Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

A. MỞ ĐẦU

Ngày nay quá trình đô thị hóa là một quá trình không thể thiếu của mỗi quốc gia trên

thế giới, chúng mang lại cho chúng ta một cuộc sống văn minh và hiện đại, cũng chính sự

hiện đại ấy đã vô tình làm cho cho đời sống chúng ta trở nên khắc nghiệt hơn, môi trường

ngày càng bị ô nhiễm, từ ô nhiễm không khí, nguồn nước đến cả ô nhiễm tiếng ồn. Một

trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí và nguồn nước chính là rác thải sinh

hoạt, mỗi ngày chúng ta cho ra môi trường một lượng lớn rác thải thế nhưng quá trình xử lý

còn quá thô sơ, chủ yếu là hình thức chôn lắp. Hình thức chôn lắp gặp quá nhiều khuyết

điểm, vừa tốn diện tích đất vừa ô nhiễm nguồn nước do quá trình thấm rỉ của rác thải. Nếu

không xử lý phù hợp và kịp thời thì nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người

và môi trường. Chính vì thế những công nghệ tái chế và tái sử dụng rác thải sinh hoạt đã dần

ra đời để giải quyết thực trạng này, ở Việt Nam đã dần áp dụng những công nghệ tái chế và

tái sử dụng như: công nghệ CD-Waste, công nghệ MPT-CD 08, công nghệ tái chế rác thải

sinh hoạt thành than sạch… Tuy nhiên so với những công nghệ xử lý hiện đại của Mỹ và

Châu Âu thì chúng ta còn khá non trẻ và khả năng ứng dụng chưa cao, chủ yếu là áp dụng tại

các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Bên cạnh áp dụng những công

nghệ tái chế và tái sự dụng rác thải sinh hoạt thì việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường

cũng là một trong những việc cần thiết hiện nay mà mỗi quốc gia đều quan tâm. Trong đề tài

này chủ yếu chúng ta đề cập đến những công nghệ tái chế và tái sử dụng rác thải sinh hoạt

tại Việt Nam và trên thế giới.

Trang 1/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

B. NỘI DUNG

I. TỔNG QUAN VỀ RÁC THẢI SINH HOẠT.

I.1. KHÁI NIỆM.

Chất thải rắn là các chất rắn bị loại ra trong quá trình sống, sinh hoạt và sản xuất của

con người và cả động vật, trong đó chất thải rắn sinh hoạt chiếm tỉ lệ cao nhất, chất lượng và

số lượng rác thải tại từng quốc gia và từng khu vực trong mỗi quốc gia là rất khác nhau tùy

thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và khoa học kỷ thuật. Bất kỳ một hoạt động sống nào

của con người, tại nhà, trường học hay nơi công sở đều sinh ra một lượng rác thải đáng kể.

Trong đó có cả hai loại vô cơ lẫn hữu cơ. Vì vậy có thể định nghĩa rác thải sinh hoạt là

những thành phần tàn tích hữu cơ và vô cơ phục vụ đời sống con người, chúng không còn

được sử dụng và vứt trả lại môi trường sống.

Bảng 1.1 Nguồn sinh ra chất thải sinh hoạt

Nguồn Nơi sinh ra chất thải sinh hoạt Loại chất thải sinh hoạt

Dân cư Nhà riêng, nhà tập thể, nhà cao Rác thực phẩm, giấy thải, các loại chất thải

tầng, khu tập thể… khác

Thương mại Nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, Rác thực phẩm, giấy thải, các loại chất thải

các cơ sở buôn bán, sửa chữa… khác

Công Từ các nhà máy, xí nghiệp, các Rác thực phẩm, xỉ than, giấy thải, vải, đồ

nghiệp,xây công trình xây dựng… nhựa, chất thải độc hại

dựng

Khu trống Công viên, đường phố, xa lộ, Các loại chất thải bình thường

sân chơi, bãi tắm, khu giải trí…

Nhờ việc đánh giá tìm hiểu các nguồn phát sinh ra chất thải sinh hoạt, góp phần cho việc ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật giảm thiểu ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt đến môi trường không khí.

Trang 2/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

I.2. PHÂN LOẠI CHẤT THẢI SINH HOẠT.

Ngày nay, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong từng lĩnh vực thực tế đã góp phần

giảm thiểu chi phí cho các công đoạn thừa trong các quá trình xử lý. Việc phân chia rác thải

rắn theo công nghệ quản lý xử lý là một bước tiến quan trọng, giúp hiệu quả của quy trình

xử lý tăng lên, giảm thiểu lượng ô nhiễm. Dưới đây là bảng phân loại rác thải sinh hoạt.

Bảng 2.1. Bảng phân loại rác thải sinh hoạt.

Loại Nguồn gốc Ví dụ

1. Rác hữu cơ -Các vật liệu làm từ giấy -Các túi giấy, các mảnh bìa,

giấy vệ sinh…

-Có nguồn gốc từ các sợi -Vải, len, bì tải, bì nilon…

-Các chất thải ra từ đồ ăn thực -Các cọng rau, vỏ quả, thân

phẩm cây, lõi ngô…

-Các vật liệu và sản phẩm được chế -Đồ dùng bằng gỗ như bàn,

tạo từ gỗ, tre và rơm… ghế, thang, giường, đồ chơi, vỏ

dừa…

-Các vật liệu và sản phẩm được chế -Phim cuộn, túi chất dẻo, chai,

tạo từ chất dẻo lọ chất dẻo, các đầu vòi bằng

chất dẻo, dây bện, bì nilon…

-Các vật liệu và sản phẩm được chế -Bóng, giầy, ví, băng cao su…

tạo từ da và cao su

2. Rác vô cơ -Các loại vật liệu và sản phẩm được -Vỏ hộp, dây điện, hàng rào,

chế tạo từ sắt mà dễ bị nam châm dao, nắp lọ…

hút

-Các vật liệu không bị nam châm -Vỏ hộp nhôm, giấy bao gói,

hút đồ đựng…

-Các vật liệu và sản phẩm chế tạo -Chai lọ, đồ đựng bằng thủy

từ thuỷ tinh tinh, bóng đèn…

-Các loại vật liệu không cháy ngoài -Vỏ trai, xương, gạch, đá

Trang 3/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

kim loại và thủy tinh gốm…

3. Rác hỗn hợp Tất cả các loại vật liệu khác không Đá cuội, cát, đất, tóc…

phân loại ở phần 1 và 2 đều thuộc

loại này. Loại này có thể được phân

chia thành 2 phần: kích thước lớn

hơn 5 mm và nhỏ hơn 5 mm

I.3. TÌNH HÌNH RÁC THẢI SINH HOẠT HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ

GIỚI.

I.3.1. TÌNH HÌNH RÁC THẢI SINH HOẠT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY. (*)

Lượng chất thải sinh hoạt tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng

tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang

có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như

các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá

(12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh rác thải sinh

hoạt tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%).

Tổng lượng phát sinh rác thải sinh hoạt tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị

loại IV và các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả nước lên đến 6,5

triệu tấn/năm, trong đó rác thải phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh

doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Tính theo vùng

địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng Đông Nam bộ có lượng rác

thải phát sinh lớn nhất tới 2.450.245 tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh rác thải

các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có

lượng phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị

khu vực miền núi Tây Bắc Bộ có lượng phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị thấp nhất chỉ có

69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên, tổng

lượng phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm 3,68%) . Đô thị có lượng

rác thải sinh hoạt phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh (5.500 tấn/ngày), Hà Nội (2.500

Trang 4/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

tấn/ngày); đô thị có lượng rác thải sinh hoạt phát sinh ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị

xã Gia Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng 20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên

Bái 33,4 tấn/ngày và thị xã Hà Giang 37,1 tấn/ngày.Tỷ lệ phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị

bình quân trên đầu người tại các đô thị đặc biệt và đô thị loại I tương đối cao (0,84 –

0,96kg/người/ngày); đô thị loại II và loại III có tỷ lệ phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị bình

quân trên đầu người là tương đương nhau (0,72 - 0,73 kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ

phát sinh rác thải sinh hoạt đô thị bình quân trên một đầu người đạt khoảng 0,65

kg/người/ngày. Tỷ lệ phát sinh rác thải sinh hoạt tính bình quân lớn nhất tập trung ở các đô

thị phát triển du lịch như TP. Hạ Long 1,38kg/người/ngày; TP. Hội An 1,08kg/người/ngày;

TP. Đà Lạt 1,06kg/người/ngày; TP. Ninh Bình 1,30kg/người/ngày. Các đô thị có tỷ lệ phát

sinh rác thải sinh hoạt tính bình quân đầu người thấp nhất là TP. Đồng Hới (Tỉnh Quảng

Bình) chỉ 0,31kg/người/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 0,35kg/người/ngày; Thị xã Kon Tum

0,35kg/người/ngày; Thị xã Cao Bằng 0,38kg/người/ngày. Trong khi đó tỷ lệ phát sinh bình

quân đầu người tính trung bình cho các đô thị trên phạm vi cả nước là 0,73kg/người/ngày.

Với kết quả điều tra thống kê như trên cho thấy, tổng lượng phát sinh rác thải sinh

hoạt tại các đô thị ở nước ta ngày càng gia tăng với tỷ lệ tương đối cao (10%/năm) so với các

nước phát triển trên thế giới. Để quản lý tốt nguồn chất thải này, đòi hỏi các cơ quan cần đặc

biệt quan tâm hơn nữa đến các khâu giảm thiểu tại nguồn, tăng cường tái chế, tái sử dụng,

đầu tư công nghệ xử lý, tiêu hủy thích hợp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do rác

thải sinh hoạt gây ra.

I.3.2. TÌNH HÌNH RÁC THẢI SINH HOẠT TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY.

Nạn ô nhiễm môi trường có thể thấy ở mọi nơi trên thế giới, từ Mexico, Nga, Mỹ cho

tới Trung Quốc, Ấn Độ… Tình trạng ô nhiễm ở một vài thành phố tại những quốc gia này

xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Trong đó ý thức con người giữ một vai trò khá quan

trọng, Mumbai một trong những thành phố đông đúc nhất và bẩn thỉu nhất trên trái đất. Mỗi

ngày, người dân ở nơi đây quẳng ra hàng tấn rác. Bắc Kinh có dân số 17,6 triệu người, thải

ra khoảng 18.400 tấn rác mỗi ngày, khoảng 90% rác thải được đổ tại 13 bãi rác đặt rải rác

Trang 5/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

quanh thành phố. Còn người dân Hoa Kỳ đã loại bỏ mỗi năm 16.000.000.000 tã,

1.600.000.000 bút, 2.000.000.000 lưỡi dao cạo, 220.000.000 lốp xe. Với một lượng rác thải

như thế thì không lâu trái đất của chúng ta sẽ chìm trong biển rác, chính vì thế những công

nghệ xử lý rác hiện đại nhất thế giới đã ra đời. Hiện tại Mỹ đã có những công nghệ tái chế

và tái sử dụng khá hiện đại như: công nghệ tái chế tivi analog, công nghệ CDW, công nghệ

tái chế vải bông…và còn rất nhiều công nghệ khá hiện đại của Anh, Trung Quốc và Nhật

Bản.

I.4. TÁC HẠI CỦA RÁC THẢI SINH HOẠT. (*)

I.4.1. TÁC HẠI CỦA CHẤT THẢI SINH HOẠT ĐỐI VỚI SỨC KHỎE CON NGƯỜI.

