
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
91
- Lao động nam chiếm 90.94% tổng số lao động.
- Đa số người lao động tại các doanh nghiệp
khai thác chế biến gỗ có trình độ là THCS và
THPT (có 772 người chiếm tỉ lệ 78.6%).
- Thành phần lao động: dân tộc Kinh chiếm
90.33%, Chăm chiếm 3.67% và dân tộc khác
chiếm 6.00%.
Thực trạng công tác vệ sinh lao động,
chăm sóc sức khỏe người lao động
Công tác vệ sinh lao động, phòng chống bệnh
nghề nghiệp cho người lao động năm 2018 thực
hiện chưa cao, trong đó:
- Có 4/17 doanh nghiệp thực hiện đo, kiểm
tra môi trường lao động;
- 3/17 doanh nghiệp thực hiện việc lập hồ sơ
vệ sinh lao động;
- 9/17 doanh nghiệp có khám sức khỏe định kỳ
- 1/17 doanh nghiệp có khám Bệnh nghề nghiệp.
KIẾN NGHỊ
Đối với các cơ quan chức năng địa phương
Khi xét duyệt cấp phép dự án đầu tư khai
thác gỗ, các cấp có thẩm quyền xem xét quy mô
đầu tư của doanh nghiệp về công nghệ, thiết bị,
điều kiện kỹ thuật cho phù hợp.
Thường xuyên tăng cường công tác thanh kiểm
tra, giám sát tại các doanh nghiệp khai thác chế
biến gỗ và có biện pháp chế tài nghiêm khắc đối
với việc vi phạm quy định pháp quy về ATVSLĐ,
phòng Bệnh nghề nghiệp của doanh nghiệp.
Tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực
về quản lý sức khỏe công nhân, ATVSLĐ, phòng
BNN cho người sử dụng lao động tại doanh
nghiệp khai thác, chế biến gỗ.
Đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
phải thực hiện nghiêm túc các văn bản qui phạm
pháp luật về quản lý sức khỏe, ATVSLĐ, phòng
BNN cho người lao động như: Đo kiểm MTLĐ,
khám SKĐK, khám bệnh nghề nghiệp, thực hiện
bồi dưỡng chế độ công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm, tập huấn nâng cao kiến thức, tăng
cường các dịch vụ y tế cho người lao động theo
Thông tư số 19/TT-BYT ngày 06/6/2011 của Bộ Y
tế (thay thế TT 13/BYT-TT của Bộ Y tế); Thông tư
02/2012/TT-BLĐTBXH ngày 18/01/2012 của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội về việc ban hành
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia An toàn lao động
trong khai thác và chế biến đá.
Cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện hệ
thống trang thiết bị, kỹ thuật nhằm giảm thiểu
tình trạng ô nhiễm MTLĐ như tăng cường biện
pháp phun sương nước tại nơi phát tán nhiều
bụi. Thực hiện tốt công tác an toàn, vệ sinh lao
động trong khai thác và chế biến đá. [8], [9]
Thực hiện việc khám sức khỏe tuyển dụng,
khám sức khỏe định kỳ và khám bệnh nghề nghiệp
cho người lao động theo quy định hiện hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động Thương binh & Xã hội (2017)
Công văn số 908/TB-LĐTBXH Thông báo tình hình
tai nạn lao động năm 2017.
2. Bộ Lao động Thương binh & Xã hội (2000)
Danh mục nghề, công việc độc hại, nguy hiểm
theo Quyết định 1580/2000/QĐ-BLĐTBXH ngày
26/12/2000, 2000.
