TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CỦA CÁC MARKER CEA, CYFRA21-1 VÀ<br />
NSE TRONG MÁU NGOẠI VI ĐỂ CHẨN ĐOÁN UNG THƢ PHỔI<br />
Hồ Văn Sơn*; Nguyễn Hồng Sơn*<br />
TÓM TẮT<br />
Sử dụng các test không xâm lấn để chẩn đoán sớm ung thư phổi (UTP) có thể giúp giảm số<br />
bệnh nhân (BN) được chẩn đoán khi bệnh đã phát triển, yếu tố làm tiên lượng bệnh xấu hơn.<br />
Chúng tôi phân tích độ chính xác của một nhóm các marker máu ngoại vi trong chẩn đoán UTP.<br />
Phương pháp: 100 người cho khỏe mạnh và 126 BN bị UTP tham gia vào nghiên cứu. Các<br />
marker CEA, CYFRA 21-1, NSE được xác định bằng kỹ thuật điện hóa phát quang.<br />
Kết quả: CEA, CYFRA21-1 ở BN UTP cao hơn đáng kể so với người cho khỏe mạnh (p < 0,0001,<br />
p < 0,0001) tương ứng. CEA kết hợp với CYFRA21-1 cho diện tích dưới đường cong ROC<br />
0,89%, với độ nhạy và độ đặc hiệu trên 85%.<br />
Kết luận: phân tích CEA kết hợp với CYFRA21-1 và NSE cho phép phân biệt chính xác giữa<br />
người khỏe mạnh và BN UTP. Phương pháp đa marker không xâm lấn này cần được nghiên<br />
cứu thêm để đánh giá vai trò tiềm năng của nó trong chẩn đoán hoặc sàng lọc các đối tượng<br />
nghi ngờ UTP.<br />
* Từ khóa: Ung thư phổi; Máu ngoại vi; Marker CEA; CYRA21-1; NSE.<br />
<br />
EVALUATION OF VALUE OF CEA, CYRA21-1 AND NSE IN<br />
PERIPHERAL BLOOD IN DIGNOSIS OF LUNG CANCER<br />
SUMMARY<br />
Background: Using non-invasive test in early detection of lung cancer could reduce the number<br />
of patients diangosed with advanced disease, a factor associated with a poor prognosis. We analysed<br />
the diagnostic accuracy of a panel of peripheral blood markers in detecting lung cancer.<br />
Method: 100 healthy donors and 126 lung cancer patients enrolled into this study. Tumor<br />
marker CEA, CYFRA 21-1, NSE were evaluated using a chemiluminescence method.<br />
Result: CEA, CYFRA21-1, NSE levels were significantly higher in lung cancer patients than<br />
in healthy donors (p < 0.001, p < 0.001 respectively). CEA in combination with CYFRA21-1<br />
gave an area under the ROC curve of 0.89, with sensitivity and specificity over 85%.<br />
Conclusion: CEA analysis combined with CYFRA21-1 determination appears to accurately<br />
differentiate healthy donors and lung cancer patients. This non-invasive multimarker approach<br />
deserves further research to assess its potenital role in the diagnosis or screening of subjects<br />
with suspected lung cancer.<br />
* Key words: Lung cancer; Peripheral blood; Marker CEA; CYRA21-1; NSE.<br />
<br />
* Bệnh viện Quân y 175<br />
Người phản hồi (Corresponding): Hồ Văn Sơn (hoson1967@gmail.com)<br />
Ngày nhận bài: 21/07/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/09/2014<br />
Ngày bài báo được đăng: 29/09/2014<br />
<br />