Chúng ta đang đối mặt với nhiều nguy cơ lây lan bệnh truyền nhiễm, dịch hại nguy

hiểm do môi trường đang bị ô nhiễm. Ô nhiễm môi trường đã gia tăng qua mức đã ảnh

hưởng tới sức khoẻ người dân. Ngày càng có nhiều vấn đề về sức khoẻ liên quan đến yếu tố

môi trường bị ô nhiễm. Chất thải sinh hoạt đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ cộng đồng;

nghiêm trọng nhất là đối với dân cư khu vực làng nghề, khu công nghiệp, bãi chôn lấp chất

thải và vùng nông thôn. Ô nhiễm chất thải sinh hoạt đã đến mức báo động. Nhiều bệnh như

đau mắt, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, tiêu chảy, dịch tả, thương hàn…do chất thải rắn

gây ra. Đội ngũ lao động của các đơn vị làm vệ sinh đô thị phải làm việc trong điều kiện

nặng nhọc, ô nhiễm nặng, cụ thể: nồng độ bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 1,9

lần, khí độc vượt tiêu chuẩn cho phép từ 0,5 đến 0,9 lần, các loại vi trùng, siêu vi trùng, nhất

là trứng giun, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.

I.4.2. ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỸ QUAN ĐÔ THỊ.

Ngoài việc gây nguy hại đến sức khỏe con người thì rác thải sinh hoạt còn ảnh hưởng

đến mỹ quan đô thị. Nó mang lại những hình ảnh không đẹp giữa lòng thành phố văn minh

và hiện đại. Dưới đây là những hình ảnh làm mất đi mỹ quan đô thị của những thành phố lớn

tại Việt Nam và trên thế giới.

Trang 6/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Hình 1.1. Rác thải tại Hà Nội Hình 1.2. Rác thải tại TP Hồ Chí Minh

Hình 1.3. Rác ở thành phố Lagos (Nigeria) Hình 1.4. Rác ở thành phố Napoli (Ý)

I.4.3. ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG SỐNG.

Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề của cả thế giới chứ không phải riêng của một

quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến

con người và các sinh vật khác. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than

đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải

khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng

các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột

ngạt và bụi sương mù. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các

cánh đồng. Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như:

CO2, đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà

kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%,, nitơ 5%, CFC

Trang 7/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%...Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện

tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m.

Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy

quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ

tăng khoảng 3,60 °C , và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong

vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu

được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050

nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu

hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là

hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là nguyên nhân phá hủy chính của tầng ôzôn. Sau khi

chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi

thủng.

II. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ VÀ TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI SINH HOẠT TẠI VIỆT

NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI.

II.1. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ.

II.1.1. CÔNG NGHỆ CDW.

II.1.1.1. KHÁI NIỆM.

Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt CDW là một sự kết hợp giữa phương pháp quản lý

và xử lý chất thải ngay ở gần nguồn thải của từng khu vực dân cư. Với một số đặc điểm như

sau: Xã hội hóa trong giải pháp thu gom, vận chuyển có định hướng. Tạo mối quan hệ hữu

cơ giữa chủ nguồn thải và đơn vị thu gom, xử lý rác thải. Kết hợp thu gom, vận chuyển, xử

lý rác thải sinh hoạt trong một tổ chức môi trường (doanh nghiệp tư nhân hay nhà nước) với

qui mô vừa và nhỏ. Rút ngắn cự ly giữa các điểm tập kết đến khu xử lý. Hạn chế phát tán ô

nhiễm và chi phí vận chuyển rác thải. Công nghệ và thiết bị phân loại, xử lý rác thải tinh

gọn. Bố trí hợp lý, liên kết nhiều thiết bị trong không gian hình tháp. Hạn chế đến thấp nhất

ô nhiễm thứ cấp (mùi hôi, nước rỉ rác, chất thải rắn và khí thải) tại nơi xử lý. Ít tốn diện tích

Trang 8/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

và rút ngắn khoảng cách giới hạn với khu vực dân cư. Đặt trọng tâm vào các công nghệ xử

lý môi trường. Chuẩn hóa ẩm độ rác thải đầu vào. Phân loại các thành phần tái chế, tái sử

dụng với độ lẫn tạp chất rất thấp để tạo nguyên liệu cho các cơ sở tái chế ở các địa phương.

Tận dụng các tài nguyên từ rác thải sinh hoạt. Kết hợp các giải pháp cơ khí và sinh học

(MBT : Mechanic Bio Treatment) trong toàn bộ công nghệ và thiết bị của dây chuyền xử lý

rác thải sinh hoạt CDW. Tạo ra phương pháp xử lý đơn giản, dể quản lý, vận hành. Tính an

toàn kỷ thuật của hệ thống thiết bị và lao động, môi trường cao.

II.1.1.2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG.

Công nghệ CDW gồm 3 công đoạn:

1. CÔNG ĐOẠN THU GOM VÀ TẬP KÍCH CÓ ĐỊNH HƯỚNG.

Giữa chủ nguồn thải và Doanh nghiệp xử lý rác thải (tư nhân hay nhà nước) có mối

quan hệ hữu cơ thể hiện qua hợp đồng thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt. Qui định thời điểm,

địa điểm và loại chất thải cần thu gom, xử lý. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp xử lý rác thải sẽ

bố trí lực lượng lao động, phương tiện thu gom và các điểm tập kết theo dòng rác thải (phân

loại sơ bộ có định hướng). Điều động phương tiện vận chuyển và chuyển về Trạm CDW tiếp

tục phân loại, xử lý.

2. CÔNG ĐOẠN PHÂN LOẠI RÁC.

Phân loại là công đoạn rất phức tạp và có vai trò quyết định trong toàn bộ tiến trình

xử lý rác thải hổn tạp nhiều thành phần. Mặc dù, đã thu gom và vận chuyển có định hướng,

công nghệ CDW vận dụng nhiều nguyên lý phân loại và bố trí hợp lý dây chuyền thiết bị để

đạt mục đích tách loại các thành phần không sử dụng đưa vào đốt tạo nhiệt. Tận thu phế thải

dẻo, sơ chế, đóng kiện để bán cho các cơ sở tái chế. Phế thải trơ dùng san lấp mặt bằng hay

đóng rắn áp lực tạo sản phẩm gạch các loại. Đặc biệt, tách lọc dòng hữu cơ ít lẫn tạp chất

đưa vào hệ thống phân hủy sinh học tiên tiến (các tháp ủ nóng và ủ chín CDW) khử trùng và

mùn hóa tạo sản phẩm mùn hữu cơ sạch phục vụ nông nghiệp.

Trang 9/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Sơ đồ công đoạn phân loại rác thải sinh hoạt – Công nghệ CDW

Trang 10/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

*Trạm CDW được thiết kế với chức năng : tách lọc các dòng vật chất như :

1- Dòng chất thải hữu cơ (thức ăn thừa, rau củ quả, cành lá cây...)

2- Dòng chất thải vô cơ ( bụi tro gạch, thuỷ tinh, vỏ trai ốc...)

3- Dòng chất thải trơ ( giấy, giẻ, da cao su...)

4- Dòng chất thải chất dẻo ( nylon, bao bì tải dứa...)

5- Các dòng vật chất này được tách riêng và được ứng dụng các công nghệ xử lý riêng để

tái chế hoặc tiêu huỷ ( đốt ) hoặc bán tận dụng thu hồi. Một phần rất nhỏ chất thải vô cơ, phế

thải xây dựng sẽ được san lấp hợp vệ sinh ngay tại địa phương (nơi phát sinh nguồn thải).

3. CÔNG ĐOẠN XỬ LÝ VÀ TÁI CHẾ THU HỒI PHẾ LIỆU.

Từ nguyên liệu là rác thải sinh hoạt, qua tiến trình phân loại và xử lý, tạo ra các sản

phẩm như sau.

*Tháp ủ hữu cơ : Tháp ủ kín theo công nghệ CVU có điều chỉnh phù hợp với điều kiện Việt

Nam. Đây là công nghệ tái chế hữu cơ đang được áp dụng rộng rãi ở Châu Âu có nhiều ưu

điểm như: không có mùi hôi, không có nước rỉ rác, rác hữu cơ phân huỷ hiếu khí trong tháp

ủ kín với thời gian ngắn nhất 7-14 ngày.

- Dòng vật chất hữu cơ tổng hợp sẽ được vít tải vận chuyển lên tháp ủ liên tục hằng ngày và

cũng được lấy ra hằng ngày ở đáy tháp ( số lượng hữu cơ đã phân huỷ ). Số lượng hữu cơ

này qua thiết bị đánh tơi và sàng lỗ mịn để lấy được mùn hữu cơ. Mùn hữu cơ sẽ được bán (

hoặc cho ) nông dân để ủ thành phân xanh hoặc bón ruộng ,vườn.

- Dòng chất thải trơ ( giẻ, giấy, da cao su, chăn chiếu, cành cây...) các vật chất dễ cháy tách

lọc ra từ sàn phân loại trên tháp và trong tháp được tập trung sang vị trí lò thiêu kết ( đốt ).

Vì không đủ nhiều cho từng xe, từng tổ do vậy phải tập kết chờ đủ mới thiêu kết. Theo thực

tế thì khoảng 2 ngày hoặc 3 ngày mới thiêu kết một lần.

- Dòng chất dẻo thải ( nylon, bao bì...) Được thu gom từ băng tách lọc thủ công gồm nhiều

chủng loại, dòng vật chất này chiếm khoảng 3-7% tổng lượng rác đầu vào sẽ được làm sạch

và bán cho các đại lý thu mua nhựa.

- Dòng vật chất khác được tách ra như : Kim loại ( sắt ) mảnh thuỷ tinh, hộp lon nhôm ...

cũng được để riêng và bán cho các đại lý thu mua tái chế.

Trang 11/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Hình 2.1.Sơ đồ quy trình công nghệ CDW.

II.1.1.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Trạm CDW khi được ứng dụng sẽ :

- Hạn chế tối đa bãi chôn lấp, không gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm trên

địa bàn thôn xã, thị trấn...Môi trường khu vực được cải thiện.

- Tạo ra nhiều việc làm cho dân địa phương, xã hội hoá chương trình vì môi trường

- Tái chế rác hữu cơ thành mùn hữu cơ bón ruộng, vườn, trang trại.

- Tạo thêm thu nhập cho tổ vệ sinh môi trường do bán các nguyên liệu tái chế.

Đây là một mô hình xử lý rác thải tại nguồn phát sinh rác. Được xử lý bằng chính người địa

phương với cách làm mới, tự quản, tự tiêu nhằm mục đích lành mạnh hoá môi trường địa

Trang 12/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

phương, tiết kiệm tối đa diện tích chôn lấp rác. Với phí vận hành thấp phù hợp với người dân

vùng nông thôn, dễ vận hành và bảo dưỡng.

II.1.2. CÔNG NGHỆ MBT-CD.08. (*)

II.1.2.1. KHÁI NIỆM.

MBT-CD.08 (MECHANICAL- BIOLOGYCAL- TREATMENT) là công nghệ kết

hợp các phương pháp cơ sinh học để phân loại ra 3 dòng vật chất trong rác thải hỗn hợp: Các

vật chất cháy được, các vật chất không cháy và các vật chất kim loại, rác độc hại. Tái chế và

tái tạo thành các sản phẩn như: Viên nhiên liệu (sử dụng cho các nồi hơi công nghiệp); Viên

gạch không nung (sử dụng cho các công trình xây dựng dân dụng đơn giản); Kim loại như

sắt, đồng, nhôm... bán tận thu, các vật chất độc hại như pin, ắc quy... được tập trung chở đi

xử lý, tái chế toàn bộ 100% rác thải thành nguyên liệu.

II.1.2.2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG.

* Công nghệ MPT-CD.08 trải qua 11 công đoạn bao gồm:

1- CÔNG ĐOẠN TIẾP CẬN RÁC

- Rác thải thu gom, vận chuyển về nhà máy được tiếp nhận tại nhà tập kết. Có sàn chứa rác

nghiên 15 độ để nước rác chảy xuống bể xử lý nước. - Nhà tập kết kín có hệ thống ống hút thu khí thải và quạt hút lớn (2000m3/h) không phát tán

mùi ra ngoài. Khí thải hút ra được sục qua bể xử lý khí hóa học, đảm bảo tiêu chuẩn xả thải

của môi trường Việt Nam.

