ĐẠI CƯƠNG CHẨN ĐOÁN LÂM

SÀNG KHỐI U VÙNG CỔ

I. Các loại Bướu tuyến giáp:

Trong bài này danh từ Bướu tuyến giáp dùng để chỉ triệu chứng Tuyến giáp to

ra về kích thước (toàn bộ hay cục bộ) mà không phân biệt nguyên nhân của nó.

1. Bướu giáp đơn thuần:

Là loại Bướu tuyến giáp mà nguyên nhân không phải do viêm hay u, chức

năng tuyến giáp bình thường. + Bướu giáp đơn thuần thể nhân:- Bướu nhân có

thể nằm ở bất kỳ chỗ nào của Tuyến giáp. Thường có hình tròn hoặc bầu dục.

Có thể nhỏ bằng hạt lạc hoặc rất lớn (làm biến dạng và gây các triệu chứng

chèn ép vùng cổ). Bướu có thể là tổ chức nhu mô hoặc nang chứa dịch keo

màu vàng nhạt hay xanh đen.

- Có chỉ định mổ cắt Bướu vì điều trị nội khoa thường ít kết quả và bản thân

Bướu có thể gây nhiều biến chứng (chèn ép vùng cổ, chảy máu trong bướu, bội

nhiễm, ung thư hoá. . . ). + Bướu giáp đơn thuần thể lan toả:

- Bướu có hình đồng dạng với Tuyến giáp vì nó chính là toàn bộ nhu mô

Tuyến giáp phì đại tạo thành. Tuy nhiên, mức độ to ra của các thuỳ tuyến

thường không như nhau nên các thuỳ bướu có thể to không đều. - Điều

trị chủ yếu bằng nội khoa (bổ sung các thuốc có Iot). Điều trị phẫu thuật chỉ đặt

ra khi bướu quá to gây chèn ép vùng cổ hoặc ảnh hưởng đến thẩm mỹ của bệnh

nhân. + Bướu giáp đơn thuần thể hỗn hợp: - Là loại Bướu giáp đơn

thuần thể nhân (có thể một hay nhiều nhân) trên nền một bướu giáp thể lan toả.

- Có chỉ định mổ cắt gần hoàn toàn Tuyến giáp với các lý do như ở Bướu

giáp đơn thuần thể nhân. 2. Bướu giáp độc tính:Là loại Bướu giáp có kèm

theo tình trạng cường chức năng Tuyến giáp (nhiễm độc Thyroxin). + Bướu

giáp nhân độc tính: - Còn gọi là bệnh U độc tuyến giáp hay bệnh

Plummer. Trong bệnh này, Bướu giáp là một bướu thể nhân nhu mô cường

chức năng, nó tiết ra quá nhiều Hocmon giáp gây nhiễm độc cơ thể. -

Biểu hiện bệnh là: có Bướu giáp nhân (thường là Bướu nhân đơn độc) kèm

theo tình trạng nhiễm độc giáp, nổi bật là các triệu chứng về tim mạch (mạch

nhanh, loạn nhịp, suy tim… ). - Có chỉ định mổ sớm. + Bướu giáp lan

toả nhiễm độc: - Bệnh Bướu giáp lan toả nhiễm độc còn được gọi là bệnh

Basedow hay bệnh Grave. Các triệu chứng cơ bản của nó là: Bướu giáp to lan

toả kèm tình trạng nhiễm độc giáp (mạch nhanh, ăn uống nhiều nhưng vẫn gầy

sút nhanh, da nóng và ra nhiều mồ hôi…), lồi mắt, run tay chân, thay đổi tính

tình… - Có thể điều trị bằng Nội khoa, Iot phóng xạ hay Ngoại khoa. . .

