
Tiểu luận
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC VÀ
MẬU DỊCH CỦA CHÂU Á

Tóm tắt
Bài nghiên cứu này trả lời hai câu hỏi chính:
- Khi đồng Nhân Dân Tệ thay đổi sẽ tác động như thế nào đến cán cân mậu dịch
Trung Quốc?
- Những bạn hàng sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
Bài nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng, trên thực tế Cán cân mậu dịch Trung Quốc nhạy
cảm với những thay đổi bất thường trong tỷ giá thực hiệu dụng (REER) của đồng Nhân
Dân Tệ (NDT), mặc dù vậy thì chính sách tỷ giá một mình nó cũng không thể nào giải
quyết được mức độ thặng dư trong cán cân thương mại. Một trong những nguyên nhân
chính giải thích tại sao sự suy giảm trong thặng dư mậu dịch là có giới hạn đó là nhập
khẩu của Trung Quốc vẫn giảm mặc dù tăng giá đồng NDT.
Qua việc đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả nhận ra rằng nhập khẩu
từ những nước Đông Nam Á khác đều giảm. Kết quả này phản ánh sự “hợp nhất theo
chiều dọc” (vertical intergration) của khu vực Đông Nam Á với Trung Quốc thông qua
“mạng lưới sản xuất Châu Á”. Tác giả cho thấy nhập khẩu từ Đức (nơi đáp ứng nhu cầu
trong nước của Trung Quốc) tăng cùng với việc tăng giá trị thực của đồng NDT đúng như
mong đợi. Trên tất cả, kết quả nghiên cứu này gia tăng mối quan tâm đến tác động của
việc tăng giá đồng NDT trên khu vực Đông Nam Á ngay cả trong trường hợp các đồng
tiền khác trong khu vực không theo kịp hướng đi lên của đồng NDT.
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, thị phần của Trung Quốc trong thương mại quốc tế đã
phát triển cực kỳ nhanh chóng. Trung Quốc đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế
giới, cùng với Đức và Mỹ.
Mậu dịch Trung Quốc đã rất cân bằng cho đến gần đây. Theo thống kê của cục hải
quan Trung Quốc, năm 2004 thặng dư mậu dịch chỉ là 32 tỷ USD (khoản 1,7% GDP).
Tuy nhiên, từ năm 2005 thặng dư mậu dịch không ngừng tăng lên, con số này lên đến gần
180 tỷ USD năm 2006 (hay xấp xỉ 7% GDP).
Trung Quốc đang đối mặt với áp lực mạnh mẽ từ các nước công nghiệp để định giá
cao Đồng NDT. Trong thực tế, tỷ giá thực hiệu dụng (REER) đã có thời kỳ bị định giá

cao một cách phi lý từ 1994 đến cuối năm 1997, nhưng có xu hướng giảm kể từ khi
chuyển qua cơ chế tỷ giá linh hoạt.
Mức độ thặng dư quá lớn là vấn đề quan trong không những đối với Trung Quốc mà
còn với cả thế giới. Sự gia tăng thặng dư nhanh chóng chủa Trung Quốc được tranh luận
rất nhiều trên các Diễn đàn chính sách quốc tế. Một mặt, chúng ta thật ấn tượng khi các
nhà hoạch định chính sách Trung Quốc vẫn duy trì tỷ giá thấp quá mức để thu lợi từ nhu
cầu bên ngoài và đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao quá mức cần thiết. Mặt khác, có nhiều
nghi ngờ rằng liệu tỷ giá hối đoái có thể là một công cụ hiệu quả giúp làm giảm thặng dư
mậu dịch hay không, khi Trung Quốc là nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó giá cả
có lẽ vẫn còn đóng vai trò hạn chế hơn trong quyết định của công ty liên quan đến cung
và cầu.
