CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÔNG TY THƯƠNG MẠI - XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Địa chỉ liên hệ
+ Trụ sở chính : Số 71 Bạch Đằng- Quận Hai Bà Trưng- Hà
Nội
+ Tên giao dịch : VIETRCIMEX
+ Điện thoại : 049875636
+ Số Fax : 04.8763567
+ Tài khoản của công ty : Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2. Lịch sử hình thành của công ty
Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp nhà
nước thuộc Tổng công ty thương mại và xây dựng (trước kia là Tổng công ty
xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng vật tư ) trực thuộc Bộ Giao Thông Vận
Tải. Với diện tích là 8327 mét vuông theo hợp đồng số 34678/ĐC/ND/HĐND
ký ngày 30/08/1999, khu đất trên đã trải qua quá trình phát triển và sử dụng
như sau:
- Ngày 31/01/1993 Bộ trưởng Bộ GTVT ra quyết định số
130/QĐ/KHĐT, Cảng Hà Nội giao toàn bộ khu đất bao gồm nhà xưởng, nhà
văn phòng, nhà kho, bãi cho Tổng công ty XNK, sản xuất cung ứng vật tư
GTVT.
- Ngày 09/05/1996 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số
989/QĐ/TCCB/LĐ cho phép thành lập “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”.
- Ngày 28/10/1999 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định
số967/QĐ/BGTVT cho phép thành lập DNNN “ Công ty Mỹ nghệ và Trang
trí nội thất” trên cơ sở chuyển đổi tổ chức “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”.
- Ngày 16/12/1999 ông Tổng Giám đốc Tổng công ty Thương mại và
Xây dựng (trước kia là Tổng công ty XNK, sản xuất, cung ứng vật tư GTVT)
ra Quyết định số 54/QĐ/TCLĐ giao cho công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và Trang
trí nội thất toàn bộ mặt bằng 8327 mét vuông bao gồm nhà làm việc, kho
xưởng và các công trình trên khu đất làm trụ sở và sản xuất, kinh doanh.
- Ngày 13/09/2001 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số
3017/QĐ/BGTVT về việc đổi tên doanh nghiệp nhà nước “ Công ty Mỹ nghệ
và Trang trí nội thất” thành “ Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng”.
Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ,
đồ chơi, quà lưu niệm, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,
phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi...xây dựng công trình giao thông vận
tải công nghiệp và dân dụng.
Hiện nay, công ty đang dùng 4000 mét vuông mặt bằng làm nhà kho,
xưởng sản xuất và nhà văn phòng, số còn lại làm sân, cây xanh và đường đi
bộ
3. Quá trình phát triển
Cùng với sự vận động trưởng thành, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm và cải tiến khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ, công nghệ
kỹ thuật mới, công ty đã không ngừng cố gắng vươn lên theo kịp nhịp sống
của thời đại và trưởng thành nhanh chóng cho kịp xu hướng phát triển của nền
kinh tế thế giới. Công ty đã không ngừng mở rộng qui mô sản xuất kinh
doanh, cải tiến mặt hàng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, kết hợp nội
lực và ưu thế từ bên ngoài môi trường kinh doanh, công ty đã đạt được những
thành tựu nhất định và không ngừng phát triển, đưa tập thể bước đi những
bước vững chắc.
Chính nhờ sự cố gắng không ngừng vươn lên đó, từ khi chỉ là một phân
xưởng nhỏ bé được nâng cấp lên thành “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất
khẩu và trang trí nội thất”. Từ chỗ chỉ với mục đích giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động dư thừa của tổng công ty bằng những công việc thủ
công thuần tuý, đã có sự cải tiến khi chuyển sang công nghệ sản xuất mới. Đó
là sự cải tiến về mặt công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành
nguyên nhiên vật liệu, chuyển đổi từ những chất liệu gốm sứ làm bằng đất sét
sang chất liệu nhựa tổng hợp với bột đá tự nhiên, và nguyên liệu thạch cao...
các sản phẩm của công ty cũng ngày một phong phú hơn (các loại ca, cốc, búp
bê, đồ chơi...). Bên cạnh đó công ty còn mở rộng quy mô sản xuất thêm nhiều
xưởng sản xuất mới như xưởng sản xuất đồ mộc, xưởng sản xuất đồ nhựa.
Nhưng khi đó sản phẩm của công ty chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường trong
nước và chưa tìm được đầu ra cho thị trường thế giới. Vì vậy, sản xuất vẫn
mang tính manh mún, thủ công, thị trường không ổn định, hoạt động kinh
doanh phát triển không đồng đều.
Sau hơn 3 năm không ngại gian khó (từ năm 1996 đến 1999), xí nghiệp
luôn tìm cách vươn lên bắt nhịp cùng nhịp sống của cơ chế thị trường. Xí
nghiệp luôn tìm cách xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với trình
độ sản xuất của mình, củng cố thị trường trong nước và luôn tìm kiếm, khai
thác, thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh việc không ngừng cải tiến mẫu mã,
sáng tạo ra những phương thức làm việc mang lại hiệu quả kinh tế cao, xí
nghiệp luôn tìm hiểu, nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng, để có thể thoả
mãn nhu cầu của khách hàng cũng như có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển
của mình. Đến khi được nâng cấp thành “ Công ty Thương Mại -Xây Dựng
Bạch Đằng “, thì không chỉ kinh doanh những ngành nghề đơn thuần với công
nghệ thủ công là chính nữa mà nó đã được nâng cấp lên ở mức cao hơn với
chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang
trí nội thất, gia công hàng xuất khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ, nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu
dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may
mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện máy và lắp giáp điện tử XNK uỷ thác,
kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ đoàn, xây dựng công trình giao thông
thủy lợi công nghiệp và dân dụng.
Trên đà phát triển không ngừng của công ty. Trong thời gian ngắn, nhờ
sự cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, phong phú chủng
loại, các mặt hàng của công ty ngày càng xuất hiện ở nhiều nơi, có mặt trên
khắp các thị trường cả trong và ngoài nước, thu hút được sự chú ý, quan tâm
của nhiều người tiêu dùng, giá trị thương hiệu của công ty cũng dần được
nâng lên.
Hiện nay, công ty đã thu hút được 250 lao động thường xuyên với mức
lương bình quân là 750.000đ/người/tháng và đang trên đà tăng trưởng mạnh,
đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Trong thời gian tới,
công ty sẽ tiếp tục chọn, đào tạo thêm 100 lao động, công nhân kỹ thuật để
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trong những năm qua Công ty
Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước,
nộp tiền thuê đất đầy đủ và nộp tiền vào ngân sách nhà nước nhiều tỷ đồng.
Từ đó ta có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của công ty khá
thần tốc. Đó là nhờ vào sự nỗ lực của nội bộ công ty cùng với những chính
sách ưu đãi của Bộ GTVT dành cho công ty. Từ một phân xưởng nhỏ trước
năm 1996, giờ đây công ty đã trưởng thành và tự thân vận động không ngừng
lớn mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường quốc tế.