Mỗi phương pháp đó đều có những chỉ định riêng. + Bướu giáp Basedow

hoá: - Là loại Bướu giáp đơn thuần nhưng sau một thời gian, do những

nguyên nhân nhất định, chuyển thành độc tính (tiết ra quá nhiều Hocmon giáp

gây nhiễm độc cơ thể). - Có chỉ định điều trị nội khoa tích cực rồi mổ

sớm. 3. Các U lành Tuyến giáp:+ Thường là loại U tuyến (Adenoma) của

Tuyến giáp. + Hay gặp ở tuổi trung niên:thường là khối U đơn độc, nằm ở bất

cứ chỗ nào của Tuyến giáp, ranh giới rõ, mặt nhẵn, mật độ thường chắc, di

động tốt. U có thể gây chèn ép vùng cổ làm bệnh nhân khó thở, nuốt vướng. +

Trên lâm sàng thường khó phân biệt giữa U tuyến giáp lành tính và Bướu giáp

đơn thuần thể nhân. + Điều trị chủ yếu là bằng phẫu thuật. 4. Ung thư Tuyến

giáp:+ Thường xuất hiện ở tuổi 40-60. Khối U đơn độc nằm ở gần một cực của

Tuyến giáp (thường ở cực dưới). U có mật độ chắc, bề mặt sần sùi, di động

kém do xâm lấn vào tổ chức xung quanh. Cũng vì vậy mà bệnh nhân có thể bị

khó nuốt, khó thở và nói khàn sớm tuy U còn nhỏ. Ngoài ra có thể thấy các

hạch bạch huyết vùng cổ to ra (nhất là các hạch dọc theo cơ ức đòn chũm). +

Ung thư tuyến giáp thường có tiên lượng tốt hơn so với các loại Ung thư khác

nếu được phát hiện và mổ sớm. 5. Các viêm Tuyến giáp có triệu chứng

Bướu giáp:+ Bệnh viêm Tuyến giáp tự miễn dịch: - Còn gọi là bệnh

Hashimoto. - Bướu thường to lan toả, đôi khi là thể nhân. Mật độ chắc,

không dính với tổ chức xung quanh. Bướu có khi khá to, chèn ép gây khó thở,

nuốt vướng. Kèm theo bệnh nhân có thể có biểu hiện nhược giáp ở các mức độ

khác nhau. - Điều trị chủ yếu là các thuốc thay thế Hocmon giáp

(Thyreoidin, Triiodothyronin. . . ) và từng đợt ngắn thuốc Cocticoit. Chỉ mổ

khi Bướu gây chèn ép khí quản (mổ cắt một phần vùng eo tuyến để giải phóng

chèn ép) hoặc khi Bướu ở thể nhân. + Bệnh viêm xơ tuyến giáp mãn tính:

- Còn gọi là bệnh Riedel. - Thường là Bướu giáp lan toả, mật độ rất chắc

do tổ chức liên kết trong bướu phát triển mạnh. Có khi Bướu khá to và dính

vào tổ chức xung quanh nên rất kém di động. Bướu có thể chèn ép gây khó thở,

nuốt vướng. Bệnh nhân thường không bị nhược giáp do còn những phần nhu

mô giáp lành hoạt động bù. - Khi Bướu gây chèn ép khí quản thì có chỉ

định mổ cắt một phần vùng eo tuyến để giải phóng chèn ép. + Bệnh viêm tuyến

giáp bán cấp tính: - Còn gọi là bệnh De Quervain hay bệnh Viêm tuyến

giáp có tế bào khổng lồ. - Tuyến giáp có từng đợt to ra lan toả, mật độ

chẵc và đau. Đau ra cả vùng cổ, họng và lan ra vùng tai, gáy. Kèm theo bệnh

nhân có sốt, tăng bạch cầu trong máu. Một số trường hợp lúc đầu có cường

chức năng tuyến giáp nhưng khi bệnh kéo dài thì có thể dẫn đến nhược giáp.

- Điều trị chủ yếu là dùng Cocticoit. II. Các loại nang bẩm sinh vùng

cổ:1. Nang mang: + Được tạo nên do còn lại một phần khe mang thứ hai

(đôi khi là khe mang thứ nhất hoặc thứ ba) ở thời kỳ baò thai. + Nang

mang còn được gọi là Nang vùng cổ bên vì thường nằm ở phía bên cổ, sát bờ

trước cơ ức đòn chũm. Thường ở bệnh nhân trẻ ( 1-20 tuổi). Nang có hình tròn

hay bầu dục, ranh giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, tiến triển chậm. +

Nhiêù khi nang bị bội nhiễm và vỡ rò qua da gây nên Rò vùng cổ bên: miệng

lỗ dò thường nằm ở sát phía trong bờ trước cơ ức đòn chũm, miệng lỗ rò nhỏ,

dịch rò là chất nhầy trong hoặc trắng đục. + Điều trị chủ yếu bằng phẫu

thuật: mổ cắt bỏ nang và đường rò. Cần mổ lấy triệt để vì rất hay bị rò tái phát.