Tuy có nhiều mối quan tâm về vấn đề này nhưng tài liệu về đề tài này thì tương đối
khan hiếm. Việc thiếu các dữ liệu thích hợp và chuỗi thời gian dài hạn gây khó khăn
trong việc nghiên cứu để tìm ra mối liên hệ giữa tỷ giá đồng NDT và ngoại thương của
Trung Quốc mãi cho đến gần đây. Từ mùa hè năm 2003, khi những tranh luận về việc
đánh giá thấp đồng NDT lên đến đỉnh điểm, thì việc nghiên cứu chính sách tỷ giá hối
đoái Trung Quốc bắt đầu nở rộ. Nhiều trong số đó đã tập trung đến việc ước lượng tỷ giá
cân bằng dài hạn hay tìm kiếm chế độ tỷ giá thích hợp nhất đối với nền kinh tế Trung
Quốc. Trong khi cả hai câu hỏi trên đều liên quan tới nhau, chúng tôi nhận thấy vấn đề
cấp bách nhất – cụ thể là đối với mức độ mất cân bằng mậu dịch toàn cầu và áp lực từ các
nước công nghiệp – là Trung Quốc có nên để việc tăng giá nội tệ như một công cụ làm
giảm thặng dư mậu dịch khổng lồ của mình hay không. Câu trả lời tùy thuộc rất nhiều
vào tác động của việc tăng giá đồng NDT có thể làm hạn chế xuất khẩu và thúc đẩy nhập
khẩu đến mức nào?
Tác giả phân tích vấn đề này theo kinh nghiệm bằng cách sử dụng phân tích đồng
liên kết. Theo kết quả của tác giả, thặng dư mậu dịch Trung Quốc có thể giảm nhờ nâng
giá trị thực của đồng NDT nhưng giảm có giới hạn. Tác động tương đối nhỏ lên mức độ
mất cân bằng – được giải thích chủ yết bởi sự co giãn giá riêng biệt của hàng nhập khẩu,
cụ thể là hàng nhập khẩu Trung Quốc giảm theo sau một mức tăng giá đồng NDT thực tế.
Qua đánh giá phương trình nhập khẩu song phương, tác giả thấy hàng nhập khẩu từ các
nước Châu Á giảm trong khi từ các nước công nghiệp khác (cụ thể là Đức) thì lại tăng.
Điều này có thể được giải thích bởi sự “hợp nhất theo chiều dọc” của các nước Đông
Nam Á và vai trò then chốt của Trung Quốc trong “mạng lưới sản xuất của khu vực”.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Tài liệu hiện tại về tác động của việc tăng giá thực của đồng NDT lên cán cân mậu
dịch Trung Quốc có thể chia làm 2 nhóm dựa theo những hàm ý trong các chính sách mà
Chính Phủ đang theo đuổi (policy implications). Nhóm thứ nhất chiếm đa số đã đưa ra
những bằng chứng rằng việc nâng cao tỷ giá thực làm giảm thặng dư mậu dịch thông qua
xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc cả hai. Nhóm còn lại thì cho rằng không có tác động to
lớn nào lên tài khoản thương mại.

Với nhóm thứ nhất, Cerra và Dayal-Gulati (1999) dùng Cơ chế hiệu chỉnh sai số
(ECM – Error Correction Model) để ước lượng co giãn về giá cả của xuất khẩu và nhập
khẩu Trung Quốc trong giai đoạn 1983-1997 và tìm ra rằng đối với xuất khẩu là -0.3 và
nhập khẩu là 0.7. Thên vào đó, họ chỉ ra rằng độ co giãn về giá của xuất nhập khẩu đều
tăng trong tương lai. Bảng 1 tóm tắt lại lý thuyết cũng như phương pháp luận đã sử dụng.
Dees (2001) hoàn thiện phân tích trước đó bằng cách phân chia xuất khẩu và nhập
khẩu Trung Quốc thành 2 phạm trù: Hàng hóa gia công và hàng hóa thông thường. Ông
ta nhận thấy: trong dài hạn tăng tỷ giá làm giảm xuất khẩu. Ông cũng nói rằng hàng xuất
khẩu thông thường nhạy cảm về giá hơn là hàn gia công xuất khẩu. Tuy nhiên trong ngắn
hạn chỉ có nhu cầu của thế giới mới tác động đến xuất khẩu.
