
62 Bùi Chúc Ly và cộng sự. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(3), 62-78
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ canh tác lúa gạo bền vững tại
Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam
Factors influencing the level of sustainable rice cultivation in the
Mekong Delta, Vietnam
Bùi Chúc Ly1,2*, Nguyễn Hồng Tín1, Nguyễn Thành Tâm1, Lê Thị Kim Ngân1
1Trường Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, Việt Nam
2Trung tâm Khuyến nông tỉnh Sóc Trăng, Sóc Trăng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ, Email: lyp1221001@gstudent.ctu.edu.vn
THÔNG TIN
TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
econ.vi.20.3.3566.2025
Ngày nhận: 15/07/2024
Ngày nhận lại: 08/10/2024
Duyệt đăng: 29/10/2024
Mã phân loại JEL:
Q01; Q15; Q52; Q56
Từ khóa:
canh tác lúa bền vững; hồi quy
Tobit; tiêu chuẩn SRP; yếu tố
ảnh hưởng
Keywords:
sustainable rice cultivation;
Tobit regression; SRP
standard; influencing factors
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khám phá các yếu tố kinh
tế xã hội của nông hộ có tác động đến mức độ canh tác lúa bền
vững theo tiêu chuẩn SRP (Sustainable Rice Platform) tại Đồng
Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Số liệu được thu thập thông qua
phỏng vấn 200 nông dân tại hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Kết
quả phân tích hồi quy Tobit đã tìm ra 06 yếu tố có ảnh hưởng tích
cực đến mức độ canh tác lúa gạo bền vững của nông dân bao gồm
trình độ học vấn, diện tích trồng lúa, tham gia Hợp Tác Xã (HTX),
ghi chép nhật ký; bơm tưới tập thể và liên kết tiêu thụ. Trên cơ sở
kết quả phân tích một số giải pháp thúc đẩy canh tác lúa bền vững
đã được đề xuất như nâng cao nhận thức cho người trồng lúa, hình
thành và củng cố các HTX, hỗ trợ ghi chép nhật ký sản xuất, quan
tâm đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất lúa, tăng cường liên kết
doanh nghiệp-nông dân, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và hỗ trợ tài
chính và kỹ thuật cho nông dân.
ABSTRACT
The research was conducted to explore the socio-economic
factors of households that affect the adoption of the SRP standard
in the Mekong Delta. Data was collected through interviews with
200 farmers in the provinces of An Giang and Dong Thap. The
results of linear regression analysis identified six factors that
positively influence sustainable rice cultivation among farmers:
educational level, farm size, participation in cooperatives, farm
diary, collective irrigation pumping, and farming contract. Based
on the analysis results, several solutions have been proposed to
promote sustainable rice cultivation, such as raising awareness for
rice growers, establishing and strengthening cooperatives,
supporting record-keeping, investing in infrastructure for rice
production, enhancing enterprise-farmer linkages, supporting brand
building, and providing financial and technical support for farmers.
1. Giới thiệu
Việt Nam là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Trong đó, Đồng Bằng
Sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất nước, cung cấp sản lượng
khoảng 25 triệu tấn lúa mỗi năm, chiếm hơn 50% sản lượng lúa của cả nước và đóng góp hơn

Bùi Chúc Ly và cộng sự. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(3), 62-78 63
90% lượng gạo xuất khẩu. Ngành lúa gạo đóng vai trò quan trọng trong sinh kế của hơn 70% dân
số nông thôn khu vực ĐBSCL (Tổng cục Thống kê, 2021). Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo tại
ĐBSCL đang phải đối mặt với nhiều thách thức và ngày càng trở nên kém bền vững. Nghiên cứu
gần đây cho thấy rằng việc sử dụng vật tư đầu vào không hợp lý đang làm giảm lợi nhuận của
người trồng lúa (Ladha & ctg., 2000), gây ra suy thoái đất đai, ô nhiễm môi trường (Murgai &
ctg., 2001; Pingali & Rosegrant, 2001) và gây ảnh hưởng đến sức khỏe cả người sản xuất và
người tiêu dùng (Dao & ctg., 2020).