- Hệ thống phun chế phẩm EM khử mùi

- Thiết bị nâng hạ(cầu trục hoặc xe súc ngoạm nạp nhiên liệu) làm nhiệm vụ đảo (hoặc vận

chuyển) rác khi tập kết

2- CÔNG ĐOẠN ĐỊNH LƯỢNG VÀ TÁCH LỌC SƠ CẤP.

- Thiết bị cuốn ép, vận chuyển tiếp nhận rác từ máy ngoạm lên máy BT1500. Tại đây rác

được dồn ép để trong phễu chứa lớn, lực cơ học tác động qua các dao móc để xé bao sơ bộ,

được nhả xuống băng vận chuyển theo định lượng dự kiến, phù hợp. Đến tổ hợp phân loại

thủ công rồi được chuyển sang cắt nhỏ và đồng đều kích thước rồi quay lại khu nạp liệu để

tiếp tục hòa trộn và quay lại dây chuyền.

Trang 13/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

- Các vật chất có kích thước nhỏ hơn các khe đĩa quay sẽ rơi xuống sang rung 2 tầng được

bố trí phía dưới, tại đây hỗn hợp rác được tách tuyển thoe kích thước lỗ sàng đã định sẵn để

phân ra 3 dòng hỗn hợp.

3- CÔNG ĐOẠN MÁY CẮT XÉ VÀ TUYỂN TỪ TRUNG CẤP.

Rác có kích thước to và các bao, bọc, gói trên sàng đĩa được chuyển qua máy cắt xé

để cắt xé và làm bung rơi bao bọc (nhỏ) bằng các dao móc động và tĩnh có chiều quay vô

cấp và tốc độ các trục dao quay không đồng tốc. Hỗn hợp chất thải được chèn ép, làm dập

nát và cắt đứt tương đối đồng đều kích thước thoát xuống phía dưới đáy máy trộn rác nhỏ

xuống dưới sàng rung và đi qua thiết bị tuyển từ để loại bỏ kim loại còn sót đến công đoạn

tách lọc thứ cấp.

4- CÔNG ĐOẠN TÁCH LỌC THỨ CẤP.

- Rác hỗn hợp sau khi qua các thiết bị cắt xé sơ-trung cấp-hòa trộn với nhau để chuyền đến-

đi qua thiết bị SL500 để phân loại theo kích thước to/nhỏ theo mong muốn

- Hỗn hợp vật chất (trên sàn rung) đã được cắt xé từ máy theo băng tải vận chuyển lên rơi

vào sàng lồng. Tại đây hỗn hợp rác được tách tuyển theo kích thước lỗ sàng để phân ra 2

dòng hỗn hợp.

5- CÔNG ĐOẠN CẮT XÉ ĐA TẦNG VÀ TẬN THU NYLON.

Hỗn hợp vật chất kích thước to 10-70mm trên sàng lồng. Các vật chất dạng phế thải

dẻo xẽ được tách riêng bằng dòng khí xoáy phân loại trọng lượng của hai tầng cắt xé, các vật

chất có trọng lượng riêng cao hơn nylon sẽ rơi xuống máng có vít tải vận chuyển ngược lại

buồng cắt xé thứ cấp và thoát ra theo ở đáy máy cắt xé.

6- CÔNG ĐOẠN NGHIỀN CUỐI NGUỒN.

- Rác thải hỗn hợp kích thước vừa ( chủ yếu là hữu cơ, giẻ da cao su, giấy, gỗ, xơ sợi, chất

trơ và xelluyo…) được nghiền nhỏ hòa trộn theo kích thước mong muốn, các vật chất này

sau khi ngiền nhỏ sẽ theo băng tải vận chuyển lên tháp ủ để xử lý sinh học.

7- CÔNG ĐOẠN Ủ TRONG THÁP Ủ SINH HỌC.

- Hỗn hợp chất thải sau khi cân bằng các thông số kỹ thuật và phối trộn vi sinh vật(hiếu khí)

được vận chuyển lên tổ hợp ủ

Trang 14/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

- Hỗn hợp chất thải khi qua xử lý sinh học sẽ tạo ra polymer kết dính từ vật chất hữu cơ và

cũng tạo ra bề mặt bám dính của các vật chất trơ được chuyển qua khu tái chế.

8- CÔNG ĐOẠN NGHIỀN VÀ PHỐI TRỘN PHỤ GIA (sản xuất viên nhiên liệu)

Hỗn hợp được băng chuyền vận chuyển đi qua máy nghiền mịn và phối trộn phụ gia,

hỗn hợp sau khi được phối trộn đủ các thành phần theo mong muốn sẽ tạo ra nguyên liệu để

tái chế và định hình áp lực thành viên nhiên liệu.

9- CÔNG ĐOẠN Ủ TỰ NHIÊN ĐỂ ỔN ĐỊNH NGUYÊN LIỆU.

Nguyên liệu sau nghiền có kích thước nhỏ đến mong muốn phải được qua công đoạn

ủ tự nhiên khoảng 15-20h.

10- CÔNG ĐOẠN ĐÓNG RẮN VÀ ÁP LỰC ĐỊNH HÌNH TẠO VIÊN NHIÊN LIỆU

Hỗn hợp nguyên liệu đã nghiền nhỏ kích thước và ổn định các yếu tố cần thiết được

chuyển đến máy đóng rắn áp lực để ép định hình thành các sản phẩm viên nhiên liệu đạt tiêu

chuẩn kỹ thuật.

11- CÔNG ĐOẠN NGHIỀN VÀ PHỐI TRỘN PHỤ GIA (sản xuất gạch không nung)

- Hỗn hợp vô cơ được băng chuyền vận chuyển vào máy nghiền thành kích thước nhỏ đến

mong muốn

- Hỗn hợp vô cơ nhỏ sau nghiền được đưa vào máy trộn, sau khi đã đủ các thành phần theo

mong muốn sẽ tạo ra nguyên liệu để tái chế và định hình áp lực thành viên gạch xỉ không

nung.

Trang 15/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Trang 16/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

II.1.2.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Toàn bộ thiết bị để thực hiện công nghệ MBT-CD.08 được thiết kế dạng modun kín,

kết nối thành dây chuyền, sử dụng cơ giới và tự động hóa nhiều, rất ít công nhân tiếp xúc

trực tiếp với rác, không phát tán mùi và nước rỉ rác trong suốt quá trình xử lý; Có trung tâm

điều khiển và kiểm soát toàn bộ quá trình xử lý và tái chế, dễ dàng nâng hoặc hạ công xuất

từ 20 - 50 tấn/ngày cho cấp huyện, thị hoặc 500 - 1.000 tấn/ngày cho cấp tỉnh, thành phố.

MBT-CD.08 có tính linh hoạt khá cao, có thể tạo ra nhiều lựa chọn cho sản phẩm tái

chế các nguyên liệu có trong rác thải. Có thể sản xuất phân bón hữu cơ tốt nhất bằng công

nghệ ủ tháp, sản xuất các chủng loại nhiên liệu dạng viên, thanh từ hỗn hợp nhiều thành

phần có trong chất thải (cháy được), sản xuất các chủng loại gạch xây dựng từ rác vô cơ

(không cháy), tận thu các vật chất còn giá trị tái tạo bán thương mại, tăng nguồn thu cho nhà

máy XLR và không gây phát sinh ô nhiễm ngay tại nơi xử lý

So sánh với các công nghệ khác với định hướng sản xuất phân vi sinh thì lượng mùn

hữu cơ thu được khoảng 25 - 30% , rất thiếu thị trường tiêu thụ và giá thành phân mùn hữu

cơ quá thấp không đủ chi phí vận hành nhà máy. Bằng giải pháp mới này, rác gần như tái

chế triệt để. Theo công nghệ MBTCD. 08 rác cháy được chiếm khoảng 60 - 72% được sản

xuất viên nhiên liệu, rác vô cơ không cháy chiếm khoảng 15 - 20% , rác cá biệt và độc hại

chiếm 1 - 3% còn lại là hơi nước bốc hơi qua quá trình xử lý phân hủy. Như vậy, công nghệ

đã xử lý và tái chế hầu hết rác thải mà không còn để chôn lấp.

Theo kiểm định của các trung tâm kiểm định quốc gia (QUATEC1-QUATEC- 2,

Trung tâm Kiểm định môi trường - Bộ Quốc phòng), các kết quả phân tích khí thải lò đốt sử

dụng viên nhiên liệu cho thấy các thông số bụi khói : SO2,, CO, HCl, H2SO4, H2S, Clo, Pb,

Cd, asen, Cu, Zn, Atimon... đều thấp hơn giới hạn tối đa cho phép theo TCVN 5939-2005

đối với các nhà máy, cơ sở đang hoạt động và nhà máy, cơ sở xây dựng mới.

Hiện nay, công nghệ MBT-CD.08 đã nhận được khá nhiều đơn xin chuyển giao, ứng

dụng. Nam Phi và Ấn Độ đề nghị đặt mua công nghệ này .Trong điều kiện các nguồn năng

lượng ngày càng cạn kiệt, giá nhiên liệu tăng cao, đây được coi là giải pháp tiết kiệm năng

lượng, tài nguyên hóa rác thải, bảo vệ môi trường cần được nhân rộng. Việc sử dụng công

Trang 17/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

nghệ MBT-CD.08 sẽ giống như một dự án CDM, giảm phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính

(trong đó chủ yếu là khí CH4).

II.1.3. CÔNG NGHỆ TÁI CHẾ GIẤY. (*)

II.1.3.1. KHÁI NIỆM VỀ GIẤY.

Giấy là một sản phẩm của nền văn minh nhân loại với lịch sử hàng nghìn năm.

Thành phần chính của giấy là xelluloz, một loại polyme mạch thẳng và dài có trong gỗ, nằm

bên trong lõi cây. Trong gỗ, xelluloz được bao quanh bởi một màng lignin cũng là polyme.

Để tách xelluloz ra khỏi màng polymer, người ta phải sử dụng phương pháp nghiền, sau đó

sử dụng hóa chất để xử lý.

Giấy đã qua sử dụng nếu không được đem tái sản xuất sẽ rất lãng phí. Không phải

nguồn nguyên liệu lúc nào cũng sẵn có trong tự nhiên, sau một thời gian sẽ không còn đủ

cho sản xuất giấy nữa, và không còn đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người.

Do vậy chúng ta phải tìm ra một phương pháp hay một hướng đi mới cho ngành giấy, và

phương pháp sản xuất giấy từ giấy đã qua sử dụng là một hướng đi mới cho ngành giấy.

II.1.3.2. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ.

1.Khâu chế biến nguyên liệu

Như ta đã biết nguyên liệu cho sản xuất giấy tái chế là giấy đã qua sử dụng. Nguyên

liệu sẽ được thu gom và tập kết, sau đó được đem đến cơ sở chế biến. Tại cơ sở chế biến,

nguyên liệu được đem sàng để loại bỏ bông, vải và cả giấy không thể tái chế có lẫn trong đó.

Mọi công việc này được làm bằng tay, sau đó giấy sẽ được cho vào bể để ngâm cho bã ra.

Tại đây ta cũng loại được đất, cát có lẫn trong giấy. Bông vải và giấy đã loại ở trên sẽ được

đem chôn lấp hoặc đem đốt làm nhiên liệu cho công đoạn tạo hơi nước phục vụ cho công

đoạn tiếp theo.

