1
Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử
• Nguyễn Thiện Giáp
1. Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945
1.1. Trong thời Bắc thuộc, bọn phong kiến Trung Quốc cai trị trực tiếp hay gián tiếp, cũng
thi hành một chính sách nhất quán đồng hoá Việt Nam vchính trị và văn hoá. Tiếng Hán chữ
Hán trở thành một công cụ hữu hiệu trong hành chính và nhiều lĩnh vực khác. Sử có nhắc tới vai trò
của Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào khoảng 187–226) với cách Nam bang học tổ, tức
người đầu tiên tổ chức việc học Việt Nam. Nhưng thực tế vào thời Bắc thuộc quan cai trị chỉ tổ
chức dạy chữ Hán cho một số người Việt, đủ để làm công chức trong bộ y cai trị của người Hán
chứ chưa phải dạy Nho giáo nhằm mục đích thi cử. Trong thời này, các chùa mới các trung
tâm văn hoá nhân dân học chữ Hán các chùa chứ không phải các trường do người Trung Quốc
dựng nên. Theo sử ch, dưới thời Bắc thuộc, đã một ít người giỏi chữ Hán, nhưng vẫn chưa
chế độ học tập chữ Hán quan trọng ngoài các chùa. Ai muốn đi thi thì phải sang Trung Quốc, như
Trương Trọng, Lí Cầm, Lí Tiến, Khương Công Phụ. Cho đến trước thế kỉ XI, những người tiêu biểu
cho văn hoá Việt Nam vẫn là các nhà sư.
1.2. Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập từ tay người Hán. Do nhu cầu phải đua tài với
Trung Quốc để củng cố độc lập bằng văn hoá, Việt Nam nhu cầu tiếp thu văn hoá Hán. Việc học
chữ Hán quy chỉ bắt đầu từ thời độc lập. Về vấn đề này, chúng ta không quên công lao của
các vị vua khai quốc thời Lí–Trần. Khi đất nước giành được quyền độc lập, định hướng bản về
ngôn ngữ văn tự là: tiếp tục dùng chữ Hán, coi đó nền văn tự chính thức của nhà nước. Căn c
vào những tài liệu còn lưu giữ được thì năm 1018 vua Lí Thái Tổ sai Nguyễn Đạo Thành Phạm
Hạc sang Tàu lấy Kinh Tam Tạng đem về để vào Kho Đại Hưng; 1075 vua Nhân Tông mở Khoa
thi Tam trường để tuyển người ra làm quan, năm sau vua lập Quốc Tử Giám, tổ chức giảng dạy và
đến năm 1086 Vua lại mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Theo Nguyễn Tài Cẩn, "Tri thức
Hán học của người Việt giai đoạn Ngô, Đinh, một sản phẩm còn lưu lại của chế độ Bắc
thuộc, còn tri thức Hán học của người Việt từ đời trở về sau lại sản phẩm của một sự định
hướng có ý thức của một triều đình nước Việt độc lập. Sự định hướng này làm cho Việt Nam đi hẳn
vào khu vực văn hoá Hán, đứng bên cạnh Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Về mặt ngôn ngữ, sự
định hướng y làm cho tiếng Việt đi xa dần các ngôn ngữ con vốn cùng gốc Mon Khmer như
mình: Mường, Poọng, Chứt, Cơtu, Bana, Môn, v.v."(1)
Nhà Trần các triều đại tiếp theo vẫn tiếp tục snghiệp của nhà Lí, cũng tổ chức học hành thi
cử bằng chữ Hán, cũng sáng tác bằng chữ Hán.
Thực tiễn lịch sử chứng tỏ rằng định hướng ngôn ngữ văn tự của các triều đại Việt Nam đã khiến
cho sự tiếp xúc văn hoá–ngôn ngữ Việt–Hán phát triển. Hệ quả là:
Việt Nam đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình.
Tiếng Việt đã tiếp thu các yếu tố Hán Việt và các yếu tố Hán Việt Việt hoá làm phong phú kho
từ vựng của mình.