71<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ung thư phổi là nguyên nhân hàng đầu<br />
<br />
gây tử vong do ung thư trên phạm vi<br />
toàn cầu. Trong đó, UTP không tế bào<br />
nhỏ (UTPKTBN) chiếm khoảng 85% các<br />
trường hợp [6, 8]. Tỷ lệ sống 5 năm chỉ<br />
khoàng 16% đối với BN được chẩn đoán<br />
giai đoạn cuối so với 70 - 90% khi bệnh<br />
được chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn<br />
sớm hơn [1, 2]. Vì vậy, xác định sớm UTP<br />
là một chiến lược nhiều triển vọng để giảm<br />
tỷ lệ tử vong do căn bệnh này.<br />
Test không xâm lấn tiến hành trên máu<br />
ngoại vi có 2 ứng dụng tiềm năng: thứ<br />
nhất, nó được sử dụng như một phương<br />
pháp sàng lọc sơ bộ để chọn ra đối tượng<br />
có nguy cơ cao đối với UTPKTBN. Thứ<br />
hai, nó giúp phân biệt giữa bệnh ác tính<br />
và lành tính ở những đối tượng có hình<br />
ảnh u cục trên CT. Người ta đã chứng minh:<br />
CEA và CYFRA 21-1, NSE có giá trị cao<br />
trong chẩn đoán UTP [3, 4, 5]. Để tìm<br />
hiểu độ chính xác chẩn đoán của CEA,<br />
CYFRA21-1, NSE ở BN UTP, chúng tôi thực<br />
hiện đề tài này nhằm:<br />
- Khảo sát nồng độ CEA,CYFRA21-1<br />
và NSE ở người bình thường và BN UTP.<br />
- Đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu và độ<br />
chính xác của các marker trên BN UTP.<br />
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br />
126 BN được chẩn đoán xác định bằng<br />
tổ chức học hoặc tế bào học là UTP tại<br />
Khoa Ung thư Phổi, Bệnh viện Lao phổi<br />
Phạm Ngọc Thạch, TP. Hồ Chí Minh và<br />
Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Qu©n y<br />
<br />
72<br />
<br />
175 từ 11 - 2011 đến 11 - 2013, BN đồng ý<br />
tham gia vào nghiên cứu. Nhóm đối chứng<br />
bao gồm 100 người cho khỏe mạnh được<br />
tuyển từ đối tượng khám sức khỏe định<br />
kỳ tại Bệnh viện Quân y 175, trong cùng<br />
thời gian. Cả người cho khỏe mạnh và<br />
BN đều không có tiền sử bệnh lý ác tính<br />
trước đó. Các mẫu máu đều lấy sau khi<br />
có bản cam kết đồng ý tham gia của BN.<br />
<br />
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br />
Mô tả cắt ngang<br />
* Lấy mẫu xét nghiệm:<br />
Lấy 3 ml máu ngoại vi từ nhóm chứng<br />
và nhóm bệnh vào các ống nghiệm không<br />
có chất chống đông, để đông tự nhiên ở<br />
nhiệt độ phòng trong 15 phút và quay ly<br />
tâm tốc độ 3.000 vòng/phút/5 phút. Tách<br />
huyết tương, loại bỏ thành phần máu hữu<br />
hình. Đo nồng độ các marker trên máy<br />
miễn dịch tự động ELECSYS 2010 cùng<br />
hóa chất của Hãng Roche Diagnostics.<br />
* Phân tích thống kê:<br />
Sử dụng giá trị trung bình để so sánh<br />
nồng độ các marker giữa hai nhóm nghiên<br />
cứu. Tính độ nhạy, độ đặc hiệu dựa trên<br />
giá trị của marker ở 2 nhóm.<br />
- Độ nhạy (Se): Se =<br />
- Độ đặc hiệu (Sp): Sp =<br />
<br />
%<br />