Cùng quan điểm, Yue và Hua (2002) dũng dữ liệu hàng năm của từng địa phương và
chỉ ra rằng một sụt giảm trong xuất khẩu đi kèm với 1 gia tăng tỷ giá thực. Cùng quan
điểm với Cerra và Dayal, nhưng với nhiều số liệu thực tế gần đây, Yue và Hua cho rằng
hàng xuất khẩu Trung Quốc đang trở nên nhạy cảm về giá hơn.
Besnassy-Quéré và Lahrèche-Revil (2003) giả sử tác động của việc giảm 10% giá trị
đồng NDT và tuyên bố xuất khẩu của Trung Quốc vào các nước OECD tăng và nhập
khẩu từ các nước chân Á mới nổi giảm (miễn là tỷ giá của các nước trong khu vực duy trì
không đổi).
Eckaus (2004) sử dụng những số liệu được tập hợp từ năm 1985-2002 để khám phá ra
rằng sự định giá cao đồng NDT làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ và giảm
thị phần hàng nhập xuất khẩu Trung Quốc trong tổng nhập khẩu Mỹ. Sau đó người ta đã
chỉ ra rằng có sự tác động thay thế từ những nước xuất khẩu khác vào Mỹ, nhưng kết quả
phải được xem xét kỹ lưỡng do số lượng quan sát nhỏ và việc sử dụng trị giá xuất nhập
khẩu thay vì khối lượng.
Lau, Mo và Li (2004) ước lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước G3.
Trong dài hạn, sự định giá đúng tỷ giá thực hiệu lực có ý nghĩa trong việc giảm xuất
khẩu. Ngược lại, cả hàng nhập khẩu thường và hàng nhập khẩu gia công đề không bị ảnh
hưởng bởi REER. Trong một số trường hợp, những kết quả này không dễ gì giải thích
được vì họ không nói ra cách làm giảm xuất nhập khẩu như thế nào, và số lượng mẫu
quan sát không đủ lớn. (dữ liệu theo quý từ năm 1995 đến 2003).
Thorbecke (2006) sử dụng mô hình “tương hỗ” (gravity model) để nghiên cứu ảnh
hưởng của sự thay đổi tỷ giá trong mô hình mậu dịch ba bên ở Châu Á và chia xuất khẩu
thành trung gian, vốn và sản phẩm cuối cùng. Những kết quả này cho chúng ta thấy việc
đánh giá cao 10% giá trị đồng NDT làm giảm xuất khẩu 13%. Tuy nhiên, sự định giá này
sẽ không ảnh hưởng một cách đáng kể đến nhập khẩu hàng Trung Quốc từ Mỹ.
Voon, Guangzhong và Ran (2006) đã lần lượt sử dụng số liệu theo khu vực của giai
đoạn 1978-1998 và hình thành mức độ đánh giá quá cao đồng NDT khi định giá các
phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Họ cho rằng có 1 sự sụt giảm trong xuất khẩu
qua Mỹ như là một hệ quả của việc đánh giá đúng tỷ giá thực.
Cuối cùng, Shu và Yip (2006) đánh giá ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá lên toàn bộ
nền kinh tế Trung Quốc và tìm ra rằng sự đánh giá cao nội tệ có thể làm giảm xuất khẩu
dựa trên tác động chuyển dịch chi tiêu (đối với nước ngoài), kết quả là làm giảm nhẹ tổng
cầu.