Hình thành cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của người Việt Nam.
Trong cuốn Tvựng tiếng Việt năm 1978, Nguyễn Thiện Giáp xác định ch đọc Hán Việt như
sau: "Cách đọc Hán Việt cách đọc chữ Hán Việt Nam của người Việt Nam. Cách đọc đó phản
ánh dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường được dạy và học Việt Nam lúc bấy giờ. Tất nhiên
so với dạng ngữ âm của chữ Hán thời nhà Đường thì cách đọc Hán Việt cũng đã được Việt hoá ít
nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt thời đó"(2). Gần đây, trong bài Mối quan h
2
giữa âm Hán Việt phương ngữ tiếng Hán nhìn từ đặc điểm âm đầu(3), Xảo Bình Vi Thụ
Quan đã chứng minh âm Hán Việt chịu ảnh hưởng của phương ngữ tiếng Hán. Các tác giả cho rằng
tại vùng giáp Quảng Tây Quảng Đông ngày nay, trong thời cổ, từng một phương ngữ Hán
quyền uy, đó phương ngữ Quảng Tín. Trong hơn 300 năm kể từ năm 106 trước công nguyên cho
đến năm 217, Quảng Tín luôn trụ sở của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ (về sau Bộ Thứ Sử Giao Châu),
là trung tâm chính trị, văn hoá của Lĩnh Nam. Ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam nằm trong
nước Việt Nam ngày nay luôn thuộc về sự cai quản của Bộ Thứ Sử Giao Chỉ, Việt Nam chịu ảnh
hưởng của trung tâm chính trị, văn hoá thời bấy giờ điều tất nhiên. Trong thời gian Sĩ Nhiếp làm
Thái Thú Giao Chỉ, âm Hán người Việt học không phải âm Trung Nguyên, mà âm của một
phương ngữ nào đó lúc bấy giờ. Các tác giả khẳng định phương ngữ n y phải phương ngữ
Quảng Tín. Bản thân Nhiếp chính người Quảng Tín Xương Ngô, phương ngữ Quảng Tín lại
phương ngữ quyền uy thời đó, dạy học sinh Việt Nam bằng phương ngữ Quảng Tín cũng điều
bình thường. trung tâm chính trị Lĩnh Nam di chuyển sang phía đông (năm 217 Tôn Quyền rời
trung tâm chính trị Lĩnh Nam từ Quảng Tín Xương Ngô đến Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu
ngày nay) Nam Hải) theo di chuyển của người Hán, phương ngữ Quảng Tín phân hoá dần, cho
nên hình thành đối ứng không đồng đều về đặc trưng ngữ âm giữa âm Hán Việt và mấy phương ngữ
Hán hiện đại.
1.3. Trên sở của chữ Hán, dựa vào nguyên tắc cấu tạo chữ Hán, người Việt Nam đã sáng tạo
ra chữ Nôm, một thứ chghi lại tiếng nói của dân tộc. Ban đầu, chữ Nôm mới chỉ những tự
dùng để phiên âm các từ ngữ nước ngoài, những địa danh, nhân danh Việt Nam vốn chữ Hán
không ththể hiện được. Khi hệ thống văn tự Nôm được hình thành việc sáng tác thơ văn bằng
chữ Nôm đã trở thành phong trào thì sự phân công giữa chữ Hán và chữ Nôm về mặt chức năng:
chữ Hán dùng trong hành chính, giáo dục, trong giao tiếp triều chính, còn chữ Nôm thì dùng trong
giao tiếp, văn chương bình dân. Theo Phan Huy Chú(4), Lê Thánh Tông làm vua 38 m, mở 12
thi, lấy đỗ 501 tiến sĩ, trong số đó 9 trạng nguyên. Tuy coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, nhưng
phong trào sáng tác bằng chữ Nôm vẫn phát triển mạnh. Quan lại, nho sĩ đua nhau làm thơ bằng chữ
Nôm. Ngay vua Lê Thánh Tông cũng có nhiều thơ Nôm được truyền tụng trong lịch sử.
