
71
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 276- Năm thứ 27 (4)- Tháng 4. 2025
Nghiên cứu rào cản áp dụng kinh tế tuần hoàn
trong nông nghiệp của nông dân khu vực Hà Nội
Ngày nhận: 13/12/2024 Ngày nhận bản sửa: 05/04/2025 Ngày duyệt đăng: 10/04/2025
Tóm tắt: Sản xuất nông nghiệp vẫn là trụ cột chính của kinh tế Việt Nam khi
đóng góp 12 - 14% GDP và tạo việc làm cho khoảng 40% lao động. Nghiên
cứu này tập trung làm rõ những rào cản áp dụng kinh tế tuần hoàn trong
nông nghiệp của nông dân khu vực Hà Nội bằng khảo sát tương quan mô tả
lát cắt, thông qua việc phân tích 154 dữ liệu thu thập được từ ngày 14/6 đến
30/9/2024. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố nhân khẩu học như
độ tuổi, giới tính, diện tích đất canh tác có ảnh hưởng tới việc áp dụng kinh
tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Ngoài ra, kinh tế vừa là yếu tố động lực, vừa
là yếu tố cản trở người nông dân trong quá trình áp dụng kinh tế tuần hoàn
trong nông nghiệp bên cạnh các rào cản khác như kiến thức và chính sách của
Nhà nước. Từ kết quả của nghiên cứu, tác giả khuyến nghị một số chính sách
về truyền thông giáo dục, hoạt động chuyển giao công nghệ, hình thành chuỗi
giá trị địa phương nhằm thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn tại Hà Nội và Việt
Nam, hướng tới phát triển kinh tế bền vững.
Study on the barriers to adopting circular economy in agriculture among farmers in Hanoi city
Abstract: Agricultural production remains the main pillar of Vietnam's economy, contributing 12-14% of
GDP and providing employment for approximately 40% of the workforce. This study focuses on clarifying
the barriers faced by farmers in the Hanoi area in adopting circular economy practices in agriculture
through a cross-sectional descriptive correlation survey. The research analyzes 154 data points collected
from June 14 to September 30, 2024. The findings indicate that demographic factors such as age, gender,
and cultivated land area influence the adoption of circular economy practices in agriculture. Additionally,
economic factors serve both as a driving force and a barrier for farmers in implementing circular economy
practices, alongside other obstacles such as knowledge and government policies. Based on the research
findings, the author recommends several policies on communication and education, technology transfer
activities, and the development of local value chains to promote circular agriculture in Hanoi and Vietnam,
aiming for sustainable economic development.
Keywords: Circular economy, Circular agriculture, Sustainable economy, Sustainable agriculture
Doi: 10.59276/JELB.2025.04.2848
Vu, Van Hung
Email: hungvvu@tmu.edu.vn
Examination and Education Quality Assurance Department - Thuongmai University, Vietnam
Vũ Văn Hùng
Phòng Khảo thí & Đảm bảo chất lượng giáo dục - Trường Đại học Thương mại, Việt Nam

Nghiên cứu rào cản áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp
của nông dân khu vực Hà Nội
72 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 276- Năm thứ 27 (4)- Tháng 4. 2025
Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, Nông nghiệp tuần hoàn, Kinh tế bền vững, Nông
nghiệp bền vững
1. Giới thiệu
Thế giới đã thức tỉnh trước cuộc khủng
hoảng khí hậu, những tác động của nó đã
và đang được cảm nhận. Khí thải nhà kính
gây ra biến đổi khí hậu là sản phẩm của
nền kinh tế tuyến tính với các khâu “khai
thác - sản xuất - thải bỏ” vốn dựa vào nhiên
liệu hóa thạch và không quản lý tài nguyên
trong dài hạn (Helgason và cộng sự, 2021).