2. Quá trình sàng rửa

Ban đầu nguyên liệu được đánh tơi,sau đó đưa tới 4 máy lọc chân không.tại đây

nguyên liệu được rửa sạch,dịch hoá chất thu hồi có nồng độ 13%, loại dịch này được đưa đến

hệ thống chưng lọc. Sau đó được đưa qua hệ thống sàng gồm 2 áp lực: 1 sàng thô và 3 giai

đoạn lọc cái. Các phần không cần thiết thì được loại bỏ ra ngoài

Trang 18/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

3. Quá trình khử mực in.

Phương pháp khử mực in giấy loại ngày nay được sử dụng phổ biến rộng rãi trên thế

giới thông qua phương pháp tuyển nổi với mục đích chính nhằm loại bỏ các hạt mực cũng

như các chất phụ gia khác như chất độc, các hạt mang màu trong quá trình tráng phủ ra khỏi

thành phần sơ xợi. Phương pháp tuyển nổi thích hợp với các hạt mực và phụ gia có kích thước tư 10×10-6 đến 250×10-6m.

Phương pháp tuyển nổi sử dụng nguyên lý bám dính của các hạt vật chất vào bong bóng

khí để loại bỏ mực in và các chất phụ gia của giấy loại như chất độc, các hạt mang màu… Có

thể chia ra các công đoạn chính trong quá trình tuyển nổi như sau:

3.1 Quá trình tách mực ra khỏi xơ sợi

Mực được in vào bề mặt của sơ xợi bằng nhiều phương pháp khác nhau và trong giai

đoạn đầu tiên của phương pháp khử mực, người ta phải tách các hạt mực in này cùng với các

hạt phụ gia ra khỏi bề mặt của sơ xợi. Giai đoạn này trong sản xuất được thực hiện ở máy

nghiền thủy lực với sự hỗ trợ của một số chất khử mực như NaOH, Na2CO3, H2O2, các chất

hoạt tính bề mặt…Dưới tác dụng của các hóa chất khử mực, mối liên kết giữa mực in và sơ

xợi bị lỏng đi, trở nên kém bền vững đồng thời các hạt mực cũng trở nên kỵ nước, bị xé nhỏ

và tách ra khỏi sơ xợi dưới tác dụng của các dao trong quá trình nghiền thủy lực.

3.2 Giai đoạn loại bỏ mực ra khỏi sơ xợi trong quá trình tuyển nổi

Sau khi mực và các hạt phụ gia được tách ra khỏi bề mặt sơ xợi, chúng ta sẽ phải loại

bỏ chúng để thu được sơ xợi “sạch” để sản xuất giấy. Như đã trình bày ở trên, phương pháp

tuyển nổi dùng các bọt khí để loại bỏ các hạt mực và các hạt phụ gia. Về lý thuyết có thể ứng dụng với các hạt chất rắn có kích thước từ 10×10-6 đến 500×10-6m nhưng hiệu quả nhất với tuyển nổi giấy tái chế là từ 10×10-6 đến 250×10-6m. Do tác dụng của hóa chất (các chất

lựa chọn) và đặc biệt là sự có mặt của các ion canxi mang điện dương 2+ trong nước, các

phân tử của xà phòng kết hợp với các ion Canxi này tạo ra các hạt vật chất nhỏ điện tích

mang điện dương, qua đó dễ dàng đính với các hạt mực (điện âm). Bởi vì các chất lựa chọn

như sáp là một chuỗi hydrocacbon gồm cả phần kỵ nước và háo nước (ví dụ như stearic

acid) nên các hạt mực được đính kèm với các hạt vật chất nhỏ mang điện dương (sản phẩm

của soap collector và calcium có trong nước), rồi qua đó tiếp tục đính với các hạt mực khác

Trang 19/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

(cũng đã được đính với các hạt mang điện dương) và tạo thành các cụm mực nhỏ và các cụm

mực nhỏ này tiếp tục được đính vào các bong bóng khí nhờ tính kỵ nước và háo nước của

soap collector.

4. Gia công nguyên liệu sau chế biến

Như ta đã biết nguyên liệu sau công đoạn trên đã được ngâm trong bể. Trong công

đoạn này hơi nước được sử dụng bằng cách sục hơi nước từ đáy bể để đẩy mực ra khỏi nhờ

áp lực của dòng hơi nước sục từ đáy bể. Có thể coi đây là công đoạn làm sạch bột, vì hơi

nước không thể đẩy hết mực trong giấy nên hóa chất cũng sẽ được sử dụng trong công đoạn

này. Hóa chất sử dụng thường là:

-Dung dịch nước Javen ( NaCl + NaOCl ):

-Dung dịch nước Clo ( Cl2 ):

-Dung dịch xút NaOH:

Trong ba dung dịch trên thường sử dụng nhất là nước Javen vì lý do dung dịch nước

Javen dễ sản xuất ( chỉ cần điện phân dung dịch không màng ngăn muối ăn ). Nếu sử dụng

dung dịch nước Clo thì phải kết hợp cả dung dịch NaOH để trung hòa lượng Clo dư trước

khi nước thải được thải ra môi trường.

Sau khi đã được tách mực, bột giấy sẽ được đem đi nghiền thủy lực, mục đích là tạo

độ mịn cho bột, sau đó bột sẽ được trộn thêm phụ gia và sau đó được đem đi tách nước, mục

đích là tạo cho bột có độ đặc sệt đáp ứng yêu cầu cho công đoạn tiếp theo. Nước thải trong

công đoạn tách mực sẽ được đem đi xử lý trước khi thải ra môi trường.

Bột giấy trước khi đem xeo cần bổ xung một vài phụ gia khác nhau tùy thuộc loại

giấy. Phụ gia thường sử dụng là: Cao lanh ( CaO.SiO2 ), thạch cao ( CaSO4.Al2O3 ) hoặc bột

nhũ ( CaCO3 ). Do sản phẩm giấy tái chế của Việt Nam đa phần là giấy vệ sinh và giấy vàng

mã, giấy ăn nên phụ gia sử dụng chủ yếu là bột nhũ ( CaCO3 ), do nguồn nhiên liệu rất dễ tạo

được ( dung dịch nước vôi trong dược sục khí CO2 ) và lượng tạp chất có trong đó ít. Mục

đích cho thêm phụ gia vào thường tạo độ kết dính cho

5.Quá trình nghiền gia keo và nhuộm.

Nghiền: Bột giấy được đưa qua hệ thống nghiền để làm tăng diện tích tiếp xúc, tăng

khả năng liên kết giữa các thớ sợi với nhau, tạo điều kiện cho khả năng kiên kết giữa các thớ

Trang 20/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

sợi với nhau, tạo điều kiện cho khả năng hình thành tờ giấy tốt hơn. Làm cho các sợi được

hidrat hóa, tăng sự dẻo dai và tăng bề mặt hoạt tính của các vi sơ.Quá trình nghiền tiến hành

với nồng độ giấy trong dung dịch 2% đến 8%.

Gia keo: Nhằm tạo cho giấy một số tính chất đặc biệt như không thấm nước, không

bị nhòe khi in, viết. Bột được pha trộn với các hóa chất dùng để gia keo: nhựa thông, phèn

chua trong bể chứa. Công đoạn này thường chỉ có ở các nhà máy giấy quy mô vừa phát triển

dùng cho giấy tốt, để in hoặc viết. pH tốt cho quá trình gia keo 4,5 đến 5.5, thường tỷ lệ

nhựa thông/phèn chua: 3/1.

Nhuộm: Gia keo và nhuộm có thể tiến hành chung trong bể nghiền. Công đoạn

nhuộm sử dụng các hóa chất tạo màu nghiền cùng bột giấy.

6.Hệ thống tạo tờ giấy

Bột giấy sau khi được làm trắng và làm đặc sẽ được đem đi xeo. Tùy từng loại giấy và

công nghệ sản xuất mà người ta có phương pháp xeo giấy khác nhau. Có thể xeo giấy bằng

tay ( ví dụ như giấy dó) hoặc xeo bằng máy như giấy vệ sinh, giấy vàng mã và giấy ăn. Một

máy xeo thường có dạng:

Bột giấy hệ thống phên lô sấy ép giấy

Cuốn Sau sấy hút chân không

Sơ đồ một máy xeo giấy

Trang 21/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Bột giấy sẽ được phun đều trên phên băng tải, sau đó được đem sấy, vừa sấy vừa ép

cho có độ mỏng theo yêu cầu. Tiếp đó đưa qua hệ thống hút chân không để làm khô giấy.

Giấy sau sấy sẽ được cuộn thành cuộn lớn. tùy thuộc chất lượng của giấy theo yêu cầu mà

giấy được xeo khác nhau ( một mặt hay cả hai mặt ). Sau

khi qua hệ thống hút chân không lượng nước thải còn lại trong bột sẽ được đem đi xử lý.

7. Bộ phận ép

Ép có nghĩa là tờ giấy được nén bằng cơ học để đạt trên bão hoà. ở phần này nước

cũng tách được càng nhiều ra khỏi tờ giấy càng tốt. Sau công đoạn hình thành, tờ giấy còn

khoảng 80% nước (độ khô = 20 %). ở công đoạn ép độ khô sẽ tăng lên từ 20  40 % .

Nhiệm vụ chính của bộ phận ép là tách nước ra khỏi tờ giấy, tăng độ bền và độ nhẵn

của tờ giấy đồng thời bộ phận ép còn có nhiệm vụ dẫn tờ giấy đến bộ phận sấy.

Bộ phận ép có số lượng cặp ép và cấu trúc khác nhau. Một cặp ép bao gồm giá đỡ và

2 hoặc 3 lô. Lô dưới thường được lắp trên một ổ đỡ cố định và lô dẫn động. Sự ép xảy ra ở

khoảng giữa lô trong khe ép và tờ giấy được chăn dẫn qua khe ép.

Tờ giấy ướt được chuyển trực tiếp từ lưới tới trục ép chân không được lọc chặn của tổ

ép 1. Chức năng quan trọng của lưới ép là chống tạo vết trên tờ giấy.Từ tổ ép 1 tờ giấy được

chuyển tới bộ phận ép lưới ở tổ 2.Tổ 2 gồm một lưới nhựa giữa chăn ép và một trục ép phía

dưới nhằm giảm áp suất thuỷ tĩnh trong tuyến ép.Từ chăn 2 tờ giấy được chuyển tới tổ ép

nhẵn 3 qua một khoảng cách kéo hở. Tổ ép này không có chăn nên không có nhiệm vụ tách

nước mà chỉ có làm cho tổ giấy nhẵn và phẳng hơn.

8. Bộ phận sấy

Khi tờ giấy ra khỏi bộ phận ép, có độ khô khoảng 40 % và nhiệt độ từ 25 30 C.

Trong bộ phận sấy, lượng nước còn lại sẽ được tách ra bằng cách bốc hơi. Sấy là cách vận

chuyển nhiệt và nước, trong đó nhiệt độ được chuyển qua vùng bay hơi và hơi nước bốc lên

đi qua bề mặt của tờ giấy vào luồng khí thông gió. Các biện pháp sấy được sử dụng là :

- Sấy trực tiếp: tờ giấy tiếp xúc với lô sấy máy.

- Sâý đối lưu: nhiệt độ được cung cấp bởi không khí trong một cái chụp xung quanh lò sấy.

- Sấy tự do: sấy trong khoảng không có sức căng hoặc giữa các lô sấy. ở giai đoạn này, tờ

giấy được sấy khô tới 94%. Sau đó, tờ giấy đi qua bộ phận ép gia nhựa(ép keo). ở đây, nước

Trang 22/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

cùng hoá chất được tờ giấy hấp thụ và lượng nước này được làm bay hơi ở bộ phận sấy thứ 2

(bộ phận sấy nhựa).