2. Nang giáp lưỡi: + Được tạo nên do còn lại một phần ống giáp-lưỡi

(Ductus Thyreo-glossus) ở thời kỳ bào thai. + Nang giáp lưỡi còn được

gọi là Nang giáp móng hay Nang vùng giữa cổ vì nó thường nằm ở giữa cổ và

dính sát vào thân xương móng. Thường gặp ở bệnh nhân trẻ ( 2-30 tuổi). Nang

có hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, di động theo

động tác nuốt, tiến triển chậm. + Nhiều khi Nang bị bội nhiễm và vỡ qua

da gây Rò vùng giữa cổ:lỗ rò thường ở vùng giữa cổ sát với xương móng,

miệng lỗ rò nhỏ, dịch rò là chất nhày trong hoặc trắng đục. + Điều trị chủ

yếu bằng phẫu thuật: cắt bỏ nang và đường rò, phải cắt triệt để ( thường phải

cắt bỏ một phần xương móng dính với chân của nang hoặc đường rò) vì rất hay

bị rò tái phát. 3. Nang dạng bì: + Được tạo ra bởi một phần ngoại bì bị

tách ra trong thời kỳ bào thai và nằm chìm xuống tổ chức dươí da. +

Nang dạng bì thường nằm ở nền khoang miệng, gốc lưỡi, cằm, dưới hàm, đôi

khi ở vùng cổ bên hoặc ở giữa vùng một phần ba trên của cổ. Nang thường có

hình tròn, mật độ hơi mềm và đàn hồi, ranh giới rõ, thường không dính vào da,

lòng nang chứa tổ chức kiểu bã đậu. + Điều trị chủ yếu là mổ cắt bỏ

nang. III. Các loại hạch bạch huyết to ở vùng cổ:1. Hạch Sacom

lympho: + Lúc đầu là các hạch to riêng rẽ. Về sau chúng to dần và dính

với nhau thành những đám lớn hơn. + Ngoài hạch to vùng cổ, hạch toàn

thân cũng to ra với tính chất như trên. 2. Hạch Hodgkin: + Hạch to ở

cổ, nằm riêng rẽ nhau. + Ngoài hạch cổ, hạch toàn thân cũng to ra. Kèm

theo còn thấy gan to, lách to. Ngứa da và sốt thành từng đợt kiểu làn sóng. 3.

Hạch Lao: Hạch to nhỏ không đều. Thường nằm ở hai bên cổ, dọc theo

cơ ức đòn chũm. Đôi khi hạch vỡ ra gây rò mủ bã đậu kéo dài. 4. Hạch viêm

cấp hoặc mãn tính: + Có thể một hay nhiều hạch bị viêm cấp hoặc mãn.

Hạch to ra, đau. Đôi khi nhiều hạch dính vào nhau. Khi hạch viêm mủ, da vùng

cổ bị nóng, đỏ, nề, sờ thấy dấu hiệu "lùng nhùng", đôi khi bị vỡ và rò mủ qua

da. + Điều trị chủ yếu là dùng Kháng sinh. Khi hạch viêm mủ thì có chỉ

định trích tháo mủ. IV. Các loại U phần mềm khác ở vùng cổ:1. U mạch

máu:U có thể nằm ngay trong da, dưới da hay trong cơ. Ranh giới thường

không rõ, mật độ mềm. U thường gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi, tiến triển chậm.

Chọc hút khối U ra máu. 2. U bạch mạch: U thường nằm dưới da, ranh

giới không rõ, mật độ mềm. U thường gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi, tiến triển

chậm. Chọc hút khối U thường chỉ hút ra được ít chất dịch vàng nhạt. 3. U tiểu

thể cảnh: + Khối U đơn độc, nằm ở cao sát góc hàm và ở sâu trước cơ ức

đòn chũm. U gắn chặt hoặc ôm lấy xoang cảnh nên khó di động xuống dưới.