Nếu thế giới không thay đổi kịp thời thì
chúng ta sẽ không đạt mục tiêu đạt mức
phát thải ròng bằng không vào năm 2050
để đạt được mục tiêu 1,5˚C được nêu trong
Thỏa thuận Paris (Rhodes, 2016). Ngay cả
khi đạt được mục tiêu này, chi phí cần thiết
chi cho nền kinh tế toàn cầu liên quan đến
biến đổi khí hậu vẫn dự kiến là 4 nghìn tỷ
đô la vào năm 2100 và tăng dần với mỗi
lần nhiệt độ tăng thêm (Foudation, 2019)
(Ellen MacArthur Foudation, 2019). Cho
đến nay, các nỗ lực giải quyết cuộc khủng
hoảng khí hậu từ các quốc gia và các nhà
khoa học đã tập trung vào việc chuyển đổi
sang năng lượng tái tạo, năng lượng bổ
sung. Mặc dù các biện pháp đó là rất quan
trọng và hoàn toàn phù hợp với nền kinh
tế tuần hoàn (KTTH) nhưng các biện pháp
này chỉ có thể giải quyết 55% lượng khí
thải, 45% còn lại đến từ việc sản xuất ô tô,
quần áo, thực phẩm và các sản phẩm khác
mà chúng ta sử dụng hàng ngày thì vẫn
chưa được giải quyết (Ellen MacArthur
Foudation, 2019). Như vậy, sự cấp thiết để
thế giới nói chung và Việt Nam chúng ta
nói riêng phải thay đổi để ứng phó với các
thách thức khí hậu, môi trường là không
cần bàn cãi.
Đối với ngành sản xuất nông nghiệp Việt
Nam, để thực hiện chủ trương phát triển
nền nông nghiệp bền vững của Chính phủ
và đảm bảo an ninh lương thực với xu
hướng tăng trưởng dân số thì con đường
áp dụng KTTH trong nông nghiệp (sau đây
tác giả gọi tắt là nông nghiệp tuần hoàn -
NNTH) là biện pháp hợp lý và hiệu quả.
Theo Báo cáo của Uỷ ban châu Âu 2018,
nền KTTH là nền kinh tế hạn chế tới mức
thấp nhất sự phát thải ra môi trường, thay
vì nền kinh tế tuyến tính có bước “thải bỏ”
các nguyên vật liệu sau khi đã sử dụng thì
nền KTTH sẽ kéo dài vòng đời của những
nguyên liệu này nhiều nhất có thể, tạo ra
những giá trị mới cho chúng và hệ sinh
thái các nguyên vật liệu sử dụng, hướng
tới việc sử dụng các nguyên liệu tự nhiên,
hạn chế các sản phẩm hoá chất có hại cho
môi trường (European Parliament, 2018).
NNTH là nền nông nghiệp áp dụng các quy
tắc của KTTH vào trong quá trình canh tác.
Lợi ích của KTTH từ mặt kinh tế, xã hội và
môi trường đã được chứng minh trong rất
nhiều các nghiên cứu cả về mặt lý thuyết
và thực tiễn nhưng từ việc phát triển một
sáng kiến đến việc áp dụng sáng kiến đó
bởi nhóm đối tượng mục tiêu không bao
giờ là một quá trình đơn giản.
Nghiên cứu này sử dụng thiết kế khảo sát
tương quan lát cắt, thông qua việc phân
tích kết quả khảo sát nông dân trong khu
vực Hà Nội đã biết đến và áp dụng KTTH
trong nông nghiệp. Phiếu khảo sát được thu
thập bằng cả 2 phương thức trực tiếp và
trực tuyến trong thời gian từ ngày 14/6 đến
30/9/2024, và thu được 154 phiếu. Mục
tiêu của nghiên cứu nhằm xác định những
rào cản đối với người nông dân khu vực
Hà Nội về việc áp dụng KTTH vào nông
nghiệp (NN), cũng như xác định một số
động lực của họ và ý định trong tương lai

VŨ VĂN HÙNG
73
Số 276- Năm thứ 27 (4)- Tháng 4. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
với mô hình này.
Kết cấu của nghiên cứu được chia thành
5 phần chính (1) Giới thiệu, (2) Cơ sở lý
thuyết và thực tế áp dụng KTTH tại Việt
Nam, (3) Phương pháp nghiên cứu, (4) Kết
quả nghiên cứu, (5) Thảo luận và khuyến
nghị chính sách.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên
cứu về áp dụng kinh tế tuần hoàn tại
Việt Nam
2.1. Cơ sở lý thuyết
* Kinh tế tuần hoàn
Khái niệm KTTH đã xuất hiện trên thế
giới từ những năm 1966 và 1982 trong
những nghiên cứu vòng lặp khép kín của
Boulding (1966) nhằm tái sử dụng các
nguyên vật liệu sau khi sử dụng; và nghiên
cứu của kiến trúc sư người Thuỵ Sỹ về hệ
thống kéo dài tuổi thọ sản phẩm (Stahel,
1982). Trong các nghiên cứu sau này, các
nhà khoa học đã định nghĩa nền KTTH là
khái niệm cho một mô hình kinh tế sáng
tạo nhằm mục đích đưa các chất thải trở
thành nguyên liệu cho quá trình sản xuất
tiếp theo, thúc đẩy việc sử dụng liên tục các
nguồn tài nguyên, giảm ảnh hưởng tới môi
trường tự nhiên và góp phần vào sự phát
triển bền vững của nền kinh tế (Dagevos
& Lauwere, 2021; Homrich và cộng sự,
2018; Morseletto, 2020).