Bộ phận sấy bao gồm 34 lô sấy (24 lô ở bộ phận sấy chính và 10 lô ở bộ phận sấy

nhựa). Giấy đã sấy khô được làm nguội trên 2 lô làm lạnh.Tất cả các lô đều có đường kính là

1500 mm, chiều dài của giấy có thay đổi trong quá trình sấy. Sau các lô ép tờ giấy được căng

ra. Trong suốt quá trình nó được gia nhiệt ở cả 2 quá trình sấy chính và sấy nhựa (ép keo).

Điều đó thường gây ra sự cố của tờ giấy. Để khắc phục những sự cố và những biến đổi của

tờ giấy, các lô được bố trí thành các nhóm dẫn động khác nhau. Trong đó, tất cả các lô trong

một nhóm có cùng tốc độ. Sự chênh lệch tốc độ giữa các nhóm dẫn động sẽ được hiệu chỉnh

theo độ kéo căng và sự cố cuả tờ giấy.

Trang 23/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Nguyên liệu (Vỏ gió,bìa carton,giấy loại,báo loại…)

Khí thải lò hơi

Đánh tơi

Tiếng ồn Bụi Kim loại,hơi dung môi

Hơi hóa chất

Hơi nước

Chuẩn bị hóa chất (NaO,javen…)

Nước thải Khí Cl 2 Nước thải Hơi hóa chất

Chuẩn bị hóa chất

Tẩy trắng (khử mực in)

Rửa sàng

Nghiền

Hơi hóa chất Tiếng ồn

Nhuộm

Hơi hóa chất Nước thải

Xeo

Nước thải Bột rơi vãi

Gia keo

Nước thải Bột rơi vãi

Sản phẩm

Sơ đồ công nghệ quy trình tái chế giấy

Trang 24/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

II.1.3.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Trong tổng số giấy sản xuất trong nước, có tới 70% là nguyên liệu từ nguồn giấy tái

chế, nhưng hiện chỉ có 25% giấy đã qua sử dụng được thu hồi. Hơn nữa, lượng giấy đã qua

sử dụng này cũng chỉ đáp ứng được 50% tổng lượng giấy phế liệu mà ngành công nghiệp

giấy trong nước cần. Như vậy, hầu hết số giấy còn lại bị đem tiêu huỷ một cách lãng phí,

trong khi đó, Việt Nam phải dùng ngoại tệ để nhập khẩu một lượng giấy phế liệu, giấy tái

chế khổng lồ từ nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất giấy. Vì vậy, cần có thêm nhiều nỗ

lực từ các doanh nghiệp, Nhà nước và các cơ quan có liên quan để có thể xây dựng và phát

triển ngành công nghiệp tái chế bao bì giấy Việt Nam. Bên cạnh việc lãng phí giấy thì trong

khâu xử lý giấy tái chế cũng gặp những bất lợi vì sử dụng quá nhiều hóa chất, điều đó lâu dài

sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến sức khỏe công nhân cũng như người sử dụng, mặc khác nhằm sử

dụng triệt để các loại giấy thải các nhà khoa học Thái Lan đã nghiên cứu trong nhiều năm để

tạo ra một loạt loại enzyme được pha trộn đặc biệt có thể phân hủy và tái chế các loại giấy

ép và nhựa thông thường. Trong quy trình này, đầu tiên một enzyme sẽ tấn công vào lớp hóa

chất chống thấm nước phủ trên bề mặt của giấy hoặc nhựa, sau đó các loại enzyme khác sẽ

tiếp tục phản ứng với các lớp giấy và keo dính bên trong. Do vậy, công nghệ này có thể phục

hồi sợi hoặc bột giấy từ giấy ép trong các gói thuốc lá, giấy dán tường hoặc hộp sữa... một

cách hiệu quả mà trước đây khó hoặc không thể tái chế. Sản phẩm thu được có thể được sử

dụng để làm các sản phẩm giấy mới, tái chế và sản xuất các loại nhựa sạch, giảm chặt phá

rừng hay đốt giấy xả khí độc ra môi trường. Đặc biệt, chúng có thể đưa vào sản xuất vật liệu

xây dựng thay thế cho amiăng - một loại vật liệu gây hại cho sức khỏe con người.

II.1.4. CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT DẦU DIESEL SINH HỌC TỪ DẦU THẢI.

II.1.4.1. KHÁI NIỆM VỀ DẦU DIESEL SINH HỌC.

Dầu diesel sinh học là hợp chất ester của một axit béo có nguồn gốc từ dầu thực vật

(dầu dừa, dầu cọ, dầu hoa hướng dương,…) hoặc mỡ động vật với một rượu mạch ngắn

(methanol, ethanol hoặc propanol). Phản ứng tạo dầu diesel sinh học là giữa axít béo và

methanol.

II.1.4.2. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ.

Trang 25/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Sơ đồ

Dầu thải

quy trình

công

nghệ

Este hóa bằng acid

Metanol , xúc tác H2SO4

Tách pha

T = 50 0C,  = 30 Pha nhiều Glyxerin

Dầu có chỉ số FFA < 2%

Este hóa bằng base

Metanol, xúc tác NaOH

Tách pha

T = 45 0C,  = 30 Pha nhiều Glyxerin

Metyl este

Trung hòa base dư

Rửa

Nước nóng, T= 70 0C

(khuấy, tách)

Làm khan ( khuấy)

Biodiesel

Hệ thống được được nhập liệu gián đoạn và được tháo liệu liên tục.

Trang 26/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Sơ đồ thiết bị vận hành

Trang 27/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

- Giai đoạn 1:

 Dầu hạt cao su và Methanol ở nhiệt độ 25 0C được dẫn vào bình 5.

 Tiến hành khuấy sơ bộ (nhờ bơm 3) để hỗn hợp đạt độ đồng nhất tương đối (thời

gian khuấy khoảng 1 phút).

 Bật điện trở để nâng nhiệt độ hỗn hợp lên 50 0C, lúc này phản ứng đã diễn ra một

phần. Nhiệt lượng cần cung cấp cho giai đoạn này tương đối lớn.

 Giữ nhiệt độ ổn định trong thiết bị 5 và khuấy trong vòng 20 – 30 phút ở áp suất

thường, nhằm giúp phản ứng xảy ra triệt để hơn.

 Nhiệt độ được giữ ổn định bằng hệ thống điều khiển nhiệt độ tự động.

 Trong bình 5, nồng độ metanol khoảng 18% - 24%, do đó trong thành phần pha hơi,

nồng độ metanol chiếm khoảng 60%. Metanol là một chất rất độc đối với cơ thể con người,

vì thế ta dùng sinh hàn để hồi lưu hơi metanol. Nhiệt độ hơi bão hòa Metanol duới áp suất khí quyển dưới 650C, do đó dùng sinh hàn nước thích hợp.

 Thực hiện quá trình tách pha trong thiết bị tách pha 6.

 Hỗn hợp sau phản ứng cần được bơm lên bình cao vị để thực hiện quá trình tách pha.

Nếu đặt bơm ngay phía sau thiết bị 6, khi lượng lỏng còn lại trong thiết bị 6 càng ít, khả

năng bơm hút khí càng nhiều, dẫn đến va đập thủy lực trong bơm (hiện tượng xâm thực) .

Điều này ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của bơm. Do đó, ta cần đặt bình chứa 8 sau thiết

bị 6.

 Hoạt động của bơm được điều khiển bằng tín hiệu điện.

 Tín hiệu được truyền liên tục từ bộ phận lấy tín hiệu mức lỏng trong thiết bị 11. Tín

hiệu này được chuyển hóa thành tín hiệu điện ở hộp chuyển đổi tín hiệu. Khi mức lỏng trong

bơm thấp hơn 1 giới hạn nào đó (do ta cài đặt), bơm sẽ ở chế độ ON để cung cấp lỏng cho

thiết bi 11. Ngược lại, khi mức lỏng trong bình 11 quá cao (cao hơn 1 giới hạn nào đĩ do ta

cài đặt), bơm sẽ ở chế độ OFF.

Trang 28/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

 Bình 8 chứa hỗn hợp của mẻ thứ i, thiết bị 6 chứa hỗn hợp của mẻ thứ i + 1.Sau khi

thực hiện xong quá trình tách pha ở thiết bị 6, hỗn hợp i+1 được chuyển dần sang bình 8,

đồng thời hỗn hợp ở 8 cũng được bơm chuyển lên bình cao vị 11.

 Thời gian tiến hành phản ứng và thời gian xúc rửa thiết bị 5 khoảng 40 phút, trong

khi thời gian tách pha khoảng 4 giờ . Do đó ta cần thiết bị tách pha( mỗi bình có thể

tích sử dụng bằng thể tích của hỗn hợp cần tách pha trong 1 mẻ).

Thời gian rửa tùy thuộc vào thành phần của dung dịch rửa, độ sạch của thiết bị sau khi

rửa… Tùy thuộc vào thời gian rửa thiết bị mà ta xác định được số thiết bị tách pha cần

thiết tương ứng.

 Sau quá trình tách pha ta thu được:

 Pha A ở phía trên: gồm rượu dư, acid sunfuric và tạp chất.

 Pha B ở phía dưới: chứa chủ yếu là Biodesel , lượng dầu hạt cao su chưa được chuyển

hóa. Hỗn hợp này được phân tách và sử dụng cho quá trình phía sau (chuyển vị ester bằng

kiềm).

- Giai đoạn 2:

 Hỗn hợp ở pha B được chứa trong bình 11. Từ đây, hỗn hợp được dẫn đến thiết bị

phản ứng 13. Metanol và xúc tác bazơ cũng được dẫn vào thiết bị 13 trong thời gian này.

 Khuấy trộn và gia nhiệt hỗn hợp đến 45 0C. Thời gian lưu trung bình của hỗn hợp ở

thiết bị này là 30 phút. Sau khoảng thời gian trên, ta cũng tiến hành thực hiện quá trình phân

pha như ở giai đoạn 1.Lớp dưới, chủ yếu chứa tạp chất và glixerin, được lấy ra trước ( chứa

trong bình 16); Ester vẫn còn nằm ở lớp trên.

 Lớp trên chứa Methyl ester (chủ yếu) được dẫn vào bình 15 để rửa nhằm loại bỏ tạp

chất và glixerin còn sót lại. Nước nóng (khoảng 10% thể tích) được xịt lên bề mặt của lớp

ester và khuấy nhẹ. Lớp dưới được bỏ, còn lớp màu vàng ở phía trên (thành phần chính là

biodiesel) được giữ lại trong thiết bị. Tiến hành gia nhiệt để làm khan nước còn sót lại (

lượng nước còn lại trong biodiesl phải thỏa tiêu chuẩn về biodisel).

Trang 29/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

 Do nước bay lên có khả năng lôi kéo theo các chất như Metanol, Biodiesel, các chất

trong dung dịch rửa, dù lượng rất thấp nhưng vẫn có, vì thế ta cần dùng sinh hàn ngưng tụ để

thu hồi hơi bay lên.

II.1.4.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Hiện nay công nghệ nổi bật nhất và có nhiều ưu điểm nhất chính là công nghệ HTPM,

tính năng nổi bật của công nghệ này là nó không gây ô nhiễm liên quan tới nguồn nguyên

liệu đầu vào, hơn nữa không cần tinh lọc hay este hóa axit trong quá trình xử lý sơ bộ. Các

phế thải động, thực vật và rau quả hoàn toàn có thể dùng làm nguyên liệu đầu vào. Nhờ quy

trình xử lý liên tục nên diện tích lắp đặt thiết bị gọn hơn nhiều so sánh với công nghệ truyền

thống đang thịnh hành. Một trạm sản xuất công suất 1000lit/giờ chỉ cần một mặt bằng khoảng 200m2 (không kể diện tích đặt các container chứa nguyên liệu). Do vậy việc lắp đặt

thiết bị chỉ chiếm một tuần lễ. Ngoài ra có thể nâng công suất bằng cách lắp thêm các modul

và rõ ràng có thể khởi đầu việc sản xuất ở quy mô và chi phí khiêm tốn. Các ưu điểm kể trên

khiến công và suất đầu tư ban đầu thấp, đủ để cạnh tranh với các nhà sản xuất lớn đang sử

dụng công nghệ truyền thống . Nói tóm lại những đặc điểm sau đây đã khiến cho nhu cầu

trên thị trường đối với công nghệ mới này ngày một gia tăng:

• Sản xuất dầu diesel sinh học rất hiệu quả từ dầu, mỡ hữu cơ (triglycerides).