Từ chỗ thị trường tròng nước chiếm ưu thế, hiện nay thị trường quốc tế là
một thị trường trọng điểm của công ty mà công ty chưa khai thác được hết
tiềm năng nhưng không hề bỏ qua thị trường trong nước với hơn 70 triệu dân,
thu lợi cho nhà nước nhiều tỷ đồng. Giờ đây, Công ty Thương Mại -Xây
Dựng Bạch Đằng (trực thuộc Bộ GTVT), có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng theo quy định của nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, công ty
có tài khoản tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Về mặt hàng kinh doanh
xuất nhập khẩu nằm trong danh mục hàng hoá đã được Bộ Thương Mại phê
duyệt và nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu với số lượng và giá trị hàng
hoá tương đối lớn.
2.Chức năng và nhiệm vụ chung của công ty
2.1. Chức năng
Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng là một DNNN thuộc “Tổng
công ty xây dựng- Thương mại “ thuộc Bộ GTVT có các chức năng chính sau:
+ Sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện
máy và lắp ráp điện tử. Nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế
trong và ngoài nước.
+ Tổ chức xuất nhập khẩu và kinh doanh phương tiện vận tải, kinh doanh
kho bãi theo giấy phép kinh doanh của công ty phù hợp với quy chế hiện hành
của Nhà nước. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.
2.2. Nhiệm vụ
Với những chức năng trên, công ty có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty theo
quy chế hiện hành phù hợp.
+ Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý xuất nhập khẩu. Thực hiện các
chính sách về thuế nộp ngân sách nhà nước.
+ Kinh doanh đúng mặt hàng, theo đúng ngành nghề đã đăng ký và mục
đích chung của công ty.
+ Bảo toàn và sử dụng tài sản được giao theo đúng chế độ của nhà nước
quy định, đạt hiệu quả kinh tế xã hội và tăng cường điều kiện vật chất cho cán
bộ CNV của công ty.
+Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và các biện pháp khuyến
khích vật chất, tinh thần đúng chế độ chính sách của nhà nước, đảm bảo mức
lương tối thiểu và cải thiện đời sống người lao động.
+ Đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ nghiệp vụ
chuyên môn.
+ Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng trình độ tổ
chức quản lý, phát huy năng lực kinh doanh, tăng năng suất lao động, thực
hiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với hiệu quả cao.
+ Tổ chức và nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nắm vững nhu
cầu thị hiếu tiêu dùng để hoạch định chiến lược Marketing đúng đắn, đảm bảo
cho kinh doanh của đơn vị được chủ động ít rủi ro và mang lại hiệu quả tốt.
II.CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY .
1.Bộ máy quản trị
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC.
Giám đốc
Phó GĐ
Phòng KHSX Phòng TCKT Phòng dự án Phòng bảo vệ Phòng KD-XNK Phòn g TCH
Xưởng cơ khí Xưởng đồ chơi 1.1.Ban Giám đốc
* Chức năng
- Ban Giám đốc là những người điều hành chính về mọi hoạt động chính
của công ty.
- Đại diện cho quyền lợi của cán bộ công nhân viên dưới quyền.
* Nhiệm vụ
- Chịu trách nhiệm về mọi hành vi của công ty trước pháp luật.
- Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, thực
hiện theo đúng qui định của nhà nước ban hành.
1. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban bộ phận trực thuộc công ty
1.2.Phòng KD-XNK
* Chức năng
- Tổ chức tốt khâu KD-XNK , phương tiện vận tải kho bãi theo giấy phép
kinh doanh của công ty phù hợp quy chế hiện hành của nhà nước.
- Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.
- Tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và trong nước.
- Quản lý phòng mẫu, trực tiếp chỉ đạo tổ mẫu thực hiện và triển khai
mẫu mã, đáp ứng kịp thời với khách hàng.
* Nhiệm vụ
- Triển khai công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo thương hiệu của
công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Trực tiếp làm các thủ tục xuất, nhập khẩu của công ty, xuất nhập khẩu
uỷ thác. Trực tiếp ký kết, khai thác hàng gia công xuất khẩu, gia công sản xuất
và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Giám đốc công ty về hiệu quả công
việc.
- Đàm phán và dự thảo hợp đồng thương mại trong nước, quốc tế, trình
Giám đốc duyệt.
- Xây dựng bảng giá bán hàng trong nước, xây dựng Catologue cho hàng
hoá, xây dựng chương trình quảng ba thương hiệu của công ty.
- Lập kế hoạch sản xuất hàng hoá nội địa, lập các đơn hàng hợp đồng
xuất khẩu.
- Giao kế hoạch sản xuất và hợp đồng xuất khẩu cho phòng KHSX thực
hiện, giám sát, kiểm tra phòng KHSX thực hiện từng hợp đồng, đơn hàng
(đảm bảo đúng chất lượng, chủng loại, số lượng, thời gian).
- Trực tiếp giao nhận hàng hoá với khách hàng (được biểu hiện bằng các
bảng kê chi tiết hàng hoá có ký nhận của khách hàng).
- Theo dõi, quản lý các điểm bán hàng, các khách hàng và trực tiếp thu
hồi công nợ
- Được phép khai thác kinh doanh hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá bán
trong nước (nhưng phải lập phương án trình Giám đốc duyệt trước khi thực
hiện ).
- Nắm bắt thông tin kinh tế, các văn bản chính sách của nhà nước về
công tác xuất nhập khẩu.
1.3.Phòng tổ chức hành chính
* Chức năng
- Tổ chức tốt bộ máy quản lý điều hành công ty có hiệu quả.
- Công tác tổ chức lao động, chế độ tiền lương, Bảo hiểm xã hội và
thường trực hội đồng thi đua
- Công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ.
* Nhiệm vụ
* Về công tác tổ chức lao động, chế độ, tiền lương:
- Quản lý hồ sơ của CBCNV từ cấp trưởng phòng trở xuống, quản lý và
theo dõi diễn biến nhân sự của toàn công ty.
- Xét tuyển lao động, tiếp nhận lao động, làm thủ tục ký hợp đồng lao
động ngắn hạn, dài hạn, thử việc, lao động thời vụ, đề nghị sa thải, chấm dứt
hợp đồng lao động đối với cán bộ CNV không thực hiện đúng theo hợp đồng
lao động, khi công ty không có nhu cầu sử dụng hoặc đối tượng lao động vi
phạm các quy chế, quy định của công ty.
- Thực hiện giải quyết các chế độ có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của người lao động, các chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng theo
quy định của công ty và các văn bản quy định khác của nhà nước.
- Báo cáo định kỳ 6 tháng/lần về lao động, tiền lương và các hình thức
bảo hiểm với các cơ quan quản lý khác.