3. Bộ Y tế (2011) Thông tư số 19/2011/TT-BYT
ngày 06/6/2011 về hướng dẫn thực hiện quản lý
vệ sinh lao động, sức khỏe người lao động và bệnh
nghề nghiệp.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN GLÔCÔM GÓC MỞ
ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA GLÔCÔM – BỆNH VIỆN MẮT TRUNG ƯƠNG
TRONG 5 NĂM (2014 – 2018)
Phạm Thị Thu Thủy2, Đỗ Tấn1, Nguyễn Công Huân2
TÓM TẮT24
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh
nhân glôcôm góc mở điều trị tại khoa Glôcôm – bệnh
viện Mắt Trung Ương trong 5 năm (2014 – 2018). Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
1Bệnh Viện Mắt Trung Ương
2Đại Học Y Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Đỗ Tấn
Email: dotan20042005@yahoo.com
Ngày nhận bài: 3.2.2020
Ngày phản biện khoa học: 23.3.2020
Ngày duyệt bài: 27.3.2020
mô tả, hồi cứu trên hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân
được chẩn đoán là glôcôm góc mở điều trị nội trú tại
khoa Glôcôm – bệnh viện Mắt Trung Ương trong thời
gian từ tháng 1/2014 đến hết tháng 12/2018. Kết
quả: Tỷ lệ glôcôm góc mở được điều trị tại khoa
Glôcôm tăng dần qua từng năm. 1398 mắt của 984
bệnh nhân nghiên cứu chủ yếu là hình thái glôcôm
góc mở nguyên phát (chiếm 79,7%). Giai đoạn bệnh
sơ phát là 7,7%, tiến triển 28,1%, trầm trọng 46,5%
và 17,7% ở giai đoạn cuối. Tình trạng chức năng lúc
vào viện: thị lực dưới 20/400 chiếm 46,5%, mức thị
lực 20/400 – 20/70 chiếm 35,4%, mức thị lực 20/60 –
20/30 chiếm 15,7%, còn lại mức thị lực > 20/30 chỉ
chiếm 2,4%; nhãn áp vào viện trung bình là 26,5 ±

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
92
6,2 mmHg. Qua 5 năm (2014 – 2018), tỷ lệ số mắt ở
giai đoạn nặng từ trầm trọng trở lên có xu hướng
tăng. Kết luận: Tỷ lệ glôcôm góc mở được điều trị tại
khoa Glôcôm tăng dần, số bệnh nhân có mức thị lực
thấp và giai đoạn bệnh nặng chiếm tỷ lệ cao.
Từ khóa:
Glôcôm góc mở, giai đoạn bệnh, nhãn áp
SUMMARY
CLINICAL FEATURES OF OPEN ANGLE
GLAUCOMA IN PATIENTS AT GLAUCOMA
DEPARTMENT – VIETNAM NATIONAL EYE
HOSPITAL DURING THE 5 YEAR PERIOD
(2014-2018)
Purpose: To described clinical features of in
patient with open-angle glaucoma at Glaucoma
Department - National Institute of Ophthalmology for
5 years (2014 - 2018). Subjects and methods:
Retrospective study on medical records of patients
who was diagnosed with open-angle glaucoma and
treated at Glaucoma Department - National Institute
of Ophthalmology from January 2014 to December
2018. Results: The percentage of POAG treated at
the Glaucoma department increased through over
time. 1398 eyes of 984 studied inpatients were mostly
primary open-angle glaucoma (accounted for 79.7%) .
The rate of eyes in early stage was 7.7%, advanced
stage was 28.1%, severe stage was 46.5% and
17.7% at end stage. Functional status: 46.5% eyes
had vision under 20/400, 35.4% got vision level
between 20/400 - 20/70, 15.7% % had 20/60 - 20/30
and the rest (2,4%) saw 20/30 or better. Mean IOP
was 26.5 ± 6.2 mmHg. The percentage of eyes in
severe stage or worse increased progressively over 5
years (2014-2018). Conclusion: The rate of
inpatients with open-angle glaucoma treated in the
Glaucoma department increased over 5 years. The
ratio of patients with poor vision and severe Glaucoma
stage was high.
Key words:
Open angle Glaucoma, disease stage,
IOP
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Glôcôm góc mở là một hình thái của bệnh
glôcôm với góc tiền phòng mở rộng nhưng thủy
dịch không lưu thông được, dẫn tới tăng nhãn
áp. Theo Hyun (2014) có khoảng 44,3 triệu
người mắc bệnh glôcôm góc mở nguyên phát,
trong đó 23,5 triệu người là người Châu Á, tỉ lệ
bệnh trong quần thể ở vùng Đông Nam Á là
2,2%. Tại Việt Nam, theo kết quả đánh giá
nhanh các bệnh gây mù có thể phòng tránh
(Rapid Assessment for Avoidable Blindness) năm
2015 thống kê tại 14 tỉnh thành trong cả nước có
gần 330.000 người mù, trong đó glôcôm là
nguyên nhân thứ 5 gây mù với tỷ lệ là 4% [5].
