá khử, chuyển amin, chuyển axetyl.

Vitamin còn hỗ trợ tuyến nội tiết như vitamin C với tuyến thượng thận, vitamin B với hormon

sinh dục. Có khi đối lập với nội tiết tố, như vitamin A với tyroxin. Các loại vitamin bảo vệ

thần kinh như vitamin A, B1, PP, B12,...

b. Phương pháp điều trị bằng vật lý

Điều trị vật lý là một chuyên khoa trong y học dùng các yếu tố vật lý để phòng và chữa

bệnh. Các phương pháp này xuất hiện đã lâu đời. Vận động thể lực dưới dạng Yoga, võ thuật, 110

khí công đã có từ rất sớm, từ 4000 đến 5000 năm. Châm cứu có trước công nguyên tới trên

2000 năm. Người Ai Cập cổ xưa đã dùng cách "phơi nắng" và "ngâm bùn" ở sông Nil để chữa

bệnh. Người Hy Lạp cổ xưa ưa chuộng thể dục thể thao, phòng và chữa bệnh. Các phương

pháp nhiệt và nước rất thịnh hành ở những thế kỷ đầu công nguyên.

Trong nhân dân các nước từ Âu sang Á đều còn lưu lại nhiều phương pháp lý liệu dân

gian như xoa bóp, chích lể, chườm nóng, đắp lạnh. Những điều đó nói lên phương pháp vật lý

đã góp phần vào việc giữ gìn và tăng cường sức khoẻ cho con người.

Trong quá trình điều trị người ta thường sử dụng các yếu tố vật lý sau: ánh sáng, dòng

điện, nhiệt độ, nước,..., những yếu tố này thông qua phản xạ thần kinh làm tăng cường trao

đổi chất cục bộ, tăng cường tuần hoàn cục bộ, giảm đau cục bộ, làm tiêu viêm, tăng quá trình

hình thành mô bào mới, do vậy làm vết thương mau lành. Các phương pháp điều trị bằng vật

lý thường dùng là

* Điều trị bằng ánh sáng

Ánh sáng ở đây bao gồm tất cả các bức xạ có trong ánh sáng mặt trời, gồm những bức xạ

"sáng" và nhiều bức xạ không trông thấy được (bức xạ tử ngoại và hồng ngoại). Điều trị bằng

ánh sáng là chữa bệnh, phòng bệnh, nâng cao sức khoẻ bằng cách sử dụng ánh sáng toàn bộ

hoặc từng phần hoặc vài ba phần của các bức xạ trong ánh sáng, dưới dạng thiên nhiên hoặc

nhân tạo.

Dùng ánh sáng tự nhiên (ánh sáng mặt trời)

Cơ chế

Trong ánh sáng mặt trời có tia tử ngoại có tác dụng chuyển 7 dehydrocholesterol ở tổ

chức dưới da thành vitamin D3, từ đó giúp cho quá trình hấp thu canxi và phospho ở ruột

được tốt. Ngoài ra, nó còn làm sung huyết mạch quản ngoại biên. Do vậy, làm tăng cường

tuần hoàn máu, từ đó làm tăng cường quá trình trao đổi chất. Hơn nữa nó còn có tác dụng

làm đông vón và phân hủy protein của vi khuẩn. Do vậy, nó còn có tác dụng diệt khuẩn.

Ứng dụng: ánh sáng mặt trời được ứng dụng rộng rãi trong phòng bệnh và điều trị bệnh

cho vật nuôi, như: phòng trị bệnh còi xương, mềm xương, bệnh lợn con phân trắng, sát trùng

chuồng trại,...

Thời gian sử dụng ánh sáng: tuỳ theo mức độ phân bố ánh sáng mặt trời của từng vùng,

từng mùa mà thời gian sử dụng ánh sáng mặt trời khác nhau. Cụ thể ở nước ta, thời gian sử

dụng ánh sáng từ 30 phút đến 5 giờ.

Mùa hè: Buổi sáng thời gian sử dụng ánh sáng từ 6 giờ sáng đến 9 giờ sáng 111

Buổi chiều từ 4 giờ chiều đến 6 giờ chiều.

Mùa đông: Buổi sáng từ 8-11h.

Buổi chiều từ 1-3h.

Dùng ánh sáng nhân tạo:người ta thường dùng ánh sáng

điện thường, ánh sáng hồng ngoại và ánh sáng tử ngoại.

Dùng ánh sáng của đèn Soluse (hình 4.10)

Hình 4.10. Đèn soluse

Bóng đèn có công suất từ 300 -1000W, sức nóng của tóc đèn có thể lên tới 2.500 - 2.8000C, trong bóng đèn có chứa hơi azot, nitơ. Do vậy, áp lực của bóng đèn bằng 1/2 atmotphe. Đèn

solux thường được dùng trong các phòng điều trị và có thể mang lưu động được.

Thời gian và khoảng cách chiếu sáng: mỗi lần chiếu từ 25 - 40 phút, ngày chiếu 1-2

lần, đèn để cách da vật nuôi từ 0,5 - 0, 7 mét.

Công dụng: do có sự tập chung ánh sáng vào cục bộ nên làm cho da nơi bị chiếu có hiện

tượng sung huyết, tăng cường tuần hoàn cục bộ. Do đó nó có tác dụng tiêu viêm, giảm đau

đối với vật nuôi.

Ứng dụng: thường dùng để điều trị trong các bệnh (viêm cơ, áp xe, viêm khớp, viêm

phổi,...).

Dùng ánh sáng đèn hồng ngoại (hình 4.11)

Ánh sáng hồng ngoại được phát ra do đốt nóng dây may xo của các lò sưởi điện, khi may

xo nóng đỏ thì nhiệt độ lên tới 300-7000C.

Tác dụng: như ánh sáng điện thường nhưng có độ chiếu sâu

hơn. Do vậy, thường dùng để điều trị các vết thương sâu trong cơ

thể.

Khoảng cách và thời gian chiếu sáng: đèn để cách mặt da

Hình 4.11. Đèn hồng ngoại

khoảng 0,5- 0, 7 mét, mỗi lần chiếu từ 20 - 40 phút.

Dùng ánh sáng đèn tử ngoại

Tia tử ngoại được phát ra từ bóng đèn làm bằng thạch anh, trong bóng đèn có chứa khí

Ar (Acgôn) và thuỷ ngân. Nơi thuỷ ngân có áp suất là 1/1000 atmotphe.

Cơ chế: khi có dòng điện chạy qua thì khí Ar sinh ra hiện tượng điện ly và phóng điện

bắn vào các phân tử của hơi thuỷ ngân làm cho một phần phân tử của thuỷ ngân ion hoá còn

một phần phát ra ánh sáng và ánh sáng này gọi là tia tử ngoại.

Tác dụng:

112

Làm biến đổi 7 dehydrocholesterol (cid:61614) vitamin D3 và ergosterol (cid:61614)vitamin D2.

Làm đông vón và phân huỷ protein của vi sinh vật. Do vậy, có tác dụng sát trùng, tiêu

độc.

Làm sung huyết và giãn mạch quản. Do vậy, xúc tiến quá trình tuần hoàn và trao đổi chất

cơ thể, từ đó làm tăng số lượng hồng cầu, bạch cầu trong máu, làm tăng hiện tượng thực bào

và hàm lượng globulin trong cơ thể.

Cách chiếu:

Với đại gia súc, xác định hàm lượng ánh sáng bằng cách dùng tấm bìa dài 20 cm, rộng 7 cm có đục 5 lỗ, mỗi lỗ có diện tích 1cm2. Sau đ? đặt tấm bìa lên thân gia súc, tiếp theo lấy tấm bìa khác che lên lần lượt cho hở từng lỗ một rồi chiếu (mỗi lỗ hở chiếu với khoảng thời gian

15 - 20 phút) đến thời gian mà mặt da đỏ lên thì thôi. Khoảng cách đèn đối với thân gia súc từ

0,7 - 1 mét.

Với tiểu gia súc và gia cầm, chiếu toàn đàn, khoảng cách đèn đối với tiểu gia súc và gia

cầm là 1 mét, thời gian chiếu từ 10-15 phút, ngày chiếu 3 lần.

Những chú ý khi dùng đèn tử ngoại:

Sau khi chiếu xong phải để phòng điều trị thông thoáng (vì khi chiếu đèn thường xuyên

sinh ra khí O3, mà khí này kích thích rất mạnh niêm mạc (chủ yếu là niêm mạc đường hô

hấp). Vì vậy, dễ gây viêm đường hô hấp(cid:46)

Tia tử ngoại kích thích rất mạnh thần kinh thị giác và tế bào gậy của mắt. Do vậy,

thường làm ảnh hưởng đến thị giác, cho nên trong khi sử dụng đèn tử ngoại cần phải đeo kính

bảo vệ mắt.

* Điều trị bằng dòng điện

Cơ thể con người cũng như gia súc đều là môi trường dẫn điện (do trong cơ thể có nước

và các phân tử keo, các tinh thể). Do vậy, trong điều trị người ta cũng dùng dòng điện. Phổ

biến là sử dụng dòng điện một chiều (dòng ganvanich), dòng

điện xung thế thấp, tần số thấp (dòng Pharadic, dòng Ledue, dòng Bernard,...) các dòng cao tần (dòng d' Arsonval, dòng thân nhiệt, sóng ngắn, vi sóng,...) tĩnh điện và ion khí.

Sử dụng dòng điện một chiều (hình 4.12)

Qua hệ thống nắn dòng mà dòng điện xoay chiều được

Hình 4.12. Điều trị bằng dòng điện

chuyển thành dòng điện một chiều với hiệu điện thế 60V và

cường độ dòng điện 6A.

113

Cách tiến hành

Dùng máy điện châm, mắc một cực ở nơi bị viêm và một cực ở chân gia súc. Thời gian

để cho dòng điện chạy qua là 15 - 20 phút. Sử dụng từ 2 - 3 lần trong 1 ngày.

Tác dụng:

Cải thiện quá trình trao đổi chất cơ thể, làm hồi phục chức năng tế bào, dây thần kinh.

Do vậy, thường dùng để điều trị các trường hợp bại liệt do dây thần kinh.

Gây sung huyết ở nơi đặt điện cực. Cho nên, có tác dụng tiêu viêm, giảm đau ở nơi cục

bộ.

Chú ý: Không sử dụng cho các trường hợp viêm mạn tính, viêm có mủ.

* Điều trị bằng siêu âm

Siêu âm có tác dụng tổng hợp, giãn mạch, giảm co thắt, giảm đau là kết quả của sự ma

sát vi thể và sự dao động cao tần được củng cố bằng tác dụng tăng nhiệt độ do hấp thu năng

lượng sóng siêu âm. Tác dụng trên dinh dưỡng chuyển hoá là hậu quả của sự tăng cường tuần

hoàn tại chỗ, tăng hoạt động các men, thay đổi cấu trúc các phân tử lớn tạo nên các chất mới,

có tác dụng kích thích sự sắp xếp lại cấu trúc phân tử tế bào.

* Điều trị bằng nhiệt: các phương pháp sử dụng nóng (chườm nóng, ngâm nước nóng)

gây phản ứng giãn mạch. Tuỳ mức độ kích thích mà phản xạ này sẽ chỉ có tác dụng khu trú tại

chỗ đặt, kích thích nóng hay lan rộng ra một bộ phận của cơ thể theo kiểu phản xạ đứt đoạn

hay lan rộng ra toàn thân. Chườm nóng có tính chất an thần và điều hoà các rối loạn chức

năng hệ thần kinh, giảm nhẹ đau và co thắt cơ.

Tác dụng của phương pháp lạnh ngắn (chườm lạnh, ngâm nước lạnh) là làm tăng hưng

phấn thần kinh, còn các phương pháp lạnh kéo dài làm lạnh tổ chức ảnh hưởng trên thần kinh

nằm ở sâu. Lạnh cản trở sự phát triển của quá trình viêm cấp, làm giảm phù nề và ngăn nhiễm

khuẩn phát triển.

* Điều trị bằng vận động và xoa bóp

Vận động là một biện pháp phòng bệnh và điều trị, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị,

bao gồm: xoa bóp, vận động và điều trị cơ học. Xoa bóp là cách dùng những động tác của tay

tác động trên cơ thể con bệnh với mục đích điều trị (ví dụ: xoa bóp vùng dạ cỏ khi dạ cỏ bị

bội thực; xoa bóp những nơi bị liệt trên cơ thể). Vận động có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ

mọi hoạt động của cơ thể, không riêng gì đối với cơ bắp mà còn có tác dụng duy trì và tái lập

114

lại hằng định nội môi tốt nhất (ví dụ. trong bệnh liệt dạ cỏ, bệnh bội thực dạ cỏ cần phải cho

gia súc vận động nhiều lần trong ngày)

4.4.4. Phân loại điều trị

Dựa trên triệu chứng, tác nhân gây bệnh, cơ chế sinh bệnh mà người ta chia ra làm 4 loại

điều trị.

a. Điều trị theo nguyên nhân bệnh

Loại điều trị này thu được hiệu quả điều trị và hiệu quả kinh tế cao nhất. Bởi vì đã xác

định chính xác nguyên nhân gây bệnh, từ đó dùng thuốc điều trị đặc hiệu đối với nguyên nhân

bệnh đó.

Ví dụ: Khi xác định gia súc bị trúng độc sắn (HCN), dùng xanh methylen 0,1% tiêm để

giải độc.

Ví dụ: Khi xác định một vật nuôi mắc bệnh tụ huyết trùng, dùng Streptomycin hoặc

kanamycin để điều trị

b. Điều trị theo cơ chế sinh bệnh

Đây là loại điều trị nhằm cắt đứt một hay nhiều giai đoạn gây bệnh của bệnh để đối phó

với sự tiến triển của bệnh theo các hướng khác nhau.

Ví dụ: Trong bệnh viêm phế quản phổi (quá trình viêm làm cho phổi bị sung huyết và

tiết nhiều dịch viêm đọng lại trong lòng phế quản gây trở ngại quá trình hô hấp dẫn đến gia

súc khó thở, nước mũi chảy nhiều, ho). Do vậy, khi điều trị ngoài việc dùng kháng sinh tiêu

diệt vi khuẩn còn dùng thuốc giảm ho và giảm d?ch thấm xuất để tránh hiện tượng viêm lan

rộng.

Trong bệnh chướng hơi dạ cỏ: Vi khuẩn làm thức ăn lên men - sinh hơi và hơi được thải

ra ngoài theo 3 con đường (Thấm vào máu, quá trình ợ hơi, theo phân ra ngoài). Nếu 1 trong 3

con đường thoát hơi bị cản trở, đồng thời vi khuẩn trong dạ cỏ hoạt động mạnh làm quá trình

sinh hơi nhanh dẫn đến dạ cỏ chướng hơi (cid:61614) tăng áp lực xoang bụng, hậu quả làm cho con vật

thở khó hoặc ngạt thở. Do vậy, trong quá trình điều trị phải hạn chế sự hoạt động của vi khuẩn

trong dạ cỏ, loại trị thức ăn đã lên men sinh hơi trong dạ cỏ, phục hồi lại con đường thoát hơi.

c. Điều trị theo triệu chứng

Loại điều trị này hay được sử dụng, nhất là trong thú y. Vì đối tượng bệnh là gia súc, hơn

nữa chủ của bệnh súc không quan tâm và theo dõi sát gia súc nên việc chẩn đoán đúng bệnh

115

ngay từ đầu là rất khó. Do vậy, để hạn chế sự tiến triển của bệnh và nâng cao sức đề kháng

của con vật trong thời gian tìm nguyên nhân gây bệnh, người ta phải điều trị theo triệu chứng

lâm sàng thể hiện trên con vật.

Ví dụ: khi gia súc có triệu chứng phù, mà triệu chứng này do rất nhiều nguyên nhân: do

bệnh viêm thận, do bệnh tim, do bệnh ký sinh trùng đường máu, do bệnh sán lá gan, do suy

dinh dưỡng. Do vậy, trong thời gian xác định nguyên nhân chính, người ta dùng thuốc lợi

tiểu, giảm phù và thuốc trợ lực, thuốc nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Khi đã xác định

được rõ nguyên nhân thì dùng thuốc điều trị đặc hiệu đối với nguyên nhân đó.

d. Điều trị theo tính chất bổ sung

Loại điều trị này dùng để điều trị những bệnh mà nguyên nhân là do cơ thể thiếu hoặc

mất một số chất gây nên.

Ví dụ: bổ sung vitamin (trong các bệnh thiếu vitamin); bổ sung máu, chất sắt (trong bệnh

thiếu máu và mất máu); bổ sung các nguyên tố vi lượng (trong các bệnh thiếu các nguyên tố

vi lượng); bổ sung canxi, phospho trong bệnh còi xương, mềm xương; bổ sung nước và chất

điện giải trong bệnh viêm ruột ỉa chảy.

4.5. TRUYỀN DỊCH

Đây là một trong các phương pháp điều trị bổ sung, nhằm bổ sung nước và các chất điện

giải mà cơ thể đã bị mất trong các trường hợp bệnh lý.

Trong điều trị bệnh cho gia súc ốm, việc truyền máu thường rất hiếm (chỉ sử dụng với

các gia súc quí). Nhưng việc dùng các dung dịch để truyền cho con vật ốm là rất cần thiết và

thường dùng, vì nó góp phần quan trọng để nâng cao hiệu quả điều trị.

4.5.1. Các dung dịch thường dùng trong điều trị bệnh cho

gia súc

a. Dung dịch muối đẳng trương (nước muối sinh lý

0,9%): dùng trong các trường hợp khi cơ thể mất máu cấp

tính, viêm ruột ỉa chảy cấp, nôn mửa nhiều). Tiêm dưới da

hoặc truyền vào tĩnh mạch. Liều lượng tuỳ thuộc vào mục

Hình 4.13. Dịch truyền

đích điều trị.

b. Dung dịch muối ưu trương (NaCl 10%): có tác dụng làm tăng cường tuần hoàn cục bộ

và phá vỡ tiểu cầu. Do vậy, dung dịch này thường được dùng trong các trường hợp (liệt dạ cỏ,

nghẽn dạ lá sách, chảy máu mũi, tích thức ăn trong dạ cỏ). Tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh

116

mạch. Liều lượng (ĐGS: 200-300 ml/con/ngày; bê, nghé: (cid:49)(cid:48)(cid:48)(cid:45)(cid:50)(cid:48)(cid:48)(cid:32)(cid:109)(cid:108)(cid:47)(cid:99)(cid:111)(cid:110)(cid:47)(cid:110)(cid:103)(cid:181)(cid:121)(cid:59)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:227)(cid:44)(cid:32)(cid:108)(cid:238)(cid:110)(cid:58)(cid:32)(cid:50)(cid:48)(cid:45)

(cid:51)(cid:48)(cid:32)(cid:109)(cid:108)(cid:47)(cid:99)(cid:111)(cid:110)(cid:47)(cid:110)(cid:103)(cid:181)(cid:121)(cid:41)(cid:46)

c. Dung dịch Glucoza ưu trương (10-40%): dùng trong trường hợp khi gia súc quá yếu,

tăng cường giải độc cho cơ thể (khi cơ thể bị trúng độc), tăng cường tiết niệu và giảm phù.

Tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều lượng tuỳ theo mục đích điều trị.

d. Dung dịch Glucoza đẳng trương (5%): dùng trong trường hợp khi cơ thể bị suy nhược

và mất nước nhiều. Tiêm dưới da hoặc tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều lượng tuỳ

theo mục đích điều trị.

e. Dung dịch Oresol: dùng trong trường hợp bệnh làm cơ thể bị mất nước và chất điện

giải. Cho uống. Liều lượng tuỳ theo mục đích điều trị.

f. Dung dịch Ringerlactat: dùng trong trường hợp bệnh làm cơ thể bị mất nước và chất

điện giải. Tiêm dưới da hoặc tiêm truyền trực tiếp vào tĩnh mạch. Liều lượng tùy theo mục

đích điều trị.

4.5.2. Phương pháp truyền dịch

Dụng cụ dùng cho truyền dịch: bộ dây truyền và chai dịch truyền.

Phương pháp truyền dịch: trước tiên cắm bộ dây truyền vào chai dịch truyền, sau đó lấy

máu ở tĩnh mạch rồi đưa dịch truyền vào cơ thể.

4.5.3. Một số chú ý trong khi truyền dịch

Dung dịch truyền phải được tuyệt đối vô trùng.

Không có bọt khí ở dây truyền dịch.

Nhiệt độ dung dịch truyền phải bằng nhiệt độ cơ thể.

Tốc độ truyền dịch tuỳ thuộc vào trạng thái cơ thể

(Nếu trạng thái cơ thể yếu thì truyền dịch với tốc độ

chậm).

Chuẩn bị các thuốc cấp cứu: Có thể dùng một trong

Hình 4.14. Truyền dịch cho ngựa

các loại thuốc sau: (Cafeinnatribenzoat 20%, Long não

nước 10%, Adrenalin 0,1%, canxi clorua 10%).

Theo dõi con vật trong khi truyền dịch và sau khi truyền dịch 30 phút.

Khi con vật có hiện tượng sốc, choáng thì ngừng truyền dịch và tiêm thuốc cấp cứu.

117

Chương 5 BỆNH Ở HỆ HÔ HẤP (Diseases of the respiratory system)

Hệ hô hấp bao gồm: Lỗ mũi, Xoang mũi, Thanh quản, Khí quản, Phổi và đảm nhiệm các

chức năng sau:

Nhiệm vụ chủ yếu của hệ hô hấp là trao đổi khí (lấy oxy từ ngoài vào cung cấp cho các

mô bào và thải khí cacbonic từ mô bào ra ngoài).

Ngoài ra hệ hô hấp còn làm nhiệm vụ điều hoà thân

nhiệt (một phần hơi nước trong cơ thể đi ra ngoài theo

đường hô hấp).

Sự sống tồn tại được là nhờ sự hoạt động nhịp nhàng

của hệ hô hấp. Hoạt động của hệ hô hấp phụ thuộc vào:

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:53)(cid:46)(cid:49)(cid:46)(cid:32)(cid:67)(cid:202)(cid:117)(cid:32)(cid:116)(cid:185)(cid:111)(cid:32)(cid:112)(cid:104)(cid:230)(cid:105)

Sự chỉ đạo của hệ thần kinh trung ương.

Cơ hoành, cơ liên sườn, cơ bụng.

Sự hô hấp của cơ thể muốn bình thường thì đòi hỏi các bộ phận của hệ hô hấp phải bình

thường. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào một số yếu tố và điều kiện khác (thần kinh chi phối

trung khu hô hấp phải bình thường, không khí phải trong sạch, máu vận chuyển trong phổi

không trở ngại, cơ quan tham gia hô hấp phải bình thường).

Nếu trong các khâu trên chỉ cần một khâu không bình thường dễ làm rối loạn quá trình

hô hấp. Sự rối loạn về hô hấp có 2 mặt:

* Rối loạn sự thở ngoài: là sự rối loạn trao đổi oxy và khí cacbonic trong các mạch quản

ở phế nang. Sự rối loạn này là do:

Rối loạn trung khu hô hấp (khi trung khu hô hấp bị tổn thương, ứ huyết, bị khối u, bị

kích thích bởi các chất độc,...).

Sự thay đổi cấu trúc của hệ hô hấp (lỗ mũi, thanh quản, khí quản bị hẹp).

Thành phần không khí thay đổi (Oxy, CO2). Ví dụ: khi hàm lượng oxy trong không khí

thiếu (cid:61614) tần số hô hấp giảm. Khi hàm lượng CO2 trong không kh? tăng (cid:61614) tần số hô hấp tăng).

Thành phần của máu thay đổi (số lượng hồng cầu thay đổi hay pH của máu thay đổi (cid:61614)

rối loạn hô hấp)

118

* Rối loạn sự thở trong: Tức là sự rối loạn trao đổi khí giữa máu và mô bào trong cơ thể.

Sự rối loạn này là do rối loạn trao đổi chất trong các mô bào, rối loạn về các tuếên nội tiết, khi

cơ thể trúng độc bởi một số hoá chất - HCl, HCN,...).

Bệnh ở hệ hô hấp thường xảy ra nhiều vào thời kỳ giá rét và chiếm khoảng 30- 40%

trong các bệnh nội khoa. Bệnh thường làm cho gia súc chậm lớn, giảm năng suất làm việc,

thậm chí còn làm cho gia súc chết.

5.1. BỆNH CHẢY MÁU MŨI (Rhinorrhagia)

5.1.1. Đặc điểm

Do mũi hay các khí quan lân cận của mũi bị tổn thương làm cho máu đi ra khỏi mạch

quản chảy ra lỗ mũi. Trong nhân y gọi là bệnh chảy máu cam.

Tuỳ theo mức độ tổn thương của các khí quan mà máu chảy ra lỗ mũi nhiều hay ít và

máu chảy ra một bên lỗ mũi hay cả hai bên lỗ mũi (hình 5.2)

5.1.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân cục bộ

Niêm mạc mũi bị tổn thương (do tác động cơ giới: thông thực không đúng kỹ thuật, cây

cỏ cứng đâm vào, hoặc do các vật nhọn, cứng đâm vào).

Do giòi, đỉa, vắt bám vào niêm mạc mũi.

Do viêm niêm mạc mũi xuất huyết.

b. Do các khí quan lân cận bị tổn thương

Phổi, họng, thanh quản bị tổn thương, xuất huyết.

c. Nguyên nhân toàn thân

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:53)(cid:46)(cid:50)(cid:46)(cid:32)(cid:67)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:182)(cid:121)(cid:32)(cid:109)(cid:184)(cid:117)(cid:32)(cid:109)(cid:242)(cid:105)

Do ứ huyết tĩnh mạch phổi (trong bệnh say nắng, cảm

nóng, suy tim,...).

Do hiện tượng tăng huyết áp (mạch quản ở mũi bị vỡ (cid:61614)

chảy máu).

d. Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm

Bệnh nhiệt thán, bệnh tỵ thư.

e. Do cơ thể bị trúng một số loại chất độc, hoá chất.

119

5.1.3. Triệu chứng

Tuỳ theo nhuyên nhân gây nên mà hiện tượng chảy máu biểu hiện khác nhau:

Nếu do tổn thương cục bộ thì máu chảy ra lỗ mũi ít và chảy ra ở một bên lỗ mũi.

Nếu do tổn thương vùng họng, khí quản, thanh quản thì máu chảy ra cả hai bên lỗ mũi.

Nếu do viêm niêm mạc mũi thì máu chảy ra có lẫn dịch nhầy.

Nếu do bệnh truyền nhiễm thì ngoài việc chảy máu mũi thì gia súc còn có triệu chứng

lâm sàng điển hình của bệnh truyền nhiễm.

Nếu do xuất huyết phổi thì máu chảy ra đỏ tươi và có lẫn bọt khí, gia súc có hiện (cid:116)(cid:173)(cid:238)(cid:110)(cid:103)

(cid:107)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:235)(cid:46)

Nếu say nắng, cảm nóng thì ngoài triệu chứng chảy máu mũi gia súc còn có hiện tượng

hoảng sợ, khó thở, niêm mạc mắt sung huyết, tĩnh mạch cổ phồng to.

5.1.4. Điều trị

a. Hộ lý

Để gia súc ở tư thế đầu cao hơn đuôi.

Dùng nước đá chườm lên vùng mũi và vùng trán.

Dùng bông thấm vào dung dịch Adrenalin 0,1% hoặc dung dịch Focmon 10% nhét vào

lỗ mũi

b. Biện pháp can thiệp

Tuỳ theo nguyên nhân gây chảy máu mà dùng biện pháp can thiệp cho phù hợp

Nếu do đỉa, giòi, vắt chui vào, dùng panh kẹp kéo ra, hoặc dùng nước oxy già nhỏ vào

mũi.

Nếu do bệnh huyết áp cao thì phải dùng thuốc hạ huyết áp.

Nếu do bệnh truyền nhiễm thì phải dùng thuốc đặc hiệu điều trị bệnh truyền nhiễm.

Nếu do viêm mũi xuất huyết thì phải điều trị bệnh viêm mũi.

Nếu do cảm nóng, say nắng thì phải trích huyết.

Ngoài ra còn dùng thuốc làm tăng tốc độ đông máu và bền vững thành mạch

Dùng thuốc làm tăng tốc độ đông máu trong cơ thể

Chó Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc

Gelatin 4% 400 ml 200 ml 30 - 50ml

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần

120

Dùng thuốc làm bền vững thành mạch

Chó Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc

Canxi clorua 10% 50 - 70 ml 10 - 20ml 5 -10 ml

Vitamin C 5% 20ml 10ml 5- 10 ml

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần

Dùng thuốc phá vỡ tiểu cầu để tăng tốc độ đông máu trong cơ thể

Chó Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc

300 - 400 ml 100 ml 20 - 30 ml Dung dịch NaCl 10%

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

5.2. BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN CATA CẤP TÍNH (Bronchitis catarrhalis acuta)

5.2.1. Đặc Điểm

Quá trình viêm có thể xảy ra trên bề mặt niêm mạc hay dưới niêm mạc của phế quản.

Khi viêm làm cho niêm mạc phế quản bị sung huyết, tiết dịch (cid:61614) niêm mạc rất mẫn cảm. Do

vậy gia súc ho nhiều. Dịch viêm đọng lại ở lòng phế quản, làm cho lòng phế quản hẹp. Do

vậy, gia súc có hiện tượng khó thở.

Tuỳ theo vị trí viêm mà có tên gọi:

Viêm phế quản lớn.

Viêm phế quản nhỏ.

Bệnh xảy ra nhiều vào thời kỳ giá rét. Gia súc non và gia súc già hay mắc.

5.2.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân nguyên phát

Do gia súc bị nhiễm lạnh.

Do chăm sóc, nuôi dưỡng gia súc kém.

Do gia súc hít phải một số khí độc (H2S, NH3, khói, khí Clo).

Do niêm mạc phế quản bị tổn thương cơ giới (khi cho gia súc uống thuốc để thuốc chảy

vào phế quản).

Do gia súc bị thiếu vitamin A.

121

Tất cả các nguyên nhân trên làm giảm sức đề kháng của cơ thể và làm cho niêm mạc phế

quản dễ bị tổn thương. Từ đó vi khuẩn từ ngoài xâm nhập vào, hoặc những vi khuẩn đã cư trú

sẵn trong hầu, họng có cơ hội phát triển và gây viêm.

b. Nguyên nhân kế phát

Do kí sinh trùng kí sinh ở phổi (giun phổi), hoặc do ấu trùng giun đũa di hành gây tổn

thương niêm mạc phế quản, dễ dẫn đến bội nhiễm và viêm.

Do kế phát từ một số bệnh: bệnh cúm, viêm hạch truyền nhiễm, lao, tụ huyết trùng,...

Do viêm lan từ một số khí quan bên cạnh (viêm thanh quản, viêm họng,...).

5.2.3. Cơ chế sinh bệnh

Những kích thích bệnh lý thông qua hệ thần kinh trung ương, tác động vào hệ thống

nội thụ cảm của đường hô hấp, làm rối loạn tuần hoàn vách phế quản, dẫn đến xung huyết

niêm mạc và viêm. Niêm mạc phế quản có thể viêm cục bộ hoặc viêm tràn lan. Dịch viêm tiết

ra nhiều (bao gồm hồng cầu, tế bào thường bì) đọng lại ở vách phế quản, kết hợp với phản

ứng viêm thường xuyên kích thích niêm mạc phế quản. Do vậy trên lâm sàng gia súc có hiện

tượng ho và chảy nước mũi nhiều.

Những sản vật độc được sinh ra trong quá trình viêm kết hợp với độc tố của vi khuẩn

thấm vào máu gây rối lọan điều hòa thân nhiệt(cid:61614) con vật sốt.

Mặt khác, một số dịch viêm đọng lại ở vách phế quản còn gây nên hiện tượng xẹp phế

nang, hoặc gây nên viêm phổi dẫn đến làm cho bệnh trở nên trầm trọng thêm.

5.2.4. Triệu chứng

a. Nếu viêm phế quản lớn

Ho là triệu chứng chủ yếu: Thời kì đầu con vật ho khan, tiếng ho ngắn, có cảm giác đau.

Sau 3-4 ngày mắc bệnh tiếng ho ướt và kéo dài (ho kéo dài từng

cơn).

Nước mũi chảy nhiều: Lúc đầu nước mũi trong về sau đặc

dần và có màu vàng, thường dính vào hai bên mé mũi (Hình

5.3)

Hình 5.3.Trâu chảy nước mũi

Nghe phổi: Thời kì đầu âm phế nang tăng. Sau 2-3 ngày

mắc bệnh, xuất hiện âm ran (lúc đầu ran khô, và sau ran ướt).

Kiểm tra đờm thấy có tế bào thượng bì, hồng cầu, bạch cầu.

Con vật không sốt hoặc sốt nhẹ, nếu sốt trong một ngày lên xuống không theo quy luật.

122

Tần số hô hấp không tăng.

b. Nếu viêm phế quản nhỏ Con vật sốt (nhiệt độ cao hơn bình thường 1-20C). Tần số hô hấp thay đổi: Con vật thở nhanh và khó, có trường hợp con vật phải thóp

bụng và lỗ mũi mở to để thở, hoặc phải há mồm ra để thở.

Nếu có hiện tượng khí phế thì sự trở ngại hô hấp càng lớn (cid:61614) kiểm tra niêm mạc mắt

thấy niêm mạc tím bầm, mạch nhanh và yếu (hình 5.4)

Ho khan, tiếng ho yếu và ngắn, sau khi ho con

vật thở khó và mệt.

Nước mũi không có hoặc ít, nước mũi đặc.

Nghe phổi có thấy âm ran ướt, đôi khi nghe thấy

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:53)(cid:46)(cid:52)(cid:46)(cid:32)(cid:66)(cid:170)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:235)

âm vò tóc. Ở những nơi phế quản bị tắc thì không nghe

thấy âm phế nang. Những vùng xung quanh nó lại

nghe thấy âm phế nang tăng.

Nếu có hiện tượng viêm lan sang phổi, gia súc có triệu chứng của bệnh phế quản phế

viêm.

Gõ vùng phổi: Nếu có hiện tượng khí phế thì âm gõ có âm bùng hơi và vùng gõ của phổi

lùi về phía sau.

5.2.5. Tiên lượng

Đối với viêm phế quản lớn tiên lượng tốt. Nếu chữa kịp thời và chăm sóc nuôi dưỡng tốt

thì sau 3-4 ngày điều trị gia súc khỏi bệnh.

Đối với viêm phế quản nhỏ thì mức độ bệnh nặng hơn. Nếu điều trị không kịp thời, gia

súc sẽ chết hoặc chuyển sang viêm mạn hay kế phát sang bệnh phế quản phế viêm.

5.2.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng điển hình như: gia súc ho nhiều, ho cÓ cảm giác đau,

chảy nhiều nước mũi, nước mũi màu vàng hay xanh, nghe phổi xuất hiện âm ran, X quang

thấy rốn phổi đậm.

Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác ở đường hô hấp:

Bệnh phế quản phế viêm: Con vật sốt cao và sốt có quy luật (sốt lên xuống theo hình

sin). Vùng gõ của phổi có nhiều vùng âm đục phân tán, gia súc kém ăn hoặc bỏ ăn hoặc, X

quang vùng phổi thấy có âm mờ rải rác. 123

Bệnh phổi xuất huyết: Bệnh phát triển nhanh, nước mũi lỏng và có màu đỏ, ho ít, nghe

phổi cũng có âm ran. Gia súc thở khó đột ngột

Bệnh phù phổi: Bệnh cũng phát triển nhanh, nước mũi lỏng và có lẫn bọt trắng, nghe

phổi cũng có âm ran, gia súc khó thở đột ngột.

5.2.7. Điều trị

a. Hộ lý

Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ và thoáng khí, kín gió về mùa đông.

Không cho gia súc ăn thức ăn bột khô.

Cho gia súc ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu hoá.

Dùng dầu nóng xoa hai bên ngực.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc giảm ho và long đờm (dùng 1 trong các thuốc sau)

Chó (g) Thuốc Đại gia súc (g) Tiểu gia súc (g) Lợn (g)

Chlorua amon 8-10 5-8 1-2 0,5-1

Natricarbonat 8-10 5-8 1-2 0,5-1

Codein - phosphat 10-15 5-10 1-2 0,03-0,05

Hoà với nước sạch cho uống ngày 1 lần

Nếu gia súc sốt cao, dùng kháng sinh

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực và nâng cao sức đề kháng: (Cafeinnatribenzoat 20%; vitamin

B1; vitamin C).

5.3. BỆNH VIÊM PHẾ QUẢN PHỔI (Broncho pneumonia catarrhalis)

5.3.1. Đặc điểm

Bệnh còn có tên gọi là phế quản phế viêm hay viêm phổi đốm.

Quá trình viêm xảy ra trên vách phế quản và từng tiểu thuỳ phổi. Trong phế nang chứa

dịch thẩm xuất (gồm: bạch cầu, hồng cầu, tế bào thượng bì, niêm dịch).

Bệnh thường xảy ra vào thời kỳ giá rét, gia súc non và gia súc già hay mắc. Nếu điều trị

không kịp thời, bệnh dễ chuyển sang viêm phổi hoại thư.

124

5.3.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân nguyên phát

Do chăm sóc, nuôi dưỡng gia súc kém (cid:61614) làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm. Do

vậy, khi bị nhiễm lạnh gia súc dễ bị mắc bệnh.

Do phổi bị kích thích bởi một số khí độc, hơi nóng, bụi làm tổn thương niêm mạc phế

quản (cid:61614) nhiễm khuẩn và viêm

Do phổi bị tổn thương cơ giới (cho gia súc uống nước, thuốc sặc vào khí quản) (cid:61614) nhiễm

khuẩn và viêm.

b. Nguyên nhân kế phát

Do kế phát từ một số bệnh khác (bệnh cúm, lao, viêm màng mũi thối loét, giun phổi hay

do di hành của ấu trùng giun đũa, bệnh tim, ứ huyết phổi).

Do quá trình viêm lan: Vi khuẩn từ nơi viêm ở một số khí quản trong cơ thể vào máu và

đến phổi gây bệnh (viêm tử cung hoá mủ, viêm vú, viêm dạ dày và ruột,...).

5.3.3. Cơ chế sinh bệnh

Tất cả các kích thích bệnh lý thông qua phản xạ thần kinh trung ương tác động vào phế

nang và phế quản, làm cho vách phế nang và một số tiểu thuỳ phổi bị sung huyết, sau đó tiết

dịch, dịch đọng lại ở các phế quản nhỏ và phế nang và gây viêm. Khi dịch viêm bị phân hủy

tạo ra những sản vật độc, những sản vật độc này cùng với độc tố vi khuẩn vào máu và gây rối

lọan điều hòa thân nhiệt. Do vậy, con vật sốt cao.

Do quá trình hô hấp của gia súc đã làm cho dịch viêm ở phế quản và phế nang bị viêm

lan sang phế quản và phế nang bên cạnh chưa bị viêm. Trong thời gian dịch viêm lan truyền

thì cơ thể không sốt, nhưng khi dịch viêm đọng lại và gây viêm thì cơ thể lại sốt. Do hiện

tượng viêm lan từng tiểu thuỳ ở phổi đã làm cho cơ thể sốt lên xuống theo hình sine.

Nếu quá trình viêm lan rộng ở phổi, làm giảm diện tích hô hấp của phổi (cid:61614) gia súc

có hiện tượng thở khó hoặc ngạt thở chết. Mặt khác do gia súc sốt cao và kéo dài làm

cho quá trình phân huỷ protit, lipit, gluxit tăng trong cơ thể tăng, hơn nữa do thiếu oxy

mô bào, làm tăng sản vật độc cho cơ thể (cid:61614) gia súc bị nhiễm độc chết.