Cái tâm lí "trọng chữ khinh Nôm" có ở hầu hết các nhà nho: sáng tác về những đề tài trang trọng,
nghiêm chỉnh thì dùng chữ Hán, làm thơ để chơi, để mua vui thì dùng Nôm. Tuy nhiên, cùng với
bước trưởng thành của chữ Nôm, vị thế của cũng dần thay đổi. Nguyễn Trãi hết lòng tôn trọng
ngôn ngữ dân tộc, tin yêu ngôn ngữ dân tộc. Tất cả các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi đều nói đến
những cái chân thành nhất, trang nghiêm nhất: nói đến chí hướng, nói đến đạo lí, nói đến lẽ sống
đời,... Với ý thức tự cường dân tộc, dưới thời nhà Hồ, Hồ Quý Li đã một quyết sách lớn nhằm
nâng cao vị thế của chữ Nôm. Tương truyền, Hồ Quý Li đã dịch Kinh Thi, Kinh Thư ra chữ Nôm để
dạy cho các cung nữ. Điều y chứng tỏ Hồ Quý Li đã chủ trương đưa chữ Nôm vào lãnh vực
giáo dục. Rất tiếc, công cuộc cải cách của nhà Hồ bị chặn lại bởi gót giày xâm lược của nhà Minh.
Nhà Minh thi hành chính sách đồng hoá rất tàn bạo. Chúng đã đốt phá các văn liệu, sử liệu Việt,
trong đó cả những tài liệu ghi chép bằng chNôm. thế những tài liệu bằng chữ Nôm thời Hồ
Quý Li đều đã thất truyền.
1.4. Chữ quốc ngữ được các nhà truyền giáo chế tác từ thế kỉ XVII với mục đích chính là truyền
bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam học tiếng Việt, hiểu được về đất nước con người Việt Nam.
Muốn truyền bá đạo của mình, cần phải phương tiện giao tiếp. Thực tế, nhân dân Việt Nam rất ít
người đọc được chữ Nôm, thế không thể dựa vào chữ Nôm để truyền tưởng Thiên Chúa
3
giáo vào nhân dân. Vấn đề đầu tiên phải học tiếng Việt. Các giáo phương Tây đã tạo ra một hệ
thống kí tự ghi tiếng Việt dựa trên hệ chữ cái La tinh. Những năm đầu của thế kỉ XIX hệ thống kí tự
này được gọi chữ Quốc ngữ, mặc theo nghĩa đen thì chữ Nôm cũng chữ quốc ngữ. Tkhi
xuất hiện chữ Quốc ngữ, thế tương quan giữa các ngôn ngữ, văn tự trên diễn đàn văn hoá Việt Nam
khác với các giai đoạn trước: Có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán, với ba loại chữ viết
chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
Trong ba loại chữ viết thì chữ Hán vẫn chiếm vị thế số một, sau đó đến chữ Nôm, cuối cùng là
chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, trong thời y đã nảy sinh sự tranh chấp giữa chữ Hán chữ Nôm.
