
13
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA KHỞI NGHIỆP VÀ ĐỔI MỚI
SÁNG TẠO TRƯỚC YÊU CẦU CUỘC CÁCH MẠNG 4.0
ThS. Nguyễn Thị Thu Hương
Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Tóm tắt
Theo thống kê của tạp chí Echelon (Singapore) - một trong những tạp chí
online lớn nhất về khởi nghiệp ở Đông Nam Á, nước ta hiện có khoảng 3.000 doanh
nghiệp khởi nghiệp ĐMST, tăng gần gấp đôi so với số liệu ước tính cuối năm 2015
(khoảng 1.800 doanh nghiệp). Hiện nước ta có khoảng 30 cơ sở ươm tạo (BI) và 10
tổ chức thúc đẩy Kinh doanh (BA), tăng thêm 10 vườn ươm và 3 tổ chức thúc đẩy
Kinh doanh so với năm 2016. Trước bối cảnh nền kinh tế số bắt đầu có ảnh hưởng ở
những mức độ khác nhau tới các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị tại
Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về
hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, coi đó như một giải pháp phù hợp, một cách
thức ứng phó hiệu quả để tranh thủ các cơ hội mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang
đến cho Việt. Bài viết đi vào phân tích cơ hội này và đồng thời đưa ra kinh nghiệm
các quốc gia trong khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên thế giới nhằm giúp Việt Nam
nắm bắt cơ hội và vận dụng kinh nghiệm.
Từ khóa: Khởi nghiệp, Đổi mới sáng tạo, Kinh tế số, Công nghệ thông tin…
1. Vai trò của khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế số
Ngày nay, công nghệ, tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố then chốt
quyết định năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của từng quốc gia cũng như
từng doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo (ĐMST) ngày càng đóng vai trò quan trọng, là lực lượng trung tâm cho phát
triển kinh tế nhanh, bền vững và bắt kịp xu hướng của thế giới. Trong xu thế đó,
nếu Việt Nam quan tâm, đầu tư đúng đắn cho hoạt động khởi nghiệp, ĐMST thì
chúng ta có cơ hội tăng tốc, phát triển đất nước và sớm đạt được mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với sự bùng nổ của kỷ nguyên công nghệ số hóa, cuộc Cách mạng Công
nghiệp 4.0 đã tác động rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và đặc
biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng. Kinh tế số hóa đã làm thay đổi mạnh
mẽ cách thức hình thành, hoạt động cũng như phương thức kinh doanh của các doanh
nghiệp; Cách mạng Công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ
công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm; tạo ra sự
thay đổi lớn về hình thái kinh doanh dịch vụ; tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp

14
khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư
hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ số và Internet đồng thời cũng là
cơ hội lớn cho sản xuất công nghiệp với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 mở đầu một thời kỳ phát triển mới, là cơ hội gần như
duy nhất để quốc gia kém phát triển đuổi kịp các quốc gia phát triển; trong đó lực
lượng chủ lực khởi nghiệp sẽ là các doanh nghiệp số, đây sẽ là những doanh nghiệp
đi đầu trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
2. Cơ hội cho khởi nghiệp trong nền kinh tế số
Bắt nhịp với xu thế số hóa của toàn cầu, tại Việt Nam, làn sóng khởi nghiệp,
ĐMST đang phát triển và giành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước cũng
như toàn thể cộng đồng. Xu hướng khởi nghiệp cũng là một trong những động lực
thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm công nghệ sáng tạo đáp ứng yêu cầu của đời sống
xã hội. Nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ, ngày 18/5/2016, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án
“Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia đến năm 2025” (Đề án 844). Đề án
có mục tiêu nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình
thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên
khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới. Cụ thể, đến năm 2020
hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST; thiết lập được cổng thông tin
khởi nghiệp ĐMST quốc gia; hỗ trợ đươc 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp.
Đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp; hỗ trợ phát triển 600 doanh
nghiệp khởi nghiệp...
Với quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Chính phủ, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt
Nam đã từng bước hình thành và phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp được các ngành
nghề, lĩnh vực từng bước áp dụng và đã mang lại hiệu quả cao. Có thể kể đến thành
công của lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, với thế mạnh nông nghiệp cùng với
việc áp dụng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất, đã giúp cho hệ sinh thái
khởi nghiệp trong nông nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ, bền vững… Điều
đó đã chứng tỏ được tiềm năng của hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam là rất lớn,
nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng khởi
nghiệp trong khu vực; mạng lưới các nhà đầu tư đang tăng lên về mặt số lượng, các
trường đại học, các tổ chức ươm tạo và hỗ trợ khởi nghiệp với chất lượng ngày một
nâng cao, hành lang pháp lý cơ bản hoàn chỉnh cho hoạt động khởi nghiệp... Trong
giai đoạn 2016 - 2017, theo báo cáo Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa
học công nghệ, số doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam tăng gần gấp đôi, từ
1.800 năm 2016 lên trên 3.000 năm 2017. Tính đến 2017, Việt Nam có khoảng 40
Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc tế đã hoạt động, các tập đoàn,ngân hàng lớn và các nhà
đầu tư tích cực tham gia huy động, sử dụng nguồn lực tài chính lớn cho khởi nghiệp

15
và ĐMST. Đây là minh chứng rõ nét cho thấy tiềm năng to lớn phát triển hệ sinh thái
khởi nghiệp tại Việt Nam.
Trước yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và số hóa nền kinh tế, Việt Nam có cơ
hội rất lớn để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đặc biệt là trong lĩnh vực
thông tin và truyền thông. Đầu tiên, Việt Nam có số người sử dụng Internet lớn hơn
một nửa dân số. Với dân số hơn 91 triệu nhưng Việt Nam có đến hơn 128 triệu thuê
bao di động, 49 triệu người dùng Internet, 28 triệu tài khoản mạng xã hội. Mỗi ngày,
một người truy cập điện thoại khoảng 150 lần, mỗi lần cách nhau 6,5 phút. 43%
người Việt Nam có Internet tại nhà, 94% có điện thoại di động, 37% có smartphone…
48% sử dụng điện thoại để đọc tin tức, trong khi 21% nghe tin từ radio và 19% đọc
tin từ báo in.
Ngoài ra, Chính phủ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc phát triển hạ tầng
CNTT và truyền thông, trong hơn 10 năm qua, các khu CNTT tập trung đã được hình
thành và phát triển với mục tiêu chiến lược được xác định là tạo ra năng lực nội sinh
về khoa học công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội. Đây là hướng đi đúng đắn để
tiếp cận được với kỷ nguyên công nghệ hiện đại, là mô hình tổ chức của nền kinh tế
tri thức phù hợp với các nước đang phát triển.
Với cơ sở hạ tầng thông tin, truyền thông phát triển và hệ thống chính sách
thuận lợi, Việt Nam hiện đã hội tụ đủ các điều kiện để hình thành hệ sinh thái khởi
nghiệp ĐMST đặc biệt trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. Điều này càng
được củng cố hơn nữa khi mà trong khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp thì
đa phần trong số này là các startup trong lĩnh vực CNTT và số startup này còn lớn
hơn số lượng các doanh nghiệp CNTT đang hoạt động tại Việt Nam. Các startup
CNTT có tiềm năng phát triển rất lớn, một số dự án khởi nghiệp ở lĩnh vực CNTT
tham gia các cuộc thi khởi nghiệp đã được áp dụng triển khai vào thực tiễn và đạt
được nhiều kết quả tích cực, ví dụ như: dự án Vé xe rẻ (vexere.com) - hệ thống
đặt vé xe khách trực tuyến sau một thời gian ngắn triển khai đã nhận được vốn đầu
tư từ Quỹ CyberAgent Ventures, Pix Vine Capital; dự án Net Loading của nhóm
sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân đến nay đã triển khai và đang nhận được sự
quan tâm từ nhà đầu tư nước ngoài; startup M-Service với sản phẩm là MoMo đã
nhận được hơn 600 tỷ đồng từ Quỹ đầu tư Standard Chartered Private Equity và
Ngân hàng đầu tư toàn cầu Goldman Sachs… Đặc biệt, trường hợp Nguyễn Hà
Đông với sản phẩm Flappy Bird được biết đến khắp mọi nơi trên thế giới. Những
ví dụ trên cho thấy thị trường khởi nghiệp Việt Nam đang diễn biến đầy sức sống
và tiềm năng, chứng kiến sự trỗi dậy của một thế hệ doanh nhân ngày càng trẻ,
thành công sớm, nhanh và hướng đến sự bền vững, hòa nhập với xu hướng khởi
nghiệp khu vực và thế giới.