5.3.4. Triệu chứng

Con vật sốt cao (nhiệt độ tăng hơn bình thường từ 1-20C) và sốt lên xuống theo hình sin,

ủ rũ, mệt mỏi, kém ăn hoặc không ăn.

125

Thời kỳ đầu con vật ho khan và ngắn. Sau đó tiếng ho ướt và dài, con vật có biểu hiện

đau vùng ngực.

Nước mũi ít, đặc có màu xanh và thường dính vào hai bên lỗ

mũi. Nếu viêm phổi hoại thư, nước mũi như mủ và có mùi thối

(hình 5.5).

Con vật khó thở, tần số hô hấp tăng. Niêm mạc mắt tím bầm.

Lúc đầu tim đập nhanh sau đó yếu dần.

Hình 5.5. Nước mũi đặc

Gõ vào vùng phổi: gia súc có cảm giác đau và có phản xạ ho;

vùng âm đục của phổi phân tán, xung quanh vùng âm đục là âm bùng hơi.

Nghe vùng phổi: thấy âm phế quản bệnh lý, âm ran ướt (ở thời kì đầu), âm ran khô, âm

vò tóc (ở thời kì cuối). Nếu vùng phổi bị gan hoá thậm chí không nghe được âm phế nang,

nhưng xung quanh vùng gan hoá âm phế nang tăng.

X quang phổi: Có vùng mờ rải rác trên mặt phổi, nhánh phế quản đậm., xét nghiệm

Xét nghiệm máu: Bạch cầu trung tính non tăng, bạch cầu ái toan và đơn nhân giảm

Xét nghiệm nước tiểu: xuất hiện protein.

5.3.5. Bệnh tích

Hạch lâm ba dọc phế quản bị sưng.

Trên mặt phổi viêm có màu sắc khác nhau (nơi mới viêm có

màu đỏ thẫm, nhưng nơi viêm có có màu vàng hoặc trắng xám,

thậm chí còn có thể thấy các ổ mủ, hoặc bị gan hóa) (hình 5.6).

Hình 5.6.Viêm phế quản phổi

Có hiện tượng xẹp phổi hay khí phế từng vùng.

5.3.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào triệu chứng: sốt lên xuống theo hình sin, vùng phổi có âm đục phân tán, X

quang vùng phổi thấy có vùng mờ rải rác, con vật khó thở.

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh: Viêm phế quản cata cấp tính, Thuỳ phế viêm,

viêm phế mạc.

5.3.7. Tiên lượng

Tuỳ theo tính chất của bệnh và sức đề kháng của gia súc, bệnh có thể kéo dài trong 1-2

tuần và thường chuyển sang thể mạn tính. Nếu bệnh nặng, khoảng 8 -10 ngày con vật chết.

126

5.3.8. Điều trị

a. Hộ lý

Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ, thoáng khí, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bổ sung

thêm vitamin A, protein và gluxit vào khẩu phần ăn thức ăn.

Đối với loài nhai lại (nếu con vật yếu và nằm) nên làm giá đỡ, hoặc thường xuyên trở

mình cho con vật.

Dùng dầu nóng xoa vào vùng ngực.

b. Dùng thuốc điều trị Dùng thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn: có thể dùng một trong các kháng sinh Penicillin + Streptomycin Gentamycin Lincosin

Genta-tylo Pneumotic Tiamulin

Ampicilin Kanamycin Cephacilin

Dùng thuốc trợ lực, trợ sức, nâng cao sức đề kháng, giảm dịch thẩm xuất và tăng cường

giải độc của cơ thể

Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml) Chó, lợn (ml)

Glucoza 20% 1000 - 2000 500 - 1 100 - 150

Cafein natribenzoat 20% 10 - 15 5 - 10 1 - 3

Canxi clorua 10% 50 - 70 20 - 30 5 - 10

Urotropin 10% 50 - 70 30 - 50 10 - 15

Vitamin C 5% 20 10 5 - 10

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần

Dùng thuốc điều trị ho long đờm: Đại gia súc và tiểu gia súc (dùng Chlorua amon hay

Bicarbonatnatri, hoặc bột rễ cây cam thảo. Đối với chó (dùng Codein - phosphat hoặc Tecpin

- codein)

Dùng vitamin nhóm B để kích thích tiêu hoá.

Dùng thuốc giảm viêm và giảm kích ứng vách niêm mạc phế quản (dùng Dexamethazol

hoặc Prednisolon)

Chú ý: Đối với đại gia súc và tiểu gia súc có thể dùng dung dịch Novocain 0,5% phong

bế hạch sao hay hạch cổ dưới, cách ngày phong bế 1 lần.

127

5.4. BỆNH VIÊM PHỔI THUỲ (Pneumonia crouposa)

5.4.1. Đặc điểm

Bệnh còn có tên gọi là thùy phế viêm. Đây là một thể viêm cấp tính, quá trình viêm xảy

ra nhanh trên thuỳ lớn của phổi và tiến triển qua 3 giai đoạn (giai đoạn sung huyết tiết dịch ;

giai đoạn gan hoá; giai đoạn hồi phục)

Trong dịch viêm còn có nhiều fibrin và thường đông đặc lại ở phế quản và phế nang (cid:61614)

phổi bị xơ hóa.

Bệnh phát ra đột ngột, tiến triển mạnh nhưng cũng lui rất nhanh. Bệnh xảy ra nhiều vào

thời kỳ giá rét. Lợn và ngựa hay mắc.

Trong nhân y, bệnh được gọi là phế viêm cấp.

5.4.2. Nguyên nhân

Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung có hai quan điểm:

Quan điểm 1: Theo quan điểm này cho rằng: đây là kết quả của bệnh truyền nhiễm.Vì

bệnh được phát hiện trên một số gia súc mắc bệnh truyền nhiễm (bệnh viêm phế mạc truyền

nhiễm ở ngựa, bệnh sốt phát ban hay viêm hạch truyền nhiễm, bệnh tụ huyết trùng trâu bò,

bệnh dịch tả lợn).

Quan điểm 2: Theo quan điểm này cho rằng: Đây hoàn toàn không là bệnh truyền nhiễm.

Vì bệnh xảy ra do điều kiện ngoại cảnh bất lợi đưa tới (như khi gia súc bị cảm, nhiễm lạnh đột

ngột, hít phải một số khí độc, làm việc quá sức,...). Do vậy, đây là một bệnh nội khoa.

Nhưng quan điểm chung hiện nay là không nên tách riêng hai quan điểm trên với nhau.

Vì dựa vào cơ sở lý luận của học thuyết Pavlop thì ngoại cảnh thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp

tới sự rối loạn về thần kinh của con vật, sức đề kháng của con vật giảm sút sẽ tạo điều kiện

cho những yếu tố sinh vật gây nên bệnh.

5.4.3. Cơ chế sinh bệnh

Mọi kích thích bệnh lý tác động vào nhu mô phổi gây viêm phế quản nhỏ và tổ chức mềm

của phổi, quá trình viêm này lan rộng rất nhanh và thường tiến triển qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn sung huyết, tiết dịch:

Thời kì này rất ngắn (thường kéo dài từ 12 giờ đến 24 giờ). Các mao quản của phổi phồng to lên,

trong chứa đầy máu và huyết tương, sau đó thấm qua vách mao quản đi vào các phế nang (cid:61614) làm cho

128

phổi sưng to, màu đỏ thẫm, trên mặt phổi có những điểm xuất huyết, khi dùng dao cắt ra thì thấy máu

chảy ra lẫn với bọt khí.

Giai đoạn gan hoá (hình.5.7)

Giai đoạn này kéo dài từ 4-5 ngày. Do dịch viêm có

fibrin cho nên làm dịch viêm đông lại (cid:61614) làm cho phổi cứng

như gan. Thời kì này còn chia làm hai giai đoạn nhỏ:

Giai đoạn gan hoá đỏ: xảy ra 1-2 ngày đầu, trong phế

nang chứa đầy fibrin, hồng cầu, tế bào thượng bì (cid:61614) phổi cứng

Hình. 5.7. Phổi bị gan hoá

như gan và có màu đỏ thẫm. Khi cắt phổi bỏ xuống nước thấy

phổi chìm.

Giai đoạn gan hoá xám: Giai đoạn này phát triển trong 2-3 ngày. Trong phế nang chủ

yếu là bạch cầu, fibrin. Nhưng ở thời kì này bắt đầu có sự thoái hoá mỡ của dịch viêm (cid:61614) phổi

bớt cứng. Khi cắt phổi ấn tay vào thấy có một ít nước màu vàng xám.

Giai đoạn tiêu tan: Thời kì này kéo dài 2-3 ngày

Do chất men phân giải protein của bạch cầu tiết ra phân giải protein làm cho dịch thẩm xuất

lỏng ra và một phần theo đờm ra ngoài, còn phần lớn vào máu và được bài tiết ra ngoài theo đường

tiết niệu(cid:61614) phế nang dần dần được hồi phục, lớp tế bào thượng bì ở vách phế nang tái sinh, phế

nang dần dần chứa không khí, phổi dần dần trở lại bình thường.

Trong quá trình phát triển của bệnh do tác động của độc tố Virut hay vi khuẩn cùng với

chất độc được sinh ra do phân giải dịch viêm ngấm vào máu, làm cho gia súc sốt cao (cid:61614) gia

súc mệt mỏi. Mặt khác do phổi bị mất cơ năng hô hấp (cid:61614) gia súc khó thở, thậm trí ngạt thở

chết.

5.4.4. Triệu chứng

Bệnh xảy ra đột ngột (đột nhiên gia súc sốt cao 41 - 42OC, sốt cao kéo dài liên miên từ 6- 9 ngày, sau đó nhiệt độ hạ dần) cũng có những trường hợp nhiệt độ hạ xuống đột ngột xuống

ngay mức bình thường. Gia súc mệt mỏi, ủ rũ, kém ăn hoặc không ăn, run rẩy. Niêm mạc

sung huyết hay hoàng đản.

Con vật ho ít, ho ngắn, khi ho gia súc có cảm giác đau. Nước mũi ít, màu đỏ hay màu gỉ

sắt. Hiện tượng khó thở xuất hiện rõ rệt, có trường hợp ngồi thở như kiểu chó ngồi.

Khi gõ vùng phổi: âm biến đổi theo từng giai đoạn:

Giai đoạn sung huyết: vùng phổi có âm trống.

Giai đoạn gan hoá: vùng phổi có âm đục tập trung. 129

Giai đoạn tiêu tan: Từ âm bùng hơi (cid:61614) âm phổi bình thường.

Nghe phổi: âm biến đổi tuỳ theo giai đoạn bệnh.

Giai đoạn sung huyết: thấy âm phế nang thô và mạnh, âm ran ướt, âm lép bép.

Giai đoạn gan hoá: có vùng âm phế nang mất xen kẽ với vùng âm phế nang tăng.

Giai đoạn tiêu tan: Xuất hiện âm ran rồi đến âm phế nang xuất hiện và sau đó trở lại bình

thường.

Nghe tim: Tim đập mạnh, âm thứ hai tăng, đập nhanh (nhất là vào thời kỳ tiêu tan). Nếu

kế phát hiện tượng viêm cơ tim thì thấy tim loạn nhịp, huyết áp giảm.

Xét nghiệm:

Lấy nước tiểu kiểm tra tỷ trọng thấy: ở thời kỳ gan hoá nước tiểu giảm, tỷ trọng nước

tiểu tăng. ở thời kỳ tiêu tan lượng nước tiểu nhiều, tỷ trọng nước tiểu giảm.

Lấy nước tiểu kiểm tra albumin trong nước tiểu cho kết quả dương tính (+).

Lấy máu kiểm tra số lượng bạch cầu thấy:

Bạch cầu tăng cao. Làm công thức bạch cầu thấy (bạch cầu trung tính có hiện tượng

nghiêng tả, lượng ái cầu và bạch cầu hình gậy tăng, lâm ba cầu, bạch cầu ái toan và bạch cầu

đơn nhân giảm).

Số lượng hồng cầu giảm.

X quang vùng phổi thấy vùng sáng rất to trên thùy phổi.

5.4.5. Tiên lượng

Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh dễ hồi phục, tiên lượng tốt.

5.4.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào giai đoạn bệnh phát triển rõ rệt, gia súc sốt liên miên, nước mũi màu hồng

hay màu gỉ sắt, bệnh phát triển nhanh, vùng âm đục của phổi rất lớn. X quang phổi thấy vùng

phổi đen lớn.

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh (viêm phế quản phổi, viêm màng phổi, viêm phế

quản cata cấp).

5.4.7. Điều trị

a. Hộ lý

Tách gia súc bệnh ra khỏi đàn. Giữ ấm cho gia súc, chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát.

130

Cho gia súc ăn thức ăn có nhiều vitamin, thức ăn dễ tiêu và giàu dinh dưỡng. Nếu gia súc

không ăn phải dùng nước cháo pha đường thụt vào dạ dày qua ống thực quản.

Xoa dầu nóng vào thành ngực gia súc.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc kháng sinh diệt khuẩn

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, giảm dịch thẩm xuất, tăng cường giải độc cho cơ thể.

Chó (ml) Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc (ml)

1000 - 2000 500 - 1000 100 - 150 Dung dịch Glucoza 20%

5 - 10 1 - 5 Cafein natribenzoat 20% 10 - 15

30 - 40 5 -10 Canxi clorua 10% 50 - 70

30 - 50 15 - 20 Urotropin 10% 50 - 70

10 3 - 5 Vitamin C 5% 20

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Dùng thuốc tăng cường lợi tiểu, sát trùng đường niệu: có thể dùng một trong những

thuốc sau: Diuretin, Theophylin, Theobronin.

Bổ sung các loại vitamin B, C, PP, A

5.5. BỆNH VIÊM MÀNG PHỔI (Pleuritis)

5.5.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc của mặt phổi hay trên vách ngực, viêm tiết ra nhiều

dịch thẩm xuất và fibrin. Nếu lượng fibrin nhiều thì sẽ gây ra hiện tượng viêm dính giữa màng

phổi và vách ngực. Vì vậy, khi nghe phổi thấy có tiếng cọ màng phổi. Nếu lượng dịch thẩm

xuất tiết ra nhiều, dịch đọng lại trong xoang ngực (trên thực tế thấy có thể tới 8-15 lít). Vì

vậy, khi nghe phổi thấy có tiếng vỗ nước.

Quá trình viêm gây trở ngại lớn đến quá trình hô hấp của cơ thể. Do vậy, trên lâm sàng

thấy gia súc khó thở, thường hóp bụng để thở.

Tùy theo tính chất viêm và thời gian viêm người ta chia ra: Viêm cấp tính, viêm mạn

tính, viêm dính, viêm tràn tương dịch

Ngựa hay mắc, tỷ lệ chết cao.

131

5.5.2. Nguyên nhân

Do tác động cơ giới, hoá học, nhiệt độ (Tất cả các y?u tố trên làm tổn thuơng màng phổi,

tạo điều kiện thuận lợi cho vi trùng sinh mủ và một số loại vi trùng khác xâm nhập vào màng

phổi và gây bệnh).

Do viêm lan từ các ổ viêm khác trong cơ thể (do viêm phổi hoại thư và hoá mủ, viêm

phế quản, viêm ngoại tâm mạc, viêm hoành cách mạc, thuỳ phế viêm. Những vi khuẩn từ các

ổ viêm này vào máu sau đó đến màng phổi gây viêm).

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh tỵ thư ở ngựa, bệnh viêm kết mạc truyền

nhiễm,...).

5.5.3. Cơ chế sinh bệnh

Các kích thích bệnh lý thông qua thần kinh trung ương gây viêm phế mạc. Trong thời kì

đầu niêm mạc bị sung huyết, mao quản phồng to, tế bào nội bì bị thoái hoá và bong ra, sau đó

dịch thẩm xuất tiết ra trong có chứa fibrin. Những tương dịch được vách ngực hấp thu dần,

chỉ còn lại fibrin bám vào vách ngực gây nên thể viêm dính. Do vậy, khi nghe phổi thấy có

tiếng cọ màng phổi. Nếu trong dịch viêm chứa nhiều tương dịch, ít Fibrin và tương dịch

không được hấp thu hết, tích lại trong xoang ngực, tạo nên thể viêm tích nước trong xoang

ngực. Trên lâm sàng khi nghe phổi có tiếng vỗ nước.

Tất cả các trường hợp trên đều làm trở ngại quá trình hô hấp của phổi (cid:61614) Trên lâm sàng

ta thấy gia súc khó thở.

Độc tố của vi khuẩn cùng với các sản vật độc do sự phân giải protit ở nơi viêm đi vào

máu và tác động đến trung khu điều tiết nhiệt của cơ thể làm cho gia súc sốt cao.

Hệ thống nội cảm thụ ở nơi viêm luôn bị kích thích, làm cho con vật đau, con vật phải

thở nông và thở thể bụng.

Khi dịch thẩm xuất tiết ra nhiều, nó chèn ép lên phổi, gây nên trạng thái xẹp phổi (cid:61614) con

vật thở rất khó. Mặt khác dịch viêm tiết ra nhiều nó còn chèn ép tim làm cho tim co bóp bị trở

ngại (cid:61614) ảnh hưởng đến huyết áp, tim đập nhanh.

5.5.4. Triệu chứng

Con vật mệt mỏi, kém ăn hoặc bỏ ăn, sốt cao, sốt lên xuống không theo quy luật. Nếu

viêm hoá mủ thì gia súc sốt rất cao.

Gia súc bị đau ngực (biểu hiện thở nông và thở thể bụng, khi sờ nắn vùng ngực gia súc

né tránh). Khi mới viêm, gia súc nằm thường để vùng ngực viêm lên phía trên, nhưng khi dịch

viêm tiết ra nhiều, gia súc lại thích nằm về phía bị viêm.

132

Gõ vùng ngực gia súc có cảm giác đau và có phản xạ ho. Nếu dịch viêm tích lại nhiều

trong xoang ngực thì có vùng âm đục song song với mặt đất. Nếu có hiện tượng viêm dính

phổi với vách ngực thì khi gia súc đứng hay nằm, vùng âm đục không thay đổi vị trí.

Nghe phổi: nếu có hiện tượng viêm dính, nghe phổi thấy

có tiếng cọ màng phổi (hình 5.8). Nếu trong xoang ngực chứa

nhiều dịch thẩm xuất, nghe phổi thấy âm bơi.

Nghe tim thấy tim đập nhanh và yếu, thậm chí thấy tiếng

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:53)(cid:46)(cid:56)(cid:46)(cid:32)(cid:77)(cid:181)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:112)(cid:104)(cid:230)(cid:105)(cid:32)(cid:100)(cid:221)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:118)(cid:237)(cid:105)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:181)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:103)(cid:249)(cid:99)

tim mơ hồ. Giai đoạn cuối của bệnh xuất hiện phù ở yếm, bụng,

ngực (do cơ năng tim bị trở ngại).

Xét nghiệm máu:

Tốc độ lắng của hồng cầu tăng

Độ dự trữ kiềm giảm

Bạch cầu trung tính non tăng

Lấy nước tiểu xét nghiệm: giai đoạn đầu của bệnh lượng nước tiểu giảm, tỷ trọng nước

tiểu tăng, lượng Clo trong nước tiểu giảm. Nếu bệnh nặng còn có hiện tượng Albumin niệu.

X quang phổi:

Có vùng mờ song song với mặt đất (nếu viêm tích nước).

Có vùng mờ rải rác trên phổi và xù xì (nếu viêm dính).

5.5.5. Chẩn đoán

Căn cứ vào triệu chứng điển hình: Sốt cao không theo quy luật. Đau vùng ngực, thở nông

và thở thể bụng. Có âm bơi (khi xoang ngực tích nước), chọc dò xoang ngực có dịch thẩm

xuất chảy ra (màu vàng hay hồng). Có tiếng cọ màng phổi (khi viêm dính). X quang phổi thấy

vùng mờ di động song song với mặt đất hay mờ và xù xì.

Ngoài ra còn phải chẩn đoán với các bệnh sau

Viêm ngoại tâm mạc: Tiếng cọ tâm mạc cùng một lúc với nhịp đập của tim, vùng âm đục

của tim mở rộng, gia súc hay bị phù trước ngực, tĩnh mạch cổ phồng to.

Thuỳ phế viêm: Gia súc sốt liên miên (6-9 ngày) vùng âm đục của phổi theo hình cánh

cung, bệnh thường chia ra từng thời kì rõ rệt, nước mũi có màu gỉ sắt, thở thể bụng thể hiện

không rõ.

133

Phù màng phổi: Gia súc không sốt, không đau vùng ngực, dịch trong xoang ngực là dịch

thẩm lậu, phản ứng rivalta (-),chủ yếu là âm bơi (khi nghe phổi).

5.5.6. Điều trị

a. Hộ lý

Để gia súc nghỉ ở nơi thoáng mát, mùa đông để ở nơi ấm áp. Cho ăn thức ăn dễ tiêu, giàu

dinh dưỡng, hạn chế uống nước.

Dùng dầu nóng xoa vào thành ngực. Nếu có điều kiện dùng đèn tử ngoại, điện thấu nhiệt

tác động vào thành ngực.

Dùng protein liệu pháp hay huyết liệu pháp.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng kháng sinh có hoạt phổ rộng

Dùng thuốc làm giảm dịch thẩm xuất, giải độc, lợi tiểu, trợ sức

Thuốc Đại gia súc (ml) Tiểu gia súc Chó -Lợn

(ml) (ml)

1 - 2 200 - 300 Dung dịch glucoza 20% 500 – 1000

10 - 15 5 - 10 1 - 5 Cafein natribenzoat

20%

Canxi clorua 10% 50 - 70 30 - 40 5 -10

Urotropin 10% 50 - 70 30- 50 15 - 20

Vitamin C 5% 20 10 5

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lầnT

Dùng thuốc để xúc tiến dịch viêm ra khỏi xoang ngực

Chó Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc

Natri sulfat 200 - 300g 100 - 200g 5 - 10g

2 lít 1 lít 0, 5 lí t Nước sạch

Hoà tan cho uống 1 lần, cách 3 ngày uống một lần

Dùng thuốc để kích thích tiêu hoá và trợ sức, trợ (cid:108)(cid:249)(cid:99)

134

Chọc dò xoang ngực để rút bớt dịch: (trong trường hợp xoang ngực chứa nhiều dịch

viêm) sau đó dùng dịch sát trùng rửa xoang ngực. Cuối cùng dùng dung dịch kháng sinh bơm

vào xoang ngực.

5.6. BỆNH VIÊM PHỔI CỦA GIA SÚC NON (Pneumonia of the suckling animal)

5.6.1. Đặc điểm

Bệnh viêm phổi của gia súc non thường ở dạng phế quản phế viêm hoặc thuỳ phế viêm.

Bệnh tiến triển nhanh và gia súc chết nhanh (gia súc thường chết sau 3 ngày mắc bệnh).

5.6.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân nguyên phát

Chủ yếu do nuôi dưỡng và chăm sóc kém, dẫn đến sức đề kháng của gia súc non giảm, vi

trùng dễ xâm nhập vào cơ thể gây bệnh.

b. Nguyên nhân kế phát

Do kế phát từ các bệnh truyền nhiễm (dịch tả, phó thương hàn, tụ huyết trùng).

Do kế phát từ bệnh nội khoa (viêm dạ dày, viêm ruột).

Do kế phát từ bệnh kí sinh trùng (giun phổi, ấu trùng giun đũa di hành).

5.6.3. Cơ chế sinh bệnh

Cơ thể gia súc non thích ứng với ngoại cảnh kém, nếu điều kiện chăn nuôi và chăm sóc

không tốt sẽ làm cho sức đề kháng của cơ thể kém. Khi đó các vi trùng gây bệnh từ ngoài

không khí vào cơ thể hoặc các vi sinh vật ký sinh sẵn trong đường hô hấp phát triển, gây

thành quá trình bệnh lý.

Do tác động của vi khuẩn, gia súc non sốt, cơ thể mất nước, mất muối, đồng thời do sốt

cao quá trình phân giải protit trong cơ thể tăng làm độ pH của máu gia súc giảm, gia súc dễ bị

nhiễm độc toan. Mặt khác các chất phân giải trong cơ thể cùng với các độc tố của vi khuẩn sẽ

gây rối loạn tuần hòan ở phổi gây ra xung huyết phổi và viêm phổi. Khi viêm phổi, cơ thể

thiếu oxy làm tim đập nhanh và mạnh nên dẫn tới suy tim. Do sốt làm cơ năng tiết dịch và vận

động của ruột giảm làm gia súc kém ăn, bỏ ăn. Trong nước tiểu xuất hiện albumin niệu.

Cuối kỳ bệnh, gia súc thường bị bại huyết, cơ năng điều tiết của thần kinh trung khu

giảm sút. Cuối cùng trung khu hô hấp và tuần hoàn bị tê liệt làm cho gia súc chết.

135

5.6.4. Triệu chứng

a. Thể cấp tính

Gặp ở những gia súc vài tuần tuổi, gia súc sốt cao (410C), uể oải, thích nằm, giảm ăn, mũi khô, đầu gục sát đất, lông xù

và ho. Con vật thở gấp, thở nông (hình 5.9), có nước mũi chảy

ra ở hai bên lỗ mũi, nước mũi có thể loãng hay đặc. Khi bị

chứng bại huyết toàn thân run rẩy, niêm mạc mắt, mũi, miệng

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:53)(cid:46)(cid:57)(cid:46)(cid:32)(cid:67)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:235)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:227)

lấm tấm xuất huyết. Tim đập nhanh, mạnh yếu dần. Nếu kế

phát viêm ruột gia súc ỉa phân thối khắm lẫn chất nhày.

Gõ vùng phổi thấy xuất hiện vùng âm đục, nghe thấy âm phế quản bệnh lý, tiếng ran,

tiếng vò tóc.

Kiểm tra X quang thấy vùng phổi đậm ở thuỳ đỉnh và thuỳ tim. Kiểm tra máu, số lượng

bạch cầu tăng, độ dự trữ kiềm giảm, cuối kỳ bệnh lượng hồng cầu và huyết sắc tố giảm.

b. Thể mạn tính

Gặp ở gia súc đã lớn. Con vật sốt nhẹ, thỉnh thoảng ho, gõ phổi không thấy xuất hiện

vùng âm đục, nghe phổi có khi thấy tiếng ran. Gia súc chậm lớn, ngày một gầy dần.

5.6.5. Bệnh tích

Bệnh tích viêm phổi thuộc thể phế quản phế viêm, thuỳ phế viêm hay hỗn hợp của hai

thể. Bệnh thường biểu hiện nhiều ở thuỳ tim, thuỳ đỉnh và thuỳ đáy của phổi, có khi phổi bị

dính vào lồng ngực.

Trong nhiều trường hợp gia súc còn bị viêm ruột, các hạch lâm ba sưng và xuất huyết.

5.6.6. Tiên lượng

Nếu bệnh kéo dài 3-5 ngày không khỏi thì gia súc khó khỏi bệnh, thường bị chết.

Bệnh ở thể mạn tính kéo dài hàng tuần, hàng tháng.

Nếu viêm phổi chuyển sang dạng bại huyết, kế phát viêm ruột và viêm phổi hoá mủ thì

rất khó chữa.

5.6.7. Điều trị

a. Hộ lý

Cho gia súc ở nơi ấm áp, thoáng khí, tránh lạnh và ẩm. Dùng dầu nóng xoa vào ngực.

136

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng kháng sinh điều trị: Dùng một trong các loại kháng sinh (Penicillin 10000- 15000

UI/kg/lần. Tiêm bắp ngày 2 lần, liên tục 3-5 ngày; Ampicillin. Tiêm bắp 10 mg /kg/ngày, liên

tục 3-5 ngày; Kanamycin tiêm bắp 10-15 mg/kg/ngày liên tục 3-5 ngày; Gentamycin tiêm bắp

10 mg /kg/ngày, liên tục 2-5 ngày; Genta- tylo, Cephaxilin, Erythromyxin,...)

Dùng thuốc giảm sốt: Anagin: 10%.

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường sức đề kháng và giải độc

Thuốc

Glucoza 20% Cafein natribenzoat 20% Canxi clorua 10% Urotropin 10% Vitamin C 5% Bê, nghé 300 - 400 ml 5 - 10 ml 30- 40 ml 30 - 50 ml 10 ml Chó, lợn 100 - 150 ml 1 - 3 ml 5-10 ml 10 - 15 ml 3 - 5 ml

Chương 6

BỆNH Ở HỆ TIÊU HOÁ

Bệnh ở hệ tiêu hoá là bệnh thường xảy ra đối với mọi loài gia súc, nó chiếm tỷ lệ 33-

53% trong các bệnh nội khoa. Địa dư nước ta thuộc vùng nhiệt đới, khí hậu thay đổi bất

thường, trình độ, kỹ thuật chăn nuôi gia súc còn thấp kém nên hàng năm số gia súc chết về

bệnh đường tiêu hoá rất nhiều, đặc biệt là hội chứng tiêu chảy ở gia súc và bệnh lợn con phân

trắng. Do đó, bệnh về hệ tiêu hoá là một loại bệnh mà những người làm công tác nội khoa

phải đặc biêt chú ý.

Những nguyên nhân gây nên bệnh đường tiêu hoá có nhiều mặt, song có thể tóm tắt

những nguyên nhân chính sau:

Nguyên nhân nguyên phát: Chủ yếu do chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc gia súc kém; cho

gia súc ăn những thức ăn kém phẩm chất (Mốc, thối, ít dinh dưỡng, có lẫn tạp chất, chất

độc,...). Thay đổi thức ăn cho gia súc đột ngột, do làm việc quá sức hoặc do chuồng trại thiếu

vệ sinh.

Nguyên nhân kế phát: Thường là hậu quả của những bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả

lợn, lao, phó thương hàn,...) hoặc các bệnh kí sinh trùng (giun đũa, sán lá gan, tiên mao

trùng,...) hoặc do một số bệnh của các cơ quan trong cơ thể (hô hấp, tuần hoàn, thần kinh,

bệnh của răng miệng,...).

137

Trong các loài gia súc khác nhau, mỗi loài có những đặc điểm riêng về giải phẫu và sinh

lý. Chính vì vậy, bệnh ở đường tiêu hoá của mỗi loài cũng có những điểm riêng biệt. Ví dụ: ở

ngựa có dạ dày đơn và nhỏ hơn so với cơ thể nên hay mắc chứng bội thực, loài nhai lại có dạ

dày 4 túi, trong quá trình lên men sinh hơi trong dạ cỏ làm cho chúng dễ bị chướng hơi dạ

cỏ,...

Trong hàng loạt các bệnh của hệ tiêu hoá, trên thực tế gia súc non và gia súc già có tỷ lệ

mắc cao hơn. ở gia súc non do sự phát triển của cơ thể chưa hoàn thiện, sự thích ứng với

ngoại cảnh kém, còn gia súc già nói chung sức đề kháng của cơ thể giảm sút nên dễ mắc bệnh.

Ngoài ra còn phải xét đến loại hình thần kinh và đặc điểm của từng cơ thể con vật cũng ảnh

hưởng trực tiếp đến quá trình mắc bệnh.

Bệnh ở đường tiêu hoá rất phức tạp và đa dạng song thường biểu hiện ở 2 mặt đó là sự

rối loạn về tiết dịch và vận động của các bộ phận thuộc đường tiêu hoá.

6.1. BỆNH VIÊM MIỆNG (Stomatitis)

Viêm miệng là bệnh mà gia súc hay mắc, tuỳ theo tính chất viêm mà chia ra: Viêm cata,

viêm nổi mụn nước, mụn mủ, viêm màng giả, viêm hoại tử. Trong lâm sàng người ta thấy 3

thể viêm (viêm miệng thể cata; viêm nổi mụn nước; viêm miệng lở loét). Trong đó thể viêm

miệng cata hay xảy ra.

6.1.2. Bệnh viêm miệng ca ta (Stomatitis catarrhalis)

a. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc của vùng miệng. Trong quá trình viêm nước rãi

chảy nhiều và làm ảnh hưởng tới việc lấy thức ăn, nước uống và nhai thức ăn.

b. Nguyên nhân

Nguyên nhân nguyên phát

Do niêm mạc miệng bị kích thích của các tác động cơ giới (thức ăn cứng, răng mọc

chồi,...kích thích niêm mạc miệng (cid:61614) gây viêm.

Do kích thích về nhiệt (đồ ăn, nước uống quá nóng,...)

Do những tác động về hoá chất (các loại chất độc lẫn vào thức ăn gây nên, hoặc dùng

một số hóa chất có tính kích thích mạnh trong điều trị)

Nguyên nhân kế phát

138

Do viêm lan từ các khí quan khác trong cơ thể, vi khuẩn vào máu rồi đến miệng gây

viêm.

Hậu quả của các bệnh toàn thân: (như thiếu vitamin A, C, thiếu máu).

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (như: Sốt lở mồm long móng, dịch tả trâu bò,

dịch tả lợn, bệnh đậu, viêm màng mũi thối loét).

c. Triệu chứng

* Thể cấp tính

Con vật luôn chảy nhiều nước rãi (hình 6.1). Niêm mạc miệng khô, đỏ đều hay lấm tấm

đỏ, con vật lấy thức ăn chậm chạp, nhai khó khăn. Trong miệng gia súc nóng, đau, có khi

sưng vòm khẩu cái (ngựa). Nhìn trên niêm mạc ngoài hiện tượng đỏ còn thấy vết sây sát.

Lưỡi có màu xám trắng, nếu bệnh nặng lưỡi sưng to, đau đớn, nếu viêm chân răng thì

thấy chân răng đỏ, có khi có mủ.

* Thể mạn tính

Triệu chứng giống thể cấp tính nhưng kéo dài, gia súc

ăn kém và ngày càng gầy dần, niêm mạc miệng dày lên, lồi

lõm, không nhẵn, mặt lưỡi bị loét, phía trong má niêm mạc

Hình 6.1. Nước rãi chảy nhiều

viêm lở loét.

d. Tiên lượng

Bệnh ở thể nguyên phát khoảng 7-10 ngày con vật tự khỏi, nếu không chú ý hộ lý bệnh

sẽ kéo dài, con vật gầy dần.

e. Chẩn đoán

Bệnh dễ phát hiện. Dựa vào triệu chứng để chẩn đoán song cần phải xem xét có phải là

kế phát của các bệnh khác không, nhất là bệnh truyền nhiễm.

Bệnh sốt lở mồm long móng: Con vật sốt cao, vú và móng nổi mụn nước và mụn loét,

bệnh lây lan nhanh.

Bệnh dịch tả trâu bò: Ngoài triệu chứng viêm miệng, con vật thể hiện viêm ruột rất rõ,

bệnh lây lan nhanh.

Bệnh viêm miệng hoá mủ có tính chất truyền nhiễm ở ngựa: Trong môi, má, lợi mọc lấm

tấm những nốt bằng hạt vừng, hạt đậu sau đó hoá mủ, vỡ ra, hình thành các vết loét từng đám,

bệnh có tính chất lây lan.

139

Những bệnh kể trên lúc đầu viêm niêm mạc ở thể cata rồi mới đến các triệu chứng điển

hình.

g. Điều trị

* Hộ lý

Không cho con vật ăn thức ăn cứng, uống nước nóng, những thức ăn có tính kích thích.

* Dùng thuốc điều trị

Dùng dung dịch sát trùng rửa vùng miệng

Bệnh nhẹ: Dùng natri carbonat 2-3% hoặc axit boric 3%, dung dịch phèn chua 3% để rửa

niêm mạc miệng.

Bệnh nặng: Dùng ichthyol 1-3%, hoặc dung dịch Rivalnol 0,1%.

Bệnh thuộc dạng mạn tính: Dùng natri bạc 0,1-0,5% hoặc sulfat đồng 0,2-0,5% rửa vết

loét.

Chú ý: Trong bệnh sốt lở mồm long móng người ta thường dùng các nước quả chua

Bôi kháng sinh vào những nơi có nốt loét.

Bổ sung cho cơ thể các loại vitamin A, C, B2, PP.

6.1.3. BỆNH VIÊM MIỆNG NỔI MỤN NƯỚC (Stomatitis vesiculosa)

a. Đặc điểm

Trên mặt niêm mạc miệng nổi mụn nước màu trong. Khi các mụn nước và tạo thành các

nốt loét. Bệnh thường gặp ở bò, ngựa, dê.

b. Nguyên nhân

Do gia súc ăn phải những thức ăn mốc, thức ăn có tính chất kích thích, hoặc do ăn thức

ăn lẫn hoá chất hay các loại cây độc.

Do kế phát từ viêm miệng cata.

c. Triệu chứng

Gia súc đau miệng, lấy thức ăn và nhai chậm chạp, có hiện tượng nhả thức ăn.

Niêm mạc miệng mấy ngày đầu ở thể viêm cata. Sau đó trong môi, góc mồm, lợi, trong

má nổi lên những mụn nước nhỏ, trong chứa dịch trong hoặc vàng nhạt (mụn nước ở bò to

140

hơn ở ngựa, thường ở vòm khẩu cái, bên môi). Khoảng 3-4 ngày sau, mụn vỡ để lại nốt loét

màu đỏ tươi, sau đó tầng thượng bì lại tái sinh.

Gia súc giảm ăn, mệt mỏi, hơi sốt.

d. Tiên lượng

Bệnh kéo dài khoảng 20-30 ngày rồi khỏi. Nếu lợn nhỏ mắc bệnh thì dễ chết vì không bú

được. Thỏ bị bệnh thường kém theo ỉa chảy, tỷ lệ chết 50%.

e. Chẩn đoán

Cần chẩn đoán phân biệt với hai bệnh sau:

Bệnh viêm hoá mủ có tính chất truyền nhiễm của ngựa: mụn nước bị mưng mủ và bệnh

có tính chất lây lan.

Bệnh sốt lở mồm long móng: Gia súc có triệu chứng toàn thân, bệnh lây lan nhanh, quanh

mụn nước có vành đỏ, có hiện tượng viêm ở móng, vú.

g. Điều trị

Giống viêm miệng thể cata, khi mới có vết loét dùng Glyxerin, iod (Cồn iod 5% 1 phần,

Glyxerin 7 phần) để rửa vét loét. Sau đó bôi kháng sinh vào vết loét.

6.1.4. BỆNH VIÊM MIỆNG LỞ LOÉT (Stomatitis ulcerisa)

a. Đặc điểm

Đây thuộc loại viêm miệng ác tính, lớp niêm mạc ở lợi và trong má bị hoại tử và loét. Do

vậy, làm ảnh hưởng rất lớn tới sự lấy và nhai thức ăn của gia súc. Thể viêm này loài ăn thịt

hay mắc.

b. Nguyên nhân

Do sự xâm nhập của loại vi trùng hoá mủ và hoại thư.

Do bệnh ở răng, lợi, bệnh rối loạn trao đổi chất.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả

lợn, dịch tả trâu bò, lở mồm long móng, bệnh đậu,...)

c. Triệu chứng

Hình 6.2. Nốt loét ở miệng

Con vật sốt, mệt mỏi, ủ rũ, ăn kém, đau vùng miệng (lấy

141

thức ăn và nhai thức ăn rất khó khăn). Nước rãi có lẫn máu và tế bào hoại tử, miệng hôi thối

khó chịu

Lợi bị sưng, có màu đỏ thẫm, ở phía dưới màu vàng nhạt loét như vữa, dưới lớp đó là

niêm mạc loét đỏ (hình 6.2). Khi bệnh nặng xương hàm sưng to.

