Cht lượng đào tạo đại học hạn chế: Đâu chỉ có bảy
nguyên nhân
trước tiên tình trng chạy theo phát triển qui đào to mà brơi chất
lượng, mặc dù trên lý thuyết Bộ GD-ĐT luôn đề cao phương châm phát triển
qui nhưng không m giảm chất lượng cả h thng. Thực chất phương
châm i trên nêu ra chỉ để làm yên ng dư luận xã hội trước những lo ngại,
phê phán vphát triển qui vượt qthực lực của ngành! Làm sao chất
lượng đào tạo vẫn giữ vững, nếu không phải là giảm sút khi số lượng sinh
viên trong khoảng 15 năm qua ng nhanh gấp nhiều lần so với sở vật
chất, và đội ngũ cán bộ giảng dạy vốn đã thiếu vsố lượng và hn chế về
trình độ.
Tiêu chí ti thiểu để thành lập một trường đại học đã ban hành tu (tuy
còn rất thấp so với thế gii), nhưng vì sao đến nay nhiu trường vẫn chỉ đạt
0,6m2/sinh viên? Vì sao biết rõ shụt hẫng rất lớn về cơ svật chất và đội
ngũ thầy giáo mà vẫn liên tục cấp phép cho ra đời nhiều trường đại học
mới, thậm ccó trường khi thành lập còn chưa nổi một png học phải
chạy đi thuê mướn chỗ tạm bợ, nói chi đến thư viện hay phòng tnghim?
Sthiếu hụt về đội ngũ n bộ giảng dạy trong hoàn cnh strường và s
sinh viên gia ng q nhanh đã dn đến hiện tượng thầy chạy sô, tạo ra
ngun thu nhập lớn n rất nhiều so vi lương chính thức của thầy giáo.
Trong tình hình đó, dù cho nguồn kinh pnghiên cu dồi o đến đâu
cũng chẳng mấy thầy nhit m và thi gian để đầu cho nghiên cứu
khoa học, nên mục tiêu đào tạo có chất lượng vẫn còn đầy trắc trở.
Trong một thời gian dài quyn tchủ của các trường, yếu tố hàng đầu
phát huy tính năng động sáng tạo bị hạn chế, tạo ra tình trng thụ động, thiếu
sbứt pđi lên. Nguyên nhân quan trng đó vẫn chưa được đề cập đúng
mức. Quan trọng n, sự mơ hồ về triết lý đào tạo hướng đến hình thành con
người thế nào vchuyên môn, đạo đức, nhân cách, phong cách làm việc và
m theo đó là chương trình, phương pháp dạy và học theo triết đó vn
chưa được vạch rõ. Một triết phù hp với yêu cu của thời đại phải là sợi
chđỏ xuyên suốt mọi tưởng chđạo và hành động của hệ thống. Trong
khi chương trình khung của bộ còn chưa thể hiện điều đó thì từng trường
xây dng chuẩn riêng của mình liệu có tránh chuyện lặp lại những mục tiêu
đào tạo được đề ra rất cao nhưng cũng rất xa chất lượng thực tế.
Phải chăng những điều trình y trên đều qui tsbất cập về năng
lực quản của hệ thống và sự chm tiếp thu những ý kiến phản biện xã hi
tlâu đã chỉ rõ nhng nguyên nhân hạn chế chất lượng đào to đại học?
Chương trình ng nặng thì cách dy càng nhồi nhét người học
càng thđộng, tiếp thu càng kkhăn hiển nhiên. Tính ng đng sáng
tạo của cả thầy và tcũng khó lòng tránh khi bi thui chột dần. Tác hại
nhiều mặt đã được dư luận xã hi chỉ rõ t lâu. Mặc dù s q tải của
chương trình đã được các thầy và c nhà khoa học cnh o t lâu
nhưng mãi đến vài m gần đây mới được những người có trách nhim ghi
nhận, nhưng mới chỉ trong giáo dục phổ thông! Tuy vậy dường như duy
cũ vchất lượng vẫn không thay đổi. Bằng chứng rõ ng nhất là đxuất
gim tải phổ thông bằng cách kéo dài năm học thêm hai tuần ca Bộ Giáo
dục-Đào tạo, thực chất là một cách tăng tải khác.
Suy cho cùng vấn đề này ch có thể giải quyết được tốt khi những
người trách nhiệm caocả trong và ngi ngành giáo dục từ bỏ những tư
duy lỗi thời đã qng trong giáo dục làm đúng theo những điều đã
nêu trong c văn kiện của Đảng, đặc biệt là vào thi điểm Quốc Hội sắp
thông qua Dluật Giáo dục sử đổi Đảng chuẩn bra nghị quyết về đổi
mới cơ bản và toàn din giáo dục đại học