- Kết hợp với các phòng và Hội đồng thi đua kiểm tra, giám sát, đôn đốc
CBCNV thực hiện tốt quy chế, quy định về giờ giấc làm việc và công tác thực
hành tiết kiệm.
* Về công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ:
- Quản lý toàn bộ tài sản cố định, tài sản văn phòng công ty (trang thiết bị
văn phòng, xe cộ, điện nước...)
- Sắp xếp bố trí xe cộ, phương tiện phục vụ cán bộ công ty đi công tác.
- Tổ chức cuộc họp, hội thảo, Đại hội của công ty.
- Phục vụ lễ tân, tiếp khách, phục vụ lãnh đạo
- Quản lý dấu theo quy định của bộ Công an và quy định sử dụng của
Giám đốc, quản lý lưu trữ hồ sơ, tài liệu các văn bản pháp quy của nhà nước,
các quyết định, công văn đến, đi có liên quan đến mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tổ chức của công ty.
- Quan hệ đối ngoại với các cơ quan quản lý hành chính, chính quyền địa
phương, các đơn vị trong địa bàn và với cơ quan quản lý cấp trên.
- Kết hợp với công đoàn, đoàn thanh niên chăm la tới đời sống, văn hoá
xã hội, thăm nom ốm đau, hiếu hỉ của cá nhân, gia đình CBCNV công ty.
- Bí mật mọi công tác tổ chức lao động, tổ chức cán bộ, không phát tán
số liệu, tài liệu khi chưa có ý kiến của lãnh đạo.
1.4.Phòng tài chính kế toán
* Chức năng
- Quản lý toàn bộ tài sản ( vô hình và hữu hình của công ty ): hàng hoá,
tiền tệ, vốn, các khoản thu, chi, tiền lương cán bộ công nhân viên trong công
ty. Quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính của công ty.
- Định hướng xây dựng kế hoạch về công tác tài chính ngắn hạn, dài hạn,
tìm các biện pháp tạo nguồn vốn và thu hút nguồn vốn.
- Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư của công ty. Cân đối và sử dụng
các nguồn vốn hợp lý, có hiệu quả.
* Nhiệm vụ
- Báo cáo định kỳ quyết toán tài chính, báo cáo nhanh mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh để Giám đốc kịp thời điều chỉnh.
- Tham gia thẩm định các dự án đầu tư dài hạn, đầu tư bổ xung mở rộng
sản xuất kinh doanh .
- Kiểm tra chứng từ thanh quyết toán của công ty ( kể cả của các đơn vị
thành viên) đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước trước
khi trình Giám đốc duyệt.
- Hướng dẫn chỉ đạo các đơn vị thành viên đang được hạch toán kinh tế
nội bộ trong công ty thực hiện đúng quy định về tài chính kế toán của nhà
nước, của công ty.
- Được phép đề nghị duyệt các phương án kinh doanh, đề nghị cấp vốn,
cho vay vốn đối với các phương án của từng đơn vị lên công ty đúng thời hạn
và theo chỉ số quy định.
- Chỉ đạo các kế toán viên của các đơn vị trong việc hạch toán, lập bảng
biểu, ghi chép sổ sách chứng từ...theo đúng quy định của nhà nước, của công
ty.
- Được phép đề nghị thay đổi kế toán của các đơn bị thành viên khi
không làm đúng chức năng, làm sai nguyên tắc, làm sai quy định và hướng
dẫn của công ty.
- Chủ động quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan nghiệp
vụ (tài chính, thuế, ngân hàng).
- Trình duyệt lương hàng tháng của CBCNV đảm bảo chính xác và đúng
kỳ hạn.
1.5.Phòng dự án
* Chức năng
- Lập hồ sơ dự thầu, lập dự toán, bóc tách dự toán và thẩm định dự toán.
- Lập dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh ngắn hạn, dài hạn,
quản lý các dự án đầu tư đã và đang thực hiện đảm bảo có hiệu quả nhất.
- Lập các dự án, phương án kinh doanh, liên kết, hợp tác với các đối tác
trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh.
* Nhiệm vụ
- Quan hệ đối ngoại, tìm kiếm các dự án xây dựng công trình giao thông,
xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng thuỷ lợi...
- Giao cho các xí nghiệp, đơn vị đội thi công, triển khai thực hiện hợp
đồng thi công.
- Theo dõi kế hoạch tiến độ thi công, chất lượng công trình, quản lý
nguồn nhân lực, quản lý máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và các chi phí
khác.
- Đệ trình Giám đốc duyệt các dự án đầu tư hoặc bổ xung nhiệm vụ cho
các đơn vị thành viên.
1.6.Phòng kế hoạch sản xuất
* Chức năng
- Quản lý theo dõi việc mua bán vật tư theo đúng thời điểm, chủng loại,
số lượng, giá thành hợp lý và làm thủ tục nhập, xuất kho theo trình tự quy
định của công ty.
- Quản lý công tác kỹ thuật, công tác sáng kiến cải tiến trong sản xuất,
điều chỉnh, sửa đổi quy trình công nghệ...
* Nhiệm vụ
- Chỉ được phép triển khai các đơn hàng, các hợp đồng sản xuất do
phòng KD-XNK chuyển giao.
- Trực tiếp quản lý kho vật tư, kho hàng hoá, xuất hàng theo phiếu nhập
kho của phòng KD-XNK.
- Quản lý nhân lực sản xuất, giờ giấc làm việc, định mức vật tư nguyên
liệu, định mức lao động.
- Tìm tòi, nghiên cứu, hoặc cải tiến các biện pháp quản lý nguyên, nhiên
vật liệu, vật tư, giảm chi tiêu, tiêu hao nguyên liệu ngày một tốt hơn, hoàn
thiện hơn.
- Được phép đề nghị Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm Quản đốc, phó
Quản đốc của các phân xưởng sản xuất.
- Được phép thay đổi các tổ trưởng tổ sản xuất theo đề nghị của Quản
đốc phân xưởng.
- Được phép đề nghị phòng TCHC trình Giám đốc buộc thôi việc hoặc
các hình thức kỷ luật khác đối vơí người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật,
chống đối lệnh sản xuất hoặc vi phạm các nội quy, quy chế của công ty.
- Có trách nhiệm phải hoàn thành kế hoạch, đơn hàng, hợp đồng sản xuất
của phòng KD-XNK chuyển giao và chịu sự giám sát, kiểm tra về chất lượng
sản phẩm, chủng loại, thời gian giao hàng của phòng KD-XNK.
- Có những biện pháp tích cực trong việc mới công nghệ để nâng cao
năng lực sản xuất, giảm định mức vật tư, giảm giá thành sản phẩm đảm bảo có
tính chất cạnh tranh cao.
1.7.Phòng kinh doanh thiết bị
* Chức năng
- Tham mưu cho Giám đốc công ty về công tác kinh doanh máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải. Trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh thiết bị thi
công công trình và các phương tiện vận tải.