16
Tuy nhiên, thành công hiện nay của các startup trong lĩnh vực CNTT đến từ
bản thân các doanh nghiệp mà chưa có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan quản
lý. Trên thực tế, vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp là vấn đề mới, vì vậy, các
văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng mang tính chuyên biệt cho doanh nghiệp
khởi nghiệp hầu như chưa có, các bộ ngành hiện mới chỉ tập trung vào việc triển khai
thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và giảm thời gian, công sức
của các doanh nghiệp hoạt động.
3. Thách thức trong khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam trước yêu
cầu số hóa nền kinh tế
Với những diễn tiến rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tinh thần
khởi nghiệp cũng được đề cao với các chủ trương, chính sách bước đầu được đưa ra
để thúc đẩy khởi nghiệp. Tuy nhiên nghiên cứu về khởi nghiệp ĐMST tại Việt Nam
còn nhiều thách thức ở một số khía cạnh cụ thể như sau:
Một là việc gia tăng mạnh số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam
thời gian qua chủ yếu là nhờ tác động lan tỏa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
khi khả năng kết nối IoT gia tăng cùng với nhiều ứng dụng, điều kiện phụ trợ khác
trở nên sẵn có hơn chứ không phải do sự thay đổi về chất của nền kinh tế. Theo đánh
giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, mặc dù số lượng
doanh nghiệp thành lập mới của Việt Nam tăng mạnh trong thời gian gần đây, nhưng
các doanh nghiệp thực sự được xác định là doanh nghiệp khởi nghiệp trong số đó
không nhiều. Trong khi số lượng doanh nghiệp thành lập mới năm 2017 là khoảng
110.000 doanh nghiệp thì tổng số doanh nghiệp có thể được xác định là doanh nghiệp
khởi nghiệp tính chỉ vào khoảng 1.500 doanh nghiệp. Mặc dù vậy, nếu tính trên đầu
người thì số các công ty khởi nghiệp của Việt Nam cao hơn các quốc gia khác như
Trung Quốc (2.300 công ty khởi nghiệp), Ấn Độ (7.500 công ty khởi nghiệp) và
Indonesia (2.100 công ty). So sánh giữa các lĩnh vực hoạt động cho thấy, doanh
nghiệp công nghệ thông tin có con số vượt trội so với các doanh nghiệp trong lĩnh
vực khác. Thực tế này phản ánh đúng xu hướng phát triển trong điều kiện cách mạng
công nghiệp 4.0 với các đặc điểm: (1) doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công
nghệ thông tin không cần quá nhiều vốn đầu tư ban đầu như nhiều lĩnh vực truyền
thống khác; (2) doanh nghiệp trong lĩnh vực này dựa chủ yếu vào ý tưởng mới và
cách làm mang tính sáng tạo cao, có khả năng tăng trưởng nhanh; (3) khả năng dễ
dàng kết nối toàn cầu qua công nghệ IoT giúp cho các ý tưởng sáng tạo tốt dễ dàng
đến được với thế giới và ngược lại, doanh nghiệp cũng dễ dàng học hỏi được từ các
mô hình thành công khác của quốc tế.