• Có thể sử dụng dầu mỡ chưa tinh chế và phế thải cũng như FFA dễ sử dụng, độ bền cao,

hoạt động không cần chất xúc tác thuần nhất đắt tiền

• Cho sản phẩm phụ glycerol chất lượng cao.

• Mức đầu tư ban đầu thấp, chi phí vận hành không cao so với công nghệ truyền thống.

Trong điều kiện của Bỉ chi phí sản xuất 1lit dầu diesel sinh học là 0,08 Euro).

• Có thể lắp đặt trạm sản xuất quy mô trung bình 10.000- 25.000 tấn/năm.

• Có khả năng lắp ráp thêm modul sản xuất khi có nhu cầu .

II.1.5. TÁI CHẾ RÁC THẢI BẰNG CÔNG NGHỆ CAO TẠI MỸ.

II.1.5.1. GIỚI THIỆU CHUNG.

Charlestown, Massachusetts, Mỹ là nơi đặt trung tâm tái chế đơn dòng (không phân

loại chất thải khi tái chế) của hãng Casella Waste Services. Cơ sở được khai trương vào năm

2009 và từ đó đến nay vẫn phát triển với lượng khách hàng và tỷ lệ tái chế ngày một tăng

Trang 30/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

cao. Theo đó, với công nghệ này, người ta cho tất cả chất thải vào một công ten nơ duy nhất

và sử dụng hệ thống tự động tách 75% vật liệu nhờ các kỹ thuật hỗn hợp.

II.1.5.2. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ.

*Công đoạn 1: Vật liệu tái chế chưa được phân loại sẽ được đưa qua một băng chuyền để

tách bìa các tông và các vật liệu có giá trị ra khỏi phần còn lại. Những thứ chưa được phân

loại sẽ bị chuyển đến công đoạn tiếp theo.

Trang 31/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

*Công đoạn 2: Tại đây, những người công nhân sẽ tiếp tục phân loại vật liệu và loại bỏ những thứ không phù hợp, chẳng hạn như túi ni lông bởi loại này có thể gây hỏng các quy trình. Theo đó, những nhà tái chế sẽ bán vật liệu đã được xử lý của họ cho các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên nếu lô hàng chứa quá nhiều chất gây ô nhiễm, khả năng từ chối sẽ rất lớn.

Đây là những nguyên liệu không phù hợp và bị loại bỏ. Chúng sẽ được đem chôn

hoặc mang đi làm phế liệu.

Trang 32/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

*Công đoạn 3: Chiếc trống này để loại bỏ thủy tinh ra khỏi quy trình. Khi trống quay, thủy

*Công đoạn 4: Phân loại sợi từ bìa các tông và giấy báo. Các sợi sẽ mỏng đi sau mỗi lần tái

tinh bị vỡ và rơi vào máy thu gom đặt bên dưới.

chế nên bìa các tông có giá trị hơn đối với các nhà sản xuất giấy.

Trang 33/53

*Công đoạn 5: Nhựa và nhôm rớt xuống ở công đoạn đầu tiên sẽ được vận chuyển nhanh

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

chóng qua các bộ truyền để đến vị trí phân loại bằng quang học.

Ở công đoạn này, máy quang học sẽ đo đạc hơn 100 thông số bao gồm màu sắc, hình

dạng và mật độ phân bố của nhựa để có thể phân loại chính xác vật liệu. Khi nhận ra một

loại nhựa cụ thể, máy sẽ “thổi” vật thể xuống một thùng riêng biệt. Bởi có trọng lượng riêng

lớn hơn nên khi người ta sử dụng thiết bị tạo ra từ trường xoáy, nhôm sẽ bị rơi đi xa hơn các

loại nhựa và được đựng vào hộp riêng. Đối với thiếc, quy trình phân loại cũng diễn ra tương

tự.

Trang 34/53

Công đoạn cuối : nhựa tái chế được sử dụng để làm các loại quần áo hay thảm, nhờ có chúng

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

mà con người tiêu hao ít năng lượng hơn và cũng hạn chế việc khai thác tài nguyên.

II.1.6. TÁI CHẾ BỌC NYLON THÀNH VẬT DỤNG HẰNG NGÀY.

II.1.6.1. BỌC NYLON VÀ THỜI TRANG. (*)

Những mẫu áo rất thời trang và sang trọng được may từ túi nhựa. Trong tương lai ,

nhựa sẽ là một đối thủ cạnh tranh của các chất liệu như tơ lụa hay sa-lanh.Những người thợ

thủ công đã làm bằng tay những vật dụng từ áo mưa đến dép xăng đan phục vụ nhu cầu tiêu

dùng trên toài thế giới. Tuy quần áo làm bằng nhựa không được thoải mái và dễ thở như các

chất liệu khác, nhưng một ưu điểm rõ ràng của nó là dễ lau những vết bẩn dính lên áo, quần.

Trang 35/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Những sản phẩm làm từ túi nhựa.

Với một bàn tay khéo léo của những người đam mê đan lát mà những chiếc túi nhựa

đã trở nên tinh tế và đẹp mắt hơn rất nhiều. Có thể với ai đó túi nhựa là rác, nhưng với nhiều

người khác đó thực sự là một kho báu. Một điểm đáng chú ý là sợi len cũ đã lạc hậu so với

sợi nhựa hay plarn, là những chất liệu mà người thợ đan sử dụng để tạo những sản phẩm có

độ bóng cao hơn.

Trang 36/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

II.1.6.2. BỌC NYLON VÀ ĐỒ THỦ CÔNG MỸ NGHỆ. Nghệ thuật luôn là mảnh đất cho sự sáng tạo không tưởng của con người. Rất nhiều

họa sĩ sơn dầu đã làm mới những tác phẩm của mình bằng những ý tưởng độc đáo. Ngày nay

những phương pháp truyền thống đã bị quên lãng, họ sử dụng những vật liệu nghệ thuật đặc

biệt hơn, chẳng hạn như túi nhựa. Chính sự đặc biệt của nguyên liệu túi nhựa là một thách

thức cho người nghệ sĩ khi muốn biến chúng thành một tác phẩm nghệ thuật thực sự.Với trẻ

em, thì việc tạo ra những vật như con gà, con chó, hay ngôi nhà từ những chiếc túi nhựa vừa

giáo dục chúng về sự tiết kiệm, lại vừa mang lại cơ hội để phát triển trí tưởng tượng và sáng

tạo.

II.1.6.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Việc tái chế bọc nylon thành các sản phẩm thời trang và đồ dùng mỹ nghệ chỉ áp

dụng cho quy mô nhỏ vì đòi hỏi độ thẩm mỹ cao, bọc nylon dùng để tái chế phải qua công

đoạn rửa sạch và phơi ráo nên nó chỉ áp dụng được khi kết hợp với việc phân loại rác tại

nguồn, với việc tái chế này đòi hỏi đội ngũ có tay nghề cao về mặt thẩm mỹ và tính sáng tạo.

Mặc dù không thể áp dụng trên quy mô công nghiệp nhưng việc tái chế như thế sẽ góp phần

làm giảm lượng rác thải lãng phí, mặc khác nó cũng góp phần giáo dục ý thức bảo vệ và gìn

Trang 37/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

giữ môi trường của người dân. Hiện nay ở Việt Nam việc tái chế này chỉ thực hiện dưới hình

thức giáo dục ý thức chứ chưa áp dụng thực tiển, trong tương lai mô hình này sẽ được áp

dụng và nhân rộng khắp cả nước.

II.1.7. CÔNG NGHỆ SERAPHIN.

II.1.7.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHỆ.

Qua nhiều năm nghiên cứu và chế tạo thử nghiệm, nhóm nghiên cứu thuộc Công ty

cổ phần Công nghệ môi trường xanh Seraphin đã hoàn thiện công nghệ xử lý rác thải sinh

hoạt phù hợp với điều kiện đô thị Việt Nam, đó là công nghệ Seraphin. Một trong những đặc

điểm của công nghệ Seraphin là có thể áp dụng tại các nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt ở các

đô thị Việt Nam. Đây là công nghệ do người Việt Nam đề xuất, phát triển và chủ động chế

tạo thiết bị nhằm phục vụ nhu cầu xử lý rác thải sinh hoạt. Công nghệ này đã được Cục Sở

hữu trí tuệ cấp bằng sáng chế. Với công nghệ Seraphin, các đô thị Việt Nam có thể xử lý đến

90% khối lượng rác để tái chế thành phân hữu cơ và nguồn nguyên liệu làm vật liệu xây

dựng. Chỉ còn 10% khối lượng rác là sạn sỏi, tro xỉ... phải chôn lấp nên có thể tiết kiệm được

diện tích bãi chôn lấp rác thải vốn đang là vấn đề bức xúc ở các đô thị lớn. Không chỉ dừng

lại ở việc xử lý rác thu gom hàng ngày (rác tươi), công nghệ Seraphin còn có thể xử lý được

rác đã chôn tại bãi chôn lấp (rác khô).

II.1.7.2. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ.

Công nghệ Seraphin gồm 5 quá trình: Đầu tiên, rác thải được phân loại và xử lý sơ bộ

bằng phương pháp cơ học để cho ra các nhóm nguyên liệu (nhựa để tái chế, chất thải hữu cơ,

vô cơ). Chất thải nguy hại được thu gom riêng. Chất thải nhựa được tái chế, làm sạch để làm

nguyên liệu chuyển đến nhà máy tái chế tập trung có đủ kỹ thuật và năng lực sản xuất cao

hơn. Các loại chất thải hữu cơ dễ phân hủy được ủ compost, xử lý khí thải bằng biofilter

trong nhà kín để cho ra sản phẩm là phân bón hữu cơ sinh học và khoáng ép viên sử dụng

thuận tiện trong sản xuất nông nghiệp. Một số thành phần vô cơ khó phân hủy còn lại được

cắt đồng nhất tương đối về thành phần, kích thước sau đó đem tới lò đốt để thu năng lượng

và tro, sau công đoạn hóa rắn sẽ tạo thành cốt liệu, phối trộn làm nguyên liệu cho sản xuất

gạch block.

Các sơ đồ quy trình từng công đoạn:

Trang 38/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Trang 39/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Trang 40/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

(2) Khí nóng sử dụng để sấy nguyên liệu và cung cấp nhiệt cho các quá trình khác. (3) Điện sử dụng trong nhà máy và hòa vào lưới điện quốc gia

Quy trình công nghệ đốt

Quy trình công nghệ đóng rắn

II.1.7.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Trang 41/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Quy trình xử lý chất thải rắn đô thị không chôn lấp theo công nghệ Seraphin mà Nhà

máy xử lý chất thải Sơn Tây đang áp dụng là quy trình được nghiên cứu trong nước, phù hợp

với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội nước ta. Công nghệ này thích hợp với điều kiện xử lý

rác tươi chưa phân loại nguồn. Hiện tại, Nhà máy xử lý chất thải Sơn Tây với công suất thiết

kế 200 tấn/ngày, có thể xử lý cả chất thải công nghiệp và sinh hoạt, để cho ra sản phẩm là

hạt nhựa (1.800 tấn/năm), phân hữu cơ (18.000 tấn/năm), gạch block không nung (10.800

tấn/năm).