Bệnh có thể gây ra chứng bại huyết, gia súc ỉa chảy.

d. Tiên lượng

Chữa sớm bệnh sẽ khỏi sau 10-15 ngày. Nếu để lâu tiên lượng xấu

e. Chẩn đoán

Dựa vào triệu chứng điển hình (niêm mạc miệng loét, mồm rất thối, nước rãi chảy ra có

cả mảnh tổ chức hoại tử và máu).

Cần chẩn đoán phân biệt với các trường hợp viêm khác.

g. Điều trị

* Hộ lý

Cho gia súc ăn thức ăn lỏng và tránh cho ăn thức ăn có tính chất kích thích niêm mạc

miệng. Chuồng trại sạch sẽ khô ráo và thoáng khí.

* Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc sát trùng rửa miệng

Dùng một trong các dung dịch (nước oxy già 3%, cồn iod 1% hoặc axit boric 3%, nước

phèn chua 3%).

Dùng kháng sinh bôi vào vết loét

Dùng thuốc trợ sức trợ lực và nâng cao sức đề kháng.

Để làm mòn vết loét tăng sinh: Bôi dung dịch Nitrat bạc 1-2% sau đ? rửa bằng nước sinh

lý từ 1-2 lần.

Chú ý: Nếu gia súc không ăn được phải truyền dung dịch đường Glucoza ưu trương.

6.2. TẮC THỰC QUẢN (Obturatio Oesophagi)

6.2.1. Đặc điểm

142

Bệnh thường xảy ra khi cho gia súc ăn những thức ăn củ quả có kích thước to hơn lòng

thực quản.

Khi thực quản bị tắc thường gây rối loạn quá trình nuốt và gây rối loạn hô hấp. đối với

loài nhai lại còn gây chướng hơi dạ cỏ kế phát.

Trong các loài gia súc trâu, bò hay mắc.

6.2.2. Nguyên nhân

Do gia súc nuốt vội những thức ăn củ quả hay thức ăn bột khô và không cho uống

nước.

Do gia súc nuốt phải ngoại vật.

Do gây mê trong lúc thực quản vẫn còn tích thức ăn.

Do kế phát từ những bệnh về thực quản (như giãn, hẹp, liệt thực quản).

Do trúng độc Atropinsulfat

Do hiện tượng cuội lông (đối với bò nuôi tập trung).

6.2.3. Triệu chứng

a. Gia súc có hiện tượng nghẹn

Khi nghẹn con vật đang ăn bỏ dở (hình 6.3), cổ luôn rướn

cao làm động tác nuốt, dáng băn khoăn, lắc đầu, mồm chảy

nước dãi, gia súc có phản xạ nôn. Bò thường nghẹn ở sau họng

hay đoạn ở thực quản quanh cổ, còn ngựa lại hay nghẹn ở đoạn

Hình 6.3. Con vật đang ăn bỏ dở

ngực. Khi thực quản tắc hoàn toàn làm hơi không thể thoát ra

ngoài được. Do vậy, thường kế phát chướng hơi dạ dày. Nếu dị vật to chèn ép khí quản (cid:61614)

con vật thở khó hoặc ngạt thở.

b. Thực quản bị sưng to

Dùng tay sờ nắn phần trái cổ có thể tìm thấy phần thực quản

nổi lên một cục to (có khi không cần sờ cũng nhìn thấy), sờ nắn

Hình 6.4. Nơi có dị vật thực quản phồng to

vùng sưng thấy thực quản vặn vẹo ((hình 6.4.).

6.2.4. Tiên lượng

Nếu tắc thực quản do những vật mềm thì dị vật có thể trôi dần vào dạ dày và tự khỏi

trong vài giờ đến 1 ngày. 143

Nếu tắc do những vật rắn, to thì bệnh kéo dài, gia súc không ăn được, thực quản có khi bị

rách, gia súc có thể kế phát chướng hơi dạ dày (cid:61614) con vật ngạt thở chết.

6.2.5. Chẩn đoán

Nếu tắc ở sau họng, dùng dụng cụ mở mồm cho gia súc, cho tay vào có thể tìm thấy vật

tắc. Nếu tắc ở đoạn cổ dùng tay vuốt có thể sờ thấy.

Nếu tắc ở đoạn ngực thì dùng ống thông thực quản không thông vào dạ dày được.

Có thể chẩn đoán nơi bị tắc bằng X quang: Nơi bị tắc tối và to hơn bình thường.

Cần phân biệt với các bệnh của thực quản.

T(cid:104)(cid:249)(cid:99)(cid:32)(cid:113)(cid:117)(cid:182)(cid:110)(cid:32)(cid:99)(cid:111)(cid:32)(cid:103)(cid:105)(cid:203)(cid:116)(cid:58)(cid:32)(cid:235)(cid:32)(cid:98)(cid:214)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:181)(cid:121)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:105)(cid:32)(cid:104)(cid:213)(cid:116)(cid:32)(cid:99)(cid:172)(cid:110)(cid:32)(cid:99)(cid:111)(cid:32)(cid:103)(cid:105)(cid:203)(cid:116)(cid:32)(cid:232)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:249)(cid:99)(cid:32)(cid:113)(cid:117)(cid:182)(cid:110)(cid:32)(cid:118)(cid:201)(cid:110)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:174)(cid:173)(cid:238)(cid:99)(cid:44)

(cid:107)(cid:104)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:115)(cid:234)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:202)(cid:121)(cid:32)(cid:110)(cid:103)(cid:111)(cid:185)(cid:105)(cid:32)(cid:118)(cid:203)(cid:116)(cid:32)(cid:235)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:249)(cid:99)(cid:32)(cid:113)(cid:117)(cid:182)(cid:110)(cid:46)

Thực quản hẹp: Bệnh không có triệu chứng rõ rệt, thức ăn lỏng và nước vẫn trôi qua

được.

6.2.6. Điều trị

a. Hộ lý

Để gia súc ở tư thế đầu cao đuôi thấp.

Cho gia súc uống nước.

b. Biện pháp can thiệp

Nếu dị vật bị tắc ở sau họng: Dùng dụng cụ mở mồm thò tay vào lấy dị vật ra.

Nếu dị vật tắc ở đoạn cổ: Trong trường hợp dị vật mềm: Dùng tay xoa bóp cho tan, sau

đó cho con vật uống nước để con vật tự nuốt. Trong trường hợp dị vật cứng, tròn, nhẵn: Dùng

parafin hoặc dầu thực vật bơm vào thực quản cho trơn rồi lấy tay vuốt ngược cho ngoại vật

theo ra đằng mồm.

Nếu dị vật tắc ở đoạn sau: Dùng ống thông thực quản đẩy vào từ từ, khi đẩy vào thấy khó

thì dùng Novocain 2-5% với liều lượng 10 - 15 ml tiêm xung quanh chỗ thực quản bị tắc, sau

5-10 phút bơm vào thực quản một ít dầu thực vật rồi lại đẩy từ từ ống thông thực quản vào để

cho dị vật xuống dạ dày.

Dùng thuốc làm tăng co bóp thực quản: Có thể dùng một trong các loại thuốc sau:

Thuốc Pilocacpin 3%

Đại gia súc 10 -15 ml 10 ml Tiểu gia súc 5 - 10 ml 5 ml Chó - Lợn 3 - 5 ml 1 - 2 ml Strychninsulfat 0,1%

144

Tiêm dưới da cho gia súc

Chú ý: Tiêm 2 loại thuốc trên phải chú ý đến tình trạng hô hấp và tuần hoàn của con

vật.

Nếu có kế phát chướng hơi dạ dày: Phải dùng thủ thuật chọc dạ dày để tháo hơi.

Trường hợp tắc thực quản do các vật nhọn hay những vật bám chắc vào thực quản thì

phải dùng biện pháp mổ lấy ngoại vật ra. Phương pháp này rất hạn chế vì nó làm hẹp thực

quản sau khi phẫu thuật.

6.3. BỆNH Ở DẠ DÀY VÀ RUỘT CỦA LOÀI NHAI LẠI (Diseases of ruminant)

6.3.1. Đặc điểm sinh lý của các túi dạ dày

Dạ dày (4 túi) của loài nhai lại có những đặc điểm sinh lý và giải phẫu riêng. Do vậy,

bệnh về dạ dày của loài nhai lại cũng mang đặc điểm riêng mà các

loài gia súc khác không có (hình 6.5).

Trung khu thần kinh của dạ dày và dạ cỏ nằm ở trung não.

Dây thần kinh mê tẩu là thần kinh vận động, nên khi người ta kích

thích dây thần kinh này thì sự co bóp của các túi dạ dày sẽ tăng

Hình 6.5. Dạ dày loại nhai lại

cường. Sự phối hợp các co bóp của túi dạ dày do trung tâm dinh

dưỡng ở trước dạ tổ ong. Những kích th(cid:221)(cid:99)(cid:104)(cid:32)(cid:99)(cid:182)(cid:109)(cid:32)(cid:103)(cid:105)(cid:184)(cid:99)(cid:32)(cid:99)(cid:241)(cid:97)(cid:32)(cid:99)(cid:184)(cid:99)(cid:32)(cid:116)(cid:243)(cid:105)(cid:32)(cid:110)(cid:181)(cid:121) (cid:115)(cid:207)(cid:32)(cid:116)(cid:114)(cid:117)(cid:121)(cid:210)(cid:110)(cid:32)(cid:118)(cid:181)(cid:111)(cid:32)(cid:116)(cid:117)(cid:251)(cid:32)(cid:115)(cid:232)(cid:110)(cid:103)(cid:44)(cid:32)(cid:235)

(cid:174)(cid:227)(cid:32)(cid:110)(cid:227)(cid:32)(cid:116)(cid:105)(cid:213)(cid:112) xúc cả với các dây thần kinh từ dạ cỏ vào.

Sự vận động của dạ dày được bắt đầu bằng co bóp của dạ tổ ong làm thể tích dạ tổ ong

giảm đi 1/2 hay 2/3 lần, chất chứa được đẩy lên phía trên và phía sau xoang dạ cỏ, thức ăn

có thể dốc vào tới phía cuối của túi trên. Sau lần co bóp thứ hai thành túi trên của dạ cỏ

cũng co bóp, thức ăn sẽ từ túi trên xuống túi dưới. Khi thành của túi trên cứng ra thì túi dưới

co lại. Khối lượng thức ăn của túi dưới lại dồn lên phía trước của túi trên. Do kết quả của sự

co bóp làm thức ăn được xáo trộn, các bọt hơi tập trung lên túi hơi làm hơi thoát ra được dễ

dàng. Tiếp theo sự co bóp của dạ tổ ong là sự co bóp của dạ lá sách, dạ tổ ong co bóp trước

với cường độ co bóp rất mạnh nên nước trong dạ tổ ong chảy vào dạ lá sách, khi buồng lá

sách đã đầy thì cơ của dạ lá sách đóng lại, lá sách co bóp mạnh dồn thức ăn vào các lá, chất

cứng được giữ lại, chất lỏng chảy vào dạ múi khế, có một phần chảy về dạ tổ ong, các lá

sách co bóp sẽ nghiền nhỏ thức ăn thực vật.

Dạ múi khế co bóp không có quan hệ với sự co bóp của 3 túi trên mà là tiếp tục với nhu

động của ruột non. Đối với gia súc đang bú thì rãnh thực quản còn đóng kín nên khi con vật 145

bú sữa, nước sẽ đi thẳng vào dạ lá sách rồi chảy vào dạ múi khế. Dạ múi khế (hay dạ dày

thực), tá tràng, kết tràng và ruột non có chức năng tương tự như ở động vật dạ dày đơn. Chính

ở dạ múi khế, vi sinh vật dạ cỏ và phần còn lại của thức ăn chưa lên men nhưng có khả năng

tiêu hoá sẽ tiêu hoá bằng enzyme tạo ra các sản phẩm sẽ được hấp thu.

Phản xạ nhai lại được thực hiện do sự kích thích của thức ăn vào thành dạ cỏ. Ngoài việc

nhai lại, trâu bò còn có hiện tượng ợ hơi để thải chất khí do sự lên men trong dạ cỏ sinh ra,

mỗi giờ ợ hơi từ 17-20 lần khi đó chất khí ép vào dạ cỏ gây phản xạ làm giãn thực quản, cơ dạ

dày co bóp để đẩy hơi ra ngoài.

Trong dạ cỏ trâu, bò còn chứa lượng vi sinh vật khá lớn, chúng tiết ra men ureaza để tiêu

hoá đạm ure chuyển thành protein của cơ thể. Ở gia súc khoẻ, hoạt động của các túi dạ dày

bình thường thì thức ăn đọng lại trong dạ cỏ và dạ tổ ong khoảng 2 ngày, nhu động của dạ cỏ

của trâu bò từ 2-5 lần, của dê, cừu từ 2-6 lần trong 2

phút.

6.3.2. Cơ năng tiêu hoá của các túi dạ dày

Quá trình tiêu hoá trong dạ cỏ ngoài tác dụng cơ

giới còn có quá trình phân huỷ của vi sinh và các chất

lên men. Lượng vi sinh vật trong dạ cỏ rất lớn (khoảng

1tỷ con trong 1 kg thức ăn dạ cỏ). Trước hết thảo phúc

Hình 6.6. Tiêu hoá ở các túi dạ dày

trùng phá vỡ màng xellulo để tạo điều kiện cho vi

khuẩn lên men và giải phóng các chất dinh dưỡng khác như tinh bột, đường, đạm trong thức

ăn để dễ dàng tiêu hoá. Thảo trùng cũng ăn một phần xellulo đã bị phá vỡ đó để có năng

lượng cho sự hoạt động của chúng. Chất xơ dưới tác dụng của vi khuẩn gây lên men rất mạnh,

qua một số giai đoạn và cuối cùng tạo ra nhiều chất khí (CH4, CO2) và các axit béo bay hơi

khác (A.axetic, A. propiovic, A. butiric, A. valeric), các sản phẩm này được hấp thụ vào máu

qua thành dạ cỏ để tham gia vào quá trình trao đổi chất, vi khuẩn còn làm lên men

hemixelluloza thành pentoza và hexoza, lên men dectin tạo thành một số axit béo bay hơi

khác.

Thảo phúc trùng cũng phân giải tinh bột thành polysaccarit nhờ men amilaza trong cơ

thể thảo phúc trùng tiết ra. Những đa đường này sẽ được lên men tạo thành axit béo bay hơi.

Sự phân giải protein trong dạ cỏ không đáng kể. Các vi sinh vật biến protein thực vật

thành protein động vật có giá trị dinh dưỡng cao trong cơ thể của chúng. Hệ vi sinh vật này

theo dịch thức ăn đi xuống dạ múi khế và ruột non, ở đó do môi trường không thích hợp, 146

chúng chết đi, trở thành nguồn protein động vật cung cấp cho trâu bò. Người ta tính rằng 20-

30% chất đạm dễ tiêu hoá trong dạ cỏ là vi sinh vật tạo thành. Việc tổng hợp các vitamin

nhóm B và K cũng do các vi sinh vật (ở gia súc trưởng thành) tạo nên, riêng vitamin C chứa

trong thức ăn bị phân hoá nhanh trong dạ cỏ.

Chú ý: Việc tổng hợp các vitamin này chỉ thực hiện được khi gia súc cai sữa. Vì vậy, với

gia súc non việc bổ sung các vitamin cho cơ thể là cần thiết

(cid:54)(cid:46)(cid:52)(cid:46) BỆNH BỘI THỰC DẠ CỎ (Dilatatio acuta ruminis íngestis)

6.4.1. Đặc điểm

Bệnh dạ cỏ bội thực (hay còn gọi tích thức ăn trong dạ cỏ) là do trong dạ cỏ chứa nhiều

thức ăn khó tiêu hóa làm cho thể tích dạ dày tăng lên gấp bội, vách dạ dày căng. Nếu thức ăn

tích lại lâu trong dạ cỏ thường kế phát viêm ruột và gây rối loạn hô hấp, cơ thể bị nhiễm độc

(cid:61614) con vật chết.

Đây là bệnh trâu bò hay mắc (chiếm 40% trong các bệnh ở dạ dày 4 túi). Bệnh tiến triển

chậm (thường xảy ra sau khi ăn từ 6-9 giờ).

6.4.2. Nguyên nhân

Do ăn quá no: Trâu bò ăn quá no các loại thức ăn khô, thức ăn khi gặp nước dễ trương

nở (như rơm, cỏ khô, cây họ đậu, bã đậu) hoặc do gia súc nhịn đói lâu ngày đột nhiên ăn no,

ăn xong uống nhiều nước lạnh ngay đều có thể dẫn đến dạ cỏ bội thực.

Do chăm sóc kém hoặc thay đổi thức ăn đột ngột (trâu bò cày kéo bị mắc bệnh do làm

việc quá mệt nhọc, ăn xong đi làm ngay, bò sữa mắc bệnh do thiếu vận động).

Do cơ thể gia súc suy yếu, bộ máy tiêu hoá hoạt động kém, hoặc do kế phát từ những

bệnh khác như nghẽn dạ lá sách, liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong do ngoại vật và dạ múi khế biến vị.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng,...).

6.4.3. Cơ chế sinh bệnh

Hoạt động của dạ cỏ do hệ thần kinh thực vật chi phối. Vì vậy, những nhân tố gây bệnh ở

bên ngoài hay trong cơ thể đều làm trở ngại của hoạt động thần kinh mê tẩu, làm giảm nhu

động của dạ cỏ (cid:61614) thức ăn tích lại ở dạ cỏ. Khi thức ăn tích lại trong dạ cỏ làm tăng áp lực

xoang bụng (cid:61614) gây rối loạn hô hấp và tuần hoàn. Do vậy, con vật có biểu hiện thở khó. Hơn

nữa khi thức ăn tích lại lâu sẽ lên men, thối rữa sinh ra nhiều hơi và các sản vật phân giải (như

các loại khí; axit hữu cơ). Những chất này kích thích vào vách dạ cỏ, làm cho dạ cỏ co giật

từng cơn (cid:61614) con vật đau bụng và không yên. Nếu hơi sinh ra nhiều sẽ gây ra chướng hơi, mặt 147

khác thức ăn trong quá trình lên men sẽ trương to làm căng vách dạ dày dẫn tới dãn dạ dày.

Bệnh tiến triển làm cho cơ trơn co bóp yếu dần (cid:61614) bệnh nặng thêm, vách dạ cỏ bị kích thích

gây viêm hoại tử, chất phân giải ngấm vào máu gây trúng độc (cid:61614) con vật chết.

6.4.4. Triệu chứng

Bệnh xảy ra sau khi ăn từ 6 - 9 giờ. Triệu chứng lâm sàng thể hiện rõ:

Con vật giảm ăn hay không ăn, ngừng nhai lại, hơi ợ ra có mùi chua, hay chảy dãi, con

vật đau bụng (khó chịu, đuôi quất mạnh vào thân, xoay quanh cọc buộc, lấy chân sau đạp

bụng, đứng nằm không yên có khi chổng 4 vó giẫy giụa, khi dắt di thấy con vật cử động cứng

nhắc, hai chân dạng ra.

Mé bụng trái con vật phình to, sờ nắn thấy chắc, ấn tay vào có dạng bột nhão, con vật

đau, cho tay qua trực tràng sờ vào dạ cỏ thấy chắc như sờ vào túi bột, con vật rất khó chịu.

Gõ vào vùng dạ cỏ thấy âm đục tương đối lấn lên vùng âm bùng hơi. Vùng âm đục tuyệt

đối lớn và chiếm cả vùng âm đục tương đối. Tuy vậy, nếu con vật chướng hơi kế phát thì khi

gõ vẫn có âm bùng hơi.

Nghe thấy âm nhu động dạ cỏ giảm hay ngừng hẳn, nếu bệnh nặng thì vùng trái chướng

to, con vật thở nhanh, nông, tim đập mạnh, chân đi loạng choạng, run rẩy, mệt mỏi, cũng có

khi nằm mê mệt không muốn dậy.

Có thể gây viêm ruột kế phát. Lúc đầu con vật đi táo, sau đó đi ỉa chảy, sốt nhẹ.

6.4.5. Tiên lượng

Nếu bệnh nhẹ, không kế phát bệnh khác thì sau 3-5 ngày sẽ khỏi, nếu kế phát chướng

hơi, viêm ruột hay nhiễm độc thì có thể chết.

6.4.6. Chẩn đoán

Trâu bò mắc bệnh này có những đặc điểm: Bụng trái căng to, sờ vào chắc, ấn tay vào

vùng dạ cỏ để lại vật tay, gia súc không ăn, nhai lại giảm.

Cần phân biệt với các bệnh:

Dạ cỏ chướng hơi: Bệnh phát ra nhanh, vùng bụng trái căng to, sờ dạ cỏ căng như quả

bóng, gia súc khó thở chết nhanh.

Liệt dạ cỏ: Nắn vùng bụng trái cảm thấy thức ăn nhão như cháo, nhu động dạ cỏ mất.

Viêm dạ tổ ong do ngoại vật: Con vật có triệu chứng đau khi khám vùng dạ tổ ong.

148

6.4.7. Điều trị

Nguyên tắc tắc điều trị : Phải làm hồi phục và tăng cường nhu động dạ cỏ, tìm cách thải

thức ăn tích lâu ngày trong dạ cỏ.

a. Hộ lý

Cho gia súc nhịn ăn 1- 2 ngày (không hạn chế nước uống), tăng cường xoa bóp vùng dạ

cỏ, dắt cho gia súc vận động để tăng cường cơ năng vận động của dạ cỏ.

Những ngày sau cho gia súc ăn một ít thức ăn mềm, dễ tiêu và cho ăn làm nhiều lần

trong ngày, đồng thời có thể thụt cho gia súc bằng nước ấm.

Moi phân trong trực tràng và kích thích bàng quang cho con vật đi tiểu.

b. Dùng thuốc

Dùng thuốc tẩy trừ chất chứa trong dạ cỏ

Sulfat natri: 300- 500 g/con (trâu, bò).

50- 100 g/con (bê, nghé)

20- 50 g/con (dê, cừu)

Hòa với nước sạch cho con vật uống 1 lần trong ngày đầu điều trị

Dùng thuốc tăng cường nhu động dạ cỏ

Pilocacpin 3%: 5- 10 ml/con (trâu, bò)

3- 5 ml/con (bê, nghé)

2- 3 ml/con (dê, cừu)

Tiêm bắp, ngày 1 lần

Tăng cường tiêu hóa ở dạ cỏ

Dùng HCl (10-12ml nguyên chuẩn hòa với 1 lít nước). Cho con vật uống ngày 1 lần.

Đề phòng thức ăn lên men trong dạ cỏ

Ichthyol: trâu, bò (20-30g), dê, cừu, bê, nghé (1-2g). Cho uống ngày 1 lần.

Hoặc dùng formol (15 ml nguyên chuẩn hoà với 1 lít nước sạch cho con vật uống: trâu,

bò (1 lít /con); bê, nghé, dê (200 - 300 ml/con). Cho uống ngày 1 lần.

Hoặc dùng: cồn + tỏi; nước dưa chua, nước lá thị cho con vật uống

149

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường giải độc cho cơ thể:

Trâu, bò (ml) Bê, nghé, dê, cừu Thuốc

(ml)

1000 - 2 000 500 - 1000 Dung dịch Glucoza

20%

Cafein natribenzoat 10 - 15 5 - 10

20%

Canxi clorua 10% 50 - 70 15 - 20

Urotropin 10% 50 - 70 20 - 30

Vitamin C 5% 20 10

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần

Chú ý:

Nếu bội thực dạ cỏ có kế phát chướng hơi cấp tính

phải dùng troca chọc thoát hơi.

Với biện pháp trên mà thức ăn vẫn tích trong dạ cỏ thì

Hình 6.7. Mổ dạ cỏ lấy thức ăn

mổ dạ cỏ lấy bớt thức ăn (hình 6.7).

6.5. LIỆT DẠ CỎ (Atomia ruminis)

6.5.1. Đặc điểm

Bệnh làm cho dạ cỏ co bóp kém và dẫn đến liệt (cid:61614) thức ăn trong dạ cỏ, dạ múi khế

không được xáo trộn và tống về đằng sau. Thức ăn tích lại trong dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ múi khế

và bị thối rữa, lên men sinh ra chất độc, làm cho cơ thể bị trúng độc và hại cho hệ thống thần

kinh thực vật. Kết quả làm trở ngại cơ năng vận động của dạ cỏ, làm gia súc giảm ăn, giảm

nhai lại và thường kế phát viêm ruột, cuối cùng con vật trúng độc chết.

Bệnh thường thấy ở trâu, bò, còn ở dê, cừu ít mắc.

6.5.2. Nguyên nhân

Do cơ thể suy nhược (chiếm khoảng 40%), thường gặp ở những trường hợp sau:

Do thức ăn khan hiếm, gia súc bị đói, ăn rơm bị mốc, thối nát nên thiếu sinh tố.

150

Do gia súc bị các bệnh tim, gan, thận, rối loạn trao đổi chất, hay mắc những bệnh mạn

tính khác.

Do chăm sóc nuôi dưỡng gia súc không đúng phương pháp

Cho ăn lâu ngày những thức ăn hạn chế nhu động cơ trơn (trâu bò ăn nhiều thức ăn tinh,

kém thức ăn thô xanh).

Cho ăn thức ăn có tính kích thích mạnh làm cho nhu động dạ cỏ quá hưng phấn, đến giai

đoạn sau sẽ làm giảm trương lực của cơ (cid:61614) nhu động dạ cỏ giảm sau đó liệt.

Do cho ăn những thức ăn quá đơn điệu hay thay đổi thức ăn quá đột ngột.

Do chế độ quản lý gia súc không hợp lý, gia súc làm việc quá sức, thay đổi điều kiện

chăn thả.

Do kế phát của một số bệnh khác

Kế phát từ một số bệnh nội khoa (dạ cỏ bội thực, dạ cỏ chướng hơi, viêm dạ tổ ong do

ngoại vật, viêm phúc, mạc),

Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng)

Kế phát từ một số bệnh kí sinh trùng (sán lá gan, kí sinh trùng đường máu) hoặc do trúng

độc cấp tính gây nên.

6.5.3. Cơ chế sinh bệnh

Các tác động bệnh lý làm trở ngại tới hoạt động của hệ thần kinh trung ương, thần kinh

thực vật rồi làm trở ngại sự hoạt động của tiền vị làm cho cơ dạ cỏ giảm nhu động và dẫn đến

liệt. Khi dạ cỏ bị liệt, những thức ăn tích lại trong dạ cỏ, dạ lá sách lên men, thối rữa sinh ra

các chất độc và được hấp thụ vào máu gây ảnh hưởng đến tiêu hoá và trạng thái toàn thân của

con vật (do những sản phẩm phân giải từ dạ cỏ hấp thụ vào máu, làm giảm cơ năng thải độc

của gan, lượng glycozen trong gan giảm dần dẫn đến chứng xêton huyết, lượng kiềm dự trữ

trong máu giảm dẫn tới trúng độc toan. Đồng thời do thức ăn lên men, các sản phẩm sinh ra

kích thích vào vách dạ dày gây nên chứng viêm hoại tử ở dạ dày, viêm cata ở dạ múi khế và

ruột (cid:61614) bệnh trở nên nặng thêm).

Do quá trình lên men đã làm thay đổi pH của dạ cỏ: từ kiềm yếu chuyển sang toan (do

lượng axit hữu cơ đột ngột tăng lên trong dạ cỏ) gây bất lợi cho sự sống của các vi sinh vật

phân giải xellulo và infusoria trong dạ cỏ, mặt khác những sản vật sinh ra ở dạ cỏ còn kích

thích tới sự cảm thụ hoá học ở vách dạ dày nên sinh ra những cơn co giật ở dạ dày. Những

dịch lỏng trong dạ dày, chảy vào dạ múi khế và ruột làm ảnh hưởng đến nhu động của dạ dày

151

và ruột và làm cho dạ lá sách căng to (do thức ăn chưa được làm mềm, theo dịch thể tràn vào

dạ lá sách).

Những kích thích bệnh liên tục truyền đến hệ thần kinh trung ương, làm tế bào thần

kinh mệt mỏi, con vật rơi vào trạng thái bị ức chế .

6.5.4. Triệu chứng

a. Thể cấp tính

Con vật giảm ăn, thích ăn thức ăn thô hơn thức ăn tinh, khát nước, nhai lại giảm hoặc

ngừng hẳn, nhu động dạ cỏ kém hoặc mất. Con vật hay ợ hơi, hơi có mùi hôi thối. Con vật

thích nằm, mệt mỏi, niêm mạc miệng khô.

Sờ nắn vùng dạ cỏ qua trực tràng thấy thức ăn như cháo đặc, vùng bụng trái sưng to, con

vật khó thở.

Phân lỏng lẫn chất nhầy, khi kế phát viêm ruột thì phân loãng và thối. Nếu bệnh nặng

con vật có cơn co giật, sau đó con vật chết.

b.Thể mạn tính

Con vật ăn uống thất thường, nhai lại giảm, ợ hơi thối, dạ cỏ giảm nhu động nên thường

chướng hơi nhẹ, phân lúc táo, lúc lỏng, trường hợp không kế phát bệnh khác thì nhiệt độ bình

thường, con vật gầy dần, sau đó suy nhược rồi chết.

6.5.5. Bệnh tích

Thể tích của dạ cỏ và dạ múi khế tăng, vùng dạ cỏ trùng xuống, thức ăn trong dạ lá sách

khô lại, trong dạ cỏ chứa đầy dịch nhầy có mùi thối, niêm mạc dạ dày viêm hoặc xuất huyết.

6.5.6. Tiên lượng

Bệnh mới phát thì sau khi điều trị 3-5 ngày con vật bình phục trở lại. Bệnh ở dạng mạn

tính tiên lượng xấu.

6.5.7. Chẩn đoán

Phải nắm được đặc điểm của bệnh như nhu động dạ cỏ giảm, hoặc ngừng hẳn, nhai lại

giảm, kém ăn, thỉnh thoảng chướng hơi, lúc đầu đi táo, sau đó iả chảy, thức ăn trong dạ cỏ nát

như cháo.

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh:

152

Dạ cỏ chướng hơi: Bệnh phát ra đột ngột, vùng bụng trái phồng to, căng như quả bóng,

con vật ngạt thở, niêm mạc tím bầm, nếu can thiệp không kịp thời con vật sẽ chết.

Viêm dạ dày - ruột cấp tính: Gia súc hơi sốt, trong dạ cỏ không tích hơi và đọng lại thức

ăn, nhu động ruột tăng, ỉa chảy.

Viêm dạ tổ ong ngoại vật: Con vật cũng liệt dạ cỏ, thay đổi tư thế đứng, dạng 2 chân

trước khi xuống dốc, đau, nghiến răng, phù yếm. Bệnh thường gây viêm phúc mạc, viêm

ngoại tâm mạc kế phát.

6.5.8. Điều trị

Nguyên tắc là làm tăng nhu động dạ cỏ, làm giảm chất chứa.

a. Hộ lý

Khi mới mắc bệnh cho gia súc nhịn 1-2 ngày (không hạn chế uống nước) sau đó cho ăn

thức ăn dễ tiêu, cho ăn ít và nhiều lần trong ngày.

Xoa bóp vùng dạ cỏ (ngày từ 1-5 lần, mỗi lần khoảng 10-15 phút), cho gia súc vận động

nhẹ. Trường hợp gia súc đau nhiều không nên xoa bóp vùng dạ cỏ.

b. Dùng thuốc

Dùng thuốc làm tăng cường nhu động dạ cỏ (dùng một trong các loại sau)

Magiesulfat: trâu, bò (300 g/con); bê, nghé (200 g/con). Hòa với 1 lít nước cho con vật

uống 1 lần trong ngày đầu điều trị.

Hoặc Pilocacpin 3%: trâu, bò (3-6 ml/con); bê, nghé (3ml/con). Tiêm bắp ngày 1 lần.

Hoặc dung dịch NaCl 10%: trâu, bò (200 - 300ml/con); bê, nghé (200ml/con). Tiêm

chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Chú ý: Những gia súc có chửa không dùng thuốc kích co bóp cơ trơn

Dùng thuốc ức chế lên men sinh hơi của dạ cỏ

Điều chỉnh hệ thần kinh, tránh những kích thích bệnh lý (dùng thuốc an thần)

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, nâng cao sức đề kháng và tăng cường giải độc

Trâu, bò (ml) 1000 - 2000 20 50 - 70 50 - 70 20 Bê, nghé, dê, cừu (ml) 300 – 500 5 – 10 15 – 20 20 – 30 10 Thuốc Glucoza 20% Cafein natribenzoat 20% Canxi clorua 10% Urotropin 10% Vitamin C 5% Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Trường hợp viêm mạn tính dùng nước muối nhân tạo cho uống

153

Nếu liệt dạ cỏ do thần kinh giao cảm quá hưng phấn: Dùng Novocain 0,25% 20 - 40ml

phong bế vùng bao thận.

Để tăng cường quá trình tiêu hoá: Dùng HCl 0,5% 500ml cho uống; dùng rượu tỏi 40 -

60ml cho uống.

Nếu chướng hơi dạ cỏ kế phát: Cho uống thuốc để ức chế lên men trong dạ cỏ.

Nếu kế phát ỉa chảy: Cho uống tanin và thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn đường

ruột.

6.6. CHƯỚNG HƠI DẠ CỎ CẤP TÍNH (Tympania ruminis acuta)

6.6.1. Đặc điểm

Do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men, sinh ra nhiều hơi tích trong dạ cỏ (cid:61614) dạ cỏ

chướng hơi phình to, ép vào cơ hoành làm trở ngại tới hô hấp và tuần hoàn. Do vậy, con vật

có biểu hiện thở khó hoặc ngạt thở.

Ở Việt Nam gia súc hay mắc bệnh này vào vụ đông xuân, nhất là lúc cỏ non đang mọc và

còn nhiều sương giá.

6.6.2. Nguyên nhân

Do gia súc ăn nhi?u thức ăn dễ lên men, sinh hơi (thức ăn xanh chứa nhiều nước, những

cây họ đậu, thân cây ngô non, lá dâm bụt,...) hoặc gia súc ăn phải những thức ăn đang lên men

dở (cây, cỏ, rơm mục).

Do gia súc ăn phải thức ăn có chứa chất độc (chất độc hợp chất phospho hữu cơ)

Do gia súc làm việc quá sức hoặc do thời tiết thay đổi quá đột ngột làm ảnh hưởng tới bộ

máy tiêu hoá.

Bệnh phát sinh còn do kế phát từ bệnh liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong, viêm phúc mạc, liệt

thực quản, tắc thực quản hay do gia súc nằm liệt lâu ngày.

Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (cúm, tụ huyết trùng,...).

Do gia súc bị trúng độc Carbamid.

Bê, nghé mắc bệnh thường do bú sữa không tiêu

6.6.3. Cơ chế sinh bệnh

Thức ăn trong dạ cỏ do tác động của các vi sinh vật trong dạ cỏ, sinh sản ra khí: Metan

(26%), Cacbonic (6,2%), Sulfua hydro, Hydrogen và Nitơ (7%). Một phần hơi tích lại trên bề

mặt thức ăn ở túi trên, khí còn thừa được gia súc ợ ra ngoài, một phần nhỏ thấm vào máu,

154

phần còn lại theo đường ruột thải ra ngoài. Khi thức ăn dễ lên men, phản xạ ợ hơi bị ngưng

trệ, gây nên chướng hơi dạ cỏ.

Còn có ý kiến cho rằng: Để có hơi tích lại trong dạ cỏ không chỉ do thức ăn và điều kiện

khí hậu mà còn do bọt hơi hình thành trong dạ cỏ và các chất nhầy cacbonat của nước bọt.

Những bọt hơi này có sức căng bề mặt lớn lên tích lại ở túi trên và trộn với thức ăn. Do sự

tích lại những bọt hơi lớn lên những bọt hơi nhỏ không có lối thoát ra vì những bọt hơi lớn có

sức căng bề mặt lớn hơn, nó tích lại ở phần trên, ngoài ra protein thực vật cũng giúp cho sức

căng bề mặt của những bọt hơi lớn lên.

Cũng có ý kiến cho rằng: Hơi tích trong dạ cỏ là Glycosis, axit Cyanhydric, chất giống

Vitamin pp ở thực vật gây ức chế cơ trơn dạ cỏ, dạ cỏ nhu động kém làm hơi tích lại.

Thuyết khác cho rằng: những chất sản sinh trong cơ thể như histamin cũng có tác dụng

làm ức chế hoạt động của cơ trơn, làm cho bệnh dễ phát ra.

Song dù cho nguyên nhân nào đi nữa, bệnh gây ra chủ yếu vẫn do thức ăn lên

men chứa nhiều nước làm hơi sản sinh nhiều, làm rối loạn tuần hoàn ở vách dạ cỏ và

ức chế thần kinh ảnh hưởng đến sự nhai lại và ợ hơi, vách dạ cỏ bị thiếu máu, nhu

động dạ cỏ giảm.

Hơi tích lại làm thể tích dạ cỏ tăng lên đột ngột, ép lên cơ hoành làm gia súc ngạt thở,

máu về tim bị trở ngại gây ứ huyết ở não và tĩnh mạch cổ, gan cũng bị dạ cỏ chèn ép gây thiếu

máu làm cơ năng giải độc của gan giảm đồng thời những chất phân giải trong dạ cỏ kích thích

vào vách dạ cỏ gây cho con vật những cơn có thắt. Đến cuối kì bệnh, dạ cỏ bị tê liệt, quá trình

tống hơi ra ngoài hoàn toàn bị ngừng trệ nên gia súc lâm vào trạng thái trầm trọng, gia súc có

thể chết do ngạt thở và do tuần hoàn trở ngại.

6.6.4. Triệu chứng

Bệnh xuất hiện rất nhanh (thường xuất hiện sau khi ăn 30 phút đến 1 giờ).

Bệnh mới phát con vật tỏ ra không yên, bồn chồn, bụng trái ngày càng phình to và con

vật có triệu chứng đau bụng (con vật luôn ngoảnh lại nhìn

bụng, vẫy đuôi, cong lưng, hai chân thu vào bụng).

Quan sát vùng bụng thấy vùng bụng trái sưng to, hõm

hông trái căng phồng, có khi phồng cao hơn cột sống (hình

6.8).

Hình 6.8. Bò chướng hơi dạ cỏ

Gõ vào bụng trái (đặc biệt hõm hông trái) thấy âm

155

trống chiếm ưu thế, âm đục và âm bùng hơi mất. Nếu khí tích lại nhiều trong dạ cỏ, khi gõ còn

nghe thấy âm kim thuộc.

Nghe vùng dạ cỏ thấy nhu động dạ cỏ lúc đầu tăng sau đó giảm dần rồi mất hẳn, chỉ

nghe thấy tiếng nổ lép bép do thức ăn lên men.

Bệnh càng nặng, gia súc đau bụng càng rõ rệt, vã mồ hôi, uể oải, hay sợ hãi, con vật

ngừng ăn, ngừng nhai lại. Gia súc khó thở, tần số hô hấp tăng, dạng hai chân trước để thở,

hoặc thè lưỡi để thở và con vật chết do ngạt thở.

Hệ thống tuần hoàn bị rối loạn, máu ở cổ và đầu không dồn về tim được nên tĩnh mạch

cổ phồng to, tim đập nhanh (140 lần /phút), mạch yếu, huyết áp giảm, gia súc đi tiểu liên tục.

6.6.5. Bệnh tích

Gia súc có hiện tượng chảy máu ở mũi và hậu môn, có hiện tượng lòi dom, mồm đầy bọt,

thực quản vít chặt, thức ăn lên tới tận miệng, phổi sung huyết, máu tím bầm.