Khái niệm KTTH đôi khi được sử dụng
không phân biệt cùng với khái niệm kinh
tế sinh học. Tuy nhiên, kinh tế sinh học
phản ánh mục tiêu thay thế sự phụ thuộc
vào nhiên liệu hóa thạch bằng cách sử
dụng các nguồn tài nguyên tái tạo hữu cơ
(El-Chichakli và cộng sự, 2016; Lainez và
cộng sự, 2018). Còn KTTH là một khái
niệm rộng và bao quát hơn, đề cập đến một
nền kinh tế công nghiệp mang tính phục
hồi theo chủ đích, sử dụng các nguyên liệu
có khả năng tái tạo; giảm thiểu và loại bỏ
việc sử dụng các hóa chất độc hại; đồng
thời tận dụng toàn bộ nguồn phế thải thông
qua một hệ thống sinh thái khép kín (Ellen
MacArthur Foudation, 2013, 2019). KTTH
có phạm vi rộng hơn, không chỉ đề cập tới
quá trình thiết kế và sản xuất sản phẩm mà
còn tích hợp cả việc quản lý hiệu quả hơn
các chu trình kỹ thuật (phi sinh học) để từ
đó có thể kéo dài tuổi thọ dịch vụ sản phẩm
và tái sử dụng chất thải.
Trong nghiên cứu của Braungart đề cập tới
vấn đề hiệu quả sinh thái của nền KTTH
(Braungart và cộng sự, 2007). Thay vì cố
gắng giảm thiểu việc sử dụng vật liệu trong
quá trình sản xuất thì tính hiệu quả sinh
thái đề cập tới việc chuyển đổi sản phẩm
và các vật liệu liên quan nhằm hỗ trợ mối
quan hệ bền vững giữa hệ sinh thái và tăng
trưởng kinh tế. Nói cách khác, KTTH tạo
ra các chu trình chuyển hóa, trong đó vật
liệu được sử dụng lặp đi lặp lại với chất
lượng cao, hạn chế tối đa việc lấy thêm các
nguyên vật liệu từ bên ngoài quy trình sản
xuất chứ không chỉ dừng lại ở việc sử dụng
tiết kiệm các nguồn lực.
Theo báo cáo của Ellen MacArthur
Foudation (2013), nền KTTH được xây
dựng dựa trên 3 nguyên tắc cốt lõi: (i) Loại
bỏ chất thải và ô nhiễm ngay từ khâu thiết
kế: Thay vì chỉ quản lý hạn chế rác thải,
KTTH hướng tới việc loại bỏ chất thải
ngay từ đầu thông qua thiết kế sản phẩm,
quy trình sản xuất và mô hình kinh doanh.
Giảm thiểu việc sử dụng vật liệu độc hại,
khó tái chế, đồng thời tối ưu hóa hiệu suất
sử dụng nguyên liệu; (ii) Kéo dài vòng đời
sản phẩm và vật liệu bằng cách sửa chữa,
tái sử dụng, làm mới, tái sản xuất thay vì
vứt bỏ sau một lần sử dụng. Thiết kế vật
liệu theo hai chu trình: Chu trình sinh học
- Các nguyên liệu hữu cơ có thể phân hủy
và quay lại hệ sinh thái, Chu trình kỹ thuật
- Các vật liệu nhân tạo như kim loại, nhựa

Nghiên cứu rào cản áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp
của nông dân khu vực Hà Nội
74 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 276- Năm thứ 27 (4)- Tháng 4. 2025
được thiết kế để luân chuyển trong hệ thống
sản xuất mà không đi vào môi trường; (iii)
Tái tạo hệ thống tự nhiên: không chỉ giảm
tác động tiêu cực mà còn đóng góp tích cực
vào việc phục hồi hệ sinh thái.
Tại Việt Nam, khái niệm KTTH đã có trong
Điều 142 của Luật Bảo vệ môi trường Số
72/2020/QH14, được Quốc hội khóa XIV,
kỳ họp thứ X thông qua ngày 17/11/2020,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022:
“KTTH là mô hình kinh tế trong đó các
hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và
dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu,
vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn
chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác
động xấu đến môi trường”.