Trước những thách thức trên, để chuyển đổi sản xuất lúa gạo bền vững, tiêu chuẩn sản xuất
lúa gạo bền vững SRP (Sustainable Rice Platform), gọi tắt là tiêu chuẩn SRP được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thúc đẩy áp dụng tại ĐBSCL nhằm giúp giải quyết các thách thức
trong sản xuất lúa gạo mà khu vực này đang phải đối mặt. Tiêu chuẩn SRP là bộ công cụ hướng
dẫn canh tác bền vững toàn cầu đầu tiên, giúp thúc đẩy việc áp dụng rộng rãi các thực hành sản
xuất bền vững và thông minh với khí hậu cho các nông dân sản xuất nhỏ (Sustainable Rice
Platform [SRP], 2020). Tiêu chuẩn SRP đã được khuyến khích áp dụng ở nhiều quốc gia sản xuất
lúa gạo trên thế giới như Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Pakistan, Campuchia (Mungkung
& ctg., 2022; SRP, 2021) và một số quốc gia Đông Phi như Burundi, Rwanda, Uganda, Kenya, và
Madagascar (Andriatsiorimanana & ctg., 2023). Sản xuất theo tiêu chuẩn SRP được ghi nhận mang
lại nhiều lợi ích như giảm chi phí, tăng lợi nhuận, giảm phát thải khí nhà kính, và giúp thích nghi
với điều kiện thời tiết bất lợi (Hoang & Hoang, 2019; Sustainable Rice Platform [SRP], 2021).
Tiêu chuẩn SRP cho phép nông dân tuân thủ từng bước để khuyến khích và khen thưởng
quá trình hướng tới tuân thủ đầy đủ. Mỗi yêu cầu có một mức độ tuân thủ nhất định để nông dân
có thể thực hiện được theo lộ trình nhằm hướng dẫn quá trình cải thiện và công nhận quá trình
tiến bộ của nông dân. Vì thế, mức độ áp dụng có thể sẽ thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào
việc ra quyết định tuân thủ của nông dân. Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng, quá trình ra
quyết định áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của nông dân ở khu vực Đông Nam Á chịu sự chị phối
bởi nhiều yếu tố khác nhau (Checco & ctg., 2023).
Riêng tại Việt Nam, một số yếu tố được ghi nhận có ảnh hưởng đến quyết định áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lúa của nông dân như độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính của
chủ hộ, số thành viên trong gia đình, quy mô canh tác, tham gia vào các tổ chức chính trị xã hội,
hệ thống bơm tưới tập thể, thu nhập ngoài trồng lúa, vay tín dụng, hợp đồng liên kết tiêu thụ
(Connor & ctg., 2021; Hoang, 2021; Le, 2021; Le & ctg., 2021; Pham & Napasintuwong, 2020).
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp
nhận áp dụng tiêu chuẩn SRP. Vì thế, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định áp dụng tiêu chuẩn SRP của nông dân trồng lúa tại vùng nghiên cứu.
Kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp những thông tin khoa học liên quan đến canh tác lúa gạo bền
vững, đồng thời làm cơ sở để các nhà hoạch định chính sách đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm
thúc đẩy sản xuất lúa gạo bền vững cho khu vực ĐBSCL.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Nông nghiệp bền vững
Các quan điểm về nông nghiệp bền vững đã bắt đầu hình thành từ cuối thế kỷ XX, khởi
đầu với những ý tưởng của Brundtland được công bố vào năm 1987. Sau đó, nhiều quan điểm về
nông nghiệp bền vững đã ra đời. Theo MacRae và cộng sự (1989), nông nghiệp bền vững bao
gồm “các quy trình quản lý làm việc với các quá trình tự nhiên để bảo tồn tất cả các nguồn tài
nguyên, giảm thiểu chất thải và tác động môi trường, ngăn ngừa các vấn đề và thúc đẩy khả năng
phục hồi, tự điều chỉnh, tiến hóa và duy trì sản xuất của hệ sinh thái nông nghiệp nhằm nuôi

64 Bùi Chúc Ly và cộng sự. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(3), 62-78
dưỡng và đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người” (tr. 173). Reganold và cộng sự (1990) cho rằng,
“Để một trang trại có thể bền vững, nó phải sản xuất được lượng thực phẩm chất lượng cao đủ
đáp ứng nhu cầu, bảo vệ các nguồn tài nguyên và đảm bảo an toàn cho môi trường cũng như có
lợi nhuận. Thay vì phụ thuộc vào các nguyên liệu mua như phân bón, một trang trại bền vững
dựa càng nhiều càng tốt vào các quá trình tự nhiên có lợi và các nguồn tài nguyên tái tạo được
lấy từ chính trang trại đó” (tr. 112). Tóm lại, nông nghiệp bền vững cần phải được xem xét và
đánh giá trên cả 03 khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường (Velten & ctg., 2015). Bởi vì khi chỉ
tập trung vào lợi ích kinh tế có thể sẽ dẫn đến các tác động tiêu cực đến môi trường, làm tổn thất
nguồn tài nguyên thiên nhiên và ảnh hưởng đến sức khỏe con người (Bell & Morse, 2012).