6.6.6. Tiên lượng

Bệnh hay xảy ra ở thể cấp, rất nguy hiểm, khi gia súc phát bệnh nếu không kịp thời can

thiệp gia súc sẽ bị ngạt thở, trúng độc axit cacbonic làm trở ngại tuần hoàn và xuất huyết não,

gia súc chết nhanh.

6.6.7. Chẩn đoán

Cần nắm được đặc điểm chỉnh của bệnh: bệnh tiến triển nhanh (thường sau khi ăn 1-2

giờ), vùng bụng trái căng phồng, trong dạ cỏ chứa đầy hơi, gia súc khó thở, tĩnh mạch cổ

phồng to.

Cần chẩn đoán phân biệt với dạ cỏ bội thực: ở bệnh bội thực dạ cỏ, bệnh tiến triển chậm

(thường xuất hiện sau khi ăn từ 6 - 9 giờ), khi gõ vùng dạ cỏ xuất hiện âm đục tuyệt đối.

6.6.8. Điều trị

Nguyên tắc điều trị

Tìm mọi biện pháp làm thoát hơi trong dạ cỏ, ức chế sự lên men, tăng cường nhu động

dạ cỏ đồng thời chú ý trợ tim, trợ sức.

Trường hợp chướng hơi quá cấp phải dùng Troca để chọc thoát hơi trong dạ cỏ, chú ý

khi chọc phải để thoát hơi từ từ.

a. Hộ lý

156

Để gia súc đứng yên trên nền dốc (đầu cao mông thấp) cho dễ thở, dùng tay xoa bóp dạ

cỏ nhiều lần (mỗi lần từ 10-15 phút).

Dội nước lạnh vào nửa thân sau, bôi Ichthyol vào lưỡi hoặc dùng que ngáng ngang mồm

để kích thích gia súc ợ hơi.

Đưa tay vào trực tràng móc phân và kích thích bàng quang để gia súc đi tiểu

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc thải trừ chất chứa ở dạ cỏ:

Trâu, bò Bê, nghé Thuốc

200 - 300g/con MgSO4 hoặc Na2SO4 100 – 200g/con

Hòa nước cho uống một lần trong cả quá trình điều trị

Dùng thuốc ức chế sự lên men sinh hơi ở dạ cỏ (Nước dưa chua, dấm ăn, NH3, focmol,

nước rượu tỏi,...).

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực:

Trâu, bò Bê, nghé Thuốc

Cafein natribenzoat 20% 10 - 15 ml 5 - 10 ml

vitamin B1 2,5% 10 - 15 ml 5 - 10 ml

Tiêm dưới da ngày 1 lần.

6.7.TẮC NGHẼN DẠ LÁ SÁCH (Obturatio omasi)

6.7.1. Đặc điểm

Do bản thân dạ lá sách co bóp kém. Do vậy, việc đẩy thức ăn vào dạ múi khế chậm,

ngược lại dạ tổ ong và dạ cỏ nhu động mạnh nên thức ăn luôn xuống dạ lá sách (cid:61614) thức ăn

tích trong dạ lá sách, khô dần và tắc lại.

Bệnh thường xảy ra vào thời kỳ giá rét. Trâu, bò miền núi mắc bệnh nhiều hơn trâu, bò

vùng đồng bằng.

6.7.2. Nguyên nhân

Do trâu, bò ăn nhiều cám trong một thời gian dài hoặc trong cám có lẫn bùn đất.

Do trâu, bò ăn nhiều cỏ khô, rơm rạ, lõi ngô lại ít uống nước.

Do kế phát từ viêm dạ dày, dạ múi khế biến vị, do tắc cửa thông với dạ múi khế.

157

Do kế phát từ những bệnh kí sinh trùng đường máu (bệnh tiên mao trùng), bệnh truyền

nhiễm hay những bệnh gây sốt cao, làm cho dạ lá sách giảm nhu động (cid:61614) thức ăn tích lại ở dạ

lá sách.

6.7.3. Cơ chế Sinh bệnh

Dạ lá sách có cấu tạo bởi nhiều lá nhỏ, giữa các lá nhỏ đó có chỗ chứa thức ăn nên sự

vận chuyển trong dạ lá sách khó khăn hơn các dạ khác.

Do tác động của bệnh nguyên làm dạ lá sách co bóp kém, trong khi đó thức ăn lại

không ngừng từ dạ tổ ong dồn xuống, nước trong thức ăn được hấp thụ nhanh, nên thức ăn

khô và đi xuống dạ múi khế khó khăn (cid:61614) thức ăn tích lại ở dạ lá sách. Nếu thức ăn tích lại lâu

sẽ ép vào vách của dạ lá sách làm cho từng lá bị hoại tử (cid:61614) cơ thể bị nhiễm độc làm bệnh ngày

càng nặng thêm.

6.7.4. Triệu chứng

Thời gian đầu con vật giảm ăn, mệt mỏi, kém nhai lại, thỉnh thoảng dạ cỏ bị bội

thực hoặc chướng hơi nhẹ. Con vật sốt, đau vùng dạ lá sách do vậy thường quay đầu về

vùng dạ lá sách, nghe vùng dạ lá sách thấy âm nhu động mất (nghe ở khe sườn 7-9 trên

đường ngang từ gờ vai phải). Chọc dò dạ lá sách thấy kim chuyển động theo hình con lắc.

Triệu chứng biểu hiện sớm nhất là gia súc đi táo, trong

phân có những mảnh thức ăn chưa tiêu hoá. Những ngày đầu

thân nhiệt, tần số hô hấp, tim mạch bình thường, những ngày

sau đó có hoại tử trong dạ lá sách và bị bại huyết thì con vật

Hình 6.9. Thức ăn khô cứng trong dạ lá sách

sốt cao, triệu chứng toàn thân rõ ràng.

6.7.5. Chẩn đoán

Để chẩn bệnh người ta căn cứ vào: Đau vùng dạ lá sách, ỉa táo phân có lẫn mảnh thức

ăn chưa kịp tiêu hóa. Ngoài ra còn dùng phương pháp chọc dò dạ lá sách và bơm thuốc vào dạ

lá sách.

6.7.6. Điều trị

a. Hộ lý

Cho gia súc vận động. Bệnh mới phát sinh cho gia súc ăn những thức ăn chứa nhiều

nước hay cỏ non.

Đưa tay vào trực tràng móc phân và kích thích gia súc đi tiểu.

158

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc làm nhão thức ăn trong dạ lá sách:

MgSO4: trâu, bò (200-300g/con); bê, nghé (100-200g/con).

Hòa với nước cho uống một lần.

Dung dịch MgSO4 25%: trâu, bò (300-400ml/con); bê, nghé (200ml/con).

Tiêm trực tiếp vào dạ lá sách.

Dùng thuốc tăng cường nhu động dạ lá sách: Dùng một trong các loại thuốc sau

Pilocacpin: trâu, bò (5-6ml/con); bê, nghé (3-5ml/con). Tiêm bắp ngày một lần.

Hoặc Strychninsulfat 0,1%: trâu, bò (10-15ml/con); bê, nghé: 5-10ml/con. Tiêm dưới

da ngày một lần.

Hoặc Dung dịch NaCl 10%: trâu, bò (300ml/con); bê, nghé (200ml/con). Tiêm chậm

vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Chú ý: Đối với trâu, bò có chửa thì dùng dung dịch NaCl 10%.

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực, tăng cường giải độc và nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.

Trâu, bò (ml) Bê, nghé (ml) Thuốc

Glucoza 20% 1000 - 2000 300 - 500

Cafein natribenzoat 20% 20 5 - 10

Canxi clorua 10% 50 - 70 20 - 30

Urotropin 10% 50 - 70 30 - 50

Vitamin C 5% 20 10

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Dùng thuốc điều trị triệu chứng kế phát nếu có: Nếu táo bón dùng thuốc nhuận tràng.

Nếu ỉa chảy dùng thuốc cầm ỉa chảy.

6.8. VIÊM DẠ DÀY - RUỘT (Gastro enteritio)

6.8.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra dưới lớp biểu mô của vách dạ dày và ruột (cid:61614) làm trở ngại rất lớn

tới tuần hoàn và dinh dưỡng ở vách dạ dày và ruột, làm cho cả lớp niêm mạc tổ chức bị viêm

(cid:61614) vách dạ dày và ruột bị sung huyết, hoá mủ, hoại tử gây nên nhiễm độc và bại huyết cho cơ

159

thể. Con vật có biểu hiện ỉa chảy rất nặng, cơ thể bị mất nước và chất điện giải rất nhiều (cid:61614)

con vật chết nhanh. Bệnh tiến triển nhanh và tỷ lệ chết cao.

Tùy theo tính chất viêm mà có (viêm xuất huyết ; viêm thể màng giả ; viêm hoại thư)

6.8.2. Nguyên nhân

a. Thể nguyên phát

Do sự chăm sóc nuôi dưỡng gia súc không đúng phương pháp, cho gia súc ăn thức ăn

kém phẩm chất, uống nước bẩn.

Do gia súc làm việc quá sức, thời tiết thay đổi đột ngột, chuồng trại vệ sinh kém.

Do trúng độc các loại hoá chất gây viêm niêm mạc đường tiêu hoá.

Do nhiễm các loại vi khuẩn có sẵn trong đường tiêu hoá (Salmonella, E. coli,...). Khi

sức đề kháng của cơ thể giảm, các loại vi khuẩn này phát triển gây bệnh.

b. Thể kế phát

Do kế phát từ viêm ruột thể viêm cata.

Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (như bệnh dịch tả lợn, dịch tả trâu bò, cúm, viêm

màng mũi thối loét và bệnh do kí sinh trùng).

6.8.3. Cơ chế sinh bệnh

Niêm mạc dạ dày, ruột bị kích thích bởi các nguyên nhân gây bệnh làm trở ngại nghiêm trọng

đến cơ năng vận động và tiết dịch của dạ dày, ruột, các mô bào của vách dạ dày, ruột bị phá hủy, đồng

thời các vi khuẩn trong ruột phát triển mạnh, phân giải các chất chứa thành các sản vật độc ngấm vào

máu gây trúng độc cho cơ thể. Trong quá trình viêm, niêm mạc dạ dày, ruột bị sưng, sung huyết, xuất

huyết, lớp niêm mạc thượng bì bị tróc (cid:61614) thối rữa protit trong ruột càng trở nên nghiêm trọng. Những

sản phẩm phân giải từ protit như Indol, Scatol, H2S,… ngấm vào máu, ức chế thần kinh trung ương

làm ảnh hưởng đến tiêu hoá của dạ dày, ruột (cid:61614) con vật ỉa chảy dữ dội.

Do kết qủa của các quá trình phân giải các chất chứa trong dạ dày, ruột và Protit (cid:61614) con vật

sốt cao, ỉa chảy mạnh (cid:61614) cơ thể mất nước và chất điện giải, kết quả con vật bị trúng độc, hôn mê dẫn

đến chết. Ngoài ra còn có thể gây viêm kế phát đến tim, gan, thận, lách.

6.8.4. Triệu chứng

a. Triệu chứng toàn thân

Con vật ăn kém hoặc không ăn, mệt mỏi, khát

nước. Khi bệnh trở nên kịch phát con vật ủ rũ, sốt cao,

Hình 6.10. Trâu ỉa chảy nặng

160

mạch nhanh, run rẩy, vã mồ hôi và chết rất nhanh. Trước khi chết thân nhiệt giảm.

b. Triệu chứng cục bộ

Con vật ỉa chảy mãnh liệt, phân lỏng như nước, màu đen, thối khẳm, có khi lẫn cả máu

tươi, màng giả (do lớp niêm mạc ruột bong tróc), số lần đi ỉa trong ngày nhiều (hình 6.10). Ở

chó và lợn còn có hiện tượng nôn mửa.

Do ỉa chảy mạnh, cơ thể bị mất nước và chất điện giải. Do vậy, trên lâm sàng thấy hố

mắt trũng sâu, khoé mắt có rử, niêm mạc mắt hơi vàng, da khô, mất đàn tính, lông xù. Khi ỉa

chảy nhiều, đến giai đoạn cuối cơ vòng hậu môn bị liệt nên phân tự động chảy ra ngoài, con

vật nằm liệt, thân nhiệt hạ, sau đó con vật chết.

c. Triệu chứng phi lâm sàng

Kiểm tra nước tiểu có albumin niệu, lượng nước tiểu giảm, tỷ trọng nước tiểu tăng.

Kiểm tra máu thấy số lượng hồng cầu, hàm lượng hemoglobin tăng, tỷ lệ bạch cầu đa

nhân trung tính tăng.

6.8.5. Bệnh tích

Trường hợp viêm ruột xuất huyết, trên vách ruột có các điểm hoặc vệt xuất huyết, phân

màu đỏ hoặc đen.

Nếu viêm thể màng giả, trên bề mặt ruột phủ lớp fibrin.

Viêm hoá mủ trên mặt niêm mạc phủ lớp màu vàng. Trên lâm sàng gia súc bị viêm dạ

dày và ruột, niêm mạc ruột bị lóc ra từng mảng dài, màu trắng, xanh, dính, nhầy, theo phân ra

ngoài, ở trâu bò dạ múi khế bị xuất huyết nặng, dọc đường ruột xuất huyết. Chất chứa trong

ruột nát như bùn đen.

6.8.6. Tiên lượng

Viêm ở mức độ nhẹ, bệnh kéo dài từ 1-2 tuần. Nếu chữa tích cực bệnh có thể khỏi nhưng

gia súc hồi phục rất lâu và hay chuyển sang giai đoạn mạn tính.

Viêm ở thể nặng con vật chết sau 2-3 ngày. Nếu bệnh gây nên do nguyên nhân trúng độc

con vật chết sau 24 giờ.

6.8.7. Chẩn đoán

Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh

161

Viêm ruột thể cata cấp tính: Triệu chứng toàn thân nhẹ, chủ yếu là trở ngại cơ năng vận

động và tiết dịch sinh ra ỉa chảy. Điều trị kịp thời và hộ lý tốt thì con vật khỏi sau đó hồi phục

nhanh.

Hội chứng đau bụng: Triệu chứng lâm sàng giống viêm dạ dày - ruột nhưng con vật

không sốt, không có triệu chứng toàn thân rõ rệt, hiện tượng đau bụng thể hiện rõ.

Suy tim cấp và viêm ngoại tâm mạc: Bệnh này do máu ứ lại ở tĩnh mạch nên gây viêm dạ

dày, ruột, song bệnh có triệu chứng ứ huyết toàn thân và phù.

Một số bệnh truyền nhiễm gây viêm dạ dày - ruột: Bệnh nhiệt thán, tụ huyết trùng, dịch

tả. Những bệnh này ngoài triệu chứng viêm dạ dày, ruột, bệnh còn có các triệu chứng đặc thù

khác, bệnh có tính chất lây lan.

6.8.8. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: Bổ sung nước, chất điện giải và tăng cường thể lực cho con vật. thải

trừ chất chứa trong dạ dày, ruột, bảo vệ niêm mạc đường tiêu hoá, ức chế sự lên men để đề

phòng trúng độc.

a. Hộ lý

khi bệnh mới phát cho gia súc nhịn ăn 1-2 ngày, sau đó cho ăn thức ăn dễ tiêu. Cho gia

súc uống nước tự do (tốt nhất uống nước điện giải).

Thu dọn phân và chất thải, tẩy uế chuồng trại

b. Dùng thuốc điều trị

Bổ sung nước và chất điện giải cho cơ thể: Dùng các dung dịch đẳng trương

(Ringerlactat, dung dịch nước sinh lý, dung dịch glucoza đẳng trương,...).

Thải trừ chất chứa trong ruột: Dùng thuốc tẩy muối (magie sulfat, hoặc natri sulfat)

Dùng Natribicarbonat 2% để thụt rửa ruột

Dùng thuốc bảo vệ niêm mạc ruột: Cho uống nước cháo gạo nếp (sau khi uống thuốc rửa

ruột) mỗi lần 2-3 lít, ngày uống 3-4 lần, hoặc dùng Natribromua 40 -50g trộn vào cháo hoặc

cho uống. Trong trường hợp ỉa chảy lâu ngày và không phải mắc bệnh truyền nhiễm, cho con

vật uống tanin: (ngựa, bò từ 5-20g, lợn từ 2-5g, chó từ 0,1-0,5g) hoà với nước cho uống. Hoặc

dùng các cây có chứa chất chát như búp sim, búp ổi, quả hồng xiêm xanh sắc đặc cho uống.

Dùng thuốc để ức chế lên men trong dạ dày và ruột: cho uống Ichthyol (ngựa:10-15g;

trâu bò:10-20g; lợn: 0,5-1g).

162

Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn bội nhiễm đường ruột: Có thể dùng một trong các loại

kháng sinh:

Sulfaguanidin: đại gia súc 20-40g; dê cừu 1-3g; chó 0,5-1g.

Streptomycin: 20-30mg/kg TT. Cho uống ngày 2 lần.

Kanamycin: 20-30mg/kg TT. Cho uống ngày 2 lần.

Gentamycin: trâu bò: 5-10mg/kg TT; lợn, chó: 10mg/kgTT. Tiêm liên tục 3-4 ngày.

Neomycin: 25-50mg/kgTT. Cho uống ngày 1 lần

Enrofloxacin, Norcoli

Dùng thuốc giảm tiết dịch và co thắt dạ dày, ruột

Dùng nước ấm thụt ruột.

Dùng atropinsunfat 0,1%: Đại gia súc (10 -15 ml/con); Tiểu gia súc (5-10 ml/con); Lợn,

chó (1-3 ml). Tiêm bắp ngày một lần.

6.9. VIÊM RUỘT CATA CẤP (Enteritis catarrhalis acuta)

6.9.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra trên lớp biểu mô của vách ruột, làm ảnh hưởng đến nhu động và

hấp thu của ruột. Trong ruột viêm chứa nhiều dịch nhầy, tế bào biểu mô ở vách ruột bong

tróc, bạch cầu xâm nhiễm, những thức ăn chưa kịp tiêu hoá, cùng với các sản phẩm phân giải

kích thích vào vách ruột làm tăng nhu động sinh ra ỉa chảy.

Tùy theo vị trí viêm ở ruột mà triệu chứng ỉa chảy xuất hiện sớm hay muộn. Tùy theo

loại thức ăn mà tính chất viêm khác nhau (viêm thể toan, viêm thể kiềm).

Nếu bệnh không nặng lắm thì triệu chứng toàn thân không rõ ràng. Nếu bệnh nặng thì

toàn thân suy nhược, con vật sốt nhẹ.

Bệnh thường xảy ra vào thời kỳ thức ăn khan hiếm. Đối với ngựa, nếu không điều trị kịp

thời dễ chuyển sang thể mạn tính.

6.9.2. Nguyên nhân

Do chất lượng thức ăn kém, thay đổi thức ăn đột ngột. Do đó làm ảnh hưởng tới tiêu hoá

của con vật.

Do thời tiết, khí hậu thay đổi đột ngột, hoặc gia súc bị lạnh đột ngột.

Do gia súc bị ngộ độc bởi các loại hoá chất, thuốc trừ sâu.

163

Do kế phát từ một số bệnh (như bệnh dịch tả, tụ huyết trùng, phó lao, sán lá gan, sán lá

ruột, viêm gan, tắc dạ lá sách...).

6.9.3. Cơ chế sinh bệnh

Những nhân tố bên ngoài hay bên trong cơ thể tác động vào hệ thống nội thụ cảm của ruột, sẽ

làm trở ngại tới cơ năng vận động và tiết dịch của ruột tạo điều kiện thuận lợi cho những hệ vi sinh

vật trong ruột phát triển, làm tăng cường quá trình lên men và thối rữa ở ruột. Loại vi khuẩn lên men

chất bột đường sinh ra nhiều axit hữu cơ và axit axetic, axit axeto axetic và hơi (như CH4, CO2,

H2,…). Các loại vi khuẩn phân giải protit sinh ra Indol, Scatol, Phenol, H2S, NH3 và các aminoaxit.

Từ sự lên men và thối rữa đó làm thay đổi độ pH ở trong ruột gây trở ngại về tiêu hoá và hấp thu ở

trong ruột. Những chất phân giải trong quá trình lên men ở ruột ngấm vào máu gây nhiễm độc,

những hơi sản sinh ra kích thích làm ruột tăng nhu động sinh đau bụng.

Trong quá trình viêm các kích thích lý hoá ở trên sẽ gây nên viêm, niêm mạc ruột sung huyết,

thoái hoá, cơ năng tiết dịch tăng, đồng thời cộng với dịch thẩm xuất tiết ra trong quá trình viêm làm

cho nhu động ruột tăng, con vật sinh ra ỉa chảy. Do ỉa chảy con vật rơi vào tình trạng mất nước và

chất điện giải, máu đặc lại gây hiện tượng toan huyết làm cho bệnh trở lên trầm trọng

6.9.4. Triệu chứng

Con vật ăn kém, uể oải, khát nước, không sốt hoặc sốt nhẹ, giai đoạn đầu nhu động ruột

giảm, con vật ỉa phân táo, giai đoạn sau nhu động ruột tăng, con vật ỉa chảy (hình 6.11).

Tính chất bệnh lý tùy theo vị trí viêm trên ruột.

a. Nếu viêm ruột non

Nhu động ruột non tăng, trong ruột óc ách như nước

chảy. Nếu trong ruột chứa đầy hơi, khi nhu động ruột mạnh sẽ

thấy âm kim khí, khi ruột co giật sinh chứng đau bụng. Nếu

quá trình viêm chưa lan xuống ruột già thì hiện tượng ỉa chảy

Hình 6.11. Lợn viêm ruột ỉa chảy

chưa xuất hiện. Sau viêm từ 2-3 ngày mới xuất hiện ỉa chảy.

b. Nếu viêm ruột già

Nhu động ruột tăng, nghe như tiếng sấm, gia súc ỉa chảy,

phân nhão như bùn, hoặc loãng như nước, trong chứa những

mảnh thức ăn chưa tiêu hoá, phân lẫn dịch nhày, máu và tế

bào thượng bì, phân thối khắm và tanh, gia súc hay đánh rắm,

Hình 6.12. Lợn viêm tiểu kết tràng

164

phân dính vào hậu môn, kheo chân và đuôi. Gia súc ỉa chảy lâu ngày thì bụng hóp, mắt trũng,

lông xù, da thô, cơ vòng hậu môn bị liệt, phân tự do chảy ra ngoài.

c. Nếu viêm trực tràng và tiểu kết tràng

Con vật thường có triệu chứng đi kiết, con vật luôn muốn đi ỉa nhưng mỗi lần đi chỉ có

một ít phân, trong phân có dịch nhày, lỗ hậu môn mở rộng hay lòi ra (hình 6.12).

d. Nếu viêm ruột cata toan t ính

Con vật ăn uống không thay đổi nhiều, gia súc dễ mệt khi lao tác nặng, hay vã mồ hôi,

nhu động ruột tăng, đi ỉa nhiều lần, phân loãng, chua, thối, đánh rắm kêu nhưng không thối.

e. Nếu viêm cata kiềm tính

Con vật giảm ăn, lông dựng, da giảm đàn tính, có khi nhiệt độ hơi lên cao. Gia súc mệt

mỏi, đi loạng choạng, nhu động ruột giảm, khi ỉa chảy phân có màu đen xạm, mùi thối rữa.

Trong nước tiểu lượng Indican tăng. Khi ỉa chảy kéo dài thì con vật mất nước nhiều, mất chất

điện giải (cid:61614) hố mắt con vật trũng sâu, con vật có triệu chứng nhiễm độc, triệu chứng thần kinh

rõ.

6.9.5. Tiên lượng

Bệnh ở thể nguyên phát, sau khi chất chứa trong ruột thoát ra ngoài 2-3 ngày sau con vật

sẽ khỏi, con vật khỏi hẳn sau 5-6 ngày.

Bệnh nặng, con vật ỉa chảy kéo dài, cơ thể mất nước, chất điện giải, cơ thể nhiễm độc,

con vật thường chết sau 1-2 tuần mắc bệnh. Trường hợp ỉa chảy cấp chỉ khoảng 3-4 ngày là

con vật chết.

6.9.6. Chẩn đoán

Cần nắm được những đặc điểm của bệnh: Bệnh thường sinh ỉa chảy, nhu động ruột tăng,

con vật không sốt hoặc sốt nhẹ, con vật vẫn ăn uống bình thường hoặc giảm ăn.

Để điều trị có hiệu quả cần phân biệt viêm ruột cata toan tính hay kiềm tính: Lấy 2-3

gam phân cho vào ống nghiệm, hoà loãng phân với ít nước (5-10 ml), dùng đũa thuỷ tinh

đánh tan, ghi lại màu sắc của phân, sau đó dùng giấy quỳ để đo độ pH, rồi nút chặt lại, để ống

nghiệm vào tủ ấm từ 5-6 giờ lấy ra quan sát. Nếu viêm ruột cata toan tính thì nước phân trong,

ngược lại nếu viêm thể kiềm thì nước phân đục.

Cần chẩn đoán phân biệt với những bệnh sau :

165

Viêm dạ dày - ruột: Triệu chứng toàn thân rõ ràng, con vật ủ rũ, mệt mỏi, ỉa chảy mạnh,

phân có màng giả, mạch nhanh, thân nhiệt cao, niêm mạc hoàng đản, có triệu chứng nhiễm

độc toàn thân, triệu chứng thần kinh rõ,

Trường hợp ruột kinh luyến và các loại đau bụng khác: Phải điều tra nguyên nhân gây

bệnh và chẩn đoán hội chứng đau bụng.

Viêm cơ tim và viêm ngoại tâm mạc: Do suy tim làm cho tĩnh mạch cửa ứ huyết gây nên

triệu chứng đường ruột (nên khi chẩn đoán phải có hệ thống).

(cid:67)(cid:184)(cid:99)(cid:32)(cid:98)(cid:214)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:116)(cid:114)(cid:117)(cid:121)(cid:210)(cid:110)(cid:32)(cid:110)(cid:104)(cid:105)(cid:212)(cid:109)(cid:58) (cid:80)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:108)(cid:97)(cid:111)(cid:44)(cid:32)(cid:67)(cid:111)(cid:108)(cid:105)(cid:98)(cid:97)(cid:99)(cid:105)(cid:108)(cid:111)(cid:115)(cid:105)(cid:115)(cid:44)(cid:32)(cid:112)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:173)(cid:172)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:104)(cid:181)(cid:110)(cid:46)(cid:32)(cid:86)(cid:215)(cid:32)(cid:118)(cid:203)(cid:121)(cid:32)(cid:99)(cid:200)(cid:110)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:200)(cid:110)(cid:32)(cid:174)(cid:111)(cid:184)(cid:110)(cid:32)(cid:118)(cid:210)

(cid:118)(cid:105)(cid:32)(cid:116)(cid:114)(cid:239)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:104)(cid:228)(cid:99)(cid:46)

Các bệnh kí sinh trùng: Huyết bào tử trùng, tiên mao trùng cũng gây nên viêm ruột thể

cata. Vì vậy cần chẩn đoán về kí sinh trùng học.

6.9.7. Điều trị

a. Hộ lý

Khi bệnh mới phát, để gia súc nhịn đói 1-2 ngày sau đó cho ăn thức ăn dễ tiêu. Nếu viêm

ruột cata toan tính cho con vật ăn nhiều thức ăn thô xanh. Nếu viêm ruột cata kiềm tính cho co

vật ăn thức ăn ủ xanh, cháo gạo, ngô.

Cho con vật nghỉ ngơi (đối với gia súc cày kéo), chuồng trại sạch sẽ, khô ráo và thoáng

mát.

Chườm nóng vùng bụng (dùng cám rang hoặc tro nóng cho vào bao tải quấn quanh

bụng).

b. Dùng thuốc điều trị

Thải trừ chất chứa trong ruột: Dùng Na2SO4 hoặc MgSO4 (trâu, bò, ngựa 300-500g; dê,

cừu, bê, nghé 50-100g; lợn 25-50g; chó 10-20g) hòa nước cho uống 1 lần trong cả quá trình

điều trị.

Dùng thuốc trung hòa pH trong ruột và máu: Nếu viêm ruột thể toan tính, dùng Natricarbonat 3% ở nhiệt độ 38 - 400C, thụt ruột hoặc dung dịch Natricarbonat 1%, tiêm chậm vào tĩnh mạch. Nếu viêm thể kiềm tính dùng dung dịch thuốc tím 0,1% thụt rửa ruột.

Ức chế quá trình lên men và thối rữa trong ruột

Trâu, bò, Thuốc Dê, cừu, bê nghé Chó, lợn

ngựa

Ichthyol 25 - 50g 5 - 10g 3 - 5g

166

Hoà thành dung dịch 1-2% cho uống ngày 1 lần

Dùng thuốc giảm dịch tiết ở ruột và co thắt ruột (bột than hoạt tính)

Bê, nghé, dê, Đại gia súc Chó, Lợn

cừu

250-300g 5 -10g 20 - 30g

Cho gia súc uống ngày một lần.

Thuốc Đại gia súc Chó, lợn Tiểu gia

súc

Atropinsulfat 0,1% 15ml 1 - 3ml 10ml

Tiêm bắp ngày một lần.

Chú ý : Đối với trường hợp mà nguyên nhân gây bệnh không phải là truyền nhiễm thì

khi tẩy chất chứa trong ruột rồi dùng axit tanic cho uống để làm se niêm mạc ruột: Ngựa (5-

10g); bò (10-25g); bê nghé cừu dê (3,5-5g); chó (0,1-0,5g). Có thể dùng các loại lá có chất

chát sắc cho uống.

Bổ sung nước, chất điện giải và trợ sức, trợ lực cho cơ thể

Dùng thuốc chống nhiễm khuẩn đường ruột.

6.10. VIÊM RUỘT CATA MẠN TÍNH (Enteritis catarrhalis chronica)

5.10.1. Đặc điểm

Do niêm mạc ruột bị viêm lâu ngày làm thay đổi cấu trúc niêm mạc ruột (niêm mạc tăng

sinh, các tuyến ruột teo) (cid:61614) trở ngại đến cơ năng tiết dịch và vận động của ruột. Hậu quả, gây

rối loạn tiêu hóa, trên lâm sàng thấy con vật ỉa chảy xen kẽ với táo bón kéo dài).

Bệnh thường xảy ra đối với trâu, bò và ngựa.

6.10.2. Nguyên nhân

Bệnh rất ít khi ở thể nguyên phát, thường là kế phát từ viêm cata cấp tính (đặc biệt đối

với ngựa). Nguyên nhân gây bệnh giống như viêm cata cấp tính nhưng tính kích thích của

bệnh nguyên dài hơn.

Do gia súc mắc một số bệnh truyền nhiễm, kí sinh trùng mạn tính, bệnh nội khoa.

6.10.3. Cơ chế phát bệnh

Do ruột bị viêm lâu ngày làm cho vách ruột thay đổi về cấu trúc (vách ruột mỏng, tuyến

ruột bị teo, lớp tế bào thượng bì thoái hoá, tổ chức liên kết tăng sinh, trên mặt niêm mạc ruột

167

bị loét hay thành sẹo), làm giảm nhu động ruột (cid:61614) sinh ra táo bón. Khi thức ăn trong ruột tích

lại lâu thường lên men và kích thích vào niêm mạc ruột, làm tăng tiết dịch và nhu động ruột

(cid:61614) gây ỉa chảy. Vì vậy, trong quá trình bệnh con vật có hiện tượng táo bón, ỉa chảy xuất hiện

xen kẽ có tính chu kỳ và kéo dài. Bệnh kéo dài , con vật suy dinh dưỡng, thiếu máu, kiệt dần

6.10.4. Triệu chứng

Con vật ăn uống thất thường, mệt mỏi, kém tiêu hoá, lúc ỉa chảy, lúc táo bón, bụng

thường hóp nhưng có lúc lại sinh chướng hơi ruột, dạ cỏ hay chướng hơi nhẹ (đối với trâu,

bò). Ngựa đôi khi có hiện tượng đau bụng.

Triệu chứng toàn thân không rõ ràng, bệnh nặng con vật bị suy dinh dưỡng, thiếu máu,

ngày một gầy dần, niêm mạc trắng bệch hoặc hơi vàng,

con vật bị suy tim có thể gây phù ở bốn chân và bụng,

sau đó suy kiệt rồi chết (hình 6.13).

6.10.5. Tiên lượng

Bệnh kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, rất khó

Hình 6.13. Con vật gầy yếu

điều trị.

6.10.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào hiện tượng ỉa chảy kéo dài (ỉa chảy xen kẽ với táo bón), con vật gầy dần.

Khi chẩn đoán chú ý phân biệt với một số bệnh truyền nhiễm mạn tính, bệnh gan mạn

tính, bệnh về trao đổi chất, bệnh ký sinh trùng, cần chú ý cả bệnh mềm xương của ngựa cũng

(cid:107)(cid:213)(cid:32)(cid:112)(cid:104)(cid:184)(cid:116)(cid:32)(cid:98)(cid:214)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:181)(cid:121)(cid:46)

6.10.7. Điều Trị

a. Hộ lý

Điều chỉnh khẩu phần ăn (cho ăn những loại thức ăn dễ tiêu hoá và kích thích tiết dịch,

chia lượng ăn làm nhiều bữa). Tăng cường hoạt động đối với con vật bệnh.

Chăm sóc nuôi dưỡng gia súc tốt, chuồng trai sạch sẽ và thoáng.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chỉnh.

Dùng thuốc thải trừ chất chứa trong ruột:

168

Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn

300g/con 100 - 200g/con 10 - 20g/con MgSO4

Hòa với nước cho uống

c. Dùng thuốc kích thích tiêu hóa:

Đối với với đại gia súc cho uống axit clohydric loãng hoặc rượu.

Đối với lợn cho uống men tiêu h?a (Biosubtil hoặc Subtil) cùng với Becbirin.

d. Dùng thuốc điều trị triệu chứng: (ở thời kỳ táo bón dùng thuốc nhuận tràng, ở thời

kỳ ỉa chảy cho uống thuốc cầm ỉa chảy).

e. Dùng thuốc trợ sức trợ lực, tăng cường giải độc và sức đối kháng cho cơ thể

Thuốc Chó, lợn (ml) Đại gia súc Tiểu gia súc

(ml) (ml)

Glucoza 20% 500 150 - 400 1000 -

2000

10 -15 5 - 10 1 - 3 Cafein natribenzoat

20%

50 - 70 Canxi clorua 10% 5-10 30 – 40

50 - 70 Urotropin 10% 10 - 15 30 – 50

15 Vitamin C 5% 10 5

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

f. Dùng thuốc làm se niêm mạc ruột và diệt vi khuẩn bội nhiễm

6.11. BỆNH VIÊM RUỘT CỦA GIA SÚC NON (Dispepsia)

6.11.1. Đặc điểm

Đây là bệnh kém tiêu hoá của dạ dày và ruột ở gia súc non. Bệnh thường gặp nhất là

bệnh ỉa phân trắng của lợn con và bê nghé.

Bệnh được chia làm hai thể: thể đơn giản mang tính chất viêm cata thông thường và thể

nhiễm độc do kế phát các vi trùng có sẵn trong đường ruột gây nên.

6.11.2. Nguyên nhân

a. Do bản thân gia súc non 169

Do sự phát dục của bào thai kém.

Do những đặc điểm sinh lý bộ máy tiêu hoá của gia súc non như dạ dày và ruột của lợn

con trong 3 tuần đầu chưa có khả năng tiết dịch vị, thức ăn trực tiếp kích thích vào niêm mạc

mà tiết dịch, trong dịch vị chưa có HCl, hàm lượng và hoạt tính của men pepsin rất ít.

Do hệ thống thần kinh của gia súc non chưa ổn định nên kém thích nghi với sự thay đổi

của ngoại cảnh.

Gia súc non trong thời kỳ bú sữa có tốc độ phát triển về cơ thể rất nhanh, đòi hỏi phải

cung cấp đầy đủ đạm, khoáng và vitamin. Trong khi đó sữa mẹ ngày càng giảm về số lượng

và chất lượng, nếu không bổ sung kịp thời, gia súc non dễ bị còi cọc và nhiễm bệnh.

b. Do gia súc mẹ

Không được nuôi dưỡng đầy đủ khi mang thai.

Trong thời gian nuôi con không được chăm sóc nuôi dưỡng tốt hoặc bị bệnh.

Cho ăn nhiều thức ăn khó tiêu.

Gia súc mẹ động dục.

c. Do ngoại cảnh

Do vệ sinh kém, gia súc non ít được vận động và tắm nắng.

Do vi trùng xâm nhập.

Do nhiễm ký sinh trùng.

Trong những nguyên nhân kể trên thì yếu tố chăm sóc, nuôi dưỡng đóng vai trò quyết

định.

6.11.3. Cơ chế sinh bệnh

Khi bị bệnh, đầu tiên dạ dày giảm tiết dịch vị, nồng độ HCl giảm, làm giảm khả năng

diệt trùng và khả năng tiêu hoá protit. Khi độ kiềm trong đường tiêu hoá tăng cao tạo điều

kiện cho các loại vi khuẩn trong đường ruột phát triển mạnh, làm thối rữa các chất chứa trong

đường ruột và sản sinh nhiều chất độc. Những sản phẩm trên kích thích vào niêm mạch ruột

làm tăng nhu động, con vật sinh ra ỉa chảy. Khi bệnh kéo dài, con vật bị mất nước (do ỉa chảy)

gây nên rối loạn trao đổi chất trong cơ thể như nhiễm độc toan

hoặc mất cần bằng các chất điện giải, làm cho bệnh trở nên

trầm trọng, gia súc có thể chết

6.11.4. Triệu chứng

Hình 6.14. Lợn ỉa phân trắng

170

a. Lợn con ỉa phân trắng

Lợn con từ 5-25 ngày tuổi dễ mắc bệnh. Trong 1-2 ngày đầu mắc bệnh, lợn vẫn bú và

chạy nhảy như thường. Phân táo như hạt đậu xanh, nhạt màu. Sau đó phân lỏng dần, có màu

vàng hoặc trắng, có bọt và chất nhày, mùi tanh khắm. Con vật có bú hoặc bỏ bú, lông xù và

dựng, da nhăn nheo, nhợt nhạt, đuôi và khoeo dính đầy phân. Con vật bị bệnh từ 5-7 ngày, cơ

thể quá kiệt sức dẫn đến chết, nếu gia súc qua khỏi thì chậm lớn, còi cọc.

b. Bê nghé ỉa phân trắng

Bê nghé thường mắc bệnh này sau khi sinh ra 10-15 ngày, thậm chí còn sớm hơn. Con

vật đi ỉa phân lỏng mùi chua nhưng vẫn bú và đi lại được. Sau vài ngày con vật biểu hiện rõ triệu chứng toàn thân như: sốt 40-410C, giảm ăn, thích nằm, phân lỏng, có màu hơi xanh, mùi tanh khắm, bụng chướng to, thở nông và nhanh, tim đập nhanh và yếu. Bệnh nặng gia súc có

thể bị hôn mê, nhiệt độ hạ dần rồi chết (hình 6.15).

6.11.5. Điều trị: Nguyên tắc điều trị: Chữa sớm và tích cực

a. Bệnh lợn con ỉa phân trắng

Hình 6.15. Bê ỉa phân trắng

* Hộ lý

Khi lợn mới mắc bệnh cần hạn chế bú mẹ, có điều kiện thì

tách riêng lợn bị bệnh để theo dõi và điều trị bệnh. Kiểm tra lại

vệ sinh chuồng trại và chế độ chăm sóc, chú ý đến nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi.

*Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc làm se niêm mạc ruột: cho uống các chất có tanin để làm se niêm mạc ruột

và diệt khuẩn như nước lá ổi, quả hồng xiêm xanh, bột tanin, búp sim...

Dùng kháng sinh cầm ỉa chảy (dùng một trong các loại kháng sinh sau).