%<br />
<br />
Trong đó:<br />
a: dương tính thật; b: dương tính giả;<br />
c: âm tính giả; d: âm tính thật.<br />
Chúng tôi xem các test là âm tính khi<br />
tất cả marker ở dưới giá trị ngưỡng tương<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014<br />
<br />
đối của chúng và dương tính khi có ít nhất<br />
1 marker ở trên giá trị ngưỡng tương đối.<br />
Độ phù hợp chẩn đoán độc lập của các<br />
marker được xem như là biến liên tục<br />
được phân tích bằng mô hình hồi quy<br />
logistic, trong đó, logarit tự nhiên nồng độ<br />
của marker được xem như biến dự báo<br />
và tình trạng ung thư (bệnh/chứng) được<br />
xem là biến kết quả nhị phân. Sử dụng<br />
giá trị dự báo tuyến tính hoặc logit thu<br />
được từ mô hình đa biến sau thủ tục từng<br />
bước (thủ tục đưa vào-loại ra) như một<br />
test chẩn đoán mới mà đường cong ROC<br />
tính toán.<br />
Các giá trị p < 0,05 được coi có ý nghĩa<br />
thống kê. Tất cả giá trị p đều được dựa<br />
trên kiểm định 2 chiều, phân tích thống kê<br />
thực hiện bằng phần mềm thống kê SAS<br />
phiên bản 9.1 (SAS Institute).<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ<br />
BÀN LUẬN<br />
1. Đặc điểm của nhóm nghiên cứu.<br />
* Tuổi và giới ở 2 nhóm nghiên cứu:<br />
Bảng 1: Kết quả phân bố tuổi giới.<br />
Nhãm<br />
<br />
Tuæi<br />
<br />
Giíi<br />
<br />
Nhóm người bình thường<br />
<br />
59,79 ± 10,86<br />
<br />
3/1<br />
<br />
Nhóm UTP<br />
<br />
61,23 ± 9,30<br />
<br />
3/2<br />
<br />
0,452<br />
<br />
0,163<br />
<br />
p<br />
<br />
Cả 2 nhóm đều > 50 tuổi, nam nhiều<br />
hơn nữ, không khác biệt về tuổi và giới ở<br />
2 nhóm nghiên cứu. Điều này phù hợp<br />
với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước:<br />
UTP thường gặp ở người > 60 tuổi, nam<br />
gặp nhiều hơn nữ [1, 3].<br />
<br />
73<br />
<br />
* Đặc điểm phân bố về giai đoạn và<br />
mô bệnh học:<br />
Bảng 2: Phân bố về giai đoạn và mô<br />
bệnh học ở nhóm nghiên cứu.<br />
®Æc ®iÓm<br />
m« bÖnh häc<br />
<br />
Sè l-îng BN<br />
(n = 126)<br />
<br />
Tû lÖ<br />
<br />
Ung thư biểu mô tuyến<br />
<br />
48<br />
<br />
38,1%<br />
<br />
Ung thư biểu mô tế<br />
bào vảy<br />
<br />
44<br />
<br />
34,9%<br />
<br />
Ung thư tế bào vảy<br />
<br />
4<br />
<br />
3%<br />
<br />
Khác<br />
<br />
30<br />
<br />
24%<br />
<br />
Giai đoạn (TNM)<br />
I<br />
<br />
11<br />
<br />
9%<br />
<br />
II<br />
<br />
26<br />
<br />
20,6%<br />
<br />
III<br />
<br />
42<br />
<br />
33,3%<br />
<br />
IV<br />
<br />
47<br />
<br />
37,3%<br />
<br />
Trong nghiên cứu này, ung thư biểu<br />
mô tuyến và ung thư tế bào gai (vảy)<br />
thường gặp nhất (70%), trong khi UTP<br />
tế bào nhỏ chiếm tỷ lệ rất thấp, còn ung<br />
thư hỗn hợp < 25%. Kết quả này phù<br />
hợp với các nghiên cứu trước đây ở trong<br />