Văn học chữ Nôm thời y sự phát triển toàn diện về lượng cũng như về chất. chúa thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều bất hủ đều xuất hiện trong
giai đoạn y. Không những thế, chữ Nôm không chỉ được dùng để ghi lại văn chương bình dân
còn được dùng cả trong những lĩnh vực khác nữa. Căn cứ vào "Di sản Hán Nôm Việt Nam, Thư mục
đề yếu" do Viện Hán Nôm biên soạn với sự cộng tác của nhóm học giả Trường Viễn đông Bác cổ
Pháp, NXB Khoa học hội, Nội, 1993, trong số 5038 quyển, một số quyển viết bằng chữ
Nôm. "Vận niên ca diễn âm" một quyển ch về ảnh hưởng của thời tiết đối với mùa màng viết
bằng chữ Nôm. Số sách về Đạo giáo 163 quyển, phần lớn loại "giáng bút", tức loại sách tập
hợp những lời của các đồng cốt nói thay mặt các vị thần, chủ yếu viết bằng chữ Nôm bởi Đạo
giáo gắn trước hết với người dân lao động. Những sách in đầu tiên Việt Nam Kinh Phật,
nhưng số kinh in lại, diễn Nôm không bao nhiêu. Sách giáo khoa về sử Việt Nam, một cuốn
bằng chữ Nôm. Về ngoại giao, cuốn "Chuyến sang Pháp của sứ bộ triều Nguyễn" viết bằng thơ lục
bát. Về luật pháp, Hoàng triều luật lệ toát yếu diễn ca bằng chữ Nôm, Dân luật Bắc Kì, diễn
Nôm thời Khải Định. Tầng lớp nho gần gụi nhân dân lao động đã dùng chữ Nôm để sáng tác văn
chương, ghi chép các sự kiện hội, lịch sử với cách nhìn khác với cách ghi chép chính thức bằng
chữ Hán, những tác phẩm tiến bộ, chứa đựng những tưởng trái với quan điểm đạo chính
thống. Vào giai đoạn cuối của nhà Lê, nhà cầm quyền không những coi thường còn e ngại chữ
Nôm, những hoạt động tiêu cực đối với chữ Nôm, thậm chí còn đốt rất nhiều văn liệu viết bằng
chữ Nôm. Năm 1663 đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc đã u cầu Phạm Công Trứ viết 47 điều giáo
hoá bằng chữ Hán, trong đó điều 35 chủ trương cấm đoán phá hoại các c phẩm Nôm. Năm
1718 lại có lệnh của Trịnh Cương như sau: "Phủ liệu(5) vâng lời truyền cho quân dân trong nước biết
rằng: phàm sách vở quyển nào quan hệ đến sự giáo hoá trong đời mới được khắc in và lưu hành.
Lâu nay, những bọn hiếu sự lượm nhặt bậy bạ các tạp truyện và bỉ ngữ(6) bằng quốc âm, không phân
biệt hay dở, khắc gỗ in bán, việc ấy phải nên nghiêm cấm. Từ nay nhà nào có in những sách như thế,
cho trình quan đến bắt tịch thu ván in phá hết"(7). Năm 1760, Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản
diễn Nôm 47 điều giáo hoá ra lục bát để tiện phổ biến.
Ngược lại, nhằm tăng cường tính tự tôn tinh thần dân tộc, triều đại y Sơn của Nguyễn Huệ
đã chủ trương dùng tiếng Việt chữ Nôm trong hành chính (giấy tờ của Nhà ớc), trong giáo
dục, thi cử trong tế lễ thiêng liêng. Đây Chiếu của Bình Định ơng Nguyễn Huệ gửi cho
Nguyễn Thiếp năm 1788:
"Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp khâm tri:
Ngày trước uỷ cho phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp này hồi ngự. Sao về tới đó
chưa thấy đặng việc nhỉ. Nên hãy giá hồi Phú Xuân Kinh, hưu tức sĩ tốt.
4
Việc chiếu ban hạ, phu tử tảo nghi dữ trấn thủ Thận cộng sự, kinh chi, doanh chi, tướng địa tu đô
tại Phú Thạch hành cung sao cho hậu cận sơn, chính địa phòng tại dân chi gian hay đâu cát
địa khả đô, duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc hành.
Uỷ cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện, kì tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy phu
tử vật dĩ nhàn hốt thị.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Thái Đức thập nhất niên, lục nguyệt, sơ nhất nhật"(8).
Trong giáo dục và thi cử, triều đại Tây Sơn quy định: Mỗi khoa thi, ở vòng ba ("đệ tam trường"),
thí sinh phải làm bài bằng chữ Nôm. Tương truyền, Hoàng đế Quang Trung còn lệnh cho Nguyễn
Thiếp dịch kinh, truyện ra tiếng Việt làm tài liệu giảng dạy, nhưng các bản dịch ấy đã bị mất cả.
Như ta biết, việc tế lễ trước đây, văn tế, sớ... phải viết bằng chữ Hán, khấn bằng tiếng Hán.