Cho uống sulfaguanidin 0,5 -1 g/con/ngày.

Neomycin cho uống 25-50 mg/kg TT/ngày, cho uống liên tục 3-4 ngày.

Spectam tiêm bắp 25 mg /kg TT 2 lần /ngày, liên tục 3 ngày.

Norfloxacin, Enrofloxacin,...

Dùng thuốc điều chỉnh sự cân bằng hệ vi sinh vật trong đường ruột: Cho uống canh

trùng B. subtilis.

b. Bệnh bê nghé ỉa phân trắng

171

*Hộ lý

Cách ly riêng những con bệnh, hạn chế cho bú (thậm chí bắt nhịn bú từ 8-12 giờ) cho

uống nước đường pha muối hoặc dung dịch orezol.

*Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn đường ruột (có thể dùng một trong các loại

kháng sinh sau):

Sulfaguanidin 0,1-0,2g/kg TT, uống 2-3 lần trong ngày, liên tục 3-5 ngày.

Biomycin 0,02g/kg TT cho uống ngày 2 lần, liên tục 2-3 ngày.

Dùng thuốc tăng cường trợ sức, trợ (cid:108)(cid:249)(cid:99)(cid:46)

Thuốc Liều lượng

Glucoza 20% 300 - 400 ml

Cafein natribenzoat 20% 5 - 10 ml

Canxi clorua 10% 30 - 40 ml

Urotropin 10% 30 - 50 ml

(cid:86)(cid:105)(cid:116)(cid:97)(cid:109)(cid:105)(cid:110)(cid:32)(cid:67)(cid:32)(cid:53)(cid:37) (cid:49)(cid:48)(cid:32)(cid:109)(cid:108)

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Trường hợp bê nghé ỉa phân trắng do giun đũa: dùng thuốc tẩy giun

6.11.6. Phòng bệnh

Chú ý phòng chống lạnh, ẩm và bẩn cho gia súc non.

Chăm sóc tốt gia súc cái mang thai, cho gia súc non tập ăn sớm, chú ý bổ sung thêm vào

khẩu phần khoáng vi lượng và vitamin. Với lợn con dùng Dextran sắt tiêm để kích thích sinh

trưởng và phát triển.

172

Chương 7

BỆNH Ở HỆ TIẾT NIỆU (Diseases of the urinary system)

7.1. ĐẠI CƯƠNG

Thận là một cơ quan có vai trò quan trọng bậc nhất để đảm

bảo sự hằng định của môi trường bên trong cơ thể. Đơn vị về mặt

tổ chức học cũng như để thực hiện chức năng sinh lý của thận là

Nephron. Cơ chế hoạt động tạo thành nước tiểu của thận là lọc,

tái hấp thu và bài tiết. Thông qua việc tạo thành nước tiểu và các

hoạt động chuyển hóa, nội tiết. Thận có các chức năng quan trọng

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:55)(cid:46)(cid:49)(cid:46)(cid:32)(cid:72)(cid:214)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:232)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:116)(cid:105)(cid:213)(cid:116)(cid:32)(cid:110)(cid:105)(cid:214)(cid:117)

chính sau đây

7.1.1. Chức năng lọc

Đây là một chức năng quan trọng của thận, đào thải từ máu tất cả các chất không cần

thiết và các chất độc đối với cơ thể, như các sản phẩm cuối cùng của các chuyển hóa (đặc biệt

là của chuyển hóa protein), các muối, các thuốc, các chất màu, chất độc,... giữ lại các chất như

protein, lipit, gluxit.

7.1.2. Chức năng điều chỉnh sự hằng định các thành phần của máu, giữ vững pH máu

Điều hòa cân bằng kiềm - toan.

Điều hòa sự hằng định áp lực thẩm thấu của máu.

Điều hòa sự hằng định của thành phần máu.

Để thực hiện chức năng này thận đào thải một cách có chọn lọc các chất cần đào thải và

giữ lại ở cơ thể các chất cần thiết, đảm bảo sự hằng định các thành phần máu.

7.1.3. Chức năng cô đặc và hòa loãng

Tùy thuộc vào nhu cầu của cơ thể mà thận có thể cô đặc hoặc hòa loãng nước tiểu. Thứ

nhất bằng cách tái hấp thu và bài tiết, đào thải số lượng nước không cần thiết ra nước tiểu và

giữ lại lượng nước cần cho nhu cầu của cơ thể.

7.1.4. Chức năng đối với chuyển hóa

173

Để thực hiện các nhiệm vụ sinh lý của thận, ở thận xảy ra nhiều quá trình chuyển hóa

phục vụ cho nhu cầu bản thân thận và các chức năng mà thận phải đảm bảo: điều hòa chuyển

hóa muối - nước, tạo amoniac và thải các muối amon, chuyển hóa các chất sinh màu, tham gia

tạo axit hypuric và thải axit hypuric, cùng với gan tạo creatin và chuyển hóa creatin. Đặc biệt

ở tế bào ống còn xảy ra một cách mạnh mẽ sự chuyển hóa của các chất gluxit, lipit, protein

nhờ hệ thống men phong phú ở thận (các men của vòng Krebs, các men phosphataza, men

glycoronidaza, men glutaminaza,...).

7.1.5. Tham gia điều chỉnh các áp lực động mạch

Cần nêu lên là ở các nhóm tế bào nhỏ ở vùng đoạn xa của ống lượn, ở tổ chức đệm của

tiểu cầu, động mạch đến và đi có tạo ra renin, là một chất nội tiết bản chất là một protein có

hoạt động của một men proteaza biến hypertensinogen (là một globulin) thành hypertensin có

tác dụng gây co mạch, qua đó à ảnh hưởng tới huyế áp.

7.1.6. Tham gia việc tạo máu

Bằng một hormon khác được tổng hợp ở thận là Erythropoietin thuộc loại mucoprotein

có tác dụng kích thích tủy xương tạo máu.

7.2. NHỮNG TRIỆU CHỨNG KHI THẬN BỊ BỆNH

Bệnh của thận thường biểu hiện những hiện tượng sau

7.2.1. Protein niệu

Trong quá trình thận mắc bệnh, vách mao quản của thận bị thoái hoá, tính thẩm thấu tăng

lên, làm cho các chất có phân tử lớn như protein cũng có thể thấm qua được.

Protein niệu còn do các trụ niệu thải ra theo nước tiểu như trụ thượng bì, trụ hồng cầu,

trụ hạt,... trong trường hợp protein niệu giả thì protein ra ngoài theo nước tiểu là sản phẩm của

bàng quang, niệu đạo khi các bộ phận này bị bệnh hoặc tới cơ quan sinh dục.

7.2.2. Huyết niệu

Do thận bị xuất huyết (cần phân biệt với các trường hợp do kế phát từ các bệnh truyền

nhiễm hoặc do viêm xuất huyết ở niệu đạo, bàng quang hay đường sinh dục).

7.2.3. Cao huyết áp

Đây là triệu chứng thường thấy khi bị suy thận. Khi thận không được cung cấp máu đầy

đủ sẽ hình thành một chất globin gọi là renin, nó kết hợp với một protein đặc biệt trong huyết

174

tương là hypertensinogen để tạo thành hypertensin, chất này có tác dụng làm co các mao quản

(cid:61614) gây cao huyết áp.

7.2.4. Ure huyết

Ure huyết là hội chứng của sự giữ lại chất cặn bã được sinh ra trong quá trình trao đổi

chất, gây độc cho cơ thể. Có 2 trường hợp ure huyết

Ure huyết trước thận là do bệnh ở ngoài thận gây nên như khi bị nôn mửa, ỉa chảy kéo

dài, làm cho cơ thể mất nước, máu cô đặc lại, áp lực keo trong máu tăng làm trở ngại cho quá

trình siêu lọc trong quản cầu thận gây nên. Ure huyết loại này còn gặp trong trường hợp đái

đường hay rối loạn tuần hoàn do nhiễm trùng.

Ure huyết sau thận do gia súc bị tắc niệu quản, bàng quang, niệu đạo làm cho gia súc

không đi tiểu được, ure trong nước tiểu ngấm vào máu làm cho gia súc trúng độc, nếu không

can thiệp kịp thời con vật sẽ chết.

7.2.5. Phù thũng

Do cơ năng thải nước tiểu của thận bị trở ngại, các muối khoáng, nhất là Na + giữ lại trong tổ chức làm cho nước hấp thu vào đó. Mặt khác do hậu quả của albumin niệu làm giảm

áp lực keo của máu gây hiện tượng thoát tương dịch gây phù toàn thân hoặc tích nước ở

xoang ngực và xoang bụng.

7.2.6. Suy thận

Trong quá trình viêm, một số các tiểu cầu thận bị phá hoại nên cơ năng bài tiết của thận

bị trở ngại. Hậu quả của suy thận là mất khả năng duy trì độ pH của máu, nên gia súc dễ bị

trúng độc toan hoặc kiềm. Chất cặn azot tích lại trong máu.

7.3. VIÊM THẬN CẤP TÍNH (Nephritis acuta)

7.3.1. Đặc điểm

Quá trình viêm ở tiểu cầu thận, hoặc tổ chức kẽ thận của tiểu cầu thận. Tiểu cầu thận bị

dịch rỉ viêm thâm nhiễm.

Bệnh gây ảnh hưởng tới quá trình siêu lọc của thận dẫn đến phù (do tích nước, muối ở tổ

chức) và gây nhiễm độc đối với cơ thể (do các sản phẩm trong quá trình trao đổi chất không

thải ra ngoài được).

175

Bệnh ít khi gặp ở thể nguyên phát, thường là kế phát từ các bệnh khác

7.3.2. Nguyên nhân

Do kế phát từ một số bệnh

Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả lợn, đóng dấu lợn, tụ huyết trùng,

nhiệt thán, lở mồm long móng).

Kế phát từ một số bệnh ký sinh trùng đường máu (tiên mao trùng, biên trùng)

Kế phát từ một số bệnh nội khoa (bệnh viêm dạ dày ruột, viêm gan, suy tim,...).

Do vi trùng từ các ổ viêm khác trong cơ thể đến thận gây viêm (từ viêm nội tâm mạc,

ngoại tâm mạc, viêm phổi,...).

Do bị nhiễm độc bởi hoá chất, nấm mốc thức ăn, độc tố thực vật.

Do gia súc bị cảm lạnh, bị bỏng.

7.3.3. Cơ chế sinh bệnh

Do những kích thích của bệnh nguyên gây rối loạn thần kinh trung khu, làm ảnh hưởng tới

cơ năng của thần kinh vận mạch, các mao quản toàn thân sinh ra co thắt, nhất là thận sẽ làm

giảm tính thẩm thấu mao quản thận, các chất độc tích lại trong tiểu cầu thận gây nên viêm.

Khi tiểu cầu thận bị viêm, lớp tế bào nội bì sưng và tróc ra, tế bào bạch cầu thâm nhiễm,

mao quản cầu thận co thắt làm cho lượng nước tiểu giảm sinh ra ure huyết gây nên trúng độc.

Do sự co thắt mạch quản, chất renin được sản sinh nhiều, kết hợp với hypertensinogen

trong huyết tương thành hypertensin làm cao huyết áp. Sự thải nước tiểu bị trở ngại, muối NaCl

tích lại trong tổ chức gây nên phù toàn thân. Trong nước tiểu có albumin, tế bào thượng bì,

hống cầu, bạch cầu và trụ niệu.

7.3.4. Triệu chứng

Bệnh ít khi gặp ở thể nguyên phát, thường là kế

phát từ các bệnh khác, khi mắc bệnh con vật thường

có các triệu chứng sau:

Gia súc sốt cao, toàn thân bị ức chế, bỏ ăn và

đau ở vùng thận làm cho con vật đi đái khó khăn,

lưng cong. Khi sờ vào vùng thận con vật có phản

Hình 7.2. Triệu chứng đau thận ở chó bệnh

ứng đau.

Con vật đi tiểu nhiều ở thời kỳ đầu (đa niệu),

176

giai đoạn sau đi tiểu ít (thiểu niệu), nước tiểu đục, có khi có máu,. Bệnh kéo dài gây hiện

tượng phù toàn thân (các vùng phù dễ thấy là ngực, yếm, bụng, chân, âm hộ và mí mắt), có

hiện tượng tràn dịch màng phổi, xoang bụng, xoang bao tim.

Hàm lượng ure tăng cao trong máu gây nhiễm độc, làm cho con vật bị hôn mê, co giật,

nôn mửa, ỉa chảy.

Xét nghiệm nước tiểu có protein niệu, huyết niệu, trụ niệu và tế bào biểu mô tiểu cầu

thận.

Trong máu, số lượng bạch cầu tăng, tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng (nhất là tỷ lệ bạch cầu

non).

7.3.5. Bệnh tích

Thận bị sưng, mặt thận sung huyết hoặc lấm tấm

sung huyết, màng ngoài thận dễ bóc, trong mao quản của

tiểu cầu thận có protein đông đặc, bạch cầu và ít hồng cầu.

Hệ thống nội bì sưng làm cho tiểu cầu thận phình to, tế

bào thượng bì của thận tiểu quản bị thoái hoá hạt và thoái

Hình 7.3. Thận sung và xuất huyết

hoá mỡ (hình 7.3).

Trong nước tiểu có trụ niệu, trụ hạt, trụ hồng cầu, trụ

mỡ,..

7.3.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào đặc điểm của bệnh là: phù, huyết áp cao, giãn tim, thiểu niệu, albumin niệu,

ure huyết, có các loại trụ niệu trong nước tiểu, vùng thận đau, hay kế phát viêm phổi và viêm

ruột.

Cần chẩn đoán phân biệt với:

Bệnh thận cấp và mạn tính: Không đau vùng thận, hàm lượng protein trong nước tiểu rất

nhiều, trong nước tiểu có trụ niệu, không có hiện tượng cao huyết áp.

Bệnh viêm bể thận: không có hiện tượng phù, không cao huyết áp, vùng thận rất mẫn

cảm, nước tiểu đục có nhiều dịch nhầy.

Sỏi thận: không có hiện tượng sốt.

7.3.7. Điều trị

a. Hộ lý

177

Cho gia súc nghỉ ngơi, không cho con vật ăn thức ăn có nhiều muối, thức ăn có nhiều

nước, thức ăn có tính chất kích thích mạnh đối với thận, hạn chế cho uống nước.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chính

Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn

Dùng các thuốc lợi niệu, giải độc, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể

Tiểu gia Đại gia Thuốc Chó, lợn

súc súc

300 - 500 150 - 300 Glucoza 20% 1 - 2 lít

ml ml

Cafein 15 ml 5 - 10 ml 1 - 5 ml

natribenzoat 20%

50 - 70 20 - 30 Canxi clorua 10% 5 - 10 ml

ml ml

50 - 70 10 - 15 Urotropin 10% 30 - 50ml

ml ml

Vitamin C 5% 20 ml 10 ml 3 - 5 ml

Tiêm chậm vào tĩnh mạch.

Ngoài ra có thể cho uống nước râu ngô, bông mã đề hoặc rễ cỏ tranh.

Đề phòng hiện tượng thận nhiễm mỡ, hoặc thoái hoá, giảm viêm (dùng Prednisolon hoặc

Dexamethazon).

7.4. BỆNH THẬN CẤP TÍNH VÀ MẠN TÍNH (Nephrosis acuta et chromica)

7.4.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra ở ống thận, đây là một bệnh toàn thân, là sự tiếp diễn của quá trình

rối loạn trao đổi chất (rối loạn trao đổi protein, lipit, chất khoáng và nước), từ đó gây nên sự

thoái hoá ở mô bào thận tiểu quản và làm rối loạn cơ năng của thận.

Bệnh còn có tên gọi là hội chứng thận hư (vì các kết quả nghiên cứu cho thấy các triệu

chứng của thận hư có thể gặp trong nhiều bệnh cầu thận tiên phát và thứ phát. Tổn thương

thận cũng đa dạng, mặc dù các biểu hiện lâm sàng và sinh hóa tương đối giống nhau).

178

Triệu chứng lâm sàng và sinh hóa được đặc trưng là: Protein niệu nhiều, protein máu

giảm, albumin máu giảm, lipit máu tăng, phù.

7.4.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân do tiên phát

Bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu.

Bệnh cầu thận mạn tính (xơ hóa cầu thận ổ, đoạn, bệnh cầu thận màng, viêm cầu thận

màng tăng sinh; các bệnh viêm cầu thận tăng sinh và xơ hóa khác).

b. Nguyên nhân do kế phát

Kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm cấp tính và mạn tính gây nên (bệnh lao, cúm, lợn

đống dấu, viêm phế mạc truyền nhiễm ở ngựa, bệnh thiếu máu truyền nhiễm).

Do hậu quả của các chứng trúng độc (trúng độc thủy ngân và các kim loại nặng, nấm

mốc độc,...)

Bệnh hệ thống: Các chất độc của cơ thể sản sinh ra do rối loạn trao đổi chất, làm tổn

thương ống thận (chứng xeton huyết, bệnh gan, chứng đái tháo đường)

Khi gia súc bị bỏng nặng,...

7.4.3. Cơ chế sinh bệnh

Người ta cho rằng, bệnh thận không phải bắt nguồn đầu tiên ở thận mà là bệnh của toàn

thân, dẫn đến rối loạn về tính chất lý hoá thể keo trong tổ chức. Sự rối loạn đó là biểu hiện về

trở ngại trao đổi chất (trao đổi protit, lipit, nước, muối NaCl) của cơ thể và gây ra các triệu

chứng lâm sàng, sinh hóa đặc trưng :

Albumin niệu nhiều : Albumin trong huyết tương mang điện tích âm, bình thường nó

khó lọt qua được màng lọc của cầu thận vì lớp điện tích âm của màng lọc cầu thận ngăn cản.

Trong hội chứng thận hư, do lớp điện tích âm của màng nền cầu thận bị hủy hoại(cid:61614) cầu thận

để lọt dễ dàng các phân tử mang điện tích âm như là Albumin, còn globulin là phân tử lớn

không chui ra ngoài mạch quản (cid:61614) hàm lượng globulin trong máu tăng. Khi lượng Albumin

được bài xuất ra ngoài nhiều gây nên giảm lượng albumin trong máu.

Do giảm Albumin trong máu và sự tổng hợp Protein của gan không bù đắp kịp(cid:61614) giảm

áp lực thể keo máu gây ra phù (do nước di chuyển từ lòng mao mạch ra tổ kễ). Cũng do giảm

áp lực thể keo máu và rối loạn điều chỉnh tổng hợp Protein đã kích thích gan tổng hợp

Lipoprotein (cid:61614) tăng lipit máu.

179

Thể tích máu giảm (do thoát dịch ra tổ chức ) gây hoạt hóa hệ Renin – Angiontansin – Aldosteron và hệ thần kinh giao cảm gây tăng tái hấp thu Na+, nước của ống thận (cid:61614) phù. Mặt

khác những chất ứ đọng lại ở thận tiểu quản, cùng với thận tiểu quản bị sưng sẽ làm cho gia

súc bí đái và gây nên phù. Những chất độc sinh ra trong quá trình rối loạn trao đổi chất sẽ phá

hoại các cơ quan trong cơ thể và cuối cùng tập trung về thận và gây nên thoái hoá ở thận tiểu

quản. ở thận tiểu quản hình thành trụ niệu trong, lớp tế bào thượng bì lóc ra và bị vỡ thành

những mảnh nhỏ đọng lại trong tiểu quản hình thành hệ thống trụ niệu hạt. Nếu bệnh ở thể

cấp tính, mới phát hiện thì thận tiểu quản hấp thu mạnh, nước tiểu ít và đặc, trường hợp bệnh

thận mạn tính, làm cho vách thận tiểu quản tái hấp thu kém, làm cho gia súc đi đái nhiều và tỷ

trọng nước tiểu thấp.

7.4.4. Triệu chứng

a. Bệnh nhẹ

Trong nước tiểu có ít albumin, tế bào thượng bì thận và trụ niệu, nước tiểu có tính

toan.

b. Bệnh nặng

Hàm lượng protein trong nước tiểu cao (30%). Cặn nước tiểu có tế bào thượng bì thận,

nhiều loại trụ niệu (trụ trong, trụ sáp, trụ hạt,...).

Trường hợp cấp tính: con vật mệt mỏi, ăn ít, đái ít, lượng nước tiểu giảm và tỷ trọng

cao.

Khi bệnh ở thể mạn tính thì lượng nước tiểu nhiều và tỷ trọng nước tiểu giảm. Gia súc bị

phù nặng ở yếm, âm nang, bốn chân, có khi tràn dịch màng phổi hoặc phúc mạc, gia súc gầy

dần hay bị rối loạn tiêu hoá.

Xét nghiệm máu và nước tiểu thấy: protein toàn phần trong máu giảm, lipít trong máu tăng, nồng độ albumin trong máu thấp, nồng độ Na + trong máu thấp, tốc độ lắng máu tăng, albumin trong nước tiểu nhiều.

7.4.5. Bệnh tích

ở thể nhẹ, thận không sưng hoặc hơi sưng. Trên kính hiển vi thấy tế bào ở quai henler

sưng to thành hình tròn, nguyên sinh chất có hạt, nhân tế bào to, lòng quản hẹp.

Bệnh nặng hơn thận sưng to, mềm, lớp vỏ dày, màu xám. Trên kính hiển vi ngoài hiện

tượng thoái hoá hạt, còn thấy thoái hoá không bào, nhân tế bào bị phá, tế bào nhiễm mỡ.

180

Trong trường hợp tế bào thận bị thoái hoá hạt thì thận sưng to, rắn, cắt ra có màu vàng

đục.

7.4.6. Tiên lượng

Tuỳ theo tính chất của bệnh nguyên mà quyết định tiên lượng. Nếu bệnh nhẹ, khi loại trị

bệnh nguyên, thận sẽ hồi phục, bệnh nặng, thời gian bệnh kéo dài, thận bị thoái hoá rất khó

hồi phục.

7.4.7. Chẩn đoán

Cần nắm được đặc điểm của bệnh: Nước tiểu nhiều protein, có tế bào thượng bì thận, có

trụ niệu (trụ trong, trụ hạt). Gia súc bị phù nặng. Trong trường hợp bệnh thận không ghép

viêm thận thì huyết áp không cao và không bị ure huyết, albumin trong máu giảm, protein

toàn phần giảm, lipít toàn phần tăng.

Cần phải chẩn đoán phân biệt với:

Bệnh viêm thận cấp

Bệnh viêm bể thận.

7.4.8. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: Tiến hành đồng thời 3 vấn đề (điều trị theo cơ chế sinh bệnh, điều trị

triệu chứng, điều trị dự phòng các biến chứng).

a. Hộ lý

Khi không bị ure huyết và chứng ure nước tiểu thì cho ăn những thức ăn có nhiều protein

để bổ sung lượng protein mất qua đường nước tiểu. Hạn chế cho uống nước khi gia súc bị

phù, không cho ăn muối.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc điều trị nguyên nhân chính (ví dụ nếu là hậu quả của bệnh truyền nhiễm thì

dùng kháng sinh can thiệp).

Điều trị theo cơ chế sinh bệnh: (dùng thuốc ức chế miễn dịch - Prednisolon)

Dùng thuốc lợi tiểu, giảm phù tăng sức đề kháng và sát trùng đường niệu

Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc Chó, lợn

Glucoza 20% 1 - 2 lít 400 - 500 ml 150 - 400 ml

Cafein natribenzoat 20% 15 ml 5 - 10 ml 1 - 3 ml

181

Canxi clorua 10% 50 - 70 ml 20 - 30 ml 5 - 10 ml

Urotropin 10% 50 - 70 ml 30 - 50 ml 10 - 15 ml

Vitamin C 5% 20 ml 10 ml 3 - 5 ml

Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.

Điều trị dự phòng các biến chứng (tắc nghẽn tĩnh mạch - do tăng đông máu): Dùng

Aspirin (chống ngưng kết tiểu cầu), hoặc thuốc kháng vitamin K (Syntrom, Wafarin).

7.5. VIÊM BÀNG QUANG CẤP (Cystitis)

7.5.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra trên niêm mạc bàng quang và gây co thắt bàng quang, làm cho con

vật đi tiểu khó. Khi viêm bàng quang còn làm cho quá trình hình thành cuội niệu được dễ

dàng. Bệnh thường thấy ở chó, bò, ngựa, các loại gia súc khác ít gặp.

Tùy theo tính chất viêm mà bệnh các các thể:

Viêm cata

Viêm xuất huyết

Viêm màng giả.

Tùy theo thời gian bệnh có viêm cấp tính hoặc viêm mạn tính.

7.5.2. Nguyên nhân

Do tác động của một số bệnh truyền nhiễm (bệnh dịch tả, phó thương hàn,...) hoặc do tác

động của các loại vi trùng sinh mủ (Staphylococcus, Streptococcus, Colibacille,...) những loại vi

trùng này qua máu hoặc qua thận vào bàng quang, hoặc có sẵn trong bàng quang, khi bàng

quang bị tổn thương hay khi sức đề kháng của cơ thể giảm là cơ hội tốt để vi trùng phát triển và

gây bệnh.

Do viêm thận hoặc viêm niệu quản, quá trình viêm lan xuống bàng quang.

Ở gia súc cái bệnh hay gặp khi bị viêm tử cung hoặc âm đạo.

(cid:68)(cid:111)(cid:32) (cid:99)(cid:184)(cid:99)(cid:32) (cid:107)(cid:221)(cid:99)(cid:104)(cid:32) (cid:116)(cid:104)(cid:221)(cid:99)(cid:104)(cid:32) (cid:99)(cid:172)(cid:32) (cid:103)(cid:105)(cid:237)(cid:105)(cid:32) (cid:40)(cid:100)(cid:239)(cid:110)(cid:103)(cid:32) (cid:232)(cid:110)(cid:103)(cid:32) (cid:116)(cid:104)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32) (cid:110)(cid:105)(cid:214)(cid:117)(cid:32) (cid:174)(cid:185)(cid:111)(cid:44)(cid:32) (cid:100)(cid:111)(cid:32) (cid:99)(cid:117)(cid:233)(cid:105)(cid:32) (cid:110)(cid:105)(cid:214)(cid:117)(cid:32) (cid:107)(cid:221)(cid:99)(cid:104)(cid:32) (cid:116)(cid:104)(cid:221)(cid:99)(cid:104)(cid:32) (cid:118)(cid:181)(cid:111)(cid:32) (cid:118)(cid:184)(cid:99)(cid:104)

(cid:98)(cid:181)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:113)(cid:117)(cid:97)(cid:110)(cid:103)(cid:41)(cid:46)

Do tắc niệu đạo, nước tiểu tích lại trong bàng quang và bị phân giải tạo thành những sản

vật độc, những sản phẩm này kích thích vào niêm mạc bàng quang gây viêm.

182

Do ảnh hưởng của các chất độc.

7.5.3. Cơ chế sinh bệnh

Các yếu tố gây bệnh tác động đến hệ thống nội cảm thụ của niêm mạc bàng quang và

được dẫn truyền lên thần kinh trung ương, từ đó gây nên hiện tượng xung huyết ở niêm mạc

bàng quang (cid:61614) viêm. Các sản phẩm tạo ra trong quá trình viêm như (tương dịch, bạch cầu,

hồng cầu, tế bào thượng bị bàng quang,…) sẽ trở thành môi trường tốt cho vi trùng phát triển.

Những độc tố của vi khuẩn cùng với những chất phân giải của dịch viêm và sự phân giải

của nước tiểu thành amoniac kích thích vào vách niêm mạc bàng quang làm cho bàng quang

bị co thắt(cid:61614) con vật đi đái dắt. Nếu cơ vòng bàng quang co thắt con vật đi đái khó khăn.

Những chất phân giải từ bàng quang và độc tố của vi khuẩn thấm vào máu làm cho gia

súc bị nhiễm độc, gây sốt và có biểu hiện triệu chứng toàn thân.

Khi viêm bàng quang còn làm cho quá trình hình thành cuội niệu được dễ dàng.

7.5.4. Triệu chứng

Con vật đau bàng quang khi đi tiểu, luôn luôn có động tác đi tiểu nhưng nước tiểu ít hoặc

không có. Con vật tỏ vẻ không yên, cong lưng, đau bụng, rên rỉ. Con vật kém ăn, uể oải, thân

nhiệt tăng.

Sờ nắn bàng quang hoặc khám qua trực tràng con vật đau đớn, bàng quang trống rỗng.

Trường hợp cơ vòng bàng quang co thắt, nước tiểu tích đầy trong bàng quang, lên men, có thể

gây vỡ bàng quang, gia súc thở có mùi amoniac.

Nước tiểu thay đổi: Nếu viêm cata thì nước tiểu đục, có chứa nhiều dịch nhày và một ít

protein. Nếu viêm xuất huyết, nước tiểu có máu. Nếu viêm hoá mủ, nước tiểu có mủ vàng

hoặc xanh. Nếu viêm thể màng giả, nước tiểu có màng giả. Trong

cặn nước tiểu có nhiều bạch cầu, hồng cầu, tế bào thượng bì của

bàng quang, màng giả, dịch nhày và vi trùng.

Ở viêm mạn tính, triệu chứng nhẹ, hiện tượng đi tiểu khó và

Hình 7.4. Niêm mạc bàng quang xuất huyết

đau không rõ, gia súc không sốt, bệnh kéo dài.

7.5.5. Bệnh tích

Niêm mạc bàng quang sưng, lấm tấm xuất huyết hay từng

vệt xuất huyết, có dịch nhầy, mủ. Bệnh ở thể nặng trên mặt bàng quang phủ một lớp màng giả,

bàng quang bị loét từng mảng.

183

7.5.6. Tiên lượng

Thể viêm cata thì tiên lượng tốt còn các thể viêm khác thì tiên lượng xấu. Viêm bàng

quang dễ dẫn tới loét hoặc hoại tử bàng quang và viêm bàng quang dẫn tới viêm thận, bể thận,

viêm phúc mạc, gây chứng bại huyết, liệt bàng quang và gia súc chết.

7.5.7. Điều trị

a. Hộ lý

Để gia súc yên tĩnh, cho ăn những loại thức ăn ít kích thích, cho uống nước tự do.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng kháng sinh để tiêu viêm và diệt khuẩn

Dùng thuốc lợi niệu: có thể dùng một trong các loại thuốc sau: (Axetat kali, Diuretin,

Urotropin, bông mã đề, rễ cỏ tranh, râu ngô).

Rửa bàng quang: dùng dung dịch sát trùng (dung dịch KMnO4 0,1%, phèn chua 0,5%,

axit boric 1-2%, axit salicylic 1%, axit tanic 1-2 %, Rivalnol 0,1%,...). Trước khi thụt thuốc sát trùng, nên thụt vào bàng quang nước muối sinh lý ở nhiệt độ 37-390C (ĐGS: 300 ml, TGS: 50 ml). Sau khi cho dung dịch sát trùng vào khoảng 2-3 phút rồi tháo ra. Cuối cùng thụt

kháng sinh vào bàng quang.

Dùng thuốc giảm đau: Anagin, Prozin hoặc phong bế Novocain 0,25% vào đốt sống

lưng.

Chú ý:

Khi bàng quang tích đầy nước tiểu mà niệu đạo bị tắc: hạn chế cho gia súc uống nước,

không dùng thuốc lợi niệu, sau đó dùng thủ thuật để rút nước tiểu ra ngoài.

7.6. VIÊM NIỆU ĐẠO (Uretritis)

7.6.1. Đặc điểm

Quá trình viêm xảy ra ở lớp niêm mạc trong niệu đạo. Trong quá trình bệnh, tuỳ theo

tính chất và thời gian mắc bệnh, bệnh viêm niệu đạo thể hiện ở các thể viêm: viêm cata, viêm

xuất huyết, viêm có fibrin, viêm tương dịch, viêm hoá mủ, viêm cấp tính, viêm mạn tính...

Gia súc cái và gia súc đực giống hay mắc.

7.6.2. Nguyên nhân

Do tác động cơ giới (thường do thông niệu đạo, do cuội niệu làm sây sát niêm mạc gây

viêm).

184

Do viêm lan từ các cơ quan khác đến (viêm bàng quang, viêm âm đạo).

Do kế phát từ một số bệnh kí sinh trùng ở đường niệu đạo.

7.6.3. Triệu chứng

Gia súc luôn luôn đi tiểu, khi đi con vật có cảm giác đau đớn ở đường niệu đạo.

Gia súc đực thì dương vật luôn sưng to, bao quy đầu sưng,

gia súc cái thì âm môn mở, rỉ ra từng giọt nước tiểu có lẫn dịch

nhày (hình 7.5).

Sờ nắn niệu đạo hoặc dùng ống thông làm cho gia súc đau

đớn, khó chịu.

Hình 7.5. Dịch viêm chảy ra ở mép âm môn

(cid:75)(cid:104)(cid:105)(cid:32)(cid:118)(cid:105)(cid:170)(cid:109)(cid:44)(cid:32)(cid:118)(cid:184)(cid:99)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:105)(cid:214)(cid:117)(cid:32)(cid:174)(cid:185)(cid:111)(cid:32)(cid:100)(cid:181)(cid:121)(cid:32)(cid:108)(cid:170)(cid:110)(cid:44)(cid:32)(cid:108)(cid:223)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:110)(cid:105)(cid:214)(cid:117)(cid:32)(cid:174)(cid:185)(cid:111)(cid:32)(cid:104)(cid:209)(cid:112)(cid:32)(cid:108)(cid:185)(cid:105)(cid:44)

(cid:99)(cid:111)(cid:110)(cid:32)(cid:118)(cid:203)(cid:116)(cid:32)(cid:174)(cid:105)(cid:32)(cid:116)(cid:105)(cid:211)(cid:117)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:227)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:168)(cid:110)(cid:46)

(cid:78)(cid:173)(cid:237)(cid:99)(cid:32)(cid:116)(cid:105)(cid:211)(cid:117)(cid:32)(cid:174)(cid:244)(cid:99)(cid:44)(cid:32)(cid:116)(cid:114)(cid:111)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:110)(cid:173)(cid:237)(cid:99)(cid:32)(cid:116)(cid:105)(cid:211)(cid:117)(cid:32)(cid:99)(cid:227)(cid:32)(cid:108)(cid:201)(cid:110)(cid:32)(cid:109)(cid:184)(cid:117)(cid:44)(cid:32)(cid:109)(cid:241)(cid:32)(cid:118)(cid:181)(cid:32)(cid:100)(cid:222)(cid:99)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:104)(cid:181)(cid:121)(cid:46)

7.6.4. Tiên lượng

Bệnh phần lớn có tiên lượng tốt, nhưng nếu bệnh làm lòng niệu đạo hoá sẹo và hẹp lại,

gây nên khó đái.

viêm lan lên bàng quang, bể thận và thận.

Khi nước tiểu tích lại ở niệu đạo sẽ tạo điều kiện cho vi trùng phát triển, từ đó dễ gây

7.6.5. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, sát trùng ở niệu đạo và đề phòng hiện

tượng viêm lan rộng.

a. Hộ lý

Ngừng phối giống đối với gia súc bị bệnh.

Vệ sinh chuồng trại sạch sẽ khô ráo.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc sát trùng đường niệu

Urotropin 20%: Đại gia súc (50-100 ml); Tiểu gia súc (30-50ml/con); Lợn, chó (20-

30ml/con). Tiêm tĩnh mạch ngày 1 lần.

Cho uống salon, axit salicylat.

Dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn

185

Penicillin 10000-15000 UI/kg TT tiêm bắp ngày 2 lần, liên tục 3-5 ngày.

Ampicillin 10 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần, liên tục 3-5 ngày.

Gentamycin 5-10 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần, liên tục 3-5 ngày.

Lincomycin 10-15 mg/kg TT tiêm bắp ngày 1 lần.

Dùng dung dịch sát trùng rửa niệu đạo.

Dùng các biện pháp để tăng cường trợ sức, trợ lực cho gia súc.

Trường hợp viêm niệu đạo gây tắc đái, nước tiểu tích đầy bàng quang phải tìm cách

thoát nước tiểu ra ngoài tránh gây vỡ bàng quang.

Nếu lòng niệu đạo viêm tăng sinh và lòng niệu đạo bị tắc thì dùng thủ thuật ngoại khoa

mở niệu đạo.

Chương 8

BỆNH VỀ MÁU, DINH DƯỠNG (Diseases of blood, nutritional diseases)

Máu có quan hệ mật thiết tới sự sống của cơ thể, nó vận chuyển chất dinh dưỡng đến các

tổ chức và thải tiết những sản phẩm sinh ra trong quá trình trao đổi chất.

Máu có nhiệm vụ trao đổi O2 và CO2 ở phổi và mô bào.

Máu làm nhiệm vụ điều tiết nhiệt cho cơ thể, tham gia vào quá trình thực bào và sản sinh

kháng thể, vận chuyển các chất nội tiết để làm cho các khí quan trong cơ thể liên hệ với nhau

chặt chẽ.

Thành phần hữu hình của máu động vật đều ổn đinh, nó chỉ thay đổi chút ít trong

phạm vi sinh lý. Khi cơ thể bị một kích thích nào đó ở nội tại hoặc các tác động từ bên

ngoài đều có thể làm thay đổi về thành phần và tính chất của máu. Sự thay đổi này phụ

thuộc vào tính chất của bệnh, mức độ của bệnh cũng như diễn biến của quá trình bệnh.

Bệnh của cơ quan tạo máu do nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau dẫn đến mất máu:

như các bệnh truyễn nhiễm, kí sinh trùng, trúng độc, ung thư, các bệnh về rối loạn dinh dưỡng

và trao đổi chất.

Khi máu và cơ quan tạo máu bị bệnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới cơ thể. Những hiện

tượng mất máu và tan máu gây nên thiếu máu, những nhân tố gây bại huyết làm thay đổi bệnh 186

lý trong cơ quan tạo máu. ở các chứng viêm, quá trình gây mủ, những rối loạn về nội tiết có

thể gây nên chứng tăng bạch cầu.

8.1. CHỨNG THIẾU MÁU (Anaemia)

8.1.1. Đặc điểm

Bình thường khối lượng của máu được duy trì ở mức độ gần như hằng định. Do đó, thiếu

máu là giảm số lượng hồng cầu trong một đơn vị dung tích máu, kèm theo giảm hàm lượng

hemoglobin, làm cho hồng cầu thay đổi về chất lẫn lượng. Có rất nhiều cách xếp loại thiếu

máu, song dễ hiểu nhất là cách xếp loại theo cơ chế sinh bệnh. Có thể xếp thành ba nhóm

chính

8.1.2. Thiếu máu do mất máu

Thiếu máu do mất máu là thiếu máu nhược sắc (vì sắt bị mất ra ngoài cơ thể không thu

hồi lại được). Có hai trường hợp mất máu

a. Thiếu máu cấp tính

Do cơ thể bị một lần mất máu với khối lượng lớn, làm cho con vật rối loạn tuần hoàn và

hô hấp nghiêm trọng đồng thời thể hiện rối loạn về thần kinh, do lượng máu ở mao quản thiếu

hụt nhanh chóng, nghiêm trọng nhất là sự thiếu máu não. Trường hợp này thành phần máu

không thay đổi.

b. Thiếu máu thể mạn tính

Do máu chảy ra ngoài liên tục với một khối lượng nhỏ. Trong trường hợp này ngoài sự

thay đổi về số lượng, chất lượng máu cũng thay đổi, thể hiện rõ nhất là sự giảm hồng cầu và

huyết sắc tố.

* Nguyên nhân

Nguyên nhân chủ yếu gây nên mất máu cấp tính

Do vỡ mạch quản (nhất là vỡ động mạch)

Khi gia súc bị ngoại thương, làm phẫu thuật,

Do vỡ một số khí quan trong cơ thể (vỡ gan, lách, dạ dày, xuất huyết phổi,...).