* Nhiệm vụ
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh thiết bị của công ty, lập dự án kinh
doanh của phòng gắn liền với kế hoạch sử dụng vốn trong quý, năm gửi
phòng TCKT để trình Giám đốc công ty duyệt.
- Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh tế do Giám đốc công ty giao, đảm bảo
doanh số và lợi nhuận.
- Chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về hiệu quả kinh tế đối với
từng phương án kinh doanh đã đề ra.
- Trực tiếp quản lý, điều hành tổ bảo dưỡng, sửa chữa, phục chế máy
móc thiết bị. Trực tiếp làm thủ tiếp nhận hàng hoá (máy móc, thiết bị) quản lý
và bảo vệ hàng hoá đảm bảo an toàn.
1.8.Phòng bảo vệ
* Chức năng
- Bảo vệ an toàn, an ninh trật tự trong phạm vi mặt bằng của công ty.
- Bảo vệ tài sản của công ty, tài sản của CBCNV (phương tiện đi lại)
* Nhiệm vụ
- Phân công bố trí lực lượng thường trực trong phạm vi quản lý của công
ty 24/24 tháng. Phân công trực cụ thể do trưởng phòng bảo vệ đảm nhận.
- Kiểm tra, giám sát CBCNV thực hiện nội quy, quy chế của công ty (giờ
giấc đi làm, chấp hành mọi nội quy, quy chế trong sản xuất).
- Kiểm tra, giám sát vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị...của công ty khi
mang ra, vào địa phận của công ty.
- Thường xuyên canh gác, tuần tra trong địa phận của công ty quản lý,
đặc biệt là sau giờ hành chính, kịp thời phát hiện các trường hợp gây mất trật
tự, gây nguy hiểm cho người và thiết bị.
- Làm tốt công tác thường trực phòng chống lũ lụt, cháy, nổ...của công
ty.
- Được phép ra, vào vị trí công nhân làm việc (nhưng không ảnh hưởng
đến sản xuất) để kịp thời kiểm tra, nhắc nhở người lao động thực hiện tốt nội
quy, quy chế của công ty và ngăn chặn các hành vi vi phạm.
- Được quyền khám, xét tư trang của CBCNV ra, vào công ty nếu thấy có
nghi ngờ trộm cắp tài sản hoặc đưa vào công ty những chất dễ cháy nổ, hàng
quốc cấm...
1.9.Các trung tâm, xí nghiệp, phân xưởng sản xuất
- Các trung tâm, xí nghiệp, nhà máy thuộc công ty phải thực hiện theo
đúng sự uỷ quyền và phân cấp quản lý của Giám đốc công ty, được thể hiện
trong quyết định thành lập và thể chế hoá ở quy chế tổ chức và hoạt động của
từng đơn vị.
- Chịu sự kiểm tra, giám sát của các phòng, ban nghiệp vụ của công ty,
đặc biệt là công tác tổ chức, công tác tài chính kế toán và thực hiện nghiêm
chỉnh theo pháp lệnh của nhà nước.
- Phải hạch toán đầy đủ mọi chi phí, thực hiện báo cáo đầy đủ đúng định
kỳ theo tháng, quý, năm.
- Phải chấp hành thực hiện chỉ tiêu kinh tế được Giám đốc giao thực hiện
hàng năm gồm:
+ Doanh số:
+ Lợi nhuận:
- Thực hiện các khoản trích nộp phí lên công ty nghiêm chỉnh đúng kỳ
hạn.
- Thực hiện tốt chế độ quản lý, sử dụng người lao động theo quy định của
nhà nước, của công ty.
- Thực hiện trả lương và đóng các loại bảo hiểm cho người lao động,
cũng như các chế độ quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước, của công ty.
- Các khoản đầu tư tài sản cố định, mua sắm trang thiết bị máy móc có
giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), các đơn vị phải có công văn trình giám
đốc công ty duyệt mới được thực hiện.
Trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo phòng
- Trưởng phòng phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc công ty về mọi
hoạt động công tác của phòng mình.
- Trưởng phòng được phép đề nghị Giám đốc chấm dứt hợp đồng lao
động đối với nhân viên của phòng mình, bãi miễn hoặc đề bạt các phó phòng
giúp việc cho mình.
- Được phép đề nghị định biên của phòng trên cơ sở pháp lý và khoa học
đảm bảo sự hoạt động của phòng ổn định, có hiệu quả.
- Các trưởng phòng khi có nhiệm vụ đi công tác, phải có trách nhiệm bàn
giao công việc cho các phó phòng bằng văn bản cụ thể. Phó phòng phải chịu
hoàn toàn trách nhiệm trước trưởng phòng và Giám đốc công ty về những
công việc được giao.
III. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tổng doanh thu
3230
5250
18475
25320
Doanh thu XNK
2325,5
4620
16627,5
29184
DT từ tiêu thụ trong nước
904,5
630
1847,5
5046
0
2,5
2,5
4,05
10,63
DT thuần
3227,5
5247,5
18470,95
25219,37
Giá vốn hàng bán
2220
3775
15179
21505
Lợi nhuận gộp
1007,5
1472
3291,85
3714,37
Chi phí bán hàng
300
400,5
984
1040
Chi phí quản lý
205,5
900,4
1469
1820
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
502
171,6
838,95
854,37
LN thuần từ HĐTC
-60
-75,27
-286,62
-33
LN bất thường
62,5
53
10
-22
Tổng LN trước thuế
504,5
149,33
562,33
799,37
Thuế TNDN
161,44
47,79
179,95
255,8
LN sau thuế
343,06
101,54
382,58
543,57
Bảng 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 4 năm
gần đây.
1.Phân tích tình hình kinh doanh của công ty
Doanh thu bán hàng liên tục tăng trong 4 năm qua, từ 3230 tr.đ năm 1999
lên 25230 tr.đ năm 2002. Điều này chứng tỏ quy mô sản xuất kinh doanh của
công ty ngày càng được mở rộng, mặt hàng kinh doanh phong phú hơn, số
lượng hàng hoá nhiều hơn. Có thể là quy mô sản xuất được mở rộng qua việc
công ty thu hút thêm số lượng lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động.
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh là 502 tr.đ năm 1999 sau đó giảm xuống
còn 171,6 tr.đ năm 2000 và tăng dần lên vào các năm 2001 và 2002 là 838,95
và 854,37 tr.đ. Có được kết quả trên chúng ta có thể có nhận xét như sau:
doanh thu liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh năm 2000 lại giảm so với năm 1999. Như vậy có thể là do
năm 2000 doanh nghiệp phải chi phí lớn cho chi phí bán hàng hoặc chi phí
quản lý, hoặc do tăng các khoản giảm trừ. Chi phí bán hàng năm 1999 là
205,5 tr.đ nhưng đã tăng lên là 900,4 tr.đ, một con số quả là không nhỏ đối
với một doanh nghiệp có tổng doanh thu là 5250tr.đ.