và ngoài nước như: Nguyễn Hữu Lân<br />
(2010), Nguyễn Minh Hải (2010), Giovanela<br />
và CS (1998).<br />
Về xếp loại giai đoạn bệnh, tỷ lệ BN<br />
được phát hiện ở giai đoạn I thấp nhất,<br />
cao nhất giai đoạn IV. Chứng tỏ BN đi<br />
khám và được phát hiện khi đã ở giai<br />
đoạn muộn. Do đó, việc điều trị nhằm<br />
giảm tỷ lệ tử vong cũng như nâng cao<br />
chất lượng sống cho BN gặp nhiều khó<br />
khăn. Đây cũng là vấn đề bức thiết và khó<br />
khăn cho giảm tỷ lệ tử vong trong UTP<br />
[1, 2, 7].<br />
2. Nồng độ marker CEA, CYFRA21-1,<br />
NSE trong UTP.<br />
* Kết quả định lượng nồng độ CEA,<br />
Cyfra 21-1, NSE huyết thanh:<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014<br />
<br />
Bảng 3: Nồng độ trung bình của CEA,<br />
CYFRA21-1 và NSE trong huyết thanh.<br />
Nång ®é Marker<br />
<br />
nhất, điều này phù hợp với các nghiên<br />
cứu về marker này trong UTP và phù hợp<br />
với nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước.<br />
<br />
CEA<br />
(ng/ml)<br />
<br />
CYFRA21-1<br />
(ng/ml)<br />
<br />
NSE<br />
(ng/ml)<br />
<br />
3. Độ nhạy, độ đặc hiệu của kết hợp<br />
các dấu ấn.<br />
<br />
Nhóm người bình<br />
thường<br />
<br />
2,51 ±<br />
1,02<br />
<br />
3,38 ±<br />
1,63<br />
<br />
13,35 ±<br />
5,56<br />
<br />
Nhóm UTP<br />
<br />
9,67 ±<br />
4,46<br />
<br />
13,38 ±<br />
5,35<br />
<br />
74,53 ±<br />
11,74<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
< 0,05<br />
<br />
Trong 126 BN UTP, 103 BN có tăng một<br />
trong 3 marker CEA + CYFRA21-1 + NSE,<br />
99 BN tăng CEA + CYFRA21-1, 96 BN<br />
tăng CYFRA21-1 + NSE và 88 BN tăng<br />
NSE + CEA.<br />
<br />
Nhãm nghiªn cøu<br />
<br />
p<br />
<br />
Tất cả 3 marker nghiên cứu đều cao<br />
hơn đáng kể ở nhóm BN UTPKTBN so<br />
với nhóm chứng khỏe mạnh. Các giá trị<br />
trung bình của CEA và CYFRA21-1 đều<br />
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm.<br />
Không có maker nào liên quan với giới,<br />
tuổi. Kết quả này phù hợp với những nghiên<br />
cứu trước đây. Tuy nhiên trong nghiên cứu<br />
này, giá trị các marker CEA,CYFRA21-1,<br />
NSE ở nhóm UTP thấp hơn nghiên cứu của<br />
Nguyễn Minh Hải, Nguyễn Hữu Lân…,<br />
chúng tôi cho rằng khác biệt này do BN<br />
của chúng tôi ở giai đoạn I-II, trong khi<br />
các nghiên cứu khác chủ yếu ở giai đoạn<br />
III-IV.<br />
Bảng 4: Độ nhạy, độ đặc hiệu của CEA,<br />
CYFRA 21-1, NSE.<br />
DÊu Ên<br />
Gi¸ trÞ<br />
<br />
CEA<br />
<br />
Cyfra<br />
<br />
DÊu Ên<br />
<br />
CEA +<br />
CYFRA + NSE<br />
<br />
CEA +<br />
CYFRA<br />
<br />
CEA +<br />
NSE<br />
<br />
CYFRA +<br />
NSE<br />
<br />
Se (%)<br />
<br />
93%<br />
<br />
89%<br />
<br />
78%<br />
<br />
86%<br />
<br />
Sp (%)<br />
<br />
97%<br />
<br />
88%<br />
<br />
75%<br />
<br />