Nguyên nhân gây mất máu mạn tính

Do một số bệnh truyền nhiễm mạn tính.

Bệnh ký sinh trùng, bệnh nội khoa mạn tính.

187

* Cơ chế sinh bệnh

Trường hợp mất máu cấp tính gây nên thiếu máu não, dẫn đến tế bào thần kinh ở vỏ não

bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gia súc chết trong thời gian ngắn. Khi mất máu, lượng máu ở tim

và mạch quản giảm, áp lực ở xoang và động mạch cổ giảm, từ đó kích thích thần kinh giao

cảm làm cho tim đập nhanh, mạch quản co lại, đồng tử mắt dãn rộng, vã mồ hôi. Hơn nữa do

lượng oxy trong máu giảm làm cho gia súc ngạt thở. Khi lượng máu ở mạch quản giảm, máu

ở các cơ quan dự trữ trong cơ thể (như lách) dồn vào mạch quản, tiếp đó dịch tổ chức cũng

dồn vào mạch quản làm cho con vật có cảm giác khát nước.

Trường hợp mất máu mạn tính: Huyết cầu sẽ thay đổi về số lượng và chất lượng. Sự thay

đổi chẳng những phụ thuộc vào số lượng máu mất mà còn phụ thuộc vào khả năng tái sinh

của cơ quan tạo máu. Trường hợp mất máu mạn tính, trong máu xuất hiện nhiều hồng cầu

non, hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng. Nếu mất máu trường diễn có thể

dẫn tới một số cơ quan ngoài tuỷ xương cũng tạo máu (như gan, lách, hạch lâm ba).

* Triệu chứng

Trường hợp mất máu cấp tính: làm cho cơ thể suy sụp rất nhanh chóng. Gia súc toát mồ

hôi, lạnh, cơ run rẩy, khó thở, niêm mạc trắng bệch (như màu chén sứ), gia súc rất khát nước.

Nhiệt độ cơ thể hạ dần, mạch yếu, tim đập nhanh, huyết áp hạ đột

ngột, tiếng tim thứ hai giảm. Trong máu số lượng hồng cầu giảm,

lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu và huyết tiểu bản tăng

(hình 8.1).

Trường hợp mất máu mạn tính: con vật mệt mỏi, yếu dần,

mất khả năng làm việc, niêm mạc nhợt nhạt. Trong máu xuất hiện

các dạng hồng cầu bệnh lý, số lượng hồng (cid:99)(cid:199)(cid:117)(cid:32)(cid:118)(cid:181)(cid:32)(cid:108)(cid:173)(cid:238)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:104)(cid:117)(cid:121)(cid:213)(cid:116)(cid:32)(cid:115)(cid:190)(cid:99)

Hình 8.1. Niêm mạc mắt nhợt (cid:110)(cid:104)(cid:185)(cid:116)

(cid:116)(cid:232)(cid:32)(cid:103)(cid:105)(cid:182)(cid:109)(cid:46)

* Tiên lượng

Tiên lượng của bệnh phụ thuộc vào lượng máu của cơ thể mất nhiều hay ít, phụ thuộc

vào vị trí nơi chảy máu và cơ quan bị mất máu.

* Điều trị

Nguyên tắc điều trị: loại trừ nguyên nhân gây chảy máu, đề phòng chảy máu tiếp tục, bổ

sung lượng máu đã mất cho cơ thể và kích thích sự tạo máu.

Trường hợp mất máu cấp

188

Nếu chảy máu bên ngoài: dùng các thủ thuật ngoại khoa để cầm máu.

Nếu chảy máu bên trong: dùng các thuốc làm co mạch quản, làm xúc tiến quá trình đông

máu ở nơi có máu chảy.

Trường hợp mất máu mạn tính

Cho gia súc uống sắt hoàn nguyên (FeCl2), kết hợp với vitamin C để tăng cường quá

trình tạo máu. Gia súc ăn thịt cho ăn thêm gan. Dùng vitamin B12 tiêm cho gia súc.

Chú ý:

Trường hợp gia súc bị chảy máu phổi không được dùng Adrenalin để tiêm (vì nó làm

giãn mạch quản phổi).

Tiếp máu khi gia súc bị mất máu cấp tính: số lượng máu tiếp tuỳ thuộc vào số lượng máu

mất và phản ứng của cơ thể (có thể từ 0,1- 2 lít). Nếu không có máu tiếp, phải dùng nước sinh

lý để duy trì huyết áp bình thường của gia súc.

8.1.3. Thiếu máu do dung huyết

Là chứng thiếu máu gây nên bởi hồng cầu bị phá huỷ hàng loạt, làm cho gia súc có hiện

tượng hoàng đản.

a. Nguyên nhân

Do gia súc mắc một số bệnh truyễn nhiễm hoặc ký sinh trùng (xoắn khuẩn, tiên mao

trùng, lê dạng trùng, biên trùng,...).

Do gia súc bị trúng độc các loại hoá chất (Pb, Hg, Cloroforin,...).

Do bị ung thư, bị bỏng lâu ngày, hoặc bị nhiễm trùng huyết.

b. Cơ chế sinh bệnh

Do suy tuỷ, dẫn tới cơ năng tạo huyết bị rối loạn.

Những độc tố của vi sinh vật, ký sinh trùng hay những chất độc khác từ bên ngoài cơ thể

thông qua phản xạ thần kinh trung ương sẽ phá hoại cơ năng của cơ quan tạo máu. Trong quá

trình viêm hàng loạt các tế bào máu (bạch cầu, hồng cầu, huyết tiểu bản) bị phá vỡ. Do hồng

cầu bị phá vỡ, lượng bilirubin tăng lên trong huyết thanh (chủ yếu là hemobilirubin).Do vậy,

trên lâm sàng con vật có hiện tượng hoàng đản. Mặt khác do hồng cầu bị vỡ nhiều làm cho

con vật bị suy nhược dẫn đến chết.

c. Triệu chứng

189

Gia súc kém ăn, da khô, lông xù, thở nông, tim đập nhanh,

niêm mạc mắt nhợt nhạt có màu vàng, da cũng có màu vàng.

Trâu bò bị bệnh thường liệt dạ cỏ, giảm sản lượng sữa.

Xét nghiệm máu thấy: Số lượng hồng cầu giảm nhiều,

trong máu xuất hiện hồng cầu dị hình (hồng cầu đa sắc, hình

lưới), sức kháng hồng cầu giảm, số lượng bạch cầu thường

Hình 8.2. Bò bị thiếu máu

không tăng. Trong huyết thanh hàm lượng hemobilirubin tăng

cao, phản ứng vandenberg gián tiếp.

Trong nước tiểu xuất hiện hemoglobin niệu, lượng urobilin tăng.

Trong phân, lượng stekobilin tăng, phân có màu đậm.

Khi mổ khám có hiện tượng lá lách sưng to, gan cũng hơi sưng có hiện tượng hoại tử

hoặc thoái hoá mỡ.

d. Chẩn đoán

Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng điển hình và kết quả xét nghiệm máu, nước tiểu. Đồng

thời cần chú ý kiểm tra ký sinh trùng đường máu, thức ăn, thuốc hoặc hoá chất đã dùng cho

gia súc.

e. Điều trị

Căn cứ vào tính chất của bệnh nguyên để tiến hành điều trị. Nếu là bệnh truyền nhiễm

hay ký sinh trùng đường máu phải điều trị những bệnh trên. Nếu là trúng độc, tìm biện pháp

giải độc.

* Hộ lý

Tăng cường chăm sóc và nuôi dưỡng tốt gia súc. Bổ sung vào thức ăn những nguyên tố

vi lượng và protein để tạo hồng cầu.

* Dùng thuốc điều trị

Trong trường hợp số lượng hồng cầu bị phá huỷ ít: Dùng các thuốc có tác dụng làm tăng

hồng cầu.

Cho uống viên sắt: ĐGS (5-10 g/con/ngày); TGS (2-3 g/con/ngày); Chó (1g/con/ngày).

Tiêm vitamin B12 : ĐGS (2000-3000 (cid:61543)/con); TGS (1000 (cid:61543)/con); chó (200-500 (cid:61543)/con).

Dùng các loại thuốc làm tăng cường cơ năng của gan

190

Philatopgan: ĐGS (10ml/con/ngày); TGS (5ml/con/ngày); Lợn, chó (2-5ml/con/ngày). Tiêm

hoặc cho uống tùy theo chế phẩm thuốc.

8.1.4. Thiếu máu do rối loạn chức phận tạo máu

Quá trình tạo máu cần những nguyên liệu như sắt, protein, vitamin và sự hoạt động bình

thường của cơ quan tạo máu. Loại thiếu máu này rất phức tạp. Trong nhóm này người ta

thường gặp:

Thiếu máu do thiếu sắt.

Thiếu máu do thiếu protein.

Thiếu máu do thiếu vitamin (vitamin C, B12).

Thiếu máu do tủy xương kém hoặc không hoạt động.

8.2. CHỨNG THIẾU VITAMIN (Hypo vitaminosis)

Vitamin là những hợp chất hữu cơ, với một số lượng ít nhưng nó lại có tác dụng vô cùng

quan trọng trong quá trình trao đổi chất của cơ thể. Nó có nhiều trong các loại thức ăn động

vật và thực vật.

Vitamin chia làm 2 loại:

Vitamin tan trong mỡ gồm các loại vitamin A, D, E, K.

Vitamin tan trong nước gồm các loại vitamin nhóm B và vitamin nhóm C.

Khi cơ thể gia súc thiếu vitamin, tuỳ theo thiếu loại vitamin nào sẽ biểu hiện trên lâm

sàng những triệu chứng đặc hiệu. Khi thiếu vitamin đều dẫn đến giảm ăn, chậm lớn, suy dinh

dưỡng, thiếu máu, tiêu chảy, viêm phổi.

8.2.1. Thiếu vitamin A (A- Hypovitaminosis)

a. Đặc điểm

Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá, lòng đỏ trứng, caroten (tiền vitamin A) có nhiều

trong quả gấc, ớt, cà chua, đu đủ...

Thiếu vitamin A sẽ đưa gia súc đến gầy sút, mắt khô, viêm giác mạc. Bệnh thường xảy

ra ở gia súc non, gây tổn thất lớn cho chăn nuôi.

b. Nguyên nhân

Do sữa mẹ không đủ lượng caroten.

191

Do gia súc thiếu thức ăn xanh trong mùa đông.

Do gia súc mắc bệnh đường tiêu hoá, ảnh hưởng tới sự hấp thu vitamin.

c. Triệu chứng

Đối với gia súc non: con vật kém ăn, chậm lớn, viêm kết mạc, giác mạc, mắt khô, gầy

yếu, lông xù, thiếu máu.

Đối với gia súc cái: hay bị sẩy thai, sát nhau, viêm tử cung.

Ở lợn có hiện tượng khô mắt và viêm giác mạc biểu hiện không rõ nhưng có triệu chứng

thần kinh, thị lực kém, bệnh nặng có hiện tượng co giật hoặc hôn mê.

Bệnh với gà rất nghiêm trọng (đặc biệt là gà con), gà bị viêm kết mạc, mắt sưng chảy

nước hoặc thành bọc mủ, có bã đậu, nhãn cầu đục, cuống lưỡi, vòm khẩu cái, họng và thực

quản có nổi mụn lấm tấm, mũi có dịch nhầy, mào nhạt màu, thở khó, có lớp màng giả dễ bóc

ở thanh quản, dưới lớp niêm mạc không bị loét. Trường hợp này cần phân biệt với bệnh đậu

gà ở thể màng giả, ở bệnh đậu này lớp màng giả khó bóc, lớp niêm mạc ở dưới có vết loét và

chảy máu.

d. Phòng trị bệnh

* Hộ lý

Phải kịp thời bổ sung vitamin A hoặc thức ăn có nhiều vitamin A vào khẩu phần (gia súc

sơ sinh phải lưu tâm cho bú sữa đầu).

Tăng cường các loại thức ăn cho nhiều caroten như cỏ khô, các loại củ quả, cà rốt, bí

đỏ...

* Dùng thuốc điều trị

Dùng dầu cá tiêm cho con vật: bò (10-20 ml/con); Lợn (5-10 ml/con). Tiêm dưới da hoặc

tiêm bắp thịt. Đối với gà có thể trộn dầu cá với thức ăn cho gà ăn.

Dùng vitamin A: bò (50000-100000 UI/con); Lợn (25000-30000 UI/con)

Chữa theo triệu chứng các bệnh kế phát: như viêm kết mạc, viêm ruột, viêm phổi.

8.2.2

. Thiếu vitamin B1 (B1 - Hypovitaminosis)

a. Đặc điểm

192

Vitamin B1 giữ vị trí quan trọng trong hệ thống trao đổi chất, đặc biệt đối với chuyển

hoá gluxit và trong hoạt động thần kinh.

Đối với trao đổi gluxit, vitamin B1 còn làm tăng hấp thu đường ở vách ruột vào máu.

Đối với hoạt động của thần kinh nó có tác dụng ức chế men cholinsteraza làm giảm sự

thuỷ phân axetylcholin, nên khi thiếu vitamin B1, cholinsteraza hoạt động mạnh làm cho hoạt

động thần kinh bị rối loạn, với biểu hiện bên ngoài là hiện tượng co giật và bại liệt.

Khi thiếu vitamin B1, quá trình khử cacboxyl của các xetoaxit bị ngừng trệ làm cho

lượng axit pyruvic, axit oxaloaxetic, axit (cid:61537)- xetoglutamic,... tăng lên trong máu. Hiện tượng

này dẫn đến trạng thái toan huyết do thể xeton.

b. Triệu chứng

Khi thức ăn thiếu vitamin B1 gia súc thường phát sinh chứng phù thũng và viêm thần

kinh, có biểu hiện ở nhiều cơ quan như bắp thịt, cơ tim, ống tiêu hoá,... Thần kinh bị viêm,

thường gây hiện tượng co giật, bại liệt tứ chi và có những biến đổi thoái hoá ở tổ chức.

Chứng thiếu vitamin B1 thấy rõ nhất ở ngỗng, gà, vịt, làm con vật giảm ăn, lông xù, ỉa

chảy, liệt cơ hoặc co giật. ở bò khi thiếu vitamin B1 sẽ mắc bệnh lưỡi đen, giảm ăn.

c. Cách phòng trị

Đối với gia súc (đặc biệt ở bò sữa) cho ăn men bia từ 25-100 g/ngày, trộn lẫn với thức ăn

hoặc cho ăn cám ủ lên men rượu.

Dùng vitamin B1 tiêm bắp hoặc dưới da: ĐGS (2 g/ngày); TGS (0,5-1 g/ngày); Lợn, chó

(0,3-0,5g/ngày).

8.2.3. Thiếu vitamin C (C- Hypovitaminosis)

a. Đặc điểm

Vitamin C còn có tên gọi là axit ascorbic, vitamin chống bệnh Scorbut. Loại vitamin này

khó bảo quản vì dễ bị oxy hoá khi gặp nhiệt độ hơi cao.

Vitamin C tham gia vào sự hô hấp của tế bào, tăng tính đông của máu và khả năng kháng

thể. Vitamin C nâng đỡ tác động của men khác thúc đẩy sự cấu tạo của sụn xương, củng cố

vách mạch quản. Nó có tác dụng tốt trong việc chống nhiễm trùng và giảm sốt.

b. Triệu chứng

193

Thiếu vitamin C sẽ gây hiện tượng xuất huyết ở niêm mạc (như niêm mạc lợi, chân răng,

niêm mạc trong nội tạng) và tổ chức dưới da. ở chó khi thiếu vitamin C thường thấy viêm

miệng, viêm dạ dày, ruột, xuất huyết, con vật nôn mửa, đái ra máu.

c. Điều trị

Đối với chó, mèo cho ăn thêm gan, thận, nước chanh, cà chua sống.

Đối với loài ăn cỏ, tăng cường cho ăn các loại củ, quả, cỏ tươi.

Có thể bổ sung vitamin C vào thức ăn với liều lượng 100-200 mg/kg thức ăn.

Tiêm vitamin C trực tiếp vào mạch máu.

8.3. CHỨNG SUY DINH DƯỠNG (Dystrophia)

Gia súc non toàn đàn hay trong một đàn có một số con gầy yếu, còi cọc, chậm lớn, đó là

hiện tượng suy dinh dưỡng.

a. Nguyên nhân

Do gia súc mẹ trong thời kỳ mang thai ít được bồi dưỡng, thức ăn thiếu protein, khoáng,

vitamin.

Gia súc mẹ bị mắc bệnh làm ảnh hưởng đến chất lượng sữa, hoặc do phối giống đồng

huyết làm quá trình trao đổi chất của gia súc non giảm, dẫn đến còi cọc, chậm lớn.

b. Cơ chế sinh bệnh

Gia súc non bị bệnh như viêm ruột, viêm phổi, ký sinh trùng,...

Quá trình dẫn đến suy dinh dưỡng, đầu tiên thường bắt đầu bằng rối loạn tiêu hoá, làm

khả năng vận động và tiết dịch của dạ dày và ruột giảm, từ đó các chất đạm, khoáng, sinh tố

được hấp thu kém. Từ suy dinh dưỡng sẽ làm cho quá trình hưng phấn của vỏ não, do đó mất

khả năng điều chỉnh các trung khu dưới võ não. Mặt khác để duy trì sự sống, cơ thể phải tiêu

hao năng lượng của bản thân chúng, làm cơ thể ngày càng gày yếu, sức đề kháng cũng giảm,

con vật hay mắc bênh hoặc quá suy nhược mà chết.

c. Triệu chứng

Con vật bị suy dinh dưỡng thường chậm lớn, lông xù (hình 8.3), niêm mạc nhợt nhạt, 4

chân yếu, đi không vững, thích nằm một chỗ đôi khi có hiện tượng phù. Thở nhanh và nông,

194

tim đập nhanh, nhu động dạ dày và ruột giảm, khi thức ăn trong ruột tích lại lên men sinh ra ỉa

chảy. Thân nhiệt thường thấp.

Kiểm tra máu: Hàm lượng huyết sắc tố giảm, số

lượng hồng cầu và bạch cầu giảm, tỷ lệ lâm ba cầu

tăng, trong máu xuất hiện các dạng hồng cầu non.

d. Bệnh tích

Con vật thường da khô, lông xù, đôi khi xuất hiện

Hình 8.3. Lợn còi cọc

thuỷ thũng dưới hầu, trước ngực, âm nang. Khi mổ

không thấy lớp mỡ dưới da, thịt trắng bệch. Cơ tim

nhão, lớp mỡ vành tim bị thoái hoá keo. Phổi teo lại, có từng đám bị xẹp, gan bị teo và nhợt

nhạt.

e. phòng trị

Cải thiện chế độ dinh dưỡng cho con mẹ.

Con con đẻ ra phải cho bú sữa đầu.

Giữ cho nhiệt độ chuồng nuôi ấm và sạch

Tập cho gia súc non ăn sớm.

195

Chương 9 BỆNH VỀ TRAO ĐỔI CHẤT, THẦN KINH, BỆNH VỀ DA

(Disorder of metabolism, nervous diseases, skin diseases)

Trao đổi chất ở động vật là dấu hiệu cơ bản của sự sống. Cơ thể động vật sinh ra, phát

triển, sống và chết đi đều là do kết quả của sự trao đổi vật chất.

Sự trao đổi chất ở động vật gồm có hai quá trình cơ bản liên quan mật thiết với nhau là

đồng hóa và dị hóa

Đồng hóa

Là quá trình tiêu thụ các chất dinh dưỡng đưa từ môi trường xung quanh vào cơ thể động

vật. Để đảm cho các quá trình hoạt động sống được tiến hành bình thường cơ thể cần có các

chất oxy, nước, protein, lipit, gluxit, muối khoáng và nhiều hợp chất khác. Trong quá trình

hoạt động sống, cơ thể động vật sẽ biến chúng thành các dạng dễ tiêu thụ và sau đó dùng vào

việc khôi phục hoặc đổi mới các bộ phận cơ thể của mình hoặc vào việc tổng hợp rất nhiều

hợp chất hữu cơ phức tạp sẵn có của cơ thể.

Dị hóa

Là quá trình ngược với đồng hóa. Nó thể hiện ở sự phân hủy sâu sắc các bộ phận của cơ

thể động vật thành những chất giản đơn sau đó thải ra môi trường xung quanh các sản phẩm

cuối cùng của hoạt động sống.

Khi trao đổi chất trong quá trình dị hóa có sự giải phóng năng lượng cần thiết để thực

hiện các chức năng sống của cơ thể động vật.

Khi điều kiện sống thay đổi ở động vật thì đặc điểm trao đổi chất cũng thay đổi và ở mức

độ nhất định nào đó sẽ gây nên sự rối loạn trao đổi chất, từ đó làm cho cơ thể lâm vào trạng

thái bệnh lý.

Tùy theo sự rối loạn các chất trong cơ thể mà gây nên những trạng thái bệnh lý khác

nhau. Ví dụ khi rối loạn trao đổi gluxit sẽ gây nên chứng xeton huyết. Khi rối loạn trao đổi

canxi, phospho sẽ gây nên hiện tượng còi xương, mềm xương.

196

Hệ thống thần kinh thực hiện sự thống nhất hoạt động của các khí quan, tổ chức trong

cơ thể; giữ thăng bằng giữa cơ thể và ngoại cảnh. Một cơ thể bị bệnh thì các cơ năng, nhất là

cơ năng phản xạ bảo vệ của hệ thần kinh rối loạn. Bệnh phát sinh và quá trình phát triển của

bệnh lý ít nhiều phản ánh trong trạng thái hoạt động của hệ thần kinh. Khi hệ thần kinh bị

bệnh thường dẫn đến:

Rối loạn cơ năng thần kinh trung khu

Rối loạn chức năng vận động của cơ thể

Rối loạn về ý thức

Rối loạn về cảm giác và phản xạ.

Da là một tổ chức bao bọc cơ thể nhưng nó có mối liên hệ chặt chẽ với các khí quan bên

trong và chịu sự điều tiết của thần kinh trung ương. Do đó những bệnh tích trên da có thể liên

quan đến một số bệnh của cơ quan nội tạng khác và rối loạn hiện tượng trao đổi chất của cơ

thể.

Da có chức năng chống các kích thích cơ giới, nhiệt và hoá học, da giúp cơ thể điều tiết

nhiệt, hô hấp và thải những chất cặn bã ra ngoài.

Khi bị tổn thương, lớp biểu bì của da có khả năng tái sinh rất nhanh để hàn gắn vết

thương.

9.1. CHỨNG XETON HUYẾT (Ketonic)

9.1.1. Đặc điểm

Chứng xeton huyết là kết quả của sự rối loạn trao đổi lipit và protein. Trong máu và

trong tổ chức chứa nhiều thể xeton gây triệu chứng thần kinh ở con vật, đồng thời hàm lượng

đường huyết giảm xuống rõ rệt.

Hậu quả của sự tăng các axit xetonic trong máu là:

Ức chế sự bài tiết axit uric máu theo thận dẫn đến tăng axit trong máu. Hậu quả xuất hiện

các cơn co rút cơ.

Làm nhiễm axit chuyển hóa và gây mất nhiều cation trong nước tiểu dẫn đến rối loạn hô

hấp và nhiễm axit trong dịch não tủy.

Làm giảm thu nhận oxy ở não và ức chế một cách tổng quát sự thu nhận glucoza, axit

pyruvat ở não dẫn đến cơ thể mệt mỏi, ủ rũ.

Bệnh thường xảy ra ở bò sữa có sản lượng cao, thiếu vận động, thức ăn nhiều đạm, mỡ.

197

9.1.2. Nguyên nhân

Do phối hợp khẩu phần thức ăn chưa đúng. Trong khẩu phần thức ăn thiếu gluxit, nhưng

tỷ lệ protein và lipit lại quá nhiều.

Do kế phát từ chứng đường niệu, do bệnh gan, do thiếu insulin nên sự tổng hợp glycogen

kém, cơ thể không giữ được đường.

9.1.3. Cơ chế sinh bệnh

Ở cơ thể gia súc khoẻ, trao đổi chất tiến hành bình thường, hàm lượng thể xeton trong

máu thấp (1-2 mg%). Khi hàm lượng đường không đủ cung cấp năng lượng cho cơ thể, trong

khi đó thức ăn chứa nhiều đạm và mỡ thì cơ thể phải dùng mỡ và đạm làm chất tạo năng

lượng chủ yếu cho cơ thể thì hàm lượng xeton trong máu tăng lên rất nhiều (200-300 mg%),

gây hiện tượng xeton huyết (cơ thể phân giải nhiều lipit, protit, lượng Axetyl. Coenzim A sản

sinh quá nhiều, chúng không hoàn toàn đi vào chu trình Krebs, lượng còn thừa sẽ thành thể

xeton.). Thể xeton tăng trong máu chủ yếu là axit (cid:61538) oxybutyric; axit axetoaxetic; axeton. Các

thể xeton mang tính chất toan, nếu tích nhiều trong máu sẽ làm giảm độ dự trữ kiềm gây nên

trúng độc toan, làm rối loạn sâu sắc các quá trình sinh hoá của cơ thể, con bệnh thường chết

trong trạng thái hôn mê. Các thể xeton trong máu vào phổi, thận, tuyến vú. Do vậy trong hơi

thở, sữa, nước tiểu của con vật bệnh cũng có thể xeton.

9.1.4. Triệu chứng

Trong giai đoạn đầu (nhất là đối với bò sữa có sản lượng cao) con vật biểu hiện rối loạn

tiêu hoá, thích ăn thức ăn thô xanh chứa nhiều nước, con vật ăn dở, chảy dãi, nhai giả, nhu

động dạ cỏ giảm hoặc liệt, giảm nhai lại. Sau đó có hiện tượng viêm ruột thể cata, đi ỉa chảy,

phân đen, có chất nhầy, thỉnh thoảng đau bụng. Con vật gầy dần, sản lượng sữa giảm.

Giai đoạn bệnh tiến triển: con vật ủ rũ, mệt mỏi, đi lại

loạng choạng, thích nằm lì, mắt lim dim. Con vật có triệu

chứng thần kinh bắt đầu bằng những cơn điên cuồng, mắt

trợn ngược, dựa đầu vào tường, hai chân trước đứng bắt

chéo hay choạng ra, lưng cong, cơ cổ và cơ ngực co giật.

Hình 9.1. Bò liệt do chứng xeton huyết

Cuối thời kỳ bệnh: con vật bị liệt hai chân sau, phản xạ

kém, nằm lì một chỗ, đầu gục vào mé ngực.

Trong quá trình bệnh nhiệt độ cơ thể thường giảm, thở sâu và chậm, thở thể bụng, tần số

mạch ít thay đổi nhưng khi suy tim thì tần số mạch tăng.

198

Vùng âm đục của gan mở rộng, khám vùng gan con vật có phản ứng đau, gan bị thoái

hoá mỡ.

Da rất nhạy cảm, khi chạm vào da con vật có cảm giác đau đớn.

Nước tiểu trong, tỷ trọng nước tiểu thấp, có mùi xeton, lượng xeton trong nước tiểu có

thể đạt tới 100 mg /l.

9.1.5. Tiên lượng

Bệnh thường ở thể mạn tính, kéo dài vài tuần. Nếu gia súc nằm lì, chữa không kịp thời

thì tiên lượng xấu.

9.1.6. Chẩn đoán

Điều tra khẩu phần thức ăn của gia súc.

Nắm vững những đặc điểm của bệnh là rối loạn tiêu hoá, liệt dạ cỏ, ỉa chảy. Trong hơi

thở, sữa, nước tiểu có mùi xeton. Con vật tê liệt, nằm lì gục đầu về phía ngực. Hàm lượng

xeton tăng trong máu và nước tiểu, còn hàm lượng đường huyết giảm.

Khi chẩn đoán cần phân biệt với những bệnh sau:

Liệt sau khi đẻ: bệnh xảy ra ngay sau khi đẻ 1-3 ngày, trong nước tiểu không có mùi

xeton. Dùng phương pháp bơm không khí vào vú có thể chữa khỏi.

Liệt dạ cỏ: Bệnh này không có xeton trong nước tiểu.

9.1.7. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: Cải thiện khẩu phần thức ăn cho gia súc. Cho ăn thức ăn dễ tiêu,

giảm tỷ lệ đạm mỡ. Tăng cường sự hình thành glycogen để tránh nhiễm độc toan.

a. Hộ lý

Cho gia súc ăn thêm các loại thức ăn như cây ngô, ngọn mía, bã đường, tăng cường hộ

lý, chăm sóc, cho gia súc vận động.

b. Dùng thuốc điều trị

Trường hợp bệnh nặng

Bổ sung đường glucoza vào máu

Dung dịch glucoza 20- 40%, tiêm tĩnh mạch 200-300 ml/con, vài giờ tiêm một lần.

Cho uống nước đường: hoà 200 - 400 g đường với 1- 2 lít nước ấm, cho uống 2-3 lần

trong ngày.

199

Đề phòng nhiễm độc toan: cho uống bicarbonat natri từ 50 -100 g, cho uống 3-4 giờ một

lần.

Kích thích nhu động dạ cỏ và nhuận tràng: cho uống natrisulfat 300-500 g/con.

Trường hợp gia súc có triệu chứng thần kinh: Dùng thuốc an thần.

Trường hợp bệnh gây nên do thiếu Insulin: Insulin (40-80 UI) kết hợp với dung dịch

glucoza 20-40% (200-300 ml). Dùng tiêm tĩnh mạch 2 ngày 1 lần.

Dùng thuốc trợ sức, trợ lực cho gia súc.

9.2. BỆNH CÒI XƯƠNG (Rachitis)

9.2.1. Đặc điểm

Bệnh còi xương là một loại bệnh ở gia súc non đang trong thời kỳ phát triển, do trở ngại

về trao đổi canxi, phospho và vitamin D gây ra.

Do thiéu canxi và phospho mà tổ chức xương không được canxi hoá hoàn toàn nên

xương phát triển kém.

Bệnh thường gặp ở chó, lợn, cừu, bê, nghé. Bệnh phát triển vào mùa đông và những nơi

có điều kiện vệ sinh, chăn nuôi kém.

9.2.2. Nguyên nhân

Do thức ăn (hoặc sữa mẹ) thiếu canxi, phospho, vitamin D. Hoặc tỷ lệ giữa Ca /P không

thích hợp.

Do gia súc ít được chăn thả, chuồng trại thiếu ánh sáng ảnh hưởng đến tổng hợp vitamin

D.

Do gia súc bị bệnh đường ruột làm trở ngại đến hấp thu khoáng.

Gia súc thiểu năng tuyến phó giáp trạng gây mất cân bằng tỷ lệ canxi, phospho trong

máu.

9.2.3. Cơ chế sinh bệnh

Khi hàm lượng Canxi trong cơ thể giảm, tỷ lệ Ca/P bị phá vỡ ảnh hưởng tới sự tạo xương

và sụn nhất là sự cốt hoá ở các đầu xương. Do vậy, xương bị biến dạng, đặc biệt rõ ở xương

ống. Trên lâm sàng những con bị bệnh, xương ống thường cong queo, ảnh hưởng đến vận

động, làm cho gia súc què hoặc liệt.

200

Ngoài hiện tượng xương bị biến dạng, khi thiếu Canxi còn gây triệu chứng co giật ở con

vật bị bệnh. Cũng do thiếu Canxi, Phospho con vật hay ăn bậy nên dễ mắc bệnh đường tieu

hoá, vật ngày càng gầy, chậm lớn, khả năng kháng bệnh kém.

9.2.4. Triệu chứng

Giai đoạn đầu: của bệnh con vật thường giảm ăn, tiêu hoá kém, thích nằm, có hiện tượng

đau các khớp xương.

Giai đoạn bệnh tiến triển: Con vật hay ăn dở,

liếm bậy bạ, mọc răng và thay răng chậm. ở lợn còn có

triệu chứng co giật từng cơn.

Cuối thời kỳ bệnh: xương biến dạng (hình 9.2),

các khớp sưng to, các xương ống chân cong queo, sống

lưng cong lên hay vặn vẹo, lồng ngực và xương chậu

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:57)(cid:46)(cid:50)(cid:46)(cid:32)(cid:88)(cid:173)(cid:172)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:169)(cid:110)(cid:32)(cid:98)(cid:105)(cid:213)(cid:110)(cid:32)(cid:100)(cid:185)(cid:110)(cid:103)

hẹp, xương ức lồi... con vật gầy yếu, hay kế phát các

bệnh khác.

Nếu không kế phát các bệnh khác thì trong suốt quá trình bệnh con vật không sốt.

9.2.5. Tiên lượng

Bệnh tiến triển chậm, nếu phát hiện sớm chỉ cần điều chỉnh trở lại khẩu phần ăn, cho gia

súc tắm nắng hoặc bổ sung vitamin D thì có thể khỏi. Nếu không chữa kịp thời gia súc ngày

một gầy yếu, khó chữa và hay kế phát những bệnh khác.

9.2.6. Chẩn đoán

Bệnh lúc đầu khó chẩn đoán, đến giai đoạn xương biến dạng dễ phát hiện.

Khi khám bệnh chú ý các triệu chứng lâm sàng, tiến hành điều tra khẩu phần ăn, nếu có

điều kiện thì chiếu X quang để chẩn đoán.

9.2.7. Điều trị

a. Hộ lý

Cải thiện khẩu phần ăn, bổ sung canxi, phospho và vitamin D, vệ sinh chuồng trại, tăng

cường chăn thả ngoài trời. Nếu gia súc bị liệt cần lót ổ rơm, cỏ khô và thường xuyên trở mình

cho gia súc.

b. Dùng thuốc điều trị

201

Bổ sung vitamin D.

Bổ sung canxi trực tiếp vào máu.

Dùng một trong các chế phẩm (canxi clorua 10%; Gluconatcanxi 10%; canxi-For;

polycan; Magie-canxi-For; Calbiron).

Dùng thuốc điều trị triệu chứng các bệnh kế phát.

Dùng thuốc tăng cường trương lực cơ và bổ thần kinh: Strychninsulfat 0,1% kết hợp với

vitamin B1. Tiêm bắp ngày 1 lần.

Chú ý:

Không dùng Strychnin liên tục quá 10 ngày

Nơi có điều kiện nên tiến hành chiếu tia tử ngoại.

9.3. BỆNH MỀM XƯƠNG (Osteo malacia)

9.3.1. Đặc điểm

Bệnh mềm xương là bệnh của gia súc trưởng thành, thường gặp ở gia súc cái có chửa

hoặc cho con bú. Bệnh gây cho xương bị mềm, xốp rồi sinh ra biến dạng.

9.3.2. Nguyên nhân

Do trong khẩu phần ăn thiếu canxi, phospho lâu ngày, hoặc tỷ lệ Ca /P không thích hợp.

Do thiếu vitamin D, gia súc thiếu vận động, ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời.

Do khi gia súc có chửa hoặc nuôi con cơ thể mất nhiều canxi, Phospho, nên phải huy

động canxi, phospho từ xương vào máu.

Do tuyến phó giáp trạng tăng tiết làm hàm lượng canxi trong máu tăng.

Do khẩu phần thiếu protein ảnh hưởng tới sự hình thành xương.

Do ảnh hưởng của bệnh đường tiêu hoá mạn tính (cid:61614) giảm sự hấp thu canxi, phospho.

9.3.3. Cơ chế sinh bệnh

Do những nguyên nhân trên làm cho thành phần Canxi, phospho trong xương bị giảm.

Xương trở nên mềm, xốp, biến dạng và dễ gẫy, cốt mạc của xương dày, dễ bóc khỏi xương.

Do mềm xương nên ảnh hưởng tới hô hấp, tiêu hoá và cơ năng vận động của cơ thể. Sự

giảm Canxi còn gây hiện tượng co giật ở lợn.

202

9.3.4. Triệu chứng

Bệnh thường phát sinh ở thể mạn tính, con

vật bị bệnh có những biểu hiện:

Con vật ăn kém, hay ăn bậy (la liếm, gặm

tường...).

Con vật hay nằm, kém vận động, dễ mệt, ra

mồ hôi. Khi vận động có thể nghe tiếng lục khục

(cid:72)(cid:215)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:57)(cid:46)(cid:51)(cid:46)(cid:32)(cid:76)(cid:238)(cid:110)(cid:32)(cid:108)(cid:105)(cid:214)(cid:116)(cid:32)(cid:50)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:169)(cid:110)(cid:32)(cid:115)(cid:97)(cid:117)

ở khớp xương.

Xương hàm trên và dưới hay biến dạng, răng

mòn nhanh và không đều, xương ống nhô cao, cong queo và dễ gẫy.

Con vật hay mắc bệnh về đường tiêu hoá, ỉa chảy. Phân còn nhiều thức ăn chưa tiêu.

Gia súc cái mắc bệnh, tỷ lệ thụ thai kém, ở gà sản lượng trứng giảm, trứng dễ vỡ, mỏ bị

biến dạng.

Kiểm tra máu: hàm lượng canxi trong huyết thanh giảm t? 5-7%, hàm lượng phospho hơi

tăng, bạch cầu trung tính và lâm ba cầu tăng.

Thay đổi về tổ chức học: Cốt mạc sưng, xương bị xốp, ống Havers mở to, xung quang có

nhiều tổ chức liên kết.

9.3.5. Tiên lượng

Bệnh kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm, vật kém ăn, ít vận động, gầy mòn. Cuối cùng

con vật nằm liệt và mắc các bệnh kế phát mà chết (hình 9.3).

9.3.6. Chẩn đoán

Bệnh ở trạng thái mạn tính nên lúc đầu chẩn đoán rất khó, chủ yếu dựa vào xét nghiệm.

Bệnh thường xảy ra ở cả bầy gia súc có chế độ chăn nuôi giống nhau và có cùng triệu

chứng như đã nêu ở trên.

Gõ vào xoang trán có âm phát ra giống như gõ vào cột gỗ.

Dùng X quang có thể phát hiện bệnh sớm và biết được xương xốp, ranh giới giữa cốt

mạc và tổ chức cốt mạc dày, khớp xương sưng to, có khi có u xương.

So sánh với thấp khớp: bệnh thường phát ra khi gia súc bị cảm lạnh, con vật đi lại khó

khăn khi bắt đầu vận động, sau một thời gian vận động con vật đi lại bình thường.

203

9.3.7. Điều trị

a. Hộ lý

Bổ sung thêm canxi, phospho vào khẩu phần ăn như cho ăn bột xương hoặc các loại

premix khoáng, vitamin.

Cho gia súc vận động ngoài trời, chuồng trại sạch sẽ, thoáng khí.

Hạn chế cho con bú hoặc tách con ra khỏi mẹ.

Nếu gia súc bị liệt, lót ổ đệm cho gia súc và thường xuyên trở mình cho gia súc.

b. Dùng thuốc điều trị

Bổ sung vitamin D.

Dùng canxi bổ sung trực tiếp vào máu: (canxi clorua 10%, gluconat canxi 10%, canxi-

For hoặc polycan hoặc Magie -canxi-For).

Dùng thuốc điều trị triệu chứng các bệnh kế phát.

Dùng thuốc tăng cường trự lực cơ và bổ thần kinh: Strychninsulfat 0,1% kết hợp với

vitamin B1.

Chú ý:

Nơi có điều kiện nên tiến hành chiếu tia tử ngoại.

Tăng cường khả năng hấp thu canxi cho cơ thể.

Dầu cá: bò (20-30 ml/con); Lợn (5-10 ml/con); Chó (3 ml/con). Cho uống ngày 1 lần.

Vitamin D: bò (10000-15000 UI/con); Lợn (5000-10000 UI/con); Chó (5000 UI/con).