Như vậy, năm 2000 so với năm 1999:
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh giảm mặc dù tổng DT tăng là do chi phí
quản lý tăng làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty giảm.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng giảm từ –60 xuống –75tr.đ
Lợi nhuận từ HĐBT giảm từ 62,5 xuống 53tr.đ
Từ sự suy giảm trên làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty cũng giảm từ
343,06tr.đ xuống còn 101,54 tr.đ . Như vậy năm 2000 so với năm 1999 công
ty sản xuất kinh doanh có chiều hướng giảm sút, ngược với xu thế phát triển,
có thể là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân mà chúng ta sẽ được tìm hiểu
sau như thị trường thế giới biến động theo chiều hướng xấu, hay sản phẩm
của công ty không đáp ứng được với nhu cầu của người tiêu dùng...
Năm 2001 so với năm 1999:
Doanh thu bán hàng năm 2001 là 18475tr.đ tăng so với 5250tr.đ năm
2000.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý năm 2001 đều tăng so với năm 2000
nhưng ở một tỷ lệ phù hợp hơn sơ với tổng doanh thu.
Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh năm 2001 là 838,95tr.đ so với năm 2000 là
171,6tr.đ. Lợi nhuận từ HĐTC vẫn giảm từ –75,27tr.đ xuống –286,62 tr.đ ,
chứng tỏ lĩnh vực tài chính doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Lợi
nhuận từ hoạt động BT cũng giảm từ 53 tr.đ xuống 10 tr.đ nên về mặt này
doanh nghiệp cũng không đạt hiệu quả kinh doanh. Như vậy, năm 2001 doanh
nghiệp đã đạt hiệu quả kinh doanh về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, điều chỉnh
lại mức lợi nhuận so với năm 2000. Kết quả là lợi nhuận sau thuế của doanh
nghiệp tăng từ 101,54 tr.đ lên tới 382,58 tr.đ, một kết quả đáng khen của công
ty trong tình hình hiện nay cũng nhờ vào sự nỗ lực của toàn công ty cũng như
kế hoạch cụ thể của ban quản lý trong việc giảm chi phí bán hàng và chi phí
quản lý nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận sau
thuế.
Năm 2002 so với năm 2001:
Tổng doanh thu tăng từ 18475tr.đ lên 25230tr.đ . Đó là một kết quả đáng
mừng đối với toàn công ty. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng là điều
tất nhiên vì tỷ lệ thuận với doanh thu, làm cho lợi nhuận từ HĐ kinh doanh
tăng từ 838,95 lên 854,37 tr.đ.
Lợi nhuận từ HĐTC từ mức thâm hụt là -286,62 lên mức thâm hụt nhỏ
hơn là -33tr.đ, kết quả này làm cho lợi nhuận sau thuế tăng lên.Trong khi
HĐTC có dấu hiệu khả quan thì lợi nhuận HĐBT vẫn giảm từ lãi 10 triệu
xuống thâm hụt –22 triệu đồng làm cho lợi nhuận sau thuế giảm xuống, nhưng
mức giảm này nhỏ hơn so với mức tăng của lợi nhuận từ HĐ kinh doanh và
mức giảm thâm hụt từ HĐTC nên LN sau thuế của doanh nghiệp năm 2002
tăng lên so với năm 2001, tăng từ 382,58 tr.đ lên 543,57 tr.đ
Chúng ta vừa phân tích sơ bộ tình hình kinh doanh của công ty trong 4
năm gần đây. Nhìn vào bảng biểu ta cũng thấy một thực tế là tổng doanh thu
từ thị trường xuất khẩu liên tục tăng và ở mức cao hơn nhiều so với DT từ thị
trường trong nước. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường tiêu thụ chính của doanh
nghiệp đã và đang dần thay đổi. Từ thị trường trong nước sang thị trường xuất
khẩu và hướng mạnh về thị trường này. Nên doanh thu tăng trong những năm
qua cũng có một phần là do chiến lược kinh doanh của công ty đã thay đổi.
Đó cũng chính là lý do mà chi phí bán hàng của công ty tăng chậm trong khi
chi phí quản lý tăng nhanh để tìm kiếm và thâm nhập thị trường nước ngoài.
Đó là chiến lược kinh doanh đúng đắn của công ty trong tình hình hiện nay
khi mà xu hướng toàn cầu hoá đang và sẽ tác động đến mọi ngành nghề, mọi
thành phần kinh tế, hơn nữa trong thời gian tới Việt Nam sẽ chính thức gia
nhập AFTA, là một sự kiện kinh tế to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các doanh
nghiệp đang tồn tại. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được
thì không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà phải có chiến lược thâm nhập
thị trường quốc tế - một thị trường đầy cơ hội nhưng cũng đầy thách thức với
sự cạnh tranh cao, rủi ro cao luôn luôn đi cùng với siêu lợi nhuận.
Cũng từ bảng trên ta thấy: lĩnh vực kinh doanh chính mang lại lợi nhuận
cho công ty là lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Còn về hoạt động tài chính và
hoạt động bất thường thì hầu như không thu được lợi nhuận. Như vậy doanh
nghiệp cần có kế hoạch phân phối nguồn đầu tư hợp lý hơn nữa để nguồn vốn
đâù tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao.
2.Đánh giá các hoạt động quản trị của doanh nghiệp
Đơn vị tính : 1000.000đ
Đã thực hiện
Dự kiến thực
Dự kiến thực
Tổng số nộp ngân sách Đơn vị tính
5 tháng
hiện
hiện 6 tháng
6 tháng
2003
- Thuế GTGT
Triệu
1650,8
430
2081
đồng
- Thuế TNDN
Tr đ
67
- Phụ phí cấp trên
Tr đ
547.5
343,7
891,2
- Thuế khác
Tr đ
29,6
Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách và phân phối lợi nhuận
Sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh Công ty đều tính toán lợi nhuận và
phân bổ lợi nhuận cho các phòng ban theo tỷ lệ thích hợp
Biểu trên cho ta thấy được tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà
nước. Công ty đã làm đúng nghĩa vụ của mình và kinh doanh theo đúng luật
pháp.
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này, doanh nghiệp phải
tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ)
cung cấp cho thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Muốn vậy, doanh
nghiệp phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định để tạo ra sản phẩm đầu ra
có giá trị cao hơn đầu vào và tiêu thụ được. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử
dụng các nguồn lực này bao nhiêu thì sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi
nhuận bấy nhiêu. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm đi
thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng không giới hạn.
Quy luật khan hiếm bắt buộc mọi người phải lựa chọn và trả lời chính xác 3
câu hỏi là : sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Vì thị
trường chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào sản xuất đúng loại sản phẩm
(dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mặt khác, mọi doanh nghiệp
kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập
phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh
tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh và đồng
thời cũng đề ra những định hướng mang tính chiến lược, kế hoạch trong từng
điều kiện cụ thể.