Hai là doanh nghiệp chưa quan tâm đến đầu tư công nghệ bắt kịp cuộc cách
mạng 4.0. Số liệu “Thực trạng đầu tư cho Khoa học và Công nghệ của doanh nghiệp

17
Việt Nam” của tác giả Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương (2016), được
công bố cho thấy, trong tổng số 7.450 doanh nghiệp được khảo sát, chỉ có 464 doanh
nghiệp khẳng định là có các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 6,23%.
Điều này có nghĩa rằng, đại bộ phận các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các hoạt
động phát triển, ứng dụng công nghệ.
Ngoài ra, một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan
(TDRI) nghiên cứu về nhân sự của các doanh nghiệp cũng cho thấy, tỷ trọng cán bộ
nghiên cứu và kỹ thuật trong các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp quy mô lớn
chỉ ở mức dưới 40%. Đối với một doanh nghiệp có quy mô trung bình thì nhân lực
kỹ thuật chỉ chiếm tỷ lệ 36,4%, tiếp đến là nhân lực hỗ trợ với 29,5%. Còn lại là
nhân lực cho các vị trí công việc thông thường khác. Số liệu khảo sát cũng cho thấy,
các doanh nghiệp chưa quan tâm đến hoạt động R&D do hầu hết đều là các doanh
nghiệp hoạt động trong nhóm ngành công nghệ thấp (chiếm 44,2%) và chỉ có 17,3%
số doanh nghiệp được coi là hoạt động trong các ngành công nghệ cao. Với tỷ lệ
nhân lực khoa học và công nghệ còn thấp, việc thực hiện đổi mới sáng tạo là rất hạn
chế. Đây là tình trạng khá phổ biến của doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cũng
là lý do khiến cho tuy số lượng doanh nghiệp được thành lập mới tương đối nhiều,
nhưng chỉ có 23,9% là thành lập trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và rất ít trong
số đó được coi là doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST.
Ba là hoạt động khởi nghiệp ÐMST thời gian qua vẫn mang tính phong trào,
chưa thật sự hiệu quả. Kết quả khảo sát của Mạng lưới khởi nghiệp toàn cầu (GEN)
cho biết, Việt Nam được xếp vào nhóm 20 nền kinh tế khởi nghiệp cao nhất nhưng
lại nằm trong nhóm 20 quốc gia có khả năng thực hiện các kế hoạch kinh doanh
thấp nhất. Ða phần các khởi nghiệp trẻ tập trung vào ý tưởng sản phẩm mà quên
lên bài toán lớn về năng lực và khả năng vận hành của bản thân doanh nghiệp. Với
môi trường kinh doanh năng động sẽ có nhiều cơ hội kinh doanh, nhưng sự vấp
ngã là điều khó tránh khỏi do “nhảy” vào thị trường quá nhanh. Chủ tịch Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc lưu ý, chất lượng của
khởi nghiệp ÐMST, chất lượng của các doanh nghiệp tham gia là vấn đề cần quan
tâm khi khởi nghiệp ÐMST đang được đẩy lên như một phong trào. Tinh thần
KNÐMST phải đi kèm với năng lực về quản trị. Ông Trịnh Minh Giang, Chủ tịch
nhóm công tác khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam
cũng khuyến cáo: Hiện nay, có thể các doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn gọi được
vốn đầu tư, nhưng nếu hai năm tới, số doanh nghiệp khởi nghiệp ÐMST thành
công không đạt đến 1%, sẽ không còn ai đầu tư. Ðó chính là nguy cơ của hệ sinh
thái khởi nghiệp nếu Việt Nam không nhìn ra điều cốt lõi. Chúng ta cần chọn
doanh nghiệp nào thật sự cần đầu tư, startup nào thật sự có năng lực để tập trung
phát triển.