Để đánh giá tình hình bệnh nhân glôcôm góc
mở điều trị nội trú tại khoa Glôcôm, Bệnh viện
Mắt TW chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với
mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân
glôcôm góc mở điều trị tại khoa Glôcôm – bệnh
viện Mắt Trung Ương trong 5 năm (2014 – 2018).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân glôcôm
góc mở được điều trị nội trú tại khoa Glôcôm –
bệnh viện Mắt Trung Ương trong 5 năm từ năm
2014 đến hết năm 2018 có đầy đủ các thông tin
phục vụ cho nghiên cứu bao gồm bệnh nhân có
hồ sơ bệnh án được chẩn đoán là glôcôm góc mở
nguyên phát, glôcôm góc mở thứ phát điều trị nội
trú tại khoa Glôcôm với đầy đủ các tiêu chuẩn
chẩn đoán, giai đoạn bệnh (có số liệu chỉ số C/D
và/hoặc kết quả đánh giá thị trường)
Cách thức tiến hành:
thu thập hồ sơ bệnh án
được quản lý tại kho bệnh án bệnh viện Mắt
Trung Ương và lựa chọn những hồ sơ đạt tiêu
chuẩn nghiên cứu. Khai thác các thông tin trong
hồ sơ và ghi lại vào bệnh án nghiên cứu theo các
chỉ tiêu nghiên cứu:
- Thông tin chung (tuổi, giới, nghề nghiệp)
- Đặc điểm bệnh lý glôcôm (mắt bị bệnh, hình
thái glôcôm góc mở, giai đoạn glôcôm, tình trạng
chức năng, thực thể)
- Tiền sử: bản thân có bệnh toàn thân (đái
tháo đường, tăng huyết áp), gia đình có/không
mắc bệnh glôcôm
Xử lý số liệu
bằng phần mềm thống kê y
học SPSS
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gồm 1398 mắt của 984 bệnh
nhân glôcôm góc mở điều trị nội trú tại khoa
Glôcôm trong thời gian từ tháng 1/2014 đến
12/2018. Tỷ lệ glôcôm góc mở được điều trị tại
khoa Glôcôm tăng dần qua từng năm. Năm 2014
tỷ lệ này là 17,3%, tăng lên 20,3% năm 2016 và
năm 2018 tỷ lệ bệnh nhân glôcôm góc mở là
23,3%, cao nhất trong 5 năm nghiên cứu. Sự
khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân giữa các năm có ý
nghĩa thống kê, với p < 0,05.
Bảng 1. Tỷ lệ bệnh glôcôm góc mở qua từng năm
Năm
2014
2015
2016
2017
2018
Tổng
p
Số lượng (n)
170
182
200
203
229
984
0,036
Tỷ lệ (%)
17,3
18,5
20,3
20,6
23,3
100
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 49,6 ± 19,5, trong đó nhóm > 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất (35,3%), nhóm tuổi < 40 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (31,1%). Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ là 43,1%, ở
nam là 56,9%.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
93
Bảng 2. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới
Giới
Tuổi
Nam
Nữ
Tổng
p
Số lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(n)
Tỷ lệ (%)
0.272
< 40 tuổi
188
19,1
118
12,0
306
31,1
40 - 60 tuổi
175
17,8
156
15,8
331
33,6
> 60 tuổi
197
20,0
150
15,3
347
35,3
Tổng
560
56,9
424
43,1
984
100
Trong số 1398 mắt nghiên cứu phần lớn là hình thái glôcôm góc mở nguyên phát, có 1114 mắt
chiếm 79,7%, 278 mắt là hình thái glôcôm góc mở do thuốc (corticosteroid) chiếm 19,9%, chỉ có 6
mắt là hình thái glôcôm góc mở do giả bong bao chiếm 0,4%.