2.1.Về chiến lược kinh doanh
Trong thời gian qua, chiến lược của doanh nghiệp đã có sự thay đổi về
mặt thị trường từ thị trường trong nước là chính chuyển sang thị trường xuất
khẩu, với việc thâm nhập vào thị trường này Công ty Thương Mại -Xây Dựng
Bạch Đằng đã phải chi phí rất nhiều cho công tác tìm kiếm thị trường, và
khối quản lý đã làm rất tốt công tác này đặc biệt là mảng thị trường và mảng
mạng trong phòng KD-XNK. Tuy nhiên, vì là người mới gia nhập thị trường
xuât khẩu nên KD-XNK cũng có những thuận lợi và cũng không ít khó khăn.
Về thuận lợi: sản phẩm của công ty rất được người tiêu dùng ưa chuộng
do mẫu mã phong phú, phù hợp với thị hiếu của từng nhóm khách hàng, lại là
một sản phẩm mới tham gia xuất khẩu nên công ty cũng được sự giúp đỡ của
rất nhiều ban, ngành như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính...sản phẩm được sản
xuất ở thị trường lao động rẻ nên giá thành thấp, hấp dẫn người tiêu dùng.
Về khó khăn: Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nhà kinh doanh,
nhà phân phối lớn ở thị trường nước bạn, sản phẩm của ta chưa có uy tín trên
thị trường nước ngoài, về thị hiếu của người tiêu dùng cũng thay đổi mà ta
cần phải tốn chi phí lớn để nghiên cứu...
Nhưng với những thành công bước đầu mà Công ty Thương Mại -Xây
Dựng Bạch Đằng đã đạt được, chúng ta tin tưởng vào chiến lược đúng đắn của
công ty trong thời gian qua và có thể kết luận rằng hướng đi của công ty là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và điều kiện sản
xuất kinh doanh của công ty. Hy vọng rằng trong thời gian tới, Công ty
Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng và có
chiến lược thị trường đúng đắn mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2.2.Về hoạt động Marketing
Thị trường càng rộng lớn thì tính ổn định càng không cao, nên bộ phận
Marketing ngày càng giữ một trách nhiệm to lớn. Chiến lược Marketing là
một trong 4 bộ phận cấu thành Mar-Mix, nhu cầu và sở thích của con người
ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp, sản xuất và tiêu dùng không phải
lúc nào cũng ăn khớp với nhau, nếu không có chiến lược Mar phù hợp thì
sản xuất khó mà ăn khớp với tiêu dùng. Khi đó tình trạng thừa hoặc thiếu
hàng sẽ xảy ra làm lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả kinh doanh. Chính vì
vậy, mỗi doanh nghiệp phải có một chiến lược Marketing phù hợp với tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Trong thời gian qua, bộ phận Marketing của công ty đã có được những
kết quả rất đáng khen, biểu hiện ở việc doanh thu ở thị trường trong nước ổn
định, thị trường xuất khẩu thì được khai phá và đang phát triển cả chiều rộng
lẫn chiều sâu. Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng luôn có mặt ở các
phiên triển lãm ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên...và cả trung tâm thương mại miền nam thành phố Hồ Chí Minh...
Mặt hàng của công ty đã được nhiều người tiêu dùng biết đến và chấp
nhận, giá trị tài sản vô hình tăng lên, thương hiệu khẳng định vững chắc hơn
và uy tín được nâng lên cùng với chất lượng. Đặc biệt là sự thâm nhập thành
công vào thị trường xuất khẩu có công rất lớn của bộ phận Marketing trong
việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, vấn đề tiếp thị
sản phẩm của công ty, vấn đề xây dựng kênh phân phối và xúc tiến bán hàng
đã được bộ phận Marketing thực hiện khá tốt.
2.3.Về tổ chức nhân sự
Ngày nay, người tổ chức phải tìm kiếm cơ cấu tổ chức thích hợp với sự
thay đổi thường xuyên của môi trường đồng thời cũng phải thường xuyên
nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Đối mặt với những khó khăn trong cơ chế kinh tế mới, đặc biệt là sự
phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, với những thuận lợi cũng như
khó khăn, chúng ta thử tìm hiểu xem Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch
Đằng đã làm được những gì và hạn chế trong việc giải quyết công ăn việc
làm, xây dựng một đội ngũ tổ chức hợp lý như thế nào. Với hơn 250 lao động
sản xuất trực tiếp sản xuất, so với tiềm năng phát triển của công ty trong thời
gian tới, thì Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng cần phải tuyển thêm
một đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất nữa mới đáp ứng được nhu cầu đề ra.
Bàn về một vấn đề gì chúng ta cũng phải đi từ cái cũ cho đến cái mới và phải
đi từ thực tiễn vì mọi chân lý đều phải bắt nguồn từ thực tiễn. Trong những
năm qua, cơ cấu tổ chức của Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng có
thể nói là khá hợp lý để duy trì sự phát triển của mình và quản lý CBCNV
thực hiện đúng quy chế. Về vấn đề tuyển thêm lao động, công ty luôn có
những lớp học việc cho công nhân mới vào nghề còn bỡ ngỡ, chưa thành thạo
trong công việc. Ngoài ra, hàng năm thường xuyên cử cán bộ đi học những
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chuyên môn, về việc nắm bắt tình hình kinh tế
mới ...các phòng ban trong công ty luôn luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau
trong công việc để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình vì mục tiêu chung
của công ty.
2.4.Tình hình quản trị
Bộ máy quản trị là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh ở tầm vĩ mô, nếu như khu trung tâm này hoạt động tốt thì những hoạt
động ở tầm vi mô mới thu được kết quả như mong muốn được. Ban giám đốc
của công ty mặc dù chỉ có hai người nhưng đã thực hiện đúng chức năng và
nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất, vì mục tiêu chung của công
ty, nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi và đã đạt được những kết quả đáng mừng.
Tuy nhiên trong thời gian tới, khi mà thị trường ngoài nước đang phát triển thì
nhiệm vụ của ban quản trị cũng rất nặng nề. Công ty cần có một đội ngũ quản
trị có trình độ cao để giải quyết tốt nhiệm vụ quản trị trong thời gian tới với
hiệu quả cao trong công việc. Để làm được như vậy thì Công ty Thương Mại -
Xây Dựng Bạch Đằng đang từng bước cải tiến bộ máy quản trị này, công ty
luôn cử một số cán bộ theo học các lớp quản trị chuyên sâu, để mỗi một cán
bộ quản trị đều có kiến thức chuyên môn hoá hoạt động quản trị hay vạn năng
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao phù hợp với thời đại mới và sự phát
triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức với những kỹ năng, kỹ xảo của đội
ngũ lao động quản trị.
2.5.Về chất lượng sản phẩm và các hoạt động khác
Chất lượng sản phẩm của công ty đã nâng lên rõ rệt do sự thay đổi chất
liệu sản phẩm và cải tiến mẫu mã, đã được người tiêu dùng đánh giá cao.