Nhưng trong lễ tang Hoàng đế Quang Trung, triều đình họ hàng nhà vua đều dùng văn tế bằng
tiếng Việt, chữ Nôm và năm bài văn tế do Phan Huy Ich làm vẫn còn được lưu truyền tới ngày nay.
Nhà Tây Sơn đổ, những cố gắng của Nguyễn Huệ nhằm khẳng định vị thế của tiếng Việt chữ
Nôm lại trở về trạng thái như cũ.
Mặc dù chữ Quốc ngữ đã tận dụng được nhiều ưu điểm riêng, vốn có của hệ chữ La Tinh, nhưng
việc sử dụng hệ thống này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi các văn liệu tôn giáo, trong giao dịch
giữa những người cùng giáo xứ, giáo đoàn. Hai thế kỉ sau khi được chế tác, chữ Quốc ngữ đã trở
thành một công cụ hữu hiệu, giúp người Pháp, quân đội Pháp xâm lược chia tách đất nước Việt
Nam thành ba miền.
1.5. Dưới thời cai trị của thực dân Pháp (1861–1945), trên diễn đàn văn hoá Việt Nam, ba
ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, văn ngôn Hán và bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nôm và Hán.
Sự tranh chấp giữa ba ngôn ngữ diễn ra theo chiều hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị thế số
một, vai trò của văn ngôn Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt càng ngày càng được đề cao.
Đây cũng là thời kì thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.
Chính sách của nhà cầm quyền thực dân Pháp đối với Việt Nam đồng hoá về ngôn ngữ và văn
hoá. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng tối thượng là làm cho người Việt Nam
chấp nhận sử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp; chấp nhận văn hoá, chính trị Pháp; lấy tiếng Pháp thay thế
tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tới mức tối đa ảnh hưởng của văn hoá Hán đối với Việt
Nam.
Etienne Aymonier, một công sứ Pháp Bình Thuận, năm 1886, đã viết: "Chúng ta phải gieo rắc
vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cấp cao; việc
không thể chối cãi được sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung
Quốc". Năm 1890, ông còn viết: "Thực ra, vấn đề được đặt ra thay thế trong chương trình dạy
chính thức, tiếng Trung Quốc, hiện nay được dạy đến tận các thôn quê, bằng tiếng Pháp, ngôn ngữ
của những kẻ đi chinh phục với hậu quả được lường trước sự sdụng ngôn ngữ này stoả lan
càng ngày càng lớn". Ông nguyện ước:
"Chương trình dạy chính thức Nam thuộc Pháp sẽ được đặt sở trong một chừng mực
tối đa có thể được, trên sự học hỏi tiếng Pháp.
Trên toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền sẽ cho nghiên cứu các phương tiện để
thúc đẩy tiếng Pháp...
Chớ nên dạy tiếng Pháp riêng cho hàng thân hào, cho giới lãnh đạo, phải nhắm vào những
đứa trẻ của dân thường, con gái lẫn con trai. Tốt hơn nhắm vào từng nhóm làng xã, chỗ y ch
5
kia, trước tiên những vùng phụ cận những trung tâm Âu y, hay trong những làng thiên chúa
giáo, tất cả những nơi thiện chí được bộc lộ. Đó cách tôi gọi cắm ngôn ngữ vào đất
bằng cách cho nó bắt rễ"(9).
