
Chếc nón lá
Một người Việt Nam xa xứ, là giáo sư đang giảng dạy ở Đại học Washington,
Hoa Kỳ, đã có suy nghĩ rất hay về chiếc nón lá : “Tôi đã đi khắp bốn phương trời, đã
thấy nhiều kiểu nón, kiểu mũ của nhiều đất nước và nhiều dân tộc thiểu số, nhưng
chưa thấy chiếc nón nào gồm đủ các sắc thái bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên
dáng, đơn sơ và thực tiễn như chiếc nón lá Việt Nam” (Nguyễn Thị Hoàng Tâm, Tạp
chí Thế giới, số 2, tháng 11-1995).
Đối với người dân Quảng Nam, nếu nón không làm bằng lá thì hai chữ nón và
mũ lại được dùng như nhau, chẳng hạn : nón rơm - mũ rơm, hay nón nỉ - mũ nỉ.
Nón lá trông thật giản dị, nhưng để tạo nên chiếc nón lá thì thật công phu và tỉ
mỉ. Vật dụng làm nón gồm : lá, chỉ và khung nón. Lá thì lấy từ hai loại cây giống như
cây lá kè, có sứa nhỏ, mọc ở những vùng đồi núi. Một loại có tên là lá tơi (tên chữ là
du quy diệp). Một loại khác là lá nón hay lá bồng (tên chữ là bồ quy diệp), mềm và
mỏng hơn. Người dân quê Quảng Nam ngày trước thường dùng hai loại lá tơi và lá
nón trên đây, tùy theo chất lá : lá non mềm và mỏng thì dùng làm nón ; còn lá già, dày
và có gân cứng thì dùng làm tơi, gọi là áo tơi, tức là cái áo đi mưa ngày trước.

Với loại lá non còn búp, chưa xòe ra hẳn, người ta phơi khô, nhưng không để
cho khô quá, rồi đem ủi cẩn thận. Người ta “ủi” bằng cách lấy giẻ nhúng nước, đem
hơ trên lửa cho nóng trước khi chà nhẹ lên lá, để “ủi” cho lá thẳng và những đường
gân lá cũng bằng với mặt lá, đoạn đem treo lên từng chùm để giữ lá cho thẳng.
Sợi chỉ khâu lá thường là sợi cước (người Huế thì lại dùng sợi chỉ đoác).
Khung nón thường là do những người thợ có tay nghề chuyên môn làm sẵn, có
16 vành (cũng khác với một loại nón Huế, nhất là dành cho các ni cô đội, có đến 18
vành).
Sau khi nan tre mềm và nhỏ được vót tròn và ghép uốn thành vành để bắt vành
và đặt vô khung (ở vùng quê Quảng Nam thường gọi là khuôn), người làm nón xếp
hai, ba lớp lá đã được ủi sẵn lên khung. Lá mỏng lợp ra ngoài, lá dày lợp bên trong.
Muốn nón đội chắc và bền, thì lợp toàn lá dày. Những chiếc nón lá người đi cày ở quê
ta ngày trước thường đội là loại nón lợp lá dày này. Vành nón cũng phải chuốt mỏng
hơn, để nón đội được nhẹ nhàng, trang nhã. Giai đoạn chót là chằm nón : dùng chỉ
cước khâu lại các lớp lá vô vành. Đến vành cuối cùng là vành lớn nhất thì người chằm
nón dùng một vành tre to, kèm theo vành tre nhỏ, để kẹp lá vào giữa cho chắc, cho lá
khỏi tụt ra và xơ rách. Việc may hay viền vành nón cuối cùng này, người làm nón gọi
là nút vành. Phải may cẩn thận một mũi dài, hai mũi ngắn, thật đều, mà người trong
nghề gọi là kiểu may một mẹ hai con; một cách gọi khá lạ tai, nhất là với các bạn trẻ
ngày nay.
Chiếc nón lá ngày trước, ngoài để che nắng che mưa, còn là vật trang sức rất có
duyên, mang nét trữ tình thầm kín của người con gái Việt Nam. Và có lẽ không ở nơi
đâu có nhiều nữ sinh duyên dáng với mái tóc đen dài óng ả phủ kín bờ vai, với tà áo

dài trắng tha thướt và chiếc nón bài thơ e ấp như ở Huế. Mỗi buổi tan trường, các cô
nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa, với cả rừng nón nhấp nhô, làm đẹp các ngả đường và
tạo nét đẹp lãng mạn trên vai cầu Trường Tiền bắc qua dòng sông Hương xanh biếc.
Những cô gái Huế thường thẹn thùng kéo nón che nghiêng ấy đã khiến bao tâm hồn
phải bâng khuâng : “Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón ?/Chiều mùa thu mây che
có nắng đâu” (Trần Quang Long). Và ngay cả nhân vật trữ tình trong ca dao cũng đã
từng phải say lòng : “Chén tình là chén say sưa,/Nón tình em đội nắng mưa lên đầu”.
Vì bởi đó là những buổi đất trời bâng khuâng mà lòng phải tự hỏi lòng : “Tình yêu
còn nép sau vầng trán./Lòng nắng vàng hanh hay sắp mưa ?” (T.H.D.V).
Đối với người dân quê Quảng Nam, chiếc nón lá màu ngà có biết bao công
dụng. Ngoài việc dùng nón thường xuyên để che mưa, che nắng, bác nông dân hay bà
mẹ quê, mỗi khi lỡ đường, khát nước, chỉ việc ghé xuống sông dùng nón múc nước
uống, giản tiện vô cùng. Giải cơn khát xong, nón lại được phe phẩy quạt để tìm chút
hơi mát, nhất là khi phải đi đường xa trong những ngày mùa hè nóng nực. Bên một
cánh đồng, em bé chăn trâu nằm dưới gốc cây, cả bác thợ cày cũng vậy, dùng nón che
mặt, để vừa tránh nắng, vừa ngăn ruồi muỗi khỏi quấy rầy giấc ngủ trưa hiền hòa...
Chiếc nón lá Việt Nam, đâu chỉ là vật tiện dụng mà còn là nét đẹp thầm kín của
văn hóa Việt Nam, sẽ còn tồn tại mãi, tôi chắc thế, dù cuộc sống có đổi thay, hiện đại
đến đâu chăng nữa.