Bảng 3. Tình trạng nhãn áp
Nhãn áp (mm Hg)
< 17
17 – 22
23 – 25
> 25
Tổng
Số mắt
121
234
138
905
538
Tỷ lệ %
8,7
16,7
9,9
64,7
100
Trong nghiên cứu, chỉ có 423 mắt được làm thị trường, chiếm 30,2%. Kết quả cho thấy có 233
mắt ở giai đoạn trầm trọng, chiếm tỷ lệ cao nhất (55,1%). Giai đoạn sơ phát và tiến triển có lần lượt
là 54 và 136 mắt, chiếm 12,8% và 32,1%.
Trong nghiên cứu có 650 mắt thị lực dưới
20/400 chiếm tỷ lệ cao nhất (46,5%), có 494
mắt ở mức thị lực 20/400 – 20/70 chiếm 35,4%,
có 220 mắt ở mức thị lực 20/60 – 20/30 chiếm
15,7%, còn lại mức thị lực > 20/30 chỉ có 34
mắt chiếm 2,4%
< 20/400
20/400 - 20/70
20/60 - 20/30
> 20/30
650
494
220
34
Biểu đồ 1. Tình trạng thị lực
Đa số các trường hợp nhãn áp khi đến khám
đều > 25 mmHg, chiếm 64,7% với nhãn áp
trung bình là 26,5 ±6,2 mm Hg.
Bảng 4. Giai đoạn thị trường
Giai đoạn
thị
trường
Loại thị trường
Tổng
N (%)
Humphrey
(n)
Goldmann
(n)
Sơ phát
51
3
54 (12,8%)
Tiến triển
129
7
136 (32,1%)
Trầm trọng
230
3
233 (55,1%)
Cuối
0
0
0 (0,0%)
Tổng
410
13
423(100%)
Nghiên cứu cũng cho thấy 898 mắt (64,2%) ở
giai đoạn trầm trọng trở lên có, trong đó giai
đoạn trầm trọng có 650 mắt chiếm tỷ lệ cao nhất
(46,5%). Giai đoạn sơ phát và tiến triển có lần
lượt là 108 và 392 mắt, chiếm 7,7% và 28,1%.
Bảng 5. Giai đoạn bệnh glôcôm
Giai đoạn
Số mắt
Số lượng (n)
Tỷ lệ (%)
Sơ phát
108
7,7
Tiến triển
392
28,1
Trầm trọng
650
46,5
Cuối
248
17,7
Tổng
1398
100
Qua 5 năm (2014 – 2018), tỷ lệ số mắt ở giai
đoạn nặng từ trầm trọng trở lên có xu hướng
tăng, chiếm tỷ lệ 57,5% ở năm 2014 đã tăng lên
72,3% năm 2015 và từ năm 2016 – 2018 dao
động trong khoảng 62,4% – 65,4%.
8.8 8.3 9.7 5.2 7
33.7
19.4 27.9 29.4 29
39
54.5 42.9 49.1 47.1
18.5 17.8 19.5 16.3 16.9
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2014 2015 2016 2017 2018
Giai đoạn sơ phát Giai đoạn tiến triển
Giai đoạn trầm trọng Giai đoạn cuối
Biểu đồ 2. Phân bố giai đoạn bệnh glôcôm
qua các năm
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu về dịch tễ học của bệnh glôcôm
đều cho thấy tỷ lệ glôcôm góc mở nguyên phát
gặp nhiều hơn ở khu vực châu Âu, Mỹ latinh, còn

vietnam medical journal n01 - APRIL - 2020
94
ở châu Á do đặc điểm cấu trúc của nhãn cầu nhỏ
hơn nên hình thái glôcôm góc đóng phổ biến hơn
[7]. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Thị Thái Hà
(2002) về đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của
bệnh nhân glôcôm có tỷ lệ glôcôm góc đóng
nguyên phát là chủ yếu chiếm 79,8% và chỉ có
20,2% glôcôm góc mở nguyên phát [2]. Tuy
nhiên, những nghiên cứu trong khoảng 10 năm
gần đây, tỷ lệ glôcôm góc mở tăng lên khá đáng
kể. Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên
1398 mắt của 984 bệnh nhân, theo dõi trong
thời gian 5 năm (1/2014 – 12/2018) thấy rằng tỷ
lệ bệnh nhân glôcôm góc mở tăng từ 17,3%
năm 2014 lên 20,3% năm 2016 và 23,3% năm
2018. Kết quả này tương tự như nghiên cứu tại
Việt Nam của Phạm Thị Thu Hà (2009) trên bệnh
nhân glôcôm góc mở trong 5 năm thấy tỷ lệ
bệnh tăng từ 11,6% năm 2004 lên 29,5% ở năm
2008 [3].