So với các công nghệ đã và đang được áp dụng tại một số nhà máy xử lý chất thải,

công nghệ Seraphin có nhiều ưu điểm hơn hẳn. Nhà máy xử lý rác thải Cầu Diễn áp dụng

công nghệ Tây Ban Nha có tổng mức đầu tư 100 tỷ đồng đấu giá năm 2007), công suất xử lý

140 tấn/ngày; sản phẩm sử dụng lại chỉ là phân hữu cơ, lượng chất thải còn lại sau xử lý cần

phải chôn lấp chiếm trên 50%. Nhà máy xử lý rác Nam Định áp dụng công nghệ Cộng hòa

Pháp có tổng mức đầu tư 75 tỷ đồng, công suất đạt 250 tấn/ngày, nhưng lượng chất thải sau

khi xử lý vẫn lên đến trên 50%. Trong khi đó, Nhà máy xử lý chất thải Sơn Tây áp dụng

công nghệ Seraphin với công suất 200 tấn/ngày, mức đầu tư 45 tỷ đồng, nhưng sản phẩm thu

được ngoài phân hữu cơ còn có vật liệu xây dựng, năng lượng... Do đó lượng chất thải sau

xử lý chỉ còn dưới 10%. Hiện nay cả nước có trên 700 đô thị (từ loại V trở lên) đang có nhu

cầu rất bức xúc về xử lý chất thải rắn đô thị. Từ thực tế đó, hiện nay Nhà máy xử lý chất thải

Sơn Tây tiếp tục bổ sung hoàn thiện công nghệ để làm nhà máy mẫu cho các địa phương

tham quan, khảo sát nhân rộng và áp dụng trong cả nước.

II.2. TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI SINH HOẠT.

II.2.1. TÁI SỬ DỤNG RÁC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP LÒ HƠI TẦNG SÔI.

II.2.1.1. KHÁI NIỆM VỀ LÒ HƠI TẦNG SÔI.

Lò hơi tầng sôi tuần hoàn CFB (Circulating Fluidizing Bed ) là công nghê lò hơi tiên

tiến nhất hiện nay, lò hơi này có thể đốt được rất nhiều các loại nhiên liệu khác nhau như

than nâu, than Anthracite, than non, cốc dầu, vỏ trấu, gỗ vụn, phế thải nhà máy giấy, nhà máy đường, rác thải, lốp ô tô…Vì lò hơi đốt các nhiên liệu ở nhiệt độ dưới 9250C, do vậy

lượng khí thải NOX do nhiệt rất thấp, cùng với công nghệ xử lý SOX bằng đá vôi được đốt

Trang 42/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

cùng do vậy các nhà máy nhiệt điện đốt than nếu dùng lò hơi CFB không cần hệ thống khử

lưu huỳnh (FGD) trong khói thải. Lò hơi tầng sôi tuần hoàn (CFB) được chia ra làm 2 loại

chính.

1. Lò hơi có bộ phân ly bên trong (Compact)

2. Lò hơi có bô phân ly ngoài (Separator Cyclone).Với lò hơi phân ly ngoài có 2 loại cấu

trúc:

a. Lò hơi có bộ phân ly nóng (Hot cyclone Separator).

b. Lò hơi làm mát bộ phân ly bằng nước (water cool cyclone separator).

II.2.1.2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG.

- Quạt gió cấp 1 của lò sẽ đưa gió vào lò để làm tầng liệu ban đầu sôi lên (Fluidizing)

(sôi giả), hệ thống đốt dầu được đốt trước, đến 1 nhiệt độ và áp suất nhất định trong buồng

đốt, chúng ta phun than vào, kích thước các hạt than từ 0-12mm (tùy vào các loại than và các

loại nhiên liệu đốt kèm).

- Khi các hạt than cháy và tỏa nhiệt làm cho nước ở các vách lò hóa hơi, các hạt than

cháy sẽ mất dần khối lượng để bay lên cùng với khói thải, đến bộ phân ly, những hạt nặng

hơn sẽ được bộ phân ly tách xuống, những hạt nhẹ không được tách thì theo khói thoát khỏi

buồng đốt.

- Các hạt nặng được tách bởi bộ phân lý rơi xuống dưới và được cấp thêm gió để bay

trở lại buồng đốt để đốt lại.

* Phản ứng khử SOX

Bước 1: S cháy trong buồng đốt tạo ra SO2.

S + O2 ----- > SO2 (Với nhiệt độ cao cần đủ).

Bước 2: Các Phản ứng khử SO2.

CaCO3 (Đá vôi) -----> CaO (Vôi sống) + CO2.

SO2 + 1/2 O2 + CaO -----> CaSO4.

Trang 43/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Bảng vẽ thiết bị vận hành

II.1.2.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, công nghệ lò hơi tầng sôi hiện đang được ứng

dụng rộng rãi ở Việt Nam, đốt được nhiều loại nhiên liệu, giúp các doanh nghiệp Việt Nam

giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, đồng

thời góp phần làm giảm sức ép tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch truyền thống. Công nghệ này có

thể sử dụng than cám, các phụ phẩm nông nghiệp, nhiên liệu xấu (cặn bùn thải, lốp xe, nilon

thải,…) để làm nhiên liệu vận hành. Công nghệ lò hơi tầng sôi đang được ứng dụng trong

nhiều ngành công nghiệp như dệt nhuộm, sản xuất giấy, bột giấy, thực phẩm, dược phẩm…

Qua khảo sát và đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các doanh nghiệp đang sử dụng

lò hơi công nghệ tầng sôi có thể tiết kiệm nhiên liệu đến 80%. Việc lắp đặt lò hơi công nghệ

tầng sôi tuần hoàn công suất 30 tấn hơi/giờ, tiêu hao 4 tấn chất thải và sinh khối biomass/giờ

sẽ giúp thay thế được nguồn nhiên liệu dầu FO, khí đốt, tiết kiệm được chi phí năng lượng

và giải quyết được vấn đề môi trường liên quan đến các chất thải rắn phát sinh hàng ngày

như: Xử lý, tiêu hủy được phần lớn các chất thải rắn thông thường phát sinh từ quá trình

Trang 44/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

phân loại nguyên liệu là phế liệu giấy đầu vào (nilon, giấy phế liệu không thể tái chế,…). Xử

lý, tiêu hủy hoàn toàn lượng bùn thải từ hệ thống xử lý nước thải của Nhà máy; đồng thời

tận dụng được nhiệt năng từ những nguồn chất thải này để cung cấp hơi cho hoạt động sản

xuất của nhà máy, Mặt khác, việc xử lý trực tiếp chất thải rắn không phải là chất thải nguy

hại có khả năng cháy tại nhà máy thay vì phải chuyển giao cho các đơn vị có chức năng xử

lý chất thải rắn bằng giải pháp đốt cũng sẽ tận dụng được năng lượng phát sinh nhiệt từ quá

trình đốt, không gây lãng phí tài nguyên đất đai do phải chôn lấp… ;Do hạn chế sử dụng

nguồn nhiên liệu truyền thống sẽ giúp cho nhà máy kiểm soát, giám sát thuận tiện, chặt chẽ

hơn quá trình phát thải của nguồn chất thải này, giúp tiết kiệm chi phí quản lý, xử lý.

II.2.2. TÁI SỬ DỤNG BẰNG CÁCH PHÂN LOẠI RÁC TẠI NGUỒN.

II.2.2.1. YÊU CẦU CHUNG VỀ VIỆC PHÂN LOẠI RÁC.

Để thực hiện tốt việc phân loại này, cần phải đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu như sau:

1- Từ hộ gia đình đến khu phố, trường học, cơ quan xí nghiệp.

Việc đào tạo, tập huấn tuyên truyền về việc phân loại chất thải rắn tại nguồn phải

được chú trọng hàng đầu. Việc đào tạo, tập huấn tuyên truyền nhằm mục đích thay đổi thói

quen bỏ rác xưa nay của người dân, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường - một công việc đòi

hỏi tính kiên trì và lâu dài; đồng thời phải hướng dẫn cho người dân với cách bỏ rác mới;

phân tích những lợi ích mà việc phân loại đem lại cho chính họ và xã hội.

Việc tuyên truyền phải được thực hiện tới mọi đối tượng nguồn thải từ hộ gia đình,

các cơ quan, trường học, xí nghiệp, bệnh viện đến các trung tâm thương mại, chợ, các doanh

nghiệp sản xuất, kinh doanh. Hơn nữa, các đối tượng tham gia vào quy trình thu gom, vận

chuyển, xử lý chất thải rắn cũng cần phải được tập huấn, tuyên truyền về chương trình, về

cách thức phân loại chất thải rắn tại nguồn. Và vì đây là một chương trình hoàn toàn mới,

một biện pháp quản lý tổng thể nên sự tham gia của các cấp, các ngành ở quận/huyện là

không thể thiếu được.

2- Thiết bị kỹ thuật, công nghệ phù hợp

Để thực hiện tốt phân loại chất thải rắn tại nguồn phải đảm bảo được các yếu tố kỹ

thuật hỗ trợ cho quá trình phân loại và sau phân loại. Các yếu tố kỹ thuật ở đây là các

phương tiện, các quy trình thu gom, vận chuyển và xử lý rác. Khi thực hiện phân loại chất

Trang 45/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

thải rắn tại nguồn cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải thay đổi các phương tiện và quy

trình kỹ thuật một cách tổng thể và đồng bộ.

Trong công tác thu gom, việc thay đổi quy trình và công nghệ gặp nhiều khó khăn

chủ yếu do thói quen giao rác của người dân. Khi thực hiện phân loại chất thải rắn thành hai

loại (rác thực phẩm và rác vô cơ), phương án thu gom đầu tiên là thu gom cách ngày (1 ngày

lấy rác thực phẩm, 1 ngày lấy rác vô cơ). Ưu điểm của quy trình này là không phải thay đổi

trang thiết bị thu gom, cũng như trang thiết bị vận chuyển.Nhưng người dân phải lưu trữ rác

trong nhà - điều này trên thực tế không nhận được sự đồng tình của người dân do không ai

muốn giữ rác ở trong nhà hơn một ngày. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải thay đổi trang thiết bị

kỹ thuật thu gom.

Về mặt kỹ thuật: (1) phải cùng lúc thu gom được cả hai loại rác đã phân loại mà

không phải quay vòng xe thêm một lần nữa, (2) phải chứa riêng từng loại rác đã được phân

loại, (3) phải nhẹ và vừa cho người thu gom có thể đẩy đi gom rác trong phạm vi thu gom

của mình tại các phường xã. Để giải quyết kỹ thuật này, cần thiết kế phương tiện thu gom

mới có 2 ngăn riêng biệt.

3- Phân loại thứ cấp để tách các dòng rác thải thành nguyên liệu tái chế

Ngoài ra cũng cần phải chú ý đến vấn đề quy trình kỹ thuật trong khâu xử lý cuối

cùng. Vì để có thể tăng hiệu quả của quá trình tái sử dụng tái chế, làm phân compost như

tiêu chí mà chương trình phân loại chất thải rắn tại nguồn đặt ra cần phải phân loại triệt để

hơn. Vì vậy tại các nơi xử lý phải có trạm phân loại thứ cấp để thực hiện phân loại triệt để

hơn trước khi sử dụng rác thải làm nguyên liệu tái chế.

II.2.2.2. CÁCH PHÂN LOẠI.

1- Phân biệt 3 loại rác:

Rác hữu cơ là các loại rác thực phẩm từ nhà bếp như rau, củ, quả... Rác hữu cơ sau

khi được phân loại sẽ được mang đến nhà máy sản xuất phân hữu cơ Cầu Diễn, để chế biến

thành phân hữu cơ, rất tốt cho canh tác và an toàn cho người sử dụng. Vì vậy việc phân loại

rác hữu cơ cẩn thận ngay từ đầu sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình sản xuất phân hữu cơ sau

này.