Một cách đáng ngạc nhiên, một vài bài nghiên cứu khác đã cung cấp một cái nhìn
khác trong một chừng mực nào đó về chính sách tỷ giá tác động như thế nào trong thặng
dư mậu dịch Trung Quốc. Cụ thể, Kamada và Takagawa (2005) dùng mô hình mô phỏng
để ước lượng tác động của cải cách tỷ giá Trung Quốc và chỉ ra rằng giá trị đồng NDT
tăng 10% sẽ nâng nhập khẩu của Trung Quốc lên không đáng kể, trong khi ảnh hưởng
xuất khẩu là rất ít. Tuy nhiên, mô hình ước lượng OLS trong phương trình nhập khẩu của
Trung Quốc không cho chúng ta thấy tỷ giá thực có ảnh hưởng một cách đáng kể đến
khối lượng nhập khẩu. Không may thay, họ không ước lượng phương trình xuất khẩu của
Trung Quốc. Theo họ, xuất khẩu đẩy mạnh nhập khẩu, nghĩa là có 1 sự ảnh hưởng gián
tiếp từ tỷ giá lên nhập khẩu thông qua xuất khẩu.
Jin (2003) đánh giá mối quan hệ giữa lãi suất thực, tỷ giá thực và cán cân thanh toán
của Trung Quốc và kết luận rằng sự nâng giá thực có xu hướng làm tăng thặng dư cán
cân thanh toán.
Cuối cùng, Cerra và Saxena (2003) sử dụng số liệu theo khu vực để nghiên cứu thái
độ của nhà xuất khẩu và nhận thấy rằng sự tăng giá của đồng NDT đã thực sự đẩy mạnh
xuất khẩu, đặc biệt là trong những năm gần đây. Trong một số trường hợp, kết quả của họ
cần được xem xét một cách cẩn thận bởi vì chỉ có một nửa lượng xuất khẩu của Trung
Quốc được đề cập trong số liệu theo khu vực và không có một sự điều chỉnh đặc trưng
nào cho dữ liệu đơn vị giá của họ.
Nỗ lực gần đây nhất để ước lượng các phương trình xuất nhập khẩu cho Trung Quốc
là của Marquez và Schindler (2006). Thay vì định lượng khối lượng xuất nhập khẩu, họ
ước lượng sự ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá thực trong thị phần của Trung Quốc trong
tổng khối lượng mậu dịch thế giới. Điều này để tránh việc chiếm dụng các yếu tố đại diện
cho giá cả xuất nhập khẩu Trung Quốc. Theo Dees (2001) và Lau Mo và Li (2004), họ
chia xuất khẩu và nhập khẩu thành hai nhóm: thương mại hàng hóa thông thường và
thương mại hàng hóa gia công. Một lần nữa, sự nâng giá thực của đồng NDT dường như
đã làm giảm xuất khẩu cũng như nhập khẩu, ít nhất là trong trường hợp thương mại hàng
thoogn thường. Kết quả rất thú vị nhưng nó không bền vững trong những độ trễ khác
nhau, đặc biệt là xuất nhập khẩu hàng gia công. Có hai vấn đề nữa trong việc sử dụng
phân tích của họ cho câu hỏi mà chúng ta đang tìm kiếm câu trả lời. Một là, những ảnh
hưởng ước lượng trên thị phần xuất nhập khẩu, vì vậy không có kết luận có thể được rút
ra liên quan với tài khoản thương mại. Thứ hai, không có những kỹ thuật đồng liên kết
được sử dụng, vì vậy chỉ có những sự co giãn trong ngắn hạn có thể ước lượng được.
Tóm lại, những kết quả nghiên cứu đang tồn tại, hoặc cũ và có những khuyết điểm
tương đối trong phương pháp luận kinh tế lượng, hoặc khó có thể được sử dụng để đưa ra
những kết luận về chính sách liên quan đến các tác động của việc nâng giá đồng NDT lên
cán cân mậu dịch Trung Quốc. Trong tài liệu này, chúng tối sử dụng những dữ liệu gần
hơn và cải thiện phương pháp luận thực tiễn để giải thích tốt hơn liệu một sự gia tăng
trong giá trị của đồng NDT có thể làm giảm thặng dư mậu dịch của Trung Quốc hay
không. Thêm vào đó, chúng tôi làm phong phú những phân tích này bằng việc ước lượng
phương trình xuất nhập khẩu song phương. Điều này giúp chúng tôi kiểm tra chéo kết
quả của chúng tôi cũng như khám phá ra đối tác thương mại nào sẽ thu được lợi nhuận và