2.2. Tiêu chuẩn sản xuất lúa gạo bền vững SRP
Theo tổ chức Lương nông Liên Hiệp Quốc, một chuỗi giá trị lúa gạo bền vững phải đảm
bảo mục tiêu là kết hợp sự bền vững kinh tế (tức là tạo ra giá trị gia tăng) với sự bền vững xã hội
(tức là tạo điều kiện cho sự phân phối công bằng giá trị gia tăng giữa các bên liên quan) và sự
bền vững môi trường (tức là giảm thiểu lượng dấu chân sinh thái) (FAO, 2018).
Để thúc đẩy sản xuất lúa gạo bền vững, năm 2011, Viện nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế
(IRRI), Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) và tổ chức GIZ đã cùng nhau thúc đẩy
một sáng kiến gọi là “Diễn đàn lúa gạo bền vững” viết tắt là SRP, đây là một liên minh đa đối tác
toàn cầu bao gồm trên 100 tổ chức có liên quan, gồm cả các bên trong khu vực nhà nước và tư
nhân, các viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và phi chính phủ. SRP thúc đẩy hiệu quả sử
dụng tài nguyên và khả năng phục hồi với tác động của biến đổi khí hậu trong hệ thống sản xuất
lúa gạo, trên đồng ruộng và trong cả chuỗi giá trị. Mục tiêu của SRP là giảm thiểu tác động môi
trường trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo đồng thời tăng thu nhập cho nông dân sản xuất nhỏ và
góp phần bảo đảm an ninh lương thực (SRP, 2020).
Để cụ thể hóa mục tiêu, Diễn đàn SRP đã phát hành bộ Tiêu chuẩn sản xuất lúa gạo bền
vững đầu tiên trên thế giới gọi tắt là tiêu chuẩn SRP. Tiêu chuẩn SRP được áp dụng cho tất cả các
quy trình sản xuất lúa gạo bao gồm cả các quy trình sau thu hoạch dưới sự kiểm soát của nông dân.
Tiêu chuẩn này có thể được áp dụng bởi các nông dân riêng lẻ, các nhóm nông dân sản xuất nhỏ,
cũng như trong các cánh đồng lớn, và tập trung vào việc đảm bảo tính phù hợp, thực tiễn và tác
động, đặc biệt đối với nông dân sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển. Tiêu chuẩn SRP bao gồm
41 yêu cầu thuộc 08 lĩnh vực liên quan của sản xuất lúa gạo, như: (1) sử dụng nước, (2) chuẩn bị
xuống giống, (3) thu hoạch và sau thu hoạch, (4) quản lý đồng ruộng, (5) quản lý sâu bệnh, (6) quản
lý dinh dưỡng, (7) quyền của người lao động, và (8) sức khỏe và an toàn lao động (SRP, 2020).
Việc đánh giá mức độ áp dụng canh tác bền vững của tiêu chuẩn SRP được xác định
thông qua điểm số trên thang điểm từ 1 đến 100 điểm. Điểm số càng cao chứng minh mức độ áp
dụng càng cao. Nông dân có thể công bố mức độ áp dụng tiêu chuẩn SRP dựa trên điểm số mà
họ đạt được. Nông dân đạt dưới 33 điểm được xem là chưa đạt được tiêu chuẩn SRP. Nếu Nông
dân đạt từ 33 đến dưới 90 điểm và đạt điểm ngưỡng đối với các yêu cầu 4, 18.1 đến 18.5, 23, 29,
33, 34, 35 và 36, họ có thể tự công bố là mình đang “Sản xuất lúa hướng đến bền vững”. Nếu
nông dân đạt từ 90 điểm trở lên và đạt được điểm ngưỡng của tất cả các yêu cầu, họ có thể công
bố là mình đang “Sản xuất lúa bền vững”.
Tổng số điểm được trình bày theo thang điểm 0 - 100. Điểm này dựa trên tổng số điểm
mà một nông dân đạt được, chia cho số điểm tối đa có thể đạt, nhân với 100.