81%<br />
<br />
Gi¸ trÞ<br />
<br />
Bộ 3 marker CEA + CYFRA + NSE có<br />
độ nhạy, độ đặc hiệu cao nhất, sau đó là<br />
giá trị tương quan của CEA + CYFRA và<br />
CYFRA + NSE, cuối cùng là CEA + NSE.<br />
Chúng tôi phân tích mối liên quan giữa<br />
các marker khác nhau; NSE không liên<br />
quan với bất kỳ marker nào khác. Chỉ<br />
thấy mối liên quan đáng kể giữa CEA và<br />
CYFRA21-1 (rs = 0,318, p = 0,003).<br />
<br />
NSE<br />
<br />
Se (%)<br />
<br />
77/126<br />
(61%)<br />
<br />
104/126<br />
(83%)<br />
<br />
79/126<br />
(63%)<br />
<br />
Sp (%)<br />
<br />
71/100<br />
(71%)<br />
<br />
87/100<br />
(87%)<br />
<br />
65/100<br />
(65%)<br />
<br />
CYFRA21-1 có độ nhạy và độ đặc hiệu<br />
cao nhất (83% và 87%), tiếp theo CEA<br />
đạt độ nhạy 61% và độ đặc hiệu 71%.<br />
Còn NSE đạt độ nhạy và độ đặc hiệu thấp<br />
<br />
74<br />
<br />
Bảng 5: Độ nhạy, độ đặc hiệu khi kết<br />
hợp các dấu ấn.<br />
<br />
* Độ xác thực của dấu ấn sinh học trong<br />
chẩn đoán UTP:<br />
Sử dụng cách tính diện tích dưới đường<br />
cong để xác định độ chính xác chẩn đoán<br />
của các marker khác cho thấy diện tích<br />
dưới đường cong ROC (AUC) là 0,90<br />
(0,86 - 0,95) đối với CYFRA21-1, 0,78<br />
(0,71 - 0,84) đối với CEA, 0,68 (0,60 - 0,76)<br />
đối với NSE.<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 8-2014<br />
CEA<br />
<br />
CYFRA 21-1<br />
<br />
Độ<br />
nhạy<br />
<br />
Độ<br />
nhạy<br />
<br />
Độ đặc hiệu<br />
<br />
Độ đặc hiệu<br />
NSE<br />
<br />
Độ<br />
nhạy<br />
<br />
Độ đặc hiệu<br />
<br />
Hình 1: Biểu đồ đường cong ROC và diện tích dưới đường cong (AUC)<br />
<br />
của<br />
<br />
các marker CYFRA21-1, CEA và NSE.<br />
Hondenrieder S và CS (2010) nghiên cứu trên 181 BN, trong đó, 53 BN bị UTP tế bào nhỏ,<br />
128 BN bị UTPKTBN, tác giả nhận thấy: độ xác thực của NSE trong UTP<br />
<br />
tÕ bµo nhỏ lên<br />
<br />
đến 93,9%, còn trong UTPKTBN ®é x¸c thùc cña CYFR21-1 là 88,2%, của NSE là 86,4% và<br />
của CEA là 82,9% (dựa trên tính diện tích AUC của đường<br />
<br />
cong ROC). Theo Zaleska M<br />
<br />
và CS (2010), khi UTP ë giai đoạn IIIB và IV, ngưỡng CYFRA21-1 > 10 ng/ml và NSE > 20<br />
ng/ml rất có ý nghĩa chẩn đoán, lúc đó độ xác thực của 2 xét nghiệm này trên BN UTP là > 90%<br />
[5, 7, 8].<br />
KẾT LUẬN<br />
Nghiên cứu các marker CEA, CYFRA21-1 và<br />
NSE trên 100 BN UTP, chúng tôi nhận thấy:<br />
- Nồng độ các marker CEA, CYFRA21-1,<br />
NSE ở BN UTP lần lượt là: 9,67 ± 4,46,<br />
<br />
75<br />
<br />
13,38 ± 5,35, 74,53 ± 11,74 ng/ml. Có sự<br />
khác biệt rõ rệt giữa nhóm chứng và nhóm<br />
bệnh (p < 0,01).<br />
- Giá trị chẩn đoán của các marker:<br />
CYFRA21-1 có giá trị độ nhạy, độ đặc hiệu<br />
cao nhất (83 và 87%), CEA: 61% và 71%,<br />
NSE: 63% và 65%.<br />
<br />