Trong những năm gần đây Nhà nước đã
có sự quan tâm thích đáng tới lĩnh vực này
và có những đề án phát triển KTTH ở Việt
Nam (Nguyễn Thị Khánh Huyền, 2022).
Các nghiên cứu về việc áp dụng KTTH
tại Việt Nam cũng được các nhà khoa
học thực hiện nhiều hơn như trong nghiên
cứu của Đặng Quỳnh Như & Đinh Quang
Huy (2023) về kinh nghiệm áp dụng của
các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật
Bản, từ đó rút ra những kinh nghiệm áp
dụng cho Việt Nam. Hay trong các nghiên
cứu của tác giả Nguyễn Đình Đáp (2021)
nghiên cứu việc áp dụng khái niệm này
tại Việt Nam khi gợi ý một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về mô hình KTTH. Tác
giả Nguyen (2021) và Vu (2022) phân tích
một số trường hợp triển khai mô hình này
trên thế giới và đưa ra kinh nghiệm học tập
cho Việt Nam, hai nghiên cứu này chọn
Hoa Kỳ, Thụy Điển và Liên minh Châu Âu
làm ví dụ để phân tích. Như vậy, vấn đề
áp dụng KTTH tại Việt Nam là một vấn
đề ngày càng được quan tâm hơn, đặc biệt
hiện nay trong bối cảnh Cách mạng cộng
nghệ 4.0 và xu hướng chuyển đổi số ở Việt
Nam lại càng tạo điều kiện cho việc chuyển
đổi sang KTTH (Nguyen, 2024).
* Nông nghiệp tuần hoàn
NNTH là nền nông nghiệp (NN) áp dụng
các nguyên tắc của KTTH vào các hoạt
động NN, nhấn mạnh vào việc tái chế chất
thải và sản phẩm phụ của nông nghiệp,
triển khai các hệ thống vòng lặp khép kín
để giảm thiểu chất thải và áp dụng các hoạt
động bền vững như luân canh cây trồng và
nông lâm kết hợp để tăng cường đa dạng
sinh học và cải thiện độ màu mỡ của đất
(Bianchi, 2020; Van Berkum và cộng sự,
2018).
Theo quan điểm nông nghiệp tuần hoàn,
phương châm “dùng lại và tái chế” được
dịch là biến các luồng chất thải thành các
nguồn tài nguyên có giá trị. Phát triển các
chuỗi định giá chất thải có thể bao gồm một
số bước, bao gồm việc phân loại thực tế
chất thải thành các luồng có thể và không
thể nâng cấp; thiết lập các cơ sở chế biến
có thể tạo ra các sản phẩm nâng cấp, phát
triển thị trường cho các sản phẩm này và tổ
chức hậu cần thương mại. Những gì trước
đây được coi là chất thải hoặc thặng dư trở
thành một nguồn tài nguyên được (tái) định
giá (Van Berkum và cộng sự, 2018). Điều
này đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên và
có thể mang lại cơ hội kinh doanh cho mỗi
bên. Một đặc điểm nổi bật khi thảo luận
về việc triển khai KTTH trong nông nghiệp
là tính bền vững. Bản chất của KTTH là
hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế và
xã hội nhưng vẫn bảo vệ môi trường bằng
cách ngăn ngừa ô nhiễm, điều này chính là
cơ sở của phát triển bền vững (Bencomo
và cộng sự, 2019), do đó NNTH cần đảm
bảo những mục tiêu i) là cốt lõi chính đóng
góp cho nền kinh tế đất nước, thay vì là
một lĩnh vực được trợ cấp, đảm bảo đặc
điểm bền vững về kinh tế (Bos & Broeze,
2020); ii) đảm bảo giữ vững đa dạng sinh
học và năng suất theo thời gian trong các
hệ sinh thái nông nghiệp địa phương, đảm
bảo đặc điểm bền vững về môi trường (Jun

VŨ VĂN HÙNG
75
Số 276- Năm thứ 27 (4)- Tháng 4. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
& Xiang, 2011) ; và iii) đóng góp vào việc
đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm
nghèo và cải thiện sức khỏe, điều kiện sống
của người dân, tính bền vững về mặt xã hội
(Bencomo và cộng sự, 2019; Kristensen và
cộng sự, 2016). Cuối cùng, nông nghiệp
tuần hoàn có tính tái tạo, có nghĩa đó là một
hệ thống có thể duy trì và nâng cấp hệ sinh
thái (Morseletto, 2020). Trong quá trình
phát triển các mô hình NNTH, ngành nông
nghiệp cũng cần có chiến lược phát triển để
có thể tạo ra các hệ thống tái tạo khép kín
các vòng chất dinh dưỡng, giảm thiểu thất
thoát và tối đa hóa giá trị trong thời gian
dài của mỗi vòng (Morseletto, 2020).