Điểm chuẩn (0 - 100) =
Tổng số điểm đạt được tương ứng với thực hành của nông dân
x 100
(1)
Số điểm lớn nhất có thể đạt được

Bùi Chúc Ly và cộng sự. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(3), 62-78 65
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn lựa áp dụng kỹ thuật mới
Ở nước ta, có nhiều nghiên cứu về các các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kỹ thuật
mới của nông dân trồng lúa. Theo Bui và cộng sự (2024), các yếu tố này có thể phân làm 04
nhóm như đặc điểm chủ hộ, đặc điểm hộ sản xuất, đặc điểm của kỹ thuật mới và các điều kiện hỗ
trợ bên ngoài. Hiểu rõ được các yếu tố này và những ảnh hưởng của nó sẽ giúp xác định được
các khu vực tiềm năng, cũng như đề xuất những giải pháp cải thiện phù hợp để thúc đẩy mở rộng
áp dụng các kỹ thuật canh tác lúa tiên tiến trong đó có tiêu chuẩn SRP. Một số yếu tố được ghi
nhận có ảnh hưởng đến việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lúa được ghi nhận như sau:
Độ tuổi của chủ hộ ảnh hưởng đến việc áp dụng các kỹ thuật mới. Nông dân càng lớn
tuổi thì càng ít có khả năng tiếp thu các kỹ thuật mới (Hoang, 2021) do họ có xu hướng lo lắng
về rủi ro, ngại thay đổi và ít sẵn sàng đầu tư dài hạn hơn so với những người trẻ tuổi (Tran &
ctg., 2020). Tuy nhiên, lại có một số nghiên cứu khác ghi nhận độ tuổi của nông dân không ảnh
hưởng đến quyết định áp dụng kỹ thuật mới (Dang & ctg., 2021; Le & ctg., 2021; Tran & ctg.,
2020; Trinh, 2016; Vo & ctg., 2018).
Trình độ học vấn của chủ hộ ảnh hưởng đến việc chấp nhận áp dụng các kỹ thuật mới.
Nông dân có trình độ học vấn cao hơn có xu hướng áp dụng các kỹ thuật canh tác mới hơn
(Connor & ctg., 2021; Hoang, 2021; Le & ctg., 2021; Pham & Pham, 2021).
Giới tính có tác động đến quyết định áp dụng các kỹ thuật mới. Một số nghiên cứu chỉ ra
rằng phụ nữ có xu hướng thích áp dụng các kỹ thuật canh tác mới hơn nam giới (Hoang, 2021;
Tran & ctg., 2020; Trinh & ctg., 2018).
Việc tham gia vào các tổ chức chính trị xã hội như Hội Nông dân, HTX, nhóm nông dân
hoặc câu lạc bộ nông nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến quyết định chọn lựa áp dụng các kỹ thuật
mới đã được ghi nhận trong các nghiên cứu của Le và cộng sự (2021); Vo và cộng sự (2018);
Pham và Napasintuwong (2020).
Tổng số thành viên trong gia đình được ghi nhận là có cả tác động tích cực (Hoang, 2021)
và tiêu cực (Nguyen & Tran, 2018) đến quyết định áp dụng kỹ thuật mới.
Quy mô sản xuất có tác động tích cực đến quyết định áp dụng kỹ thuật mới. Nông dân có
diện tích canh tác lớn có nhiều khả năng lựa chọn áp dụng các kỹ thuật mới hơn những nông dân
có diện tích canh tác nhỏ lẻ (Connor & ctg., 2020; Dang & ctg., 2021; Ho & Shimada, 2021;
Pham & Pham, 2020; Tran & ctg., 2020).
Trong các khu vực có hạ tầng thuận lợi cho sản xuất lúa, nông dân thường có xu hướng
chấp nhận các kỹ thuật mới hơn (Ha & Duong, 2014; Ho & ctg., 2022; Nguyen & Tran, 2018;
Le, 2021; Pham & ctg., 2022). Đặc biệt, nông dân ở các vùng tập trung hệ thống tưới tiêu, việc
truyền bá các kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến trở nên thuận lợi hơn so với nông dân không nằm
trong các khu vực có hệ thống tưới tập trung (Le, 2021; Pham & Pham, 2020).
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc tiếp cận tín dụng ảnh hưởng đến khả năng thực hành
kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến (Ha & Duong, 2014; Hoang, 2021; Ngo, 2016; Pham & Pham,
2021; Trinh & ctg., 2018). Tiếp cận tín dụng tạo cơ hội cho người dân có được nguồn vốn để đầu
tư vào ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật như mua trang thiết bị hiện đại phục vụ sản xuất hay mua
vật tư đầu vào chất lượng hơn với giá cả phù hợp hơn.