Tiêm bắp ngày 1 lần.

Trợ sức và làm giảm đau các khớp xương

Chó Thuốc Đại gia súc Tiểu gia súc

1 - 2 lít 300 - 400 ml 100 - 150 ml Dung dịch Glucoza 20%

Urotropin 10% 50 - 70ml 30 - 50ml 15 - 20 ml

Salicylat natri 2 g 1 g 0,5 g

Tiêm chậm vào tĩnh m ạch

(cid:167)(cid:105)(cid:210)(cid:117)(cid:32)(cid:116)(cid:114)(cid:222)(cid:32)(cid:99)(cid:184)(cid:99)(cid:32)(cid:98)(cid:214)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:107)(cid:213)(cid:32)(cid:112)(cid:104)(cid:184)(cid:116)(cid:32)(cid:110)(cid:104)(cid:173)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:173)(cid:237)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:104)(cid:172)(cid:105)(cid:44)(cid:32)(cid:216)(cid:97)(cid:32)(cid:99)(cid:104)(cid:182)(cid:121)

204

9.4. BỆNH CẢM NẮNG (Insolatio)

9.4.1. Đặc điểm

Bệnh thường xảy ra vào mùa hè, ở những ngày nắng gắt, trong thời điểm 11 - 12 giờ

trưa.

Khi gia súc được chăn thả hoặc phải làm việc dưới trời nắng to, ít gió, ánh nắng chiếu

trực tiếp vào đỉnh đầu làm cho sọ và hành tuỷ nóng lên, não và màng não bị sung huyết gây

trở ngại đến cơ năng của hệ thần kinh. Hậu quả của bệnh là gây rối loạn toàn thân.

9.4.2. Nguyên nhân

Do vận chuyển gia súc với quãng đường dài và phương tiện vận chuyển không có mái

che.

Do chăn thả gia súc hoặc bắt gia súc làm việc dưới trời nắng to, nắng chiếu trực tiếp vào

đỉnh đầu.

Những gia súc quá béo hoặc ăn quá no khi tiếp xúc với nắng dễ bị cảm nắng.

9.4.3. Cơ chế sinh bệnh

Do ánh nắng chiếu trực tiếp vào đỉnh đầu, làm nhiệt độ ở vùng đầu tăng cao(cid:61614) não và

màng não bị xung huyết gây tổn thương đến tế bào thần kinh, từ đó gây ảnh hưởng tới trung

khu tuần hoàn, hô hấp và điều hoà thân nhiệt làm cho con vật chết rất nhanh.

9.4.4. Triệu chứng

Tùy theo mức độ bệnh

Nếu bệnh nhẹ: Con vật có biểu hiện choáng váng, đi đứng siêu vẹo, niêm mạc mắt tím

bầm, có khi vã mồ hôi, nuốt khó, thân nhiệt tăng cao, ở lợn và chó còn có hiện tượng nôn

mửa.

Nếu bệnh nặng: Con vật phát điên cuồng và sợ hãi, mắt đỏ ngầu, lồi ra ngoài, mạch

nhanh và yếu, tĩnh mạch cổ phồng to. Gia súc khó thở (thở kiểu cheyne -stokes), đi không vững và đổ ngã tự nhiên. Nhiệt độ cơ thể lên tới 40-410C, da khô, đồng tử mắt lỳc đầu mở rộng, sau thu hẹp lại cuối cùng mất phản xạ thần kinh và phản xạ toàn thân. Con vật run rẩy,

co giật rồi chết.

Mổ khám kiểm tra bệnh tích thấy: Não, màng não và hành tuỷ bị sung huyết, xuất huyết,

phổi và nội ngoại tâm mạc cũng bị xuất huyết.

205

9.4.5. Chẩn đoán

Bệnh thường xảy ra cấp tính, con vật chết nhanh không kịp điều trị.

Khi chẩn đoán cần phân biệt với bệnh cảm n?ng và so sánh với bệnh truyễn nhiễm cấp

tính, các bệnh về phổi cấp tính.

9.4.6. Điều trị

a. Hộ lý

Đưa ngay con vật vào chỗ râm mát, thoáng khí.

Chườm nước đá hay nước lạnh lên vùng đầu, sau đó phun nước lạnh lên toàn thân, có thể

thụt nước lạnh vào trực tràng để làm giảm nhiệt độ cơ thể.

Xoa bóp toàn thân cho máu lưu thông để chống sung huyết não.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc tăng cường tuần hoàn và hô hấp cho cơ thể: Dùng thuốc trợ tim (Cafein

natribenzoat 20%, Spactein, Spactocam, Ubarin. Tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch)

Dùng thuốc hạ thân nhiệt: Dùng một trong các loại thuốc sau (Pyramidon, Paracetamon,

Anagin, Decolgen,....)

Dùng thuốc tiêm trợ lực: Dùng dung dịch glucoza 20-40%. Tiêm truyền vào tĩnh mạch.

Chú ý: Nếu có hiện tượng ứ huyết tĩnh mạch, não bị sung huyết nặng thì phải chích máu

ở tĩnh mạch cổ để lấy bớt máu.

9.5. BỆNH CẢM NÓNG (Siriasis)

9.5.1. Đặc điểm

Bệnh thường xảy ra khi khí hậu nóng khô, hoặc ẩm ướt, làm cho quá trình trao đổi nhiệt

của cơ thể và môi trường bên ngoài khó khăn (cid:61614) tích nhiệt trong cơ thể, gây sung huyết não

(cid:61614) rối loạn tuần hoàn não, làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt. Hậu quả gây rối loạn

toàn thân.

Bệnh thường phát ra cùng với bệnh cảm nắng, mức độ bệnh thêm, con vật chết rất

nhanh.

206

9.5.2. Nguyên nhân

Do khí hậu nóng bức, nhiệt độ của môi trường bên ngoài quá cao, hoặc quá ẩm ướt làm

ảnh hưởng tới quá trình thải nhiệt của cơ thể.

Do chuồng trại hoặc phương tiên vận chuyển quá chật chội.

Do gia súc quá béo lại khát nước, hoặc gia súc có lông quá dày, gia súc mắc bệnh tim

phải làm việc trong thời tiết oi bức.

9.5.3. Cơ chế sinh bệnh

Do những nguyên nhân trên làm khả năng thải nhiệt của cơ thể giảm, nhiệt tích lại trong cơ thể

(cid:61614) thân nhiệt tăng cao, gia súc vã mồ hôi nhiều nên cơ thể bị mất nước và mất muối (cid:61614) rối loạn quá

trình trao đổi chất ở mô bào. Nhiệt độ cơ thể tăng, ảnh hưởng tới tuần hoàn và hô hấp, mặt khác do mô

bào ở cơ thể bị mất nước (do tăng tiết mồ hôi) làm cho máu đặc lại, lượng nước tiểu giảm, các sản

phẩm trung gian của quá trình trao đổi chất ứ lại trong máu gây nhiễm độc, làm cho con vật bị hôn mê,

co giật.

9.5.4. Triệu chứng

Con vật thở khó, thân nhiệt tăng (410C), toàn thân vã mồ hôi, mệt mỏi, niêm mạc tím bầm, tim đập nhanh, mạch nẩy, cơ nhai và cơ môi co giật, nôn mửa. Nếu nhiệt độ bên ngoài quá nóng thì thân nhiệt con vật tăng tới 43- 440C, con vật điên cuồng, tĩnh mạch cổ phồng to, đồng tử mở rộng sau đó hôn mê, co giật rồi chết. Khi chết con vật sùi bọt mép, có khi còn lẫn

máu.

Kiểm tra thấy máu khó đông, não và màng não sung huyết, phổi cũng bị sung huyết hay

phù. Ngoại tâm mạc và phế mạc bị ứ huyết.

9.5.5. Tiên lượng

Con vật thường bị chết vì liệt tim, sung huyết và phù thũng phổi. Bệnh nặng con vật chết

nhanh. Nếu phát hiện kịp thời và điều trị tốt con vật có khả năng hồi phục.

9.5.6. Chẩn đoán

Căn cứ vào biểu hiện chủ yếu: Con vật vã mồ hôi, máu cô đặc, mất nước, rối loạn về trao

đổi chất, sung huyết và xuất huyết ở một số tổ chức. Con vật chết vì khó thở và nhiễm độc.

Cần phân biệt với bệnh: Bệnh cảm nắng, bệnh viêm não và màng não, bệnh nhiệt thán,...

207

9.5.7. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: để cho gia súc yên tĩnh, tăng cường việc thoát nhiệt để đề phòng tê

liệt trung khu thần kinh.

a. Hộ lý

Để gia súc nơi thoáng mát, dùng nước lạnh đắp vào đầu và toàn thân, cho gia súc uống

dung dịch điện giải.

b. Dùng thuốc điều trị

Bổ sung nước và chất điện giải cho cơ thể: Dùng dung dịch nước muối sinh lý, glucoza

hay dung dịch ringerlactat. Tiêm chậm vào tĩnh mạch.

Dùng thuốc trợ tim: Cafein natribenzoat 20%; Spactein,...

Chú ý: Trường hợp tĩnh mạch cổ quá căng phải dùng biện pháp chích huyết.

9.6. BỆNH CHÀM DA (Eczema)

9.6.1. Đặc điểm

Chàm da là một chứng viêm da cấp tính ở tổ chức biểu bì. Bệnh tiến triển từng đợt, hay

tái phát rất phức tạp và dai dẳng. Đặc điểm của nó là nổi mẩn trên da những mụn nước và

mụn mủ và sau đó là hiện tượng đóng vẩy, da dày lên.

9.6.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân của bệnh rất phức tạp, song có thể phân làm hai nguyên nhân chính.

a. Nguyên nhân ngoại cảnh

Do điều kiện vệ sinh kém, chuồng trại bẩn, da luôn bị ẩm ướt và các chất bẩn đọng lại

trên da.

Da bị tổn thương do cọ sát cơ giới, bị côn trùng cắn,....

Do bị kích thích bởi các hoá chất.

Do ảnh hưởng của thời tiết.

b. Nguyên nhân bên trong

Do rối loạn tiêu hoá (táo bón lâu ngày, suy gan, nhiễm giun sán.,..).

Do các rối loạn về tuần hoàn, nội tiết.

208

Do rối loạn quá trình trao đổi chất của cơ thể (thiếu vitamin, thiếu các loại khoáng vi

lượng,...).

Muốn tìm được nguyên nhân chính xác phải tiến hành điều tra lịch sử bệnh, điều kiện

nuôi dưỡng, chăm sóc và kiểm tra lâm sàng kết hợp với xét nghiệm bệnh phẩm.

9.6.3. Triệu chứng

Bệnh thường tiến triển qua các giai đoạn sau

a. Giai đoạn đỏ

Giai đoạn này bắt đầu từ đám da bị đỏ, ranh giới

không rõ rệt và rất ngứa (ngứa là triệu chứng xuất hiện

đầu tiên dai dẳng và kéo dài cho đến các giai đoạn sau).

Trên vùng da đỏ xuất hiện những nốt sần như những hạt

kê, dày chi chít (hình 9.4).

b. Giai đoạn mụn nước

Hình 9.4. Da viêm đỏ

Những nốt sần trên thực tế là những mụn nước

ngày càng lớn, khi ngứa, con vật gãi hoặc cọ sát nên mụn

nước bị vỡ và chảy ra một thứ nước vàng, đóng thành vảy. Những mụn nước khác lại tiếp tục

nổi lên, một số mụn bị nhiễm khuẩn có màu vàng. Trong giai đoạn này có thể có một số triệu

chứng nhiễm khuẩn thứ phát.

c. Giai đoạn đóng vảy

Giai đoạn này da không nổi lên những mụn nước mới, những mụn có đóng vẩy, khô dần,

có chỗ lên da non màu hồng. Tuy nhiên vẫn còn một số ít

mụn nước. Da có màu sẫm hơn và dày cộm lên (hình 9.5).

d. Giai đoạn mạn tính

Da sẫm màu, dầy cộm, có những nốt sần cứng hơn,

to hơn ở giữa các vết hằn da.

Hình 9.5. Da đóng vẩy

Trong trạng thái mạn tính này vẫn có những đợt nổi

lên những nốt sần khác hoặc mụn nước và vẫn bị chảy

nước như những giai đoạn trước.

209

Quá trình bệnh chia làm các giai đoạn trên song các giai đoạn đó không chia rõ ranh giới

mà thường lẫn nhau trong giai đoạn đỏ đã có một số mụn nước, trong giai đoạn mụn nước đã

có một số lên da non, trong giai đoạn mạn tính vẫn còn có những mụn mẩn đỏ, mụn nước).

Bệnh chàm da ở những loài gia súc có biểu hiện khác nhau

Ngựa: thường ở thể mạn tính, nơi hay phát bệnh là ở bờm cổ, cuống đuôi, sau khớp cẳng

chân. Vật ngứa ngáy, da dày cộm. Bệnh thường phát vào mùa hè.

Trâu, bò thường mắc ở phía trong đùi, ở cổ, vú, kẽ móng chân.

Lợn thường hay có ở nách, bẹn, dưới bụng.

Chó hay mắc ở sống mũi, cổ và khuỷu chân, môi trên, mí mắt và xung quanh tai.

9.6.4. Tiên lượng

Bệnh ở thể cấp tính nếu điều trị kịp thời bệnh sẽ khỏi. Nếu bệnh chuyển sang mạn tính

rất khó chữa.

9.6.5. Chẩn đoán

Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh sau

Bệnh ghẻ: Cạo vẩy để tìm cái ghẻ.

Bệnh viêm da: Bệnh gây viêm sâu ở các lớp nội bì và dưới da. Viêm da không nổi mụn

nước và mụn đỏ, con vật ít ngứa hơn.

9.6.6. Điều trị

a. Điều trị toàn thân:

Cần cải thiện chế độ vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng của cơ thể.

Tránh cho gia súc ăn những thức ăn kích thích, tránh cọ sát và không để nhiễm bẩn.

Chú ý điều hoà các chức phận, tẩy giun sán định kỳ, tránh táo bón, cho gia súc uống đủ

nước.

Làm huyết liệu pháp.

Chữa dị ứng: dùng Novocain 0,25% tiêm tĩnh mạch, gluconat canxi hoặc cloruacanxi kết

hợp với vitamin C tiêm chậm vào tĩnh mạch.

b. Điều trị tại chỗ

Cần phân biệt từng giai đoạn để có biện pháp chữa thích hợp:

210

Trường hợp chỗ da bệnh chảy nước, trợt da, đỏ: tránh không dùng các thuốc kích thích

hoặc thuốc mỡ mà chỉ dùng các loại thuốc làm dịu da, thuốc nước (Lajic; hồ nước; bột phèn

chua).

Dùng một trong các loại thuốc sát trùng sau (Natribicabonat 5%; Rivalnol 0,1%; thuốc

tím 0,1% thấm vào gạc, đắp lên vết loét.

Dùng thuốc làm dịu da và trị nấm: dầu kẽm (bao gồm: Oxit kẽm 40 g, Vaselin 60 ml);

Trangala; Lajic; hồ nước; Kodecfa,... ngày bôi 2 lần.

Dùng thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn: (Cephaxilin, Gentamycin,...)

Dùng thuốc chống ngứa: (Xiro pheregan,...)

Chú ý: Khi đắp gạc không kỳ cọ quá mạnh, bôi thuốc xong không băng kín.

Nếu bệnh có nhiều vẩy thì chấm qua dầu lạc cho vẩy bong ra rồi mới bôi thuốc hoặc đắp

gạc.

Giai đoạn nơi da bệnh tương đối khô và bớt đỏ: dùng 1 trong các loại thuốc sau:

Ichthyol: 10 ml 5 g 3 g Axit Oxit kẽm

benzoic:

5 g Phèn chua: 5 g Vaselin: 5 ml Bột tanin:

Tạo thành hỗn dịch như mỡ, bôi lên nơi viêm ngày 2 lần.

Giai đoạn mạn tính: Dùng các loại thuốc làm mỏng da, bớt ngứa như dầu Ichthyol, mỡ

lưu huỳnh, mỡ salisilic từ thấp đến cao (5-10%) bôi lên chỗ da bệnh, có thể băng lại.

Chú ý: Khi dùng thuốc nên thăm dò phản ứng của gia súc để kịp thời thay đổi thuốc.

Nếu có điều kiện có thể dùng biện pháp lý liệu pháp.

9.7. CHỨNG NỔI MẨN ĐAY (Caseous exudate at the derma)

9.7.1. Đặc điểm

Do những kích thích từ bên ngoài hoặc bên trong cơ thể làm cho hệ thống vận mạch của

da bị rối loạn, làm từng đám nội bì của da thấm tương dịch, da dày lên. Trên lâm sàng ta thấy

trên mặt da có những nốt nổi mẩn hình tròn hoặc hình bầu dục, khi sờ thấy dày cộm, con vật

ngứa khó chịu.

Ngựa và chó hay mắc.

211

9.7.2. Nguyên nhân

a. Nguyên nhân bên ngoài

Gia súc bị nhiễm lạnh đột ngột.

Do các loại côn trùng đốt (ong, kiến, sâu róm,...).

Do gia súc tiếp xúc với một số hoá chất.

b. Nguyên nhân bên trong

Do gia súc ăn phải những thức ăn độc, kém phẩm chất, thức ăn lạ.

Do gia súc táo bón lâu ngày.

Do sử dụng thuốc (bị dị ứng thuốc).

Do kế phát từ những bệnh truyền nhiễm (đóng dấu lợn, viêm hạch truyền nhiễm,...).

Do chức năng gan bị rối loạn.

9.7.3. Triệu chứng

Giai đoạn đầu trên da xuất hiện nhiều nốt nhỏ, tròn như đồng xu, sau đó lan to dần,

những nốt này có màu đỏ, sờ tay vào thấy dày cộm.

Gia súc ngứa, khó chịu, kém ăn, có trường hợp sưng mí mắt, sưng môi, chảy nước mũi,

nước dãi. Nếu bị nặng con vật có thể chết.

9.7.4. Tiên lượng

Bệnh dễ hồi phục, gia súc có thể khỏi trong vài giờ hoặc vài ngày nhưng thường hay tái

phát.

9.7.5. Điều trị

Nguyên tắc điều trị: Loại trừ những kích thích của bệnh nguyên, bảo vệ cơ năng thần

kinh trung ương và điều trị cục bộ.

a. Hộ lý

Để gia súc ở nơi yên tĩnh loại bỏ thức ăn kém phẩm chất và thức ăn lạ, giữ ấm cho gia

súc.

b. Dùng thuốc điều trị

Dùng thuốc an thần: Aminazin, Prozil,...

Dùng thuốc làm giảm dịch tiết (tương dịch) và bền vững thành mạch: vitamin C kết hợp

với canxi clorua tiêm chậm vào tĩnh mạch. 212

Dùng thuốc làm co mạch quản và làm giảm dịch thẩm xuất: Adrenalin 0,1%.

Dùng thuốc thải trừ chất chứa ở ruột.

Dùng thuốc tăng cường chức năng và giải độc của gan.

Điều trị cục bộ: dùng nước lạnh phun vào nốt phát ban, nổi mẩn hoặc dùng axit axetic

1%, trường hợp phát ban do ong, kiến đốt dùng vôi đã tôi bôi lên vết thương.

Chương 10

NGỘ ĐỘC

10.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ CHÂT ĐỘC

Từ xa xưa, con người đã có những hiểu biết và sử dụng nhiều chất độc khác nhau trong đời sống săn bắn và hái lượm. Nhiều di tích khảo cổ trên thế giới; nhiều tư liệu thành văn và bất thành văn đã chứng tỏ điều đó.

Vì thế, khoa học về độc chất cũng đã hình thành từ lâu đời. Độc chất học là môn học nghiên cứu về:

Đặc điểm lý – hóa học của các chất độc;

Phương pháp kiểm tra định tính và định lượng chất độc;

Ảnh hưởng, tương tác giữa chất độc và cơ thể sinh vật (Các quá trình hấp thu, phân bố, biến đổi, tích lũy và thải trừ …của chất độc trong cơ

thể).

Các phương pháp chẩn đoán, dự phòng và điều trị ngộ độc.

Ở phạm vi tài liệu này, chỉ đề cập đến độc chất học Thú y, không đề cập đến lĩnh vực

độc chất học ở người, cây trồng và các sinh vật khác.

10.2. KHÁI NIỆM VỀ CHẤT ĐỘC:

Theo cách hiểu thông thường, chất độc (Poison) là những chất hữu cơ và vô cơ có nguồn gốc thiên nhiên hay tổng hợp hóa học, ở liều lượng và nồng độ nhất định, có thể gây nên những rối loạn hoạt động sống của cơ thể. Các rối loạn này, có thể nhẹ hay nặng có thể ngắn, lâu dài hay dẫn tới tử vong là tùy thuộc vào bản chất của chất độc và cũng tùy thuộc cả vào bản chất đặc thù của cơ thể sống bị phơi nhiễm bởi chất độc.

Ở Việt Nam, các chất độc mạnh thường gặp trong tự nhiên là: Thực vật: Lá ngón, cây trúc đào, cây Thông thiên, hạt mã tiền, cây sừng trâu, nấm lim, nấm phân ngựa… Cây và củ sắn (khoai mỳ), mầm củ khoai tây v.v…cũng là những thứ có

độc.

213

Động vật: Nọc rắn, bọ cạp, mủ cóc, nọc ong, rết, cá nóc (có 300 loài cá có độc tố trên thế

giới)…

Khoáng vật: Thạch tín (As), Thần sa, Chu sa (Selen) Thời cận đại, khi các ngành kỹ nghệ hóa học phát triển, bên cạnh các chất độc nguồn gốc

thiên nhiên, người ta đã tổng hợp được rất nhiều chất độc từ các phòng thí nghiệm.

Hiện nay trên thế giới, ước tính có khoảng 4,5 triệu chất độc khác nhau. Bao gồm cả thể

rắn, thể lỏng và thể khí.

Mỗi năm, các nước đã tổng hợp chừng 300 ngàn chất độc mới. Có nhiều chất siêu độc.

Độc lực của chúng gấp hàng ngàn lần các chất độc thiên nhiên, cổ điển.

Dioxin, Tabun v.v… là những thí dụ trong số các chất siêu độc đó. Các chất siêu độc này đã được các thế lực cầm quyền ở nhiều nơi sử dụng làm phương

tiện giết người hàng loạt trong các cuộc chiến tranh hủy diệt.

Dioxin là 1 nhóm những chất siêu độc. Hiện đã có 75 chất Dioxin khác nhau được quốc tế xếp vào hàng các chất độc thường xuyên gây ô nhiễm môi sinh. Chúng khó phân hủy, tồn tại lâu bền trong môi trường. Dioxin là 1 trong những chất gây nhiều hậu quả nghiêm trọng nhất cho con người và vật nuôi khi bị phơi nhiễm . Nếu nhiễm trực tiếp, 1 gam Dioxin đủ giết 10 triệu người.

Khoa học đã khẳng định: Dioxin là nguyên nhân gây ra 28 chứng bệnh khác nhau. Các chứng bệnh này đều rất nguy hiểm. Không (hoặc chưa) cứu chữa được. Không những thế, nó còn để lại di chứng cho nhiều thế hệ con cháu đời sau của những người (và vật nuôi )bị nhiễm độc. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã sử dụng 175kg Dioxin, pha trong 1 triệu lít dung dịch để rải tại các vùng căn cứ của ta. (Bắt đầu rải ngày 10-8-1961; kết thúc 10/1971). Tổng thống Mỹ Clintơn đã thừa nhận có trên 4 triệu người Việt Nam bị nhiễm độc bởi Dioxin của Mỹ.

* Theo quan điểm hiện đại, có nhiều chất và hợp chất, trước đây không coi là chất độc, nay phát hiện ra nhiều tác hại của chúng, nên cũng xếp vào nhóm các chất độc, bị cấm sử dụng

Thí dụ: nhiều thuốc trước đây dùng phòng trị bệnh (Chloramphenicol, Furazolidon…); nhiều chất dùng trong bảo quản thực phẩm, dược phẩm (Hàn the, lưu huỳnh…); nhiều chất dùng trộn vào thức ăn gia súc để kích thích tăng trọng (kháng sinh , hormon…) và rất nhiều chất khác nữa; nay đã cấm sử dụng vì độc tính trường diễn nguy hiểm, gây nên các bệnh hiểm nghèo cho người tiêu dùng các sản phẩm chăn nuôi (ung thư, quái thai…)

214

* Trên lâm sàng, nhiều chất thông thường như: muối ăn (NaCl), nước uống… với liều

lượng cao được đưa vào cơ thể , trong thời gian ngắn, cũng gây ngộ độc. Thí dụ: Nếu nhầm lẫn cho gà ăn bột cá của lợn ; gà sẽ ngộ độc, chết hàng loạt.

Nếu cho trâu bò (nhất là bò sữa) ăn nhiều thức ăn tinh, không đúng cách, cũng sẽ gây

ngộ độc.

* Một số chất, bình thường là “trơ”; nhưng trong những điều kiện nhất định, lại là

nguyên nhân gây độc hại cho cơ thể.

Thí dụ: Silicat. Nếu người và vật nuôi thường xuyên hít thở dạng bụi mịn silicat vào

đường hô hấp, sẽ gây chứng ngộ độc silicosis. Bụi than,tro cũng thế.

Các bụi này còn mang theo các mầm bệnh vi sinh vật vào đường hô hấp. Chúng đồng

thời cùng gây bệnh (Pneumoconiosis ) ở phổi

* Tất cả các loại thuốc Thú y, nếu sử dụng quá liều tối đa tác dụng (dosis tolerata Maxima) hoặc dùng không đúng cách, sẽ gây ngộ độc thuốc .Đặc biệt ở các loài hoặc các cá thể có mẫn cảm cao với một loại thuốc nào đó .

Một ngành khoa học mới, nghiên cứu về “bệnh do thuốc”, đã và đang được nhiều người

quan tâm.

*Một lĩnh vực ngộ độc rất quan trọng, vì tính phổ biến của nó ở điều kiện khí hậu nóng ẩm và trình độ kỹ thuật thấp, tại các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) là ngộ độc thức ăn.

Khái niệm ngộ độc thức ăn ở đây cần được hiểu: Trong thức ăn tự chế biến tại trang trại hay thức ăn công nghiệp, đều có thể có những chất độc hại do vi sinh vật khu trú trong đó sản sinh ra. Một trong những độc tố nguy hiểm nhất hiện nay đã biết là Aflatocin, do nấm Aspergilus flavus sản sinh ra. Nó gây ung thư gan cho vật nuôi; nó tồn tại trong sản phẩm chăn nuôi và gây ung thư cho người tiêu dùng.

10.3. KHÁI NIỆM VỀ NGỘ ĐỘC

Mọi biến đổi rối loạn về cơ năng hay thực thể của các khí quan hay toàn thân, do tác

động của chất độc, được gọi là ngộ độc.

Phân ra:

Ngộ độc cấp tính: ngộ độc xảy ra rất nhanh . Sau khi hấp thu vào máu 1-2 phút đã có thể gây chết (hơi ngạt qua đường hô hấp, thuốc qua đường tiêm) hoặc 30 -60 phút (ăn, uống qua đương tiêu hóa) 1-2 giờ hoặc hơn (qua đường da và niêm mạc). Có khi sau 1 -2 ngày.

Ngộ độc á cấp tính (bán cấp) xảy ra sau nhiễm độc nhiều ngày, có khi 1 -2 tuần, loại này không chết nhanh; nhưng sau điều trị thường để lại di chứng thứ cấp với những biểu hiện nặng nề hơn. Thí dụ ngộ độc khí clo. Có khi con vật chuyển sang dạng mạn tính.

215

Ngộ độc mãn tính: ngộ độc xảy ra chậm nhưng kéo dài, thậm chí diễn ra hằng năm. Thường do nhiễm độc ở liều lượng nhỏ nhưng lại thường xuyên liên tục. Có hiện tượng tích lũy chất độc trong cơ thể. Thí dụ thường xuyên dùng nước ngầm ăn, uống hằng ngày ,có chứa các kim loại nặng như: As, Pb v.v…

10.4. NGUỒN GỐC NGỘ ĐỘC 10.4.1. Ngộ độc do chất độc nội sinh (Antacoid)

Đây là những chất độc được sinh ra ngay trong quá trình sống của cơ thể. Do quá trình

trao đổi chất bị rối loạn, tạo ra.

Bình thường, cơ thể sẽ chuyển hóa chúng, đào thải chúng ra ngoài. Trong điều kiện bất

thường (Thí dụ con vật bị suy dinh dưỡng, con vật có bệnh gan, thận…) các chất độc sẽ tích tụ lại, gây ngộ độc cho cơ thể.

Thí dụ: Urê huyết, xêton huyết, ngộ độc kiềm, ngộ độc acid…

10.4.2. Ngộ độc do các chất độc ngoại lai. Từ môi trường sống xâm nhập vào cơ thể (Senobiotic)

a . Từ thức ăn nước uống có chất độc, hoặc bị vấy nhiễm chất độc. Đây là con đường quan trọng nhất, phổ biến nhất, hay gặp trong chăn nuôi Thú y. Một số trường hợp cần quan tâm ở nước ta.:

* Củ sắn, lá sắn (khoai mỳ), cỏ 3 lá, hạt đậu mèo, cỏ sudan ( cỏ còn non), hạt lanh, hạt

đậu Java, cỏ vòi voi v.v… có chứa Glucozit loại Cyanogenetic. Khi ăn vào cơ thể, các glucozit này thủy phân cho ra acid cyanhydric (HCN) gây ngộ độc.

* Cây trúc đào, cây thông thiên được trồng ở rất nhiều nơi trong nước ta. Trong cây có chứa glucozit cường tím. Khi các lá này lẫn trong cỏ, gia súc ăn phải sẽ bị ngộ độc nặng. Một con bò sữa nặng 300 – 400kg, ăn từ 30 -40 lá đã có thể chết nhanh chóng, không cứu chữa

được.

* Một số rau họ chữ thập (họ rau cải) có chứa nhiều loại Thioglucozid, con vật ăn nhiều

sẽ bị các rối loạn sau:

- Cừu cái có chửa, ăn nhiều lá cải bắp và cải dàu (Rapeceed) cừu con sinh ra có thể bị

chết hoặc dị tật bẩm sinh.

- Thai của các loài gia súc khác bị bướu cổ trước khi sinh . - Gia súc lớn ăn nhiều cây họ chữ thập sẽ bị dung huyết – tan máu (heamolysis), nước

tiểu có màu đỏ của Heamoglobin.

* Cây rau muối, cây họ chữ thập (rau cải ) có hàm lượng Nitrat cao. Nếu ủ lâu chưa dùng

ngay (qua đêm) hàm lượng nitrat càng tăng cao. Dễ gây ngộ độc Nitrat, Nitrit.

216

* Mầm củ khoai tây, vỏ màu xanh củ khoai tây có chất solanin, gia súc ăn nhiều, trong

cơ thể, solalin sẽ thủy phân giải phóng nhiều chất solanidin gây ngộ độc.

* Cây dương xỉ (rau dớn), cây lác, cây năn, cỏ medicago có chứa chất đối kháng với vitamin B1. Gia súc ăn nhiều, thường xuyên kéo dài; sẽ mắc chứng thiếu vitamin B1, có khi rất trầm trọng.

* Nhiều cây họ đậu ở vùng nhiệt đới có chứa các acid amin bất thường không phải

protein (Non protein amino acids).

Có tác dụng đối kháng với các acid amin tương ứng. Con vật ăn nhiều, do tác động cạnh

tranh thay thế, chúng làm rối loạn quá trình trao đổi chất, gây độc hại cho cơ thể.

* Trong lá và hạt cây keo dậu, cây bình linh (leucaena) làm thức ăn bổ xung đạm cho vật nuôi, có chứa nhiều chất minosin, có tác dụng ức chế tổng hợp Thyroxin (T3 và T4) ở tuyến giáp trạng, gây bướu cổ cho gia súc.

Trong các loài vật nuôi, loài nhai lại (nhất là dê) ít mẫn cảm hơn. Ngược lại gà mẫn cảm

nhất với mimosin.

* Trong cỏ Medicago sativa (cỏ 3 lá), cỏ dái ngựa, thân cây ngô tươi…có Phytoestrogen (Estrogen thực vật) nếu ăn quá nhiều sẽ gây chứng động dục giả (âm hộ sưng to, chảy nhiều dịch nhờn, núm vú lợn con sưng to), gia súc chửa có thể bị sảy thai…

* Nhiều loại rau, cỏ được trồng hoặc mọc tự nhiên ở gần nhà máy, đường giao thông lớn ,có chứa nhiều kim loại nặng như Arsenic, cadmium, chì… Hàm lượng các chất này tăng cao trong thức ăn, gây ngộ độc mạn tính cho vật nuôi.

* Nhiều loại cây trồng và sản phẩm cây trồng (cây ngũ cốc, cây rau, củ…) Khi phun thuốc bảo vệ thực vật hoặc sử dụng chất bảo quản, là nguồn tiềm ẩn nhiều hiểm họa ngộ độc cho người tiêu dùng và cho vật nuôi.

Đây là vấn đề nan giải rất lớn ở Việt Nam hiện nay. Chưa có giải pháp triệt để, hữu hiệu, để ngăn chặn hiện tượng dùng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc bảo quản sản phẩm trồng trọt 1 cách tràn lan, sai nguyên tắc, vô tổ chức như đã và đang có ở nước ta.

b. Thức ăn bị vấy nhiễm các loại vi sinh vật độc hại. Có nơi, có lúc, 100% số thức ăn hỗn hợp hoặc nguyên liệu để chế biến thức ăn chăn nuôi (ngô, sắn, cám gạo, bột cá v.v…)bị nhiễm vi khuẩn, nấm mốc và độc tố nấm mốc. Nguy hại nhất và thường gặp là các nấm Aspesilus, Penicillium, Fusarium, nấm muội than … các nấm mốc này sản sinh nhiều loại độc tố micotocin rất nguy hiểm. Đáng chú ý là:

• Aspesilus flavus: sản sinh Aflatocin B1, B2, G1, G2 v.v…. gây ung thư gan, thận, vật

nuôi chậm lớn, ỉa chảy, lách bị tổn thương.

217

• Fusarium ( nhiều chủng ) thường ký sinh trên ngô bắp, sản sinh độc tố Tricothecen, F2

toxin (Zearalenone), acid Fusaric…làm giảm khả năng sản xuất, khả năng sinh sản, thoái hóa buồng trứng, sảy thai. Ở gia cầm (gà) còn bị viêm đường hô hấp nặng.

• Nấm Penicilium (nhiều chủng). Ký sinh nhiều ở các loại ngũ cốc, sản sinh độc tố

Parulin, acid penicillic, citrinin…

Các chất này gây thoái hóa mỡ ở gan, thận.

• Nấm muội than (Staquiobotrix) có nhiều trong rơm do phơi nắng không kịp, bị mưa ẩm

kéo dài. Mốc đen như bột nhọ nồi (nên gọi là nấm muội than)

Độc tố làm suy giảm nặng sức đề kháng của con vật. Khiến chúng dễ mắc các bệnh

truyền nhiễm khác nhau.

Nhìn chung, thức ăn bị nhiễm nấm mốc và độc tố nấm mốc (micotoxin) sẽ gây nhiều tác

hại:

Trước hết làm tổn thương các tế bào gan, gây thoái hóa gan. Làm tổn thương tế bào thận, viêm thận. Giảm khả năng đề kháng của con vật, ức chế hệ thống miễn dịch của cơ thể. Gây tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp , gây nôn mửa, tiêu chảy. Gây rối loạn sinh sản. Làm giảm tính thèm ăn của con vật Làm biến đổi các chất dinh dưỡng trong thức ăn, tạo thành các độc tố thức ăn, phá hủy

các vitamin.

Đặc biệt Aflatoxin gây ung thư gan vật nuôi (nghiêm trọng nhất là vịt) Các chất độc gây hiện tượng tích lũy, tiềm tàng trong các sản phẩm chăn nuôi (thịt, trứng

, sữa…). Người tiêu dùng bị ngộ độc (trường diễn) bởi các chất độc tiềm tàng đó. c. Nhiễm độc từ không khí của môi trường sống:

Các khí độc như: NH3, H2S… có nồng độ cao trong không khí (tiểu khí hậu chuồng

nuôi), gây độc.

Các khí độc như: CO2, CO, SO2 v.v… từ các nhà máy, lò gạch….ở gần khu chăn nuôi

thải ra, gây độc .

10.5. PHÂN LOẠI NGỘ ĐỘC:

• Trên lâm sàng phân ra ngộ độc cấp tính, bán cấp tính và mạn tính như trên đã chỉ rõ. • Nếu dựa vào mức độ nặng nhẹ của tình trạng ngộ độc, chia ra : ngộ độc nhẹ, ngộ độc nặng, ngộ độc có nguy cơ đe dọa tính mạng và ngộ độc tử vong. 3 loại trên không chết, loại sau cùng là không thể cứu sống được.

218

• Dựa vào mức độ lành bệnh sau ngộ độc, chia ra: ngộ độc không để lại di chứng và ngộ độc để lại di chứng. Thường ngộ độc cấp tính sau khi cấp cứu kịp thời, điều trị tích cực, con vật qua khỏi, sẽ không để lại di chứng.

Loại hình ngộ độc Á cấp và mạn tính là loại hình thường để lại di chứng lâu dài. • Dựa vào pháp chế, chia ra ngộ độc ngẫu nhiên và ngộ độc do đầu độc. Khi bị đầu đôc,

không chỉ lo chữa trị con bệnh, còn phải lo giải quyết về khía cạnh pháp luật.

10.6. CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC

Việc chẩn đoán gia súc, gia cầm bị ngộ độc, phân biệt so sánh với bệnh truyền nhiễm hoặc các bệnh khác, có nhiều phức tạp trên lâm sàng. Chỉ có thể kết luận chắc chắn ngộ độc (nhất là ngộ độc hàng loạt) khi có những bằng chứng đầy đủ về điều tra nguyên nhân, triệu chứng lâm sàng, giải phẫu bệnh lý, xét nghiệm hóa học…

Chỉ những trường hợp cụ thể, có minh chứng rõ ràng, như: sau khi tiêm thuốc, uống thuốc, phun thuốc xong ,con vật bị trúng độc, ta có thể dễ dàng sớm khẳng định. Nhưng các trường hợp khác, thường khó chẩn đoán chính xác ngay, nhất là khi nhiễm độc hàng loạt, rất dễ nhầm với bệnh truyền nhiễm.

Để phân biệt với bệnh truyền nhiễm, có 2 cơ sở khoa học cần nắm vững: Bệnh truyền nhiễm có tính đặc thù, mẫn cảm theo loài. Nhiễm độc thì không. Với bệnh truyền nhiễm, không lập tức đồng loạt trong 1 ngày hay trong 1 giờ, nhiều con bị. Thông thường, mới đầu chỉ có 1 vài con có dấu hiệu ốm; sau đó 2-4 ngày số con mắc mới vọt tăng cao.

Ngược lại, ngộ độc thì đồng loạt cả đàn, tập trung mắc ngay sau khi ăn , uống có chất

độc

Khi khám lâm sàng, với ngộ độc cấp tính, ta có thể thấy : • Con vật nôn mửa, ruột co thắt, đau bụng, ỉa chảy, vận động loạng choạng, co giật.

• Thân nhiệt không tăng cao (trừ ngộ độc nhóm Nitrophenol)

• Đồng loạt bị, ngay trong 1 thời gian ngắn. Trường hợp ngộ độc á cấp tính và mạn tính, nói chung khó chẩn đoán phân biệt . Ta

phải :

Thu thập các tài liệu, dẫn chứng về vệ sinh môi trường, vệ sinh dinh dưỡng. Kiểm tra lâm sàng. Mổ khám Lấy mẫu kiểm tra xét nghiệm chất độc Chỉ khi nào có đầy đủ các bằng chứng, từ các kiểm tra nói trên , ta mới có thể khẳng

định ngộ độc hay không.