Nó có thể chèn vào xoang cảnh gây phản xạ giảm huyết áp và đôi khi gây thiếu

máu não. + Có chỉ định mổ cắt U để chống chèn ép. Tuy nhiên, phẫu

thuật có nhiều khó khăn và biến chứng vì U dính chặt vào xoang cảnh. 4. U và

nang tuyến nước bọt: Khối U nằm ở vùng Tuyến nước bọt (Tuyến dưới

lưỡi, dưới hàm hay mang tai). Mật độ có thể chắc và đàn hồi nếu là nang hoặc

chắc và cứng nếu là U. Ranh giới thường không rõ lắm, di động kém. 5. U

nang Tuyến bã: Thường là U đơn độc, nằm ngay dưới da, mặt nhẵn,

ranh giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, di động tốt. Lòng U chứa đầy chất bã. U

tiến triển chậm, đôi khi bị bội nhiễm và bị vỡ gây rò qua da. 6. U mỡ:

Thường là U đơn độc, nằm dưới da, mặt nhẵn, đôi khi có thể sờ thấy có nhiều

thuỳ lồi lõm không đều, mật độ thường mềm, đàn hôì tốt, ranh giới khá rõ, tiến

triển chậm. 7. U xơ: Thường là U đơn độc, nằm dưới da, có hình bán cầu

với chân rộng, mặt nhẵn, mật độ thường chắc và đàn hồi, ranh giới khá rõ, tiến

triển chậm. V. Các U do di căn Ung thư nơi khác đến vùng cổ: + Tất

cả các Ung thư ở nơi khác trong cơ thể đều có thể di căn đến vùng cổ. Đôi khi

di căn ung thư đến vùng cổ lại là triệu chứng được phát hiện thấy đầu tiên của

Ung thư nguyên phát ở nơi khác. + Nhóm hạch cổ sâu phía trên thường

bị di căn bởi các Ung thư của vùng miệng và hầu. + Nhóm hạch cổ sâu

phía trên thường bị di căn bởi các ung thư của phổi và đường tiêu hoá. VI. Các

bệnh giả U vùng cổ:1. Phồng động mạch cảnh: + Thường là di chứng

vết thương động mạch cảnh. + Khối phồng nằm trên đường đi của động

mạch cảnh, đập nẩy theo nhịp tim, nghe thấy có tiếng thổi tâm thu trên khối u.

Khi ấn vào động mạch cảnh ở phía dưới cổ đi tới khối u thì các triệu chứng nói

trên đều giảm đi. 2. Phồng tĩnh mạch cảnh trong: + Thường do bẩm

sinh. Hiếm gặp. + Khối phồng nằm trên đường đi của bó mạch cảnh, mật

độ mềm, ranh giới không rõ, ấn không đau, không di động theo động tác nuốt.

Khi ấn vào bó mạch cảnh ở phía trên cổ đi xuống khối phồng thì khối phồng

nhỏ lại, nhưng khi không ấn nữa thì khối phồng lại to ra như cũ. 3. Ap xe

quanh thực quản: + Thường xuất hiện sau một vết thương thực quản do

hóc xương hay dị vật khác. + Khối phồng căng, nóng, đỏ, đau nhiều,

ranh giới không rõ, thường nằm sát về một bên khí quản. Bệnh nhân có hội

chứng nhiễm trùng-nhiễm độc, gày sút, mệt mỏi nhiều, ăn uống kém vì nuốt rất

đau. 4. Sườn cổ: + Là một bệnh bẩm sinh: ngoài các xương sườn bình

thường khớp với các đốt sống ngực, bệnh nhân còn có thêm các xương sườn

khớp với các đốt sống cổ (thường gặp ở đốt sống cổ VII). Các xương sườn cổ

này khi phát triển dài ra sẽ gây chèn ép đám rối thần kinh cánh tay và động

mạch dưới đòn. + Bệnh nhân thường bị tê bì, đau, bại, thậm chí liệt các

cơ ở tay theo kiểu rễ thần kinh. Mạch quay bên tổn thương đập yếu hơn bên kia

(tuy có thể có sườn cổ cả hai bên, nhưng biểu hiện chèn ép ở hai bên thường

không như nhau). Các triệu chứng nói trên nặng hơn khi để tay bệnh nhân duỗi

thẳng và đưa ra sau. Ơ vùng trên đòn có thể sờ thấy rõ đầu trước của sườn cổ