2.2. Tổng quan các nghiên cứu trước về
áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông
nghiệp tại Việt Nam
Phát triển KTTH hiện nay đang là xu thế
chung để phát triển kinh tế xanh và bền
vững, việc áp dụng KTTH vào NN là yêu
cầu bức thiết của mỗi quốc gia để thực hiện
các mục tiêu về bảo vệ môi trường, sử dụng
hiệu quả các nguồn tài nguyên cạn kiệt
(Nguyễn Thu Hương, 2023). Ba mô hình
nông nghiệp tuần hoàn phổ biến trong thực
tế đã được áp dụng trên thế giới và ở Việt
Nam bao gồm các trang trại hỗn hợp (trồng
trọt- chăn nuôi hỗn hợp), canh tác hữu cơ
hay nông nghiệp hữu cơ (loại bỏ sự phụ
thuộc vào phân bón hóa học, thuốc trừ sâu
và nhựa) và nông lâm kết hợp (Helgason và
cộng sự, 2021).
Tại Việt Nam, 03 nguyên tắc KTTH đã
được các nhà sản xuất áp dụng trong sản
xuất nông nghiệp với một số mô hình thực
tế đang được nông dân áp dụng và mang lại
hiệu quả như: Mô hình vườn- ao- chuồng;
mô hình vườn- trang trại- ao- chuồng; mô
hình vườn- ao- chuồng- khí sinh học; mô
hình lúa- tôm, lúa- cá; Mô hình trồng lúa-
trồng nấm- sản xuất phân hữu cơ- trồng
cây ăn quả; mô hình sản xuất phân hữu cơ
từ chất thải nông nghiệp…Các mô hình
này áp dụng một chu trình đóng trong đó
phần lớn chất thải và sản phẩm phụ được
sử dụng lại làm nguyên liệu đầu vào cho
các quy trình sản xuất khác thông qua việc
ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ lý
hóa và các công nghệ tiên tiến cùng với sự
thích ứng linh hoạt trong các tổ chức kinh
doanh. Mô hình trang trại hữu cơ không
rác thải là Mô hình trang trại kết hợp các
giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất
nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) thành
một chu trình khép kín trong đó đầu ra của
một quy trình trở thành đầu vào của quy
trình khác (Nguyen và cộng sự, 2023). Mô
hình 4F trong nông nghiệp (Farm- Food-
Feed- Fertilizer) được coi là nền KTTH
thực sự đầu tiên trong nông nghiệp do
Tập đoàn Quế Lâm khởi xướng vào năm
2020 (Nguyen, 2021). 4F là mô hình chăn
nuôi an toàn sinh học (Farm- Food- Feed-
Ferlitizer: trồng trọt- thực phẩm- chăn
nuôi phân bón): Có thể coi đây là mô hình
KTTH đúng nghĩa đầu tiên trong NN được
ra mắt ngày 17/8/2020 của Tập đoàn Quế
Lâm. Mô hình là chu trình sản xuất khép
kín, gồm: Chăn nuôi lợn hữu cơ, sản xuất
các chế phẩm sinh học, sản xuất thức ăn
chăn nuôi hữu cơ và sản xuất phân bón vi
sinh. Trong mô hình này, chất thải trong
trang trại được thu gom và xử lý để sản xuất
phân bón hữu cơ vi sinh phục vụ trồng trọt,
tạo thành quy trình sản xuất nông nghiệp
khép kín từ chăn nuôi đến trồng trọt, từ cây
đến đất. Thực hiện mô hình chăn nuôi an
toàn sinh học 4F vừa tăng hiệu quả kinh tế,
phòng ngừa dịch bệnh, vừa góp phần bảo
vệ môi trường sinh thái, giảm phát thải khí
nhà kính.
Mặc đù đã được chức minh bằng thực tế hiệu
quả đem lại khi áp dụng các mô hình NNTH
nhưng việc triển khai các mô hình KTTH
trong nông nghiệp tại nước ta vẫn đang còn