219

10.7. XỬ LÝ KHI VẬT NUÔI BỊ NGỘ ĐỘC

Cấp cứu hồi sức. Ngăn chặn không cho chất độc tiếp tục hấp thu vào máu. Trung hòa làm biến đổi hoặc loại trừ chất độc ra khỏi nơi bị nhiễm (đường tiêu hóa,

đường hô hấp, da và niêm mạc…)

Xử lý chất độc đã hấp thu vào máu. Cụ thể: * Cấp cứu hồi sức: nếu số lượng ít, cho con vật vào nơi mát, thoáng, sạch. Làm hô hấp

nhân tạo nếu con vật bị ngạt. Đảm bảo yên tĩnh, ít vận động.

Nhanh chóng dùng thuốc đối kháng với chất độc để tiêm cấp cứu. Thí dụ: khi ngộ độc các thuốc bảo vệ thực vật và thuốc chống ngoại ký sinh trùng nhóm

P hữu cơ; ta phải dùng Atropin tiêm bắp.( tác dụng nhanh hơn tiêm dưới da). * Ngăn chặn không cho chất độc tiếp tục hấp thu vào máu, bằng cách : • Loại bỏ các thức ăn, nước uống có hoặc nghi có nhiễm độc (ngộ độc qua đường tiêu

hóa)

• Tẩy rửa chất độc bám trên da bằng cách tắm , rửa… (Ngộ độc qua da)

• Loại bỏ các nguồn gốc gây ra khí độc (ngộ độc qua đường hô hấp) Thường gặp nhất dạng ngộ độc qua đường tiêu hóa .Tại đây, phải làm biến đổi, trung

hòa, hấp phụ các chất độc rồi tảy trừ chúng ra khỏi đường tiêu hóa.

Để làm biến đổi, ta dùng các chất đối kháng. Thí dụ khi ngộ độc chất kiềm, ta dùng acid

acetic, acid citric v.v… cho uống. Ngộ độc các ancaloid, các cây cỏ có ancaloid ;ngộ độc

protein độc, ngộ độc các kim loại nặng, ta dùng tanin (nước lá chát) cho uống để kết tủa chất

độc.

Để hấp phụ chất độc, ta dùng các chất hấp phụ như: đất sét, cao lanh; tốt nhất là than

hoạt tính cho uống (nếu gấp, dùng than củi nghiền thành bột mịn thay than hoạt).

Khi cần, phải gây nôn ( trừ ngựa và loài nhai lại ). Thuốc gây nôn thường dùng là

apomorphin, enterotonin. Có điều kiện, ta rửa dạ dày bằng ống thông thực quản .

Chú ý:

Cấm gây nôn, cấm rửa dạ dày, khi: Con vật có rối loạn trí não, con vật co giật, quá mỏi mệt, suy kiệt, thủy thũng phổi, rối

loạn tuần hoàn, có chửa.

Trình tự tiến hành giải độc ở đường tiêu hóa bằng chất hấp phụ : Cho uống than hoạt tính .

220

Cho thuốc tẩy muối (Na2SO4, MgSO4) để tẩy hết than hoạt tính đã hấp phụ chất độc.

(Khi ngộ độc Ba, Pb, thuốc tảy muối còn có tác dụng đối kháng với Ba và Pb)

Nếu con vật đã xuất hiện ỉa chảy do ngộ độc, ta chỉ cho uống than hoạt, không cần cho

thuốc tảy .

Khi ngộ độc các chất kiềm hay acid, ta không cho uống than hoạt, chỉ cho uống nhiều

nước để pha loãng. Sau đó dùng chất đối kháng (acid hoặc kiềm) để trung hòa.

* Xử lý chất độc đã vào máu: Kết quả nhất là dùng các chất đối kháng hóa học (tham

khảo thêm ở các sách chuyên khoa độc chất học Thú y)

Với chất độc là kim loại nặng, ta dùng các thuốc: dicaptol, Ca – EDTA để tạo phức với các kim loại đó, giải phóng các enzyme đã bị kim loại nặng tương ứng khóa chặt, mất hoạt tính ..

Tăng cường lợi tiểu để thải trừ chất độc (theo nước tiểu); như uống nhiều nước, nước sắc râu ngô, bông mã đề ; hoặc tiếp truyền nước đường glucose (sinh lý ngọt 5%.) vào tĩnh mạch.

Bên cạnh các giải pháp nói trên, ta phải điều trị triệu chứng như: Nếu suy giảm hô hấp, ta dùng thuốc kích thích hô hấp (Lobelin, Long não) Nếu rối loạn tim mạch, dùng thuốc kích thích trung tâm vận mạch, kích thích trực tiếp

tim mạch.

Nếu bị sock ta phải chống sock. Nếu có rối loạn nước và chất điện giải (thông thường là có rối loạn; Sau khi bị nôn, ỉa chảy) ta phải truyền dịch bổ xung nước và chất điện giải (Xem sách chuyên khoa Dược lý học, Chẩn đoán nội khoa...)

Khi gan, thận có rối loạn công năng hoạt động, dùng thuốc hỗ trợ gan, thận (actiso). Khi cần đề phòng kế phát các bệnh truyền nhiễm, ta dùng thuốc kháng sinh

10.8. PHÒNG NGỪA NGỘ ĐỘC:

Các lĩnh vực quan trọng, ta cần quan tâm để đề phòng ngộ độc một cách chủ động, tích

cực ở Việt Nam hiện nay:

Phòng ngộ độc do các thuốc bảo vệ thực vật, các hóa chất bảo quản sản phẩm nông

nghiệp.

Phòng ngộ độc do cây cỏ có độc ( mọc ở bãi chăn , lẫn trong cỏ khi thu hoạch…) Phòng ngộ độc do thức ăn dự trữ, thức ăn hỗn hợp có nhiễm vi sinh vật (nhất là nấm

mốc)

Phòng ngộ độc do dùng thuốc Thú y. Phòng ngộ độc do ô nhiễm môi trường (vấy nhiễm cho cây cỏ, nước uống…)

221

Phòng ngộ độc do hậu quả của chiến tranh hóa học (Nơi bị rải chất độc thời chiến tranh

hoặc các khả năng khác)

Việc phòng ngừa ngộ độc có vai trò quan trọng không chỉ với gia súc, gia cầm, mà cả với các loài nuôi thủy sản, ong mật …Chúng ta cần quán triệt phương châm : “Phòng độc hơn giải độc “

10.9. MỘT SỐ DẠNG NGỘ ĐỘC THƯỜNG GẶP Ở GIA SÚC, GIA CẦM TẠI VIỆT NAM

10.9.1. Ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật

Ở Việt Nam, hằng năm sử dụng không dưới 30 ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật. Bao

gồm nhiều nhóm khác nhau:

Thuốc trừ côn trùng (inserticid) Thuốc trừ kí sinh trùng thân det (Aficid) Thuốc diệt trứng ký sinh trùng ( Ovicid ) Thuốc diệt ấu trùng (Larvicid ) Thuốc diệt trứng và ấu trùng (Ovolarvicid) Thuốc diệt tuyến trùng ( Nematocid ) Thuốc diệt nấm (Fungicid) Thuốc trừ cỏ (Herbicid) Thuốc trừ sâu thân mềm (Molluskicid) Thuốc diệt chuột ( Raticid) Thuốc diệt giáp xác cánh cứng (Radenticid ) Thuốc diệt đơn bào (Zoocid ) Thuốc diệt tất cả các loại sinh vật (Omnicid ) Trong thực tế, thường dùng các loại thuốc đa giá, cùng lúc diệt được nhiều loại sâu bệnh

khác nhau .

Trên đây chưa kể đến các thuốc trừ bênh hại do vi trùng, virus . Nếu kể , danh mục thuốc

còn mở rông thêm rất nhiều.

Thống kê cho thấy : Trên thế giới hiện có trên 1300 chủng loại hoạt chất bảo vệ thực vật

khác nhau.

Trong tương lai, sẽ còn tăng nhiều. Đặc biệt độc lực của chúng sẽ tăng gấp nhiều lần so với các thuốc hiện nay. Đây là nguy cơ lớn gây độc hại cho giới động vật có ích. Thế hệ thuốc bảo vệ thực vật thứ 4 đã ra đời. Chỉ cần 10g cho cả 1Ha canh tác. Thế hệ thuốc bảo vệ thực vật thứ 5 sẽ còn độc hơn nữa. Nếu không có chiến lược sử dụng đúng đắn, hợp lý, chắc chắn

222

hậu quả cho nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, ong mật v.v…và cả cho con người, không thể lường hết được.

Về mặt hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật phổ biến đang sử dụng ở Việt Nam có các

nhóm chủ yếu sau:

Các Carburhydro chứa clor. Các phospho hữu cơ Các Carbamat

Các hợp chất chiết xuất từ thực vật như nicotin, Pyrethrin, Rotenon… Các chất khác: trừ cỏ nhóm Dinitrophenol thuốc ,các dẫn xuất của acid

phenoxiacetic.v.v…Thuốc diệt chuột với các dẫn xuất cumarin, Phosphur kẽm…

Tất cả các hóa chất bảo vệ thực vật đều độc hại đối với người và vật nuôi; tuy mức độ có

khác nhau, tùy thuộc ở liều lượng và cách dùng.

Trên thương trường hiện nay, Có những tài liệu đã quảng cáo cho 1 số hóa chất bảo vệ thực vật “ chỉ độc với loài máu lạnh; không độc với loài máu nóng”. Chúng ta cần cảnh giác, thận trọng với những lời khuyến cáo thương mại đó; cho dù đúng là các động vật máu nóng có ít bị độc hơn các động vật máu lạnh.

a- Ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Phosphor hữu cơ (P-HC) * Các hóa chất bảo vệ thực vật nhóm P. hữu cơ đang dùng phổ biến ở Việt Nam, bao

gồm 1 số chế phẩm sau:

1.Monocro-tophos

2. Methylparathion.

3. Monito (Methanidophos)

4. Hinosan (Ediphenphos)

5. Dimethoat (Bi-58)

6. Diazinon (Basudin)

7. Dipterex (Clorophos)

8.Sumithion (Fenitrothion)

9. Kitazin (Iprobenphos)

10. Acephat

11.Malathion(Carbophos)

Các thuốc trên phần lớn dùng để diệt sâu, 1 số diệt nhện, tuyến trùng, nấm , rầy. Các P. hữu cơ có thể ngấm, trôi vào đất, vào khí quyển (khi phun). Một phần được phân hủy bởi các phản ứng hóa học, ánh sáng hoặc bởi các vi sinh vật trong đất. Phần lớn tồn lưu trong môi trường 1 thời gian. Loại phân hủy nhanh cũng phải 1 – 2 tuần; loại trung bình sau

223

1- 18 tháng; loại bền vững nếu không phân hủy sau 2 năm trở lên. Hóa chất bảo vệ thực vật càng chậm phân hủy, càng gây nhiều tác hại xấu đến môi sinh (trong đất, hại cho sinh vật đất; trôi xuống ao hồ, sông suối hại cho cá tôm…. Thấm sâu xuống tầng nước ngầm, gây hại cho nguồn nước sạch. Tất cả đều sẽ ảnh hưởng độc hại trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống con người và vật nuôi .

* Đặc tính của các P. Hữu cơ. Căn cứ vào DL 50 (liều gây chết 50% động vật thí nghiệm) trên chuột cống trắng và chuột nhắt trắng, các chất trong danh mục trên, độc lực cao nhất là chất Monocro (có số thứ tự 1) DL50 =8 -23 mg/kg thể trọng, giảm dần đến chất có số thứ tự thứ 10 là Malathion ,DL50 =2800mg/kgTT

* Cơ chế gây ngộ độc ở vật nuôi: Ảnh hưởng quá trình dẫn truyền xung động thần kinh, thông qua cơ chế P.hữu cơ phong tỏa, ức chế enzyme Acetylcholinesteraza(AchE) là enzyme phân hủy Acetylcholin (1 chất hóa học trung gian ở các cynap thần kinh) Do đó Acetylcholin tích lũy lại, gây co giật thần kinh (lúc đầu). Sau thời gian co giật mạnh liên tục, con vật suy kiệt do hết năng lượng, từ đó dẫn tới tê liệt.

Tuy nhiên, ở mỗi loài vật nuôi, tính mẫn cảm của chúng đối với từng loại hóa chất trên cũng khác nhau. Do đó độ độc trên từng loài vật nuôi cũng sẽ khác nhau. (Tham khảo thêm ở sách Độc chất học Thú y – ĐHNNI). Mèo thường mẫn cảm P. hữu cơ hơn chó. Gia cầm ít mẫn cảm hơn gia súc.

* Chẩn đoán ngộ độc: Do thần kinh, trước hết là thần kinh phó giao cảm bị kích thích mạnh nên có thể quan sát

thấy:

• Co thắt cơ trơn: con vật đau bụng. Khi đứng, cong lưng lên, bồn chồn .Gia cầm sã cánh, đầu quay về phía lưng . Phế quản co thắt gây khó thở, Cơ bàng quang co thắt, gây bài nước tiểu liên tục ; nhưng ít.

Đồng tử mắt co nhỏ, giảm phản xạ với ánh sáng.

Hình 10.1. Gà trúng độc hợp chất phos pho hữu cơ

• Kích thích các tuyến ngoại tiết: chảy nước rãi,

sùi bọt mép, toát mồ hôi, chảy nước mắt, nhiều dịch phế quản tiết ra làm tăng thêm khó thở. • Nôn, ỉa chảy và ỉa đái không tự chủ được.

• Suy hô hấp, (khó thở, thở nông) • Nhịp tim chậm và cuối cùng tim ngừng co bóp .

224

• Các cơ vân co giật (lúc đầu) sau đó tê liệt. Khi cơ hô hấp tê liệt, con vật ngạt và chết.

Trường hợp ngộ độc bán cấp hay trường diễn: Chủ yếu nhận biết qua các dấu hiệu: yếu cơ, liệt cơ, mệt mỏi, ỉa chảy kéo dài. Bệnh diễn biến có khi vài tháng hoặc cả năm, dẫn đến teo cơ. Nguyên nhân chủ yếu là các sợi thần kinh – cơ bị liệt. Hệ thống miễn dịch suy giảm, dễ kế phát các bệnh truyền nhiễm.

* Điều trị: Các biện pháp hạn chế hấp thu chất độc: • Nếu ngộ độc qua da (phun thuốc trị ngoại ký sinh trùng) : tắm sà phòng, dội nước ,tẩy

rửa hết, rồi lau khô.

• Nếu ngộ độc qua đường tiêu hóa: Các bước tiến hành: Rửa dạ dày cho bò, ngựa, gây nôn cho chó và lợn để tống hết chất độc ra ngoài . Cho uống than hoạt tính để hấp phụ chất độc 30 – 50g/con ( nhiều, ít do linh hoạt của

thày thuốc thú y)

Nếu con vật không ỉa chảy, dùng thuốc tảy muối tảy hết than hoạt đã hấp phụ chất độc. Dùng thuốc đối kháng: Atropin 0,5 – 1,0mg/kgTT tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Với gà mái đẻ có thể dùng tới 4-5 mg/ kg tt .Ngoài Atropin còn có các thuốc 2 – PAM 20mg/kgTT tiêm bắp, Toxogonin 2 -8 mg/kg TT.

Bổ xung nước và chất điện giải khi con vật bị ỉa chảy, nôn. Sinh lý ngọt (đường glucose

5%) và sinh lý mặn (NaCl 0,9%). Khi có điều kiện, dùng dung dịch Lactat, Ringer…

Cải thiện chất lượng bữa ăn cho gia súc, tăng thêm các vitamin nhóm B và vitamin C. Tăng cường tuần hoàn, hô hấp: long não nước, Digitalin, Simpetanin Chăm sóc hộ lý tốt. b. Ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật nhóm hợp chất Clor – hữu cơ. Các hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Clor – hữu cơ thường dùng ở Việt Nam : Hexaconazol (Anvil) Lindan, Aldrin, Endrin, Methoxyclor , Heptaclor,

Paradiclorobenzen.v.v…

Do tính độc, tính tích lũy và tính bền vững lâu dài trong sinh quyển của các Clor – hữu cơ ; nên nhiều chất đã cấm sử dụng (DDT). 1 số chất dùng hạn chế và có kiểm soát. Dioxin ,chất độc da cam, cũng nằm trong nhóm các chất độc này.

* Cơ chế gây độc: Làm thay đổi hoạt động của kênh Na+ và K+ ở màng tế bào, nhất là tế bào thần kinh . Làm thay đổi hệ thống chuyển hóa GABA của tế bào thần kinh. Kích thích trực tiếp lên các neuron thần kinh.

225

Gây tích lũy acetylclolin và Serotonin trong não, dẫn đến rối loạn hoạt động thần kinh. Nhiều chất gây quái thai, ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác. 1 số chất làm tim nhạy cảm hơn với catecholamin do đó gây loạn nhịp tim. * Chẩn đoán ngộ độc: Dựa vào triệu chứng: Ở đường tiêu hóa: tiết nhiều nước bọt, nôn mửa, đau bụng, ỉa chảy (cũng giống như các

P- hữu cơ)

Ở thần kinh: con vật bồn chồn (lúc đầu) sợ hãi, sau đó run cơ, mất điều hòa vận động.

Con vật rất mệt mỏi (do rối loạn hệ bơm Na+ và K+ ở các tế bào)

Có những cơn động kinh, co giật toàn thân. Tim mạch: ngoại tâm thu (tâm thất) nhịp nhanh. Rung tâm thất. Cuối cùng trụy tim

mạch.

Nếu ngộ độc diễn biến chậm, có thể thấy các dấu hiệu nhiễm độc gan: gan to, mở rộng

vùng gan (khi gõ), vàng niêm mạc (mắt)

Chú ý: Từng chất, ở từng loại gia súc, có thêm những biểu hiện riêng. (có thể tham khảo

ở sách Độc chất học Thú y _ĐHNNI)

* Điều trị: Nói chung, như điều trị ngộ độc P- hữu cơ. Có 1 số đặc thù riêng: Hạn chế tổn thương gan, thận: truyền dung dịch Glucose 20 – 30% từ 500 -800ml cho

đại gia súc, 300 – 500ml cho tiểu gia súc, vitamin B1; Polyvitamin.

Chống co giật, run cơ: uretan, pentotal, Phenobarbital. Không có thuốc đối kháng đặc hiệu.

Chăm sóc hộ lý tốt. c. Ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Carbamat.

• Là những dẫn xuất của acid carbamic,

thiocarbamic và dithiocarbamic (hình 10.2).

1 số thuốc dùng phổ biến ở Việt Nam: Carbaryl.

Iso procard

Fenobucard

Cartap

Hình 10.2. Dê trúng độc cacbamid

Butocarboxim

* Cơ chế và biểu hiện ngộ độc: Các carbamat ức chế enzym acetylcholinesteraza, chủ yếu ở gan. Ở nơi khác có; nhưng

nhanh hồi phục; không bền như P- hữu cơ với enzyme này.

226

Carbamat ức chế nhiều loại enzym microsom ở gan. Như ức chế NADPH – citocrom, C-

reductaza, aldoza, phosphofructokinaza, glucozo – 6 – phosphataza.

1 số chất có ảnh hưởng đến sự phát triển của thai. Kích thích niêm mạc. Do đó chảy rãi, nôn, ỉa chảy.

Co đồng tử mắt, rối loạn thị giác. Thở khó, suy cơ, run cơ, co giật. Loạn nhịp tim * Điều trị ngộ độc: Thuốc đối kháng là Atropin sulphat. Cấm sử dụng các thuốc có tác dụng khôi phục clolinesteraza (như Toxogonin, PAM ).

Điều này khác với 2 nhóm hóa chất bảo vệ thực vật nói trên.

Các giải pháp khác, tương tự như giải độc P – Hữu cơ và Clor – hữu cơ. d - Ngộ độc Sắn ( Khoai mỳ ) Một số thực vật có chứa Glucozid loại Cyanogenetic. Dưới tác dụng của các enzym đặc hiệu, các cyanogenetic này bị thủy phân cho ra HCN và đường . Một số cyanogenetic thường gặp trong các cây cỏ :

Trong sắn (khoai mì), trong hạt Lanh,đậu Java, có chất Linamarin.(95%) và Linustatin

(5%).

Trong hạt đậu mèo có Vicianin. Trong hạt và lá đào, mận, táo có Amygdalin. Trong cỏ sudan non, các loại cao lương có Durrin. Cỏ ba lá (hoa trắng) có Lotaustralin. Loại thực vật nào, nếu 100g sản phẩm (lá, quả, củ ..) giải phóng ra 20mg HCN, coi là thực vật độc; giải phóng ra 60mg là cực độc. Gia súc sẽ chết khi ăn phải 1 lượng các cây cỏ có Cyanogenetic ;nếu lượng đó ăn vào giải phóng ra 3,9mg/kg tt HCN).

Bón phân hóa học và sử dụng các chất kích thích sinh trưởng (2,4D) sẽ làm tăng hàm

lượng Cyanogenetic trong cây cỏ.

Nghiên cứu trên sắn Phú Thọ, Dương Thanh Liêm và một số tác giả khác cho biết: trong vỏ lụa củ sắn có 7,6mg/100g; vỏ dày 21,6 mg/100g. 2 đầu củ có 16,2 mg/100g. Ruột củ sắn , phần ăn được có 9,72mg/100g; lõi củ sắn có 15,8 mg/100g.

Lá non giống sắn Dù có 36,48 mg/100g; giống sắn Gòn có 14,76 mg/100g. Đọt non giống sắn Dù có 44,23 mg/100g; giống sắn Gòn có 18,08mg/100g. * Sự hình thành ngộ độc: HCN từ glucozid loại cyanogenetic thủy phân ra, sẽ phân ly thành ion CN- (Cyanid). Các Cyanid kết hợp với Fe+3 có trong các enzym xúc tác quá trình hô hấp tế bào (đặc biệt cytocrom oxidaza) tạo thành các phức hợp, làm mất họat tính enzym; do

227

đó nội hô hấp tế bào bị đình trệ; phức hợp CN- với Fe+3 có thể phân ly trở lại, giải phóng enzym thoát khỏi sự kiềm chế của CN- (CN- không tác dụng tạo phức hợp với Fe+2 ở Hemoglobin).

Nhưng CN- cũng gắn vào Fe+2 của Hemoglobin, chiếm chỗ của oxy, tạo thành

methemoglobin. Khi thường xuyên ăn sắn hoặc các rau cỏ khác có cyanogenetic, sẽ tác động

xấu lên tuyến giáp trạng, cạnh tranh không cho Iod gắn vào hormon của tuyến giáp gây bệnh

bướu cổ.

Khi ngộ độc sắn, con vật mới đầu thở dốc vì CN- kích thích các cơ quan thụ cảm hô hấp. Tiếp đó các tế bào, đặc biệt tế bào thần kinh bị ngạt, thiếu oxy (nội hô hấp) do đó con vật co

giật (do ngạt hô hấp). Tiếp theo là tê liệt và chết.

* Phòng ngộ độc: không cho gia súc ăn nhiều các loại thức ăn có cyanogenetic đặc biệt

là sắn. Tùy theo lứa tuổi và khối lượng vật nuôi , cao nhất,cho ăn không quá 30% khẩu phần

(tham khảo thêm ở các tài liệu dinh dưỡng gia súc) Nếu cho ăn tươi, phải ngâm nước, nấu

chín kỹ, khi sôi mở vung để HCN bay theo hơi nước thoát khỏi sắn . Hoặc ủ men rượu. Nấm

men có tác dụng phân giải glucozid và HCN thành ít độc.

* Điều trị ngộ độc: Trường hợp ngộ độc nặng, phải khẩn trương, nếu chậm sẽ không cứu

được. Phảỉ tiến hành theo nguyên tắc:

Tạo thành các phức hợp với CN- ở ngay trong máu, không cho xâm nhập vào tế bào tổ

chức cơ quan.

Tách CN- ra khỏi các enzym mà chúng đã khóa, nhanh chóng giải phóng các enzym nội

hô hấp tế bào.

Thải trừ và trung hòa các thức ăn trong dạ dày, ruột. Cụ thể tiến hành: Tiêm tĩnh mạch cho gia súc dung dịch 20% Natri Nitrit. Tiêm chậm. liều 3-4mg/kgTT để

tạo nên hiện tượng methemoglobin. Biến sắt hóa trị 2 của Hemoglobin thành sắt hóa trị 3. Lúc này Cyanid (CN-) sẽ kết hợp với sắt 3 của Hemoglobin tạo

thành cyanmethemoglobin. Do đó enzym cytocrom oxidaza được giải phóng trở lại họat động, cứu con vật khỏi bị ngạt nội hô hấp.

Tiếp theo ta tiêm tĩnh mạch 30ml dung dịch 20% natri thiosulfat (phải đạt 10-

15mg/kgTT) để giải trừ cyanmethemoglobin.

Nếu hiện tượng methemoglobin nặng, ta tiêm xanh metylen để giải độc. Tiêm tĩnh mạch

(với bò) 50ml dung dịch xanh metylen 1% trong dung dịch glucose 25%.

Tiêm trợ tim: cafein 20% 5-10ml; tiêm dưới da.

Chăm sóc, hộ lý tốt. 228

e. Ngộ độc muối ăn (NaCl) Rất thường gặp trong chăn nuôi ở VN; nhất là chăn nuôi gà, lợn. Đôi khi ở bò. Nguyên nhân:

Cho NaCl vào thức ăn không đúng tỷ lệ quy định. Nhầm lẫn, cho gà ăn bột cá của lợn (hàm lượng NaCl trong bột cá này cao). Tuy liều lượng NaCl trong thức ăn bình thường, đúng quy định ; nhưng gia súc, gia cầm

không được uống nước đầy đủ. Ngay cả khi lượng NaCl cho ăn thấp; nhưng cơ thể thiếu nước cũng gây ngộ độc.

Trong thức ăn hỗn hợp, khi trộn không đều, muối chỗ nhiều, chỗ ít sẽ có con bị ngộ độc. Thức ăn thừa hàng ngày, nước dưa, nước cà muối, ..được các gia đình tận dụng; nhưng

không chú ý đúng mức, dẫn tới ngộ độc.

Độc tính. Ở lợn cho ăn 2-4g/kg TT đã gây độc. Gia cầm 4,5g/kgTT là liều gây chết. Bò 1000-3000g/con; ngựa 750-2000g; chó 30-60g cho ăn 1 lần đã giết chết con vật. Trường hợp thiếu nước, liều lượng gây độc thấp hơn rất nhiều. Thí dụ: với lợn, thức ăn có 2,5% muối sẽ ngộ độc. Nhưng nếu không cho lợn uống nước 24-36 giờ rồi cho ăn thức ăn có 0,7-0,8% NaCl đã gây độc nặng..

Gia súc non và gia súc có chửa mẫn cảm muối ăn cao hơn gia súc trưởng thành, không chửa.

Các ion Natri có vai trò quyết định trong

quá trìng ngộ độc chứ không phải ion Clo.

Khi ngộ độc NaCl, con vật uống nhiều

nước để tăng thải trừ Na+ ra khỏi cơ thể.

Nguy hiểm lớn nhất là áp lực thẩm thấu

Hình 10.3. Triệu chứng gà trúng độc muối

của các tế bào thay đổi bởi ngộ độc NaCl.

Gia cầm, đặc biệt là gia cầm non rất dễ

bị ngộ độc NaCl vì: thận của chúng không hoàn thiện và vì protein huyết thanh của chúng thấp hơn các con vật khác (hình 10.30).

Còn vì vị giác và khứu giác của gia cầm rất kém, chúng không tự phân biệt tốt giữa mặn,

nhạt để tránh.

Lợn, bò ngộ độc: đều rất khát nước, bỏ ăn, chảy rãi đặc dính, nôn, ỉa chảy, dáng điệu uể

oải, ngồi như chó, quay đảo, loạng choạng rồi hôn mê.

229

Ở gà ngộ độc: khát nước, khó thở, ỉa lỏng, sau đó đầu và cổ quay gập về lưng, quay

cuồng, nằm liệt một chỗ.

Gia súc và gia cầm ngộ độc, sẽ chết sau 24-30 giờ; có khi chết hàng lọat. Chẩn đoán: mổ khám khó vì ở mỗi con, biểu hiện 1khác. thận trọng khi cho ăn thức ăn có NaCl. Phòng: cho uống nước đầy đủ.

Trị: không có thuốc đặc hiệu. Cần cho con vật uống nhiều nước (nhưng không cho uống

nhiều đột ngột, gây phì não cấp, bệnh lý càng nặng nề hơn). Dùng các chế phẩm canxi cho uống hoặc tiêm để cạnh tranh với các ion Na+, giúp giảm thiệt hại.

g. Ngộ độc nấm mốc. Rất đa dạng. Ở bài này chỉ giới thiệu ngộ độc Aflatocin. Aflatocin do nấm Aspergillus Flavus và Aspergillus Parasiticus sản sinh ra. Đã biết được 12 loại Aflatocin khác nhau, được ký hiệu là B1, B2, G1, G2, M1, M2 … Nấm Aspergillus ký sinh nhiều trên ngô hạt và các hạt cốc khác khi bị ẩm và nóng * Độc tính: Aflatocin và các chất chuyển hóa của nó trong cơ thể có tác dụng gây rối lọan hoặc làm ngừng trệ sự tổng hợp AND và ARN; từ đó làm phát sinh các đột biến; tiêu giảm tỏng hợp protein. Hậu quả nguy hiểm là gây ung thư (đặc biệt ung thư gan), quái thai. Độ mẫn cảm và ngộ độc ở gia súc và gia cầm xếp thứ tự giảm dần như sau:

Gia cầm > lợn > trâu, bò > dê, cừu. Trong gia cầm, vịt con > gà tây > ngỗng > trĩ > gà dò. Aflatocin tích lũy lâu, bền, trong các mô của cơ thể vật nuôi. Do đó, người tiêu dùng nếu

thường xuyên sử dụng các sản phẩm này cũng sẽ có nguy cơ ung thư, quái thai.

* Phòng độc: Kỹ thuật canh tác trên đồng ruộng tốt để hạn chế sự lây nhiễm của nấm mốc. Bảo quản thức ăn và nguyên liệu chế biến thức ăn tốt. Để nơi khô, mát, có thể hạn chế

nấm mốc phát triển. Sử dụng các chất bảo quản đúng cách, hợp lý để chống nấm mốc.

Không cho vật nuôi sử dụng thức ăn mốc. Sử dụng các giải pháp khử độc tính của Aflatocin trong đường tiêu hóa vật nuôi: dùng

các chất hấp phụ như than họat tính, khoáng sét, các chất trùng phân.

* Trị: không có thuốc điều trị đặc hiệu. Có thể áp dụng 1 số giải pháp tích cực: Dùng các chế phẩm sinh học làm vô họat Aflatocin. Thí dụ chế phẩm Mycofix Plus đang

bán trên thị trường của hãng Biomin.

230

Dùng các chế phẩm có chứa curcumin (bột củ nghệ) cũng có tác dụng hạn chế liên kết giữa Aflatocin và ADN, giảm quá trình ung thư. Chế phẩm từ Actixo tăng cường công năng giải độc của gan với các chất độc, trong đó có Aflatocin.

h. Các dạng ngộ độc khác: có rất nhiều Ngộ độc các ancaloid trong thực vật: Solanin trong mầm khoai tây, Nicotin trong thân

cây thuốc lá, thuốc lào. Ngộ độc bã rượu. Ngộ độc bả chuột. Ngộ độc thuốc thú y. (rất phong phú) Ngộ độc các Saponozid. Ngộ độc phân hóa học. Ngộ độc bởi các chất độc từ động vật

231

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Minh An và cộng sự. Nội khoa cơ sở (triệu chứng học nội khoa, tập I),

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội - 2001.

2. Nguyễn Thị Minh An và cộng sự. Nội khoa cơ sở (triệu chứng học nội khoa, tập II),

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội - 2001.

(cid:51)(cid:46) (cid:68)(cid:249)(cid:32)(cid:184)(cid:110)(cid:32)(cid:116)(cid:168)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:99)(cid:173)(cid:234)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:99)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:116)(cid:184)(cid:99)(cid:32)(cid:84)(cid:104)(cid:243)(cid:32)(cid:121)(cid:32)(cid:86)(cid:105)(cid:214)(cid:116)(cid:32)(cid:110)(cid:97)(cid:109)(cid:32)(cid:40)(cid:83)(cid:86)(cid:83)(cid:86)(cid:41)(cid:46) (cid:67)(cid:200)(cid:109)(cid:32)(cid:110)(cid:97)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:116)(cid:104)(cid:243)(cid:32)(cid:121)(cid:46) (cid:72)(cid:181)(cid:32)(cid:110)(cid:233)(cid:105)(cid:44)(cid:32)(cid:50)(cid:48)(cid:48)(cid:50)(cid:46)

(cid:52)(cid:46) Phùng Đức Cam. Bệnh tiêu chảy, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội - 2003.

5. Nguyễn Đức Công và cộng sự. Bệnh học nội khoa, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,

Hà Nội - 2002 .

6. Vũ Văn Đính và cộng sự. Điều dưỡng nội khoa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội - 1999.

7. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp, Bùi Thị Tho. Dược lý học thú y, Nhà xuất bản

Nông nghiệp, Hà Nội - 1997.

8. Hoàng Tích Huyền và cộng sự. Hướng dẫn sử dụng kháng sinh, Nhà xuất bản Y học,

Hà Nội - 2001.

9. Nguyễn Ngọc Lanh, Văn Đình Hoa, Phan Thị Thu Oanh, Trần Thị Chinh. Sinh lý

bệnh học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội - 2002.

10. Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ. Thuốc thú y và cách sử dụng, Nhà xuất bản

Nông nghiệp, Hà Nội - 1997.

(cid:49)(cid:49)(cid:46) (cid:72)(cid:229)(cid:32)(cid:86)(cid:168)(cid:110)(cid:32)(cid:78)(cid:97)(cid:109)(cid:44)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:117)(cid:121)(cid:212)(cid:110)(cid:32)(cid:84)(cid:104)(cid:222)(cid:32)(cid:167)(cid:181)(cid:111)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:117)(cid:121)(cid:170)(cid:110)(cid:44)(cid:32)(cid:80)(cid:104)(cid:185)(cid:109)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:228)(cid:99)(cid:32)(cid:84)(cid:104)(cid:185)(cid:99)(cid:104)(cid:46) (cid:66)(cid:214)(cid:110)(cid:104)(cid:32)(cid:110)(cid:233)(cid:105)(cid:32)(cid:107)(cid:104)(cid:111)(cid:97)(cid:32)(cid:103)(cid:105)(cid:97)(cid:32)(cid:115)(cid:243)(cid:99)(cid:44)

(cid:78)(cid:104)(cid:181)(cid:32)(cid:120)(cid:117)(cid:202)(cid:116)(cid:32)(cid:98)(cid:182)(cid:110)(cid:32)(cid:78)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:104)(cid:105)(cid:214)(cid:112)(cid:44)(cid:32)(cid:49)(cid:57)(cid:57)(cid:55)(cid:46)

(cid:49)(cid:50)(cid:46)(cid:32)(cid:32)(cid:72)(cid:229)(cid:32)(cid:86)(cid:168)(cid:110)(cid:32)(cid:78)(cid:97)(cid:109)(cid:44)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:117)(cid:121)(cid:212)(cid:110)(cid:32)(cid:84)(cid:104)(cid:222)(cid:32)(cid:167)(cid:181)(cid:111)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:117)(cid:121)(cid:170)(cid:110)(cid:44)(cid:32)(cid:80)(cid:104)(cid:185)(cid:109)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:228)(cid:99)(cid:32)(cid:84)(cid:104)(cid:185)(cid:99)(cid:104)(cid:46) (cid:67)(cid:104)(cid:200)(cid:110)(cid:32)(cid:174)(cid:111)(cid:184)(cid:110)(cid:32)(cid:108)(cid:169)(cid:109)(cid:32)(cid:115)(cid:181)(cid:110)(cid:103)

(cid:116)(cid:104)(cid:243)(cid:32)(cid:121)(cid:46)(cid:32)(cid:78)(cid:104)(cid:181)(cid:32)(cid:120)(cid:117)(cid:202)(cid:116)(cid:32)(cid:98)(cid:182)(cid:110)(cid:32)(cid:78)(cid:171)(cid:110)(cid:103)(cid:32)(cid:78)(cid:103)(cid:104)(cid:105)(cid:214)(cid:112)(cid:44)(cid:32)(cid:49)(cid:57)(cid:57)(cid:55)(cid:46)

13. Phạm Ngọc Thạch, Hồ Văn Nam, Chu Đức Thắng, Bệnh nội khoa gia súc

nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2006.

14. Phạm Ngọc Thạch; Đỗ Thị Nga. Giáo trình chẩn đoán bệnh và bệnh nội khoa, nhà

xuất bản Hà Nội, 2006.

15. Phạm Ngọc Thạch, Dương Thị Anh Đào, Phạm Khắc Hiếu, Nguyễn Thị Kim

Thành, Chu Đức Thắng, Chu Đình Tới. Chẩn đoán bệnh và bệnh nội khoa Thú y, nhà

xuất bản giáo dục, Hà Nội 2008.

232

16. Hòa Phụng. Phòng và chữa các ca ngộ độc thường gặp, Nhà xuất bản Y học, 2004.

17. Nguyễn Khánh Trạch và cộng sự. Điều trị học nội khoa tập I, Nhà xuất bản Y học,

Hà Nội - 2002.

18. Nguyễn Khánh Trạch và cộng sự. Điều trị học nội khoa tập II, Nhà xuất bản Y học,

Hà Nội - 2002.

19. Phạm Văn Vinh. Siêu âm tim và bệnh lý tim mạch, Nhà xuất bản Y học - Thành phố

Hồ Chí Minh - 2001.

20. Vũ Đình Vinh, Lê Văn Hương. Sinh hóa lâm sàng (quyển một), Trường đại học

Quân y, 1971.

21. Adam D.H, Adu D. Non-steroidal antiimflamatory drugs and the kidney, Oxford

textbook of clinical nephrology Vol 1. 819-825.

22. ARon D.C Tyrrell J.B. Cushing syndrome problem in diagnosis medicine, Baltimore-

1991.

23. Brauwald. Heart disease. W.B-Sauders company, 1997.

24. Brenner B.M, Mackenzie h.s. Effects of nephron loss on renal excetory mechanism,

Principles of internation medicine, MC graw-hill book company, 1998.

25. Bradford P.Smith, DVM, Diplomate ACVIM. Large animal internal medicine, The

C.V.Mosby Company, 1990.

26. Carl A.Osbrone, Jody W.publulich. Kirk's current veterinary therapy XII (Small

animal practice). W.B.Saunders company, 1999.

27. J.H.Green. Basic clinical physiology, Oxford University press, New York, Toronto -

2000.

28. Jonh K.Dunn, MVetSc, BVM&S, Dsam, Dipecvim, Mrcvs. Textbook of small

animal medicine, W.B.Saunders company, 1999.

29 . Harrision. Principles of internation medicine, MC graw-hill book company, 1998.

30. Stephen J.Ettinger, Edward C.Feldman, VDM. Textbook of veterinary internal

medicine (Diseases of the Dog and Cat), W.B.Saunders company, 1990.

31.Timothy H.Ogilvie, DVM, MSc. First edition, Large animal internal medicine,

Willams & Wilkins a Waverly company, 1998.

233