Nghiên cứu của chúng tôi trên 984 bệnh nhân
có tuổi trung bình là 49,6 ± 19,5 và nhóm tuổi
từ 40 tuổi trở lên chiếm phần lớn (68,9%). Kết
quả này tương tự với các nghiên cứu về bệnh
glôcôm ở trong nước như nghiên cứu của
Nguyễn Thị Hà Thanh (2015) có tuổi trung bình
là 48,2 ± 13,9, với 80,6% bệnh nhân từ 35 tuổi
trở lên; nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Lan
Hương (2015) là 47,8 ± 13,2 tuổi, trong đó có
76,9% bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên; hay nghiên
cứu của Đỗ Khánh Hà (2017) có độ tuổi trung
bình là 52,8 ± 16,9 [6], [4], [1]. Tuy nhiên, tuổi
trung bình trong các nghiên cứu ở nước ngoài lại
thường cao hơn, theo nghiên cứu của Musch
(2019) tại Hoa Kỳ có độ tuổi trung bình của bệnh
nhân glôcôm góc mở là 58,0 ± 10,9 [8].
Các nghiên cứu về hình thái glôcôm góc đóng
nguyên phát đều cho rằng tỷ lệ bệnh ở nữ giới
cao hơn nam giới, nghiên cứu của Đỗ Thị Thái
Hà (2002) có tỷ lệ giữa bệnh nhân nữ/nam là
1,9/1 [2]. Tuy nhiên, với hình thái glôcôm góc
mở thường không có sự khác biệt nhiều giữa hai
giới. Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nam là
56,9% và nữ là 43,1%, tương tự như nghiên cứu
của Nguyễn Hoàng Lan Hương (2015) có 55,1%
nam và 44,9% nữ; hay nghiên cứu của Musch
(2019) cũng có 55% nam và 45% nữ [4],[8].
Một số nghiên cứu khác trên bệnh nhân glôcôm
góc mở lại có tỷ lệ bệnh nhân nam thấp hơn so
với nữ như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hà
Thanh (2015) có 44,8% nam và 55,2% nữ; hoặc
Đỗ Khánh Hà (2017) có tỷ lệ nam chiếm 45,5%
và nữ 54,5% [6],[1]. Kết quả khác nhau của các
nghiên cứu có thể do cỡ mẫu khác nhau, đồng
thời các nghiên cứu được thực hiện trên các
nhóm đối tượng khác nhau, ở các thời điểm cũng
như các vùng địa lý khác nhau.
Tổn thương thị lực trong bệnh lý glôcôm
thường xuất hiện ở giai đoạn muộn của bệnh.
Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, do đặc
điểm của hình thái glôcôm góc mở nên bệnh
thường ít được phát hiện sớm khiến cho tỷ lệ
người bệnh có thị lực thấp khá đáng kể. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có tới 650/1398 mắt
(46,5%) có thị lực dưới 20/400, mức được coi là
mù theo Tổ chức Y tế Thế giới; có 45 mắt mất
chức năng hoàn toàn và chỉ có 2,4% trường hợp
thị lực trên 20/30. So với nghiên của một số tác
giả khác, nhóm thị lực thấp của chúng tôi nhiều
hơn hẳn. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hà
(2009) có tỷ lệ thị lực dưới 20/400 chiếm 25,7%
và nghiên cứu của Đỗ Khánh Hà (2017) cũng chỉ
có 21,7% [3],[1]. Nguyên nhân giảm thị lực
trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi ngoài do
bệnh lý glôcôm, còn bởi tình trạng đục thể thủy
tinh do tuổi già, do sử dụng costicosteroid hoặc
một số trường hợp bệnh nhân có đục thể thủy
tinh, sẹo đục giác mạc do đã can thiệp phẫu
thuật nhiều lần. Đây cũng có thể là một trong
những yếu tố dẫn đến sự khác biệt về kết quả
của các nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu của
chúng tôi chỉ thực hiện trên các bệnh nhân
glôcôm góc mở điều trị nội trú tại Khoa Glôcôm,
còn tác giả Phạm Thị Thu Hà (2009) nghiên cứu
trên cả nhóm điều trị nội trú và ngoại trú; tác giả
Đỗ Khánh Hà (2017) chỉ nghiên cứu trên nhóm
bệnh nhân điều trị ngoại trú nên nhiều bệnh
nhân được phát hiện bệnh sớm hơn [3],[1].