Thực tế nhà cầm quyền Pháp Việt Nam đã dùng tiếng Pháp, chữ Pháp trong văn kiện, giấy tờ
của bộ máy cai trị ; tăng cường việc giảng dạy tiếng Pháp trong nhà trường, hạn chế vai trò của tiếng
Hán chữ Hán. Theo Nguyễn Phú Phong, việc dạy tiếng Pháp cho người Việt Nam được bắt đầu
khởi sự năm 1866 nhưng vẫn còn nằm trong tay các giáo giáo hội, chính quyền thuộc địa trợ
cấp cho các trường học do giáo hội tổ chức. Ngày 21-12-1917, Toàn quyền Albert Saraut Nghị
định Học chính tổng quy (Règlement général de l' instruction publique) đăng lên công báo ngày
10/4/1918. Học chính tổng quy đã thay đổi thi Hương thi Hội: Năm 1916 bãi bỏ các thi Hương
năm 1919 thì thi Hội cũng bị bãi bỏ. Học chính tổng quy quy định việc dạy tiếng Pháp môn
Hán tự như sau:
Dạy tiếng Pháp (tập đọc, ám tả, học mẹo, làm văn) lớp nhì lớp nhất, mỗi tuần ít ra 12
giờ.
Hán tự mỗi tuần lễ chỉ dạy 1 giờ rưỡi vào sáng thứ năm mà thôi. Lại thêm chỉ thị: "Dạy Hán tự
phải theo chương trình nhà nước. Buổi dạy Hán tự, giáo viên kiêm đốc học nhà trường phải có mặt ở
lớp để giữ kỉ luật, không nên để thầy đồ dạy một mình".
Muốn truyền tiếng Pháp văn hoá Pháp, nhằm củng cố nền thống trị của thực dân Pháp
Việt Nam, nhà cầm quyền Pháp buộc phải dùng tiếng Việt làm phương tiện chuyển ngữ. thế,
song song với việc dạy tiếng Pháp cho người Việt thì việc dạy tiếng Việt cho các viên chức hành
chính Pháp cũng được đặt ra. Năm 1861, một trường dạy tiếng Việt được thiết lập ở Sài Gòn để đào
tạo những viên thông ngôn người Pháp. Chữ Nôm chữ Quốc ngữ đều những văn tự ghi tiếng
nói của người Việt Nam, nhưng chữ Quốc ngữ rất gần chữ Pháp, lại rất tiện lợi, dễ học, dnhớ hơn
nhiều so với chữ Nôm nên ngưòi Pháp đã chọn chữ Quốc ngữ làm phương tiện dạy-học tiếng Việt.
Chính nhờ thế mà chữ Quốc ngữ vốn chỉ được dùng hạn chế trong phạm vi tôn giáo, trong giao dịch
giữa các giáo dân đã dần dần trở thành một phương tiện giáo dục chung. Thực dân Pháp cho phép
dạy chữ quốc ngữ tiếng Việt trong trường học cho ra báo bằng chữ quốc ngữ. Ngày
17/11/1874, Dupré ra quyết định tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Các trường làng dạy
chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trường ở quận lị, biến thành một trường duy nhất dạy chữ quốc
ngữ. Năm 1896, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cho thành lập một trường Pháp-Việt Huế,
gọi Trường Quốc học Huế. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương đặt thêm một thi phụ cho
khoa thi Hương trường thi Nam Định. Môn thi gồm năm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp
ra Việt, hội thoại, đọc dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán văn ra
tiếng Việt (hệ số 4). Ai đã đỗ tú tài, cử nhân kì thi Hương chính mà còn đỗ cả kì phụ sẽ được ưu tiên
chọn ra làm quan. Năm 1904, Pháp cho thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp -Việt Bắc Kì.
Ngay từ năm 1865, chính quyền Pháp Nam đã phát hành tờ Gia Định báo để thực hiện chủ
trương dùng chữ Quốc ngữ ghi tiếng Việt thay thế chữ Nôm. Năm 1917, Báo Nam Phong ra đời.
Ngay trang đầu ghi rõ:" Mục đích báo Nam Phong thể cái chủ nghĩa khai hoá của nhà nước,
biên tập những bài bằng quốc văn, hán văn, pháp văn, để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đc
trong quốc dân An Nam, truyền các khoa học của Thái Tây, nhất học thuật tư tưởng Đại Pháp,
bảo tồn cái quốc tuý của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp người Nam trong
trường kinh tế. Báo Nam Phong lại chủ ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho thành một nền
quốc văn An Nam". Về hành chính, một công văn năm 1910 của Khâm sứ Bắc định rằng tất cả