Trong thời gian tới hy vọng rằng, công ty vẫn giữ vững được ưu thế sản phẩm
của mình và cố gắng phát huy hơn nữa để có thể chiến thắng trong cạnh tranh
về mọi mặt, để không chỉ là một doanh nghiệp non trẻ hiện nay nữa mà sẽ trở
thành một doanh nghiệp có tên tuổi, không phải núp dưới bóng người anh cả
là Tổng công ty Xây Dựng –Thương mại nữa. Chúng ta sẽ hy vọng và không
bao giờ thất vọng cả vì một tương lai tươi sáng của thị trường xuất khẩu của
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam .
Các hoạt động khác của doanh nghiệp cũng không có gì phải tranh cãi
nhiều, bởi vì các bộ phận đó đêù hoạt động hiệu quả như phòng bảo vệ, phòng
dự án, phòng kinh doanh thiết bị ... đều đang trong quá trình hoạt động tốt
cùng với sự phát triển đi lên của công ty. Mỗi một phòng ban đều có chức
năng hoạt động riêng biệt và nhiệm vụ cụ thể. Nên các phòng ban trong công
ty cần phát huy hơn nữa ưu thế của mình và hạn chế những khuyết điểm, sai
lầm
IV. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
1. Đặc điểm về thị trường
Thị trường đầu ra chính cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty
bao gồm 2 mảng thị trường là thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.
Trong đó, thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 30% khối lượng sản phẩm,
phần còn lại được tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Nên đẩy mạnh xuất khẩu là
một trong những chiến lược quan trọng nằm trong chiến lược tiêu thụ sản
phẩm của Công ty. Trong mảng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
thì Công ty tập trung vào những thị trường xuất khẩu chính như Nhật Bản,
Tây Âu,…bên cạnh một số thị trường nhỏ lẻ khác mà Công ty mới thâm nhập
được, nhưng khối lượng sản phẩm ở những thị trường này không nhiều chủ
yếu là hàng thủ công mỹ nghệ chứ không có những mặt hàng khác như hàng
đồ chơi, hay sắt mỹ nghệ. Từ vấn đề mấu chốt thị trường ta hoạch định chiến
lược kinh doanh cho từng giai đoạn và có những chính sách phù hợp với chiến
lược tiêu thụ sản phẩm của Công ty, chủ yếu tập trung vào thị trường quốc tế
và vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những nội dung quan trọng cần
giải quyết.
2. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là hàng thủ công mỹ nghệ chiếm trên
30% khối lượng sản phẩm, ngoài ra là các mặt hàng như Gốm Sứ, hàng Đồ
chơi, hàng Mây tre, hàng Sắt mỹ nghệ và hàng tạp phẩm. Hàng thủ công mỹ
nghệ là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, sau đó đến hàng Đồ chơi,
những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại phân xưởng của Công ty, hiếm
khi Công ty phải đi thu mua hàng từ các cơ sở sản xuất khác nên Công ty có
thể chủ động trong việc nhận và thực hiện đơn hàng. Đến nay, trong danh sách
các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu vẫn là 6 nhóm mặt hàng chính,
Công ty đang từng bước thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nghiên cứu thêm
nhiều nhóm mặt hàng mới, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng
hoá chất lượng nguồn nguyên liệu tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất
lượng khác nhau phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng.
3.Cơ cấu lao động
Công ty gồm 270 cán bộ CNV. Trong đó có 65 cán bộ làm công tác quản
lý (23,7%) và số còn lại là công nhân trực tiêp sản xuất và người lao động làm
thuê theo hợp đồng lao động.
Đứng đầu công ty là Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 1 phó Giám đốc.
Dưới Ban Giám đốc là các phòng ban trực thuộc, những phòng ban này
được chia thành hai khối là khối kinh doanh và khối quản lý.
+ Trong khối kinh doanh có các phòng ban như : phòng KD-XNK,
phòng KHSX, phòng kinh doanh thiết bị, (gồm xưởng cơ khí và xưởng đồ
chơi).
+ Trong khối quản lý có các phòng ban như : phòng TCHC, phòng dự án,
phòng TCKT.
Ngoài ra, công ty còn có văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố khác.
4.Đặc điểm ngành nghề kinh doanh
Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề : sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ
chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công
hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nguyên
vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,
phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may mặc,
đồ da, kim khí, hoá chất, điện máy và lắp ráp điện tử xuất nhập khẩu uỷ thác,
kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ hành, xây dựng công trình giao thông
vận tải, thuỷ lợi công nghiệp và dân dụng.
5.Thiết bị công nghệ máy móc
Là một doanh nghiệp thương mại kiêm sản xuất với chức năng hoạt động
rộng rãi đa ngành nghề, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng sản xuất
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là chính, còn các ngành nghề khác như xây
dựng công trình giao thông thủy lợi, kinh doanh nông lâm thuỷ sản, kim khí
hoá chất, kinh doanh hàng may mặc...chỉ là những ngành nghề mang tính thời
vụ của công ty. Hiện nay, nhìn chung trang thiết bị công nghệ máy móc của
công ty còn khá sơ sài, chưa có gì là hiện đại cả so với các doanh nghiệp khác.
Một phần là do lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty quyết định, do sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi trang thiết bị công nghệ hiện đại
mà chủ yếu là dựa vào trình độ tay nghề của công nhân, nên công ty chú trọng
đến khâu đào tạo đội ngũ công nhân viên mới vào nghề qua các khoá học việc
(thường là 6 tháng ). Lĩnh vực kinh doanh còn lại của công ty chủ yếu là vấn
đề thương mại bán hàng, công ty có đầu tư thêm 30 chiếc xe tải chở hàng
phục vụ cho công tác chuyên chở hàng hoá. Hiện nay, trong cảng của công ty
luôn có 7 chiếc máy xúc hiệu Hàn Quốc và cần cẩu hàng hoá (5 chiếc) tại mặt
bằng cạnh sông Hồng.
6.Tình hình cung ứng nguyên vật liệu
Trước kia, khi công ty còn là xưởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trường
tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và
chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao
và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và
chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nhiên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng hợp,
polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn nguyên
liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên liệu có
sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành. Hàng
ngày công ty có bộ phận chuyên phụ trách về vấn đề nguyên liệu cung cấp
cho công nhân sản xuất trực tiếp tại phân xưởng. Và bộ phận này chuyên ký
kết cũng như giao dịch với các nguồn cung ứng nguyên liệu để vận hành bộ
máy sản xuất của doanh nghiệp. Bộ phận chuyên trách vấn đề cung ứng
nguyên vật liệu chịu trách nhiệm trước trưởng phòng kế hoạch sản xuất và
thống kê đơn giá, số lượng nguyên vật liệu chuyển vào hàng ngày, hàng
tháng, quý một cách cụ thể.