Nhãn áp là một yếu tố quan trọng, quyết định
các tổn hại thị thần kinh trong bệnh lý glôcôm và
cho đến nay vẫn là yếu tố duy nhất can thiệp
được để điều trị bệnh glôcôm. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, phần lớn các trường hợp đều có
nhãn áp cao trên 25 mmHg chiếm 64,7%, với
nhãn áp trung bình là 26,5 ± 6,2 mmHg, dao
động từ 10 đến 49 mmHg. Có 25,4% số mắt có
nhãn áp từ 22 mmHg trở xuống, trong đó 8,7%
số mắt có nhãn áp dưới 17 mmHg. Những bệnh
nhân này đều đã được sử dụng thuốc hạ nhãn
áp tại chổ và toàn thân. Một số trường hợp do
bệnh đã ở giai đoạn muộn nên mức nhãn áp ở
giới hạn bình thường song chưa đạt được nhãn
áp đích đối với người bệnh nên vẫn cần vào viện
để điều trị bổ sung. Kết quả này cũng tương tự
với nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hà (2009) có
nhãn áp trung bình là 29,3 ± 6,7 mmHg, với
68,8% trường hợp nhãn áp trên 25 mmHg và
nghiên cứu của Musch (2019) có nhãn áp trung
bình là 27,5 ± 5,6 mmHg [3],[8]. Tuy nhiên,

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 1 - 2020
95
nhãn áp trung bình trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Thị Hà
Thanh (2015) có nhãn áp trung bình là 17,0 ±
1,7 mmHg, hay của Đỗ Khánh Hà (2017) là 17,6
± 4,5 mmHg [6],[1]. Sự khác biệt này là do đối
tượng nghiên cứu của các tác giả này chủ yếu là
những trường hợp đã được điều trị bệnh ổn định
và được theo dõi quản lý nhằm đánh giá sự tiến
triển của bệnh.
Về thị trường, do tỷ lệ bệnh nhân có thị lực
thấp (< 20/400) trong nghiên cứu của chúng tôi
khá cao, đồng thời tỷ lệ người bệnh cao tuổi khó
hợp tác để đánh giá thị trường cũng không nhỏ
nên chỉ có khoảng 30% số mắt có kết quả thị
trường. Trong đó, tỷ lệ tổn hại thị trường ở giai
đoạn trầm trọng chiếm khá cao, tới 55,1%. Số
mắt tổn hại thị trường sớm chỉ có 12,8% và
32,1% ở giai đoạn tiến triển.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
hình thái glôcôm góc mở nguyên phát là chủ
yếu, chiếm 79,7%. Mặc dù tỷ lệ glôcôm góc mở
thứ phát chỉ có 20,3%, nhưng có tới 19,9% là
thứ phát do corticosteroid mà phần lớn là do
bệnh nhân tự mua thuốc tra không theo chỉ định
của bác sĩ, cho thấy tính nghiêm trọng của việc
sử dụng thuốc tùy tiện. Nghiên cứu của Phạm
Thị Thu Hà (2009) cũng có tới 33,1% bệnh nhân
có tiền sử sử dụng corticosteroid, với 98,1% là
dùng đường tra tại chỗ. Đặc biệt hơn, tác giả
nhận thấy tỷ lệ dùng corticosteroid tập trung chủ
yếu ở nhóm dưới 40 tuổi (chiếm 50,3%) [3].