Trang 46/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

Rác vô cơ là các loại rác như sành sứ, gạch vỡ, thủy tinh, xỉ than, đất, cát..Rác vô cơ

là loại rác không thể sử dụng được nữa, mà chỉ có thể mang đi chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn

(huyện Sóc Sơn, Hà Nội). Vì vậy, để bảo vệ môi trường, chúng ta cần giảm thiểu tối đa

lượng rác vô cơ này.

Rác tái chế như giấy, kim loại, vỏ hộp...sẽ được vận chuyển đến các làng nghề để tái

chế thành các sản phẩm mới.

BẢNG PHÂN LOẠI RÁC

Trang 47/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

2. Thùng rác hộ gia đình: hữu cơ và vô cơ.

Mỗi hộ gia đình cần trang bị 2 thùng rác màu xanh (hữu cơ) và màu da cam (vô cơ). Điều

đáng lưu ý là thùng rác hữu cơ có thêm rọ lọc chất lỏng để tách nước ra khỏi phần rác hữu

cơ.

Thùng xanh để chứa rác hữu cơ

Thùng da cam để chứa rác vô cơ

3. Hệ thống thu gom mới.

Thông thường, mỗi tổ dân phố sẽ có khoảng 1-2 điểm đặt thùng rác thu gom tập kết.

Rác hữu cơ được đổ hằng ngày từ lúc 18h00 đến 20h30, còn rác vô cơ chỉ đổ vào các ngày

Thứ 3, Thứ 5, Thứ 7 & Chủ nhật từ lúc 18h đến 20h30.

Trang 48/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

II.2.2.3. KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN.

Việc phân loại rác tại nguồn sẽ giúp tái sử dụng hiệu quả các phế liệu có trong rác

thải, các loại rác thải hữu cơ được xử lý thành phân compost bón cho cây trồng thay thế

phân hóa học. Lượng chất thải rắn còn lại phải chôn lấp rất ít, sẽ tiết kiệm được diện tích

chôn lấp rác thải, hạn chế ô nhiễm môi trường do nước rỉ rác gây ra.

Hiện nay, bình quân mỗi ngày TPHCM thải ra hơn 7.000 tấn rác. Lượng rác này được

giao cho khu liên hợp xử lý chất thải rắn Đa Phước ở huyện Bình Chánh và Phước Hiệp

huyện Củ Chi xử lý. Do chưa có phân loại chất thải rắn tại nguồn, nên phần lớn lượng rác

thải hiện nay của thành phố đang được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Hàng năm thành

phố dành từ 10 - 15 héc ta đất để thực hiện việc này và gần 1.500 tỉ đồng cho chi phí xử lý

rác. Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường TPHCM, Nguyễn Văn Phước, phân

loại chất thải rắn tại nguồn là một giải pháp quản lý rác đô thị mang tính định hướng lâu dài

đã được nhiều nước áp dụng. Việc phân loại sẽ giúp giảm thiểu được khối lượng rác đưa ra

bãi chôn lấp, tiết kiệm đất chôn lấp và chi phí xử lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nguyễn

Văn Phước, nhấn mạnh:

Thành phố Hồ Chí Minh đang trong quá trình tổ chức và thực hiện phân loại chất thải

rắn tại nguồn trên phạm vi toàn thành phố. Phân loại rác tại nguồn là việc nhỏ có ý nghĩa

lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho quy trình tái chế, giúp tiết kiệm nguyên nhiên liệu, giảm bớt

gánh nặng khai thác tài nguyên thiên nhiên và quan trọng là bảo vệ môi trường sinh thái, bảo

vệ sức khỏe con người. Chính vì điều này đòi hỏi mọi người, mọi nhà, mọi địa phương phải

cùng nhau nỗ lực thực hiện tốt việc phân loại rác tại nguồn. Có như vậy chúng ta mới có thể

hy vọng vào một tương lai với môi trường sống ngày càng trong lành hơn.

Hiện ở Hà Nội đang thực hiện một chiến dịch 3R (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế

chất thải) bằng hình thức phân loại rác tại nguồn với sự tham gia tích cực của người

dân.Chiến dịch nhằm xây dựng một thủ đô xanh-sạch-đẹp. Trong đó, quan trọng nhất nhưng

cũng là khó khăn nhất để thực hiện tốt phân loại rác tại nguồn là gia đình bạn cần có kiến

thức phân loại rác và phải trang bị 2-3 thùng rác riêng biệt để chứa ba loại rác cơ bản, gồm

rác hữu cơ, rác vô cơ và rác tái chế. Song song đó phải có nơi tập kết, tiếp nhận nguồn rác

Trang 49/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

sau khi được phân loại này. Ngoài ra, chương trình này còn quy định người dân đổ rác và cơ

quan thu gom rác phải thực hiện đúng ngày, đúng giờ và đúng nơi quy định.

III. GIÁO DỤC TRUYỀN THÔNG.

III.1. QUY ĐỊNH XỬ LÝ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẤT THẢI RẮN.

CĂN CỨ ĐIỀU 14 VÀ 15 CỦA NGHỊ ĐỊNH CHÍNH PHỦ SỐ 81/2006/NĐ-CP

NGÀY 09 THÁNG 8 NĂM 2006 VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH

VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

Điều 14. Vi phạm các quy định về thải chất thải rắn

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi thải chất

thải rắn không đúng quy định về bảo vệ môi trường.

2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại

khoản 1 Điều này gây ô nhiễm môi trường.

3. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại

khoản 2 Điều này trong trường hợp chất thải rắn có chứa chất thải nguy hại vượt tiêu chuẩn

cho phép.

4. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại

khoản 1 Điều này trong trường hợp chất thải rắn có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi

trường quá mức cho phép ảnh hưởng đến con người và sinh vật.

5. Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Tước Giấy phép môi trường từ chín mươi ngày làm việc đến một trăm tám mươi ngày làm

việc đối với các vi phạm quy định tại khoản 2 Điều này;

Tước Giấy phép môi trường không thời hạn đối với các vi phạm tại khoản 3 và khoản 4 Điều

này;

b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành

chính quy định tại Điều này gây ra.

Điều 15. Vi phạm các quy định về quản lý, vận chuyển và xử lý chất thải

1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và xử

lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không theo đúng quy định về bảo vệ môi tr-

ường.

Trang 50/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại

khoản 1 Điều này gây ô nhiễm môi trường.

3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và

xử lý chất thải nguy hại hoặc có chứa chất phóng xạ không đúng quy định về bảo vệ môi

trường.

4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi không lập hồ sơ, đăng

ký có phát sinh chất thải nguy hại đối với trường hợp đối với trường hợp phải lập hồ sơ,

đăng ký với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh.

5. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và

xử lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường.

6. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với hành vi quản lý, vận chuyển và

xử lý chất thải có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường quá mức cho phép.

7. Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Tước Giấy phép môi trường từ chín mươi ngày làm việc đến một trăm tám mươi ngày làm

việc đối với các vi phạm quy định tại khoản 2 Điều này;

Tước Giấy phép môi trường không thời hạn đối với các vi phạm tại các khoản 3, 4 và khoản

5 Điều này;

b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành

chính quy định tại các khoản 2, 3, 4 và khoản 5 Điều này gây ra.

III.2. GIÁO DỤC Ý THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG CHO HỌC SINH.

Giáo dục môi trường phải được đưa vào chương trình học của THCS. Các trường

THCS được xác định khuôn viên; diện tích chi tiết các phòng học, sân chơi, vườn trường;

các loại cây cảnh, cây được trồng trong vườn sinh vật để xây dựng nội dung bài giảng và

chuyển tải cho phù hợp với các nhóm học sinh. Học sinh tích cực học tập, có ý thức tốt đối

với môi trường là một việc rất cần thiết và cấp bách. Việc tiếp thu bài giảng lồng ghép nội

dung giáo dục môi trường phải không làm ảnh hưởng đến các môn học chính của học sinh.

Thực tế, nhà trường, nhất là các em học sinh phải tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ

môi trường nhân dịp Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, Ngày Môi trường

thế giới, Ngày Làm cho thế giới sạch hơn, Ngày thứ bảy xanh làm vệ sinh thu gom rác thải

Trang 51/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

trên đường phố, trong thôn, xóm; Tết trồng cây mùa xuân. Nhiều trường học nên phối hợp

với Chi cục Bảo vệ môi trường tổ chức hướng dẫn học sinh thu gom và phân loại rác thải

sinh hoạt tại nguồn. Có làm được như thế thì ý thức về môi trường sẽ phát triển ngày càng

sâu rộng không những trong học sinh mà còn cả các bậc phụ huynh và toàn xã hội.

III.3 PHƯƠNG TIỆN GIÁO DỤC TRUYỀN THÔNG VỀ MÔI TRƯỜNG.(*)

Thông qua những hoạt động tại trường, lớp, xã, phường, chúng ta sinh hoạt cho mọi

người ý thức bảo vệ môi trường sống dưới hình thức tuyên truyền qua tờ rơi, bày báo cáo,

phim ảnh…Hiện nay trên internet có rất nhiều phim ngắn về giáo dục ý thức bảo vệ môi

trường của con người, chúng ta cần vận dụng kho tài liệu ấy vào trong bài giảng trên lớp

cũng như bài tuyên truyền trong một cuộc hội thảo, phim ảnh rất xúc tích và khả năng truyền

đạt rất nhanh, người xem có thể dễ dàng nắm bắt và học hỏi.

Trang 52/53

Sinh viên thực hiện: Phạm Bảo Trương

C. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ

Khái niệm tái sử dụng rác thải của quá trình sản xuất và sinh hoạt đã có từ rất lâu. Từ

xưa, ông cha ta đã tận dụng than xương động vật trong sản xuất đường hay tái sử dụng sắt

vụn, đồng vụn trong sản xuất nông cụ và vật dụng sinh hoạt. Những hoạt động tái chế sơ

khai này đã góp phần làm giảm giá thành và giúp giải quyết vấn đề khan hiếm nguyên liệu

sản xuất thời đó. Ngày nay, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, vai trò của tái chế như là

nguồn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu giá rẻ càng trở nên quan trọng hơn. Nguồn nguyên

liệu từ tái chế có thể coi là vô tận, vì có sản xuất là có rác thải và có cơ hội cho tái chế. Mặc

khác, tái chế còn là một giải pháp hữu hiệu làm giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí xử lý

chất thải và do đó hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, tái chế góp phần

làm giảm các thiệt hại môi trường do rác thải gây ra. Xét trên tổng thể, thực hiện tốt biện

pháp tái chế đem lại môi trường trong sạch hơn, cải thiện sức khỏe cộng đồng và là một

trong những giải pháp quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội.

Việc bảo vệ môi trường sống không phải là trách nhiệm của một riêng ai mà đó là

trách nhiệm chung của mỗi chúng ta, trên địa bàn Thành Phố Cần Thơ của chúng ta hiện nay

chưa phát triển mạnh về khâu tuyên truyền việc bảo vệ môi trường sống, việc xả rác bừa bãi

ngoài đường phố còn rất phổ biến, bọc nylon tại những khu chợ sử dụng còn rất lãng phí,

Thành Phố Cần Thơ cần đẩy mạnh trong khâu tuyên truyền hơn không những trong trường

học mà còn cả trong cộng đồng dân cư. Còn đối với sinh viên Đại Học Cần Thơ, chúng ta

cần tích cực hơn trong các phong trào hướng tới việc bảo vệ môi trường sống và giữ gìn vệ

sinh tại lớp học và nơi ở. Có làm được như thế thì môi trường của chúng ta mới không bị

phá hủy, và cộc sống ngày càng tươi đẹp.

Trang 53/53