7.Đặc điểm về tài chính của công ty
Đơn vị tính : 1000.000đ
Vốn cố định
Vốn lưu động
Năm
Tổng vốn
Số tiền
Tỷ lệ%
Số tiền
Tỷ lệ %
2000
6455
2662,8
41,25
3792,2
58,75
2001
8770
2506
28,57
6264
71,43
2002
10131
3431
33,87
6700
66,13
Biểu hình 1.1 : Tình hình vốn kinh doanh của công ty
Nhìn vào biểu trên ta thấy tổng số vốn kinh doanh của công ty tăng đều
qua các năm. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất
khả quan. Hàng năm tỷ trọng vốn lưu động luôn luôn cao hơn tỷ trọng vốn cố
định. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Do công ty có chức năng chính là kinh
doanh thương mại nên tỷ trọng vốn lưu động cao hơn vốn cố định là rất tốt.
Riêng năm 2001 VLĐ tăng lên 71,43% trong khi vốn cố định giảm xuỗng còn
28,57% là do công ty nhận thức được tầm quan trọng của việc kinh doanh tiêu
thụ hàng hoá nên hướng mạnh vào thị trường này để phát triển sản xuất khi
thị trường tiêu thụ mở rộng đối với một số mặt hàng chủ chốt của công ty như
kinh doanh hàng may mặc, hàng nông lâm thuỷ sản, kim khí hóa chất...thúc
đẩy tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu. Nhưng đến năm 2002 thì VCĐ tăng lên
là 33,87% làm giảm tỷ lệ VLĐ xuống. Do công ty đã đầu tư thêm trang thiết
bị, nhà xưởng để mở rộng quy mô sản xuất, tuyển thêm lao động mua thêm
một số tài sản cố định khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Điều
đó chứng tỏ rằng công ty đã có một chiến lược kinh doanh hợp lý với từng
giai đoạn phát triển riêng biệt phù hợp với tình hình tài chính của công ty và
phù hợp với những thay đổi của smôi trường kinh doanh trong giai đoạn mới.
Số đầu năm
Số cuối kỳ
Tài sản
Mã số
(VNĐ)
(VNĐ)
100
I. TSLĐ và đầu tư ngằn hạn
31850102075
47173797477
4395846364
11378854531
1. Tiền
110
758035686
760001585
-Tiền tồn quỹ
111
3637810678
10618852946
-Tiền giửi ngân hàng
112
-Tiền đang chuyển
113
2. Các khoản đầu tư tài chính
120
ngăn hạn
- Đầu tư tài chính ngắn hạn
121
- Đầu tư ngắn hạn khác
128
- Dự phòng giảm giá đầu tư
129
ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
130
12126456867
14260345292
- Phải thu của khách hàng
131
12012801463
13306249407
- Trả trước cho người bán
132
- Thúe GTGT được khấu trừ
133
- Phải thu nội bộ
134
+ Vốn kinh doanh ở các đơn
135
vị nôi bộ
+ Phải thu về
136
+Phải thu nội bộ khác
137
- Các khoản phải thu khác
113655404
274020685
138
- Dự phòng phải thu khó đòi
139
4. Hàng tồn kho
140
9921625050
16285769250
- Hàng mua đang đi đường
141
- NVL tồn kho
142
1966500
4980500
- Công cu, dụng cụ trong kho
143
11004
11000
- Chi phi SXKD dở dang
144
9919647546
16288777750
- Thành phẩm tồn kho
145
- Hàng hoá tồn kho
146
- Hàng gửi đi bán
147
- Dự phòng giảm giá hàng tồn
149
kho
150
5. Tài sản lưu đông khác
5406173794
5248828404
- Tạm ứng
152
3907276683
4063736550
- Chi phí trả trước
152
922328100
509830819
- Chi phỉ chờ kết chuyển
153
545436875
554513489
- Tài sản thiếu chờ sử lý
154
- Các khoản ký cược
155
31132136
120747546
6. Chi sự ngiệp
160
- Chi sự nghiệp năm trước
161
- Chi sự nghiệp năm nay
162
Tình hình quản lý các loại tài sản lưu động
V.CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
Kinh doanh trên thị trường quốc tế, phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về
cạnh tranh gay gắt
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ
CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI-XÂY DỰNG BẠCH
ĐẰNG
I.ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ
1.Tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh
vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh
tranh. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải tự hạch toán kinh
doanh nên Công ty đã tận dụng tối đa mọi cơ hội kinh doanh để tìm được
nguồn đơn đặt hàng cho mình. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty đang có sự
cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Thị trường đầu ra lúc
này như là mảnh đất đầy dinh dưỡng nuôi sống cả tập thể công nhân viên
trong công ty, có được thị trường hay không, có nhiều hay ít thị trường sẽ
quyết định đến sự tồn tại, hay diệt vong của mình. Do đó, mở rộng thị trường
là điều kiện tất yếu để công ty tồn tại và phát triển.
Đến nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt ở trên 30
quốc gia tới các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong lĩnh vực kinh doanh của
mình, công ty đã thực hiện tốt các đơn đặt hàng đảm bảo chất lượng hàng cho
nhà phân phối, tạo lòng tin cho khách hàng để ổn định và tiếp tục phát triển
khu vực bạn hàng của Công ty. Quy mô mặt hàng xuất khẩu tuy chưa lớn
nhưng đã đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Công ty hàng ngàn USD, đóng góp
vào ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm, duy trì và nâng cao dần thu
nhập cho cán bộ nhân viên và công nhân lao động trực tiếp tại phân xưởng.
Kết quả kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty theo
khu vực được thể hiện
Đơn vị : 1000 USD
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Khu vực
3008,47
10578
15073
27750
Bắc Mỹ
4037,6
24570
38048
48076
EU
4013,89
10764,5
17576
30015
Nhật Bản
2054
4578
7786
10015,7
Đông nam Á
5075
10101,4
7875,7
7877,9
Trung Nam Mỹ
2071,4
57363
8197,3
15371,4
Thị trường Nga
1511,5
2014,7
2517,6
3001,5
Thị trường khác
Tổng
19792,37
68342,6
97055,6
142.107,5
(Nguồn : Phòng kinh doanh Xuất Nhập khẩu)
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của Công ty
trong những năm gần đây liên tục tăng, đặc biệt là có sự tăng trưởng mạnh
vào năm 2002. Đó là một tín hiệu đáng khả quan đối với cả tập thể cán bộ
công nhân viên của Công ty trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Bảng trên cũng cho ta thấy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là
thị trường Bắc Mỹ, Nhật Bản và EU. Hiện nay, thị trường Nhật Bản là một
trong những thị trường có nhu cầu lớn nhất về nhiều loại hàng thủ công mỹ
nghệ cũng như các sản phẩm khác mà Công ty xuất khẩu như sản phẩm
Gương, Hàng Đồ chơi, Hàng Sắt. Bên cạnh đó là một số thị trường mới nổi
lên như thị trường Đông Nam