Về giai đoạn bệnh, nghiên cứu của chúng tôi
thấy rằng hầu hết các trường hợp đều ở giai
đoạn nặng với tỷ lệ giai đoạn trầm trọng chiếm
nhiều nhất (46,5%), giai đoạn tiến triển cũng
chiếm 28,1% và đặc biệt có tới 17,7% trường
hợp ở giai đoạn gần mù và mù, chỉ có 7,7%
bệnh mới ở giai đoạn sơ phát. Điều đáng lo ngại
là trong số những mắt ở giai đoạn cuối này có
đến 72,6% ở nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi,
trong đó dưới 40 tuổi chiếm tới 46,4%, cho thấy
bệnh lý glôcôm có thể trở thành một gánh nặng
lớn đối với xã hội. So với các tác giả khác, tỷ lệ
bệnh ở giai đoạn sớm của chúng tôi thấp hơn
hẳn. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hà (2009) có
tỷ lệ giai đoạn sơ phát là 21,9% và tỷ lệ này ở
nghiên cứu của Đỗ Khánh Hà (2017) là 33,6%
[3], [1]. Lý giải điều này, chúng tôi cho rằng do
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những
bệnh nhân điều trị nội trú nên hầu hết đều vào
viện để can thiệp phẫu thuật sau thời gian điều
trị nội khoa thất bại khiến cho bệnh thường đã ở
giai đoạn muộn. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu
Hà (2009) và Đỗ Khánh Hà (2017) bao gồm cả
bệnh nhân điều trị ngoại trú nên tỷ lệ bệnh ở giai
đoạn sớm cũng cao hơn. Với các nghiên cứu ở
nước ngoài, nhờ hệ thống chăm sóc y tế và giáo
dục sức khỏe phát triển hơn giúp cho người
bệnh thường được phát hiện và điều trị ở giai
đoạn sớm của bệnh.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ bệnh nhân glôcôm góc mở điều trị nội
trú tại khoa Glôcôm – bệnh viện Mắt Trung Ương
tăng dần qua từng năm. Năm 2014 tỷ lệ này là
17,3%, tăng lên 20,3% năm 2016 và năm 2018
tỷ lệ bệnh nhân glôcôm góc mở là 23,3%., báo
hiệu sự thay đổi cơ cấu bệnh tật trong những
năm gần đây.
Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu là
glôcôm góc mở nguyên phát (chiếm 79,7%);
bệnh ở giai đoạn sớm chỉ có 7,7% và có tới
64,2% ở giai đoạn trầm trọng trở lên. Hơn nữa
trong các bệnh nhân giai đoạn cuối có đến
72,6% dưới 60 tuổi báo hiệu gánh nặng xã hội
lớn, đòi hỏi sự cần thiết tăng tính hiệu quả của
hệ thống quản lý bệnh Glôcôm từ trung ương
đến địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Khánh Hà (2017). Nhận xét tình hình bệnh
nhân glôcôm điều trị ngoại trú tại phòng khám
Dixpanse - Khoa Glôcôm - Bệnh viện Mắt Trung
Ương, Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ y khoa, Trường
Đại học Y Hà Nội.
2. Đỗ Thị Thái Hà (2002). Nghiên cứu một sô đặc
điểm dịch tễ học lâm sàng của bệnh nhân glôcôm
điều trị tại khoa tổng hợp Viện mắt (từ tháng
10/2000 đến tháng 9/2002), Luận văn Thạc sĩ y
học, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Phạm Thị Thu Hà (2009). Đánh giá tình hình
điều trị Glôcôm góc mở tại khoa Glôcôm - bệnh
viện Mắt Trung ương trong 5 năm (2004 - 2008),
Luận văn Thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Nguyễn Hoàng Lan Hương (2015). Khảo sát
chiều dày lớp tế bào hạch võng mạc trung tâm
trên bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát bằng
OCT, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y HN.
5. Lương Ngọc Khuê, Nguyễn Trọng Khoa,
Dương Anh Vương và cộng sự (2015).
National survey on avoidable blindness Viet Nam.
Ministry of health medical service administration.
6. Nguyễn Thị Hà Thanh (2015). Đánh giá tiến
triển bệnh glôcôm góc mở nguyên phát, Luận án
Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
7. Kapetanakis V.V, Chan M.P, Foster P.J et al
(2016). Global variations and time trends in the
prevalence of primary open angle glaucoma
(POAG): a systematic review and meta-analysis. Br
J Ophthalmol, 100(1), 86-93.
8. Musch D.C, Niziol L.M, Janz N.K et al (2019).
Trends in and Predictors of Depression Among
Participants in the Collaborative Initial Glaucoma
Treatment Study (CIGTS). Am J Ophthalmol, 197,
128-135.