Hộ có điều kiện kinh tế tốt sẽ có khuynh hướng lựa chọn áp dụng các kỹ thuật mới, vì họ
có nguồn lực kinh tế để đầu tư (Pham & Pham, 2020). Nông dân có thu nhập ngoài trồng lúa
thường không bị lệ thuộc vào nguồn thu nhập từ lúa nên dễ chấp nhận các rủi ro và thích thử
những kỹ thuật canh tác mới (Connor & ctg., 2021).

66 Bùi Chúc Ly và cộng sự. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị kinh doanh, 20(3), 62-78
Hợp đồng canh tác là yếu tố thúc đẩy quan trọng khuyến khích nông dân tham gia thực
hiện các kỹ thuật mới (Pham & Napasintuwong, 2020; Tran & Napasintuwong, 2016). Đây được
xem một động lực quan trọng thúc đẩy nông dân ứng dung các tiến bộ kỹ thuật trong canh tác lúa
hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Do đặc thù đối tượng nghiên cứu là những nông dân đã từng áp dụng tiêu chuẩn SRP
trong canh tác lúa nên vùng nghiên cứu cũng rất hạn chế. Theo Bui (2022), đến năm 2022, toàn
vùng ĐBSCL chỉ có 04 tỉnh có triển khai áp dụng tiêu chuẩn SRP là Đồng Tháp, An Giang, Cần
Thơ và Bạc Liêu. Trong nghiên cứu này, hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp được lựa chọn vì là
hai trong số 04 tỉnh có triển khai áp dụng tiêu chuẩn SRP, đồng thời đây cũng là các tỉnh sản
xuất lúa gạo trọng điểm, có diện tích canh tác chiếm gần 30% diện tích canh tác lúa của vùng
ĐBSCL (Tổng cục Thống kê, 2024).
Sau quá trình thảo luận với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang và
Đồng Tháp, 04 địa điểm cấp huyện được chọn đưa vào nghiên cứu là Thoại Sơn, Tri Tôn thuộc
tỉnh An Giang và Cao Lãnh, Tháp Mười thuộc tỉnh Đồng Tháp. Trên địa bàn các huyện được
chọn, 210 nông dân đã từng áp dụng tiêu chuẩn SRP được mời phỏng vấn trực tiếp bằng biểu câu
hỏi soạn sẵn. Sau khi loại trừ các hộ không đủ thông tin, thông tin của 200 nông dân được đưa
vào phân tích trong nghiên cứu này (Bảng 1). Thời gian thực hiện nghiên cứu từ tháng 06 đến
tháng 12 năm 2022.
Bảng 1
Số Lượng và Địa Điểm Thu Thập Thông Tin
STT
Tỉnh
Huyện
Số hộ khảo sát
Tỷ trọng (%)
1
An Giang
Thoại Sơn
85
50.5
2
Tri Tôn
16
3
Đồng Tháp
Cao Lãnh
45
49.5
4
Tháp Mười
54
Tổng cộng
200
100
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu
Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các thông tin về đặc điểm nông hộ,
điểm số nông dân đạt được. Mô hình hồi quy Tobit được sử dụng để khám phá các yếu tố kinh tế
xã hội của nông hộ ảnh hưởng đến mức độ áp dụng tiêu chuẩn SRP, được đo lường bằng điểm số
SRP theo thang điểm từ 1 đến 100.
Mô hình hồi quy Tobit được xây dựng bởi nhà kinh tế học Tobin, được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu kinh tế - xã hội. Hồi quy Tobit được sử dụng để ước lượng mô hình có biến
phụ thuộc bị chặn (hay bị giới hạn), giới hạn trên hay giới hạn dưới hoặc bị giới hạn cả hai (Tran
& ctg., 2022). Trong nghiên cứu này biến phụ thuộc (điểm số SRP) bị chặn ở giá trị 0 và 100.
Mô hình hồi quy cũng đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu như xác định mức độ áp dụng kỹ
thuật 1P5G (Connor & ctg., 2021), mức độ áp dụng kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ (Le, 2021),
mức độ áp dụng vật tư đầu vào (Pham & Pham, 2021).
Mô hình hồi quy Tobit có dạng như sau:
Y = β0 + β1X1 + β2X2 +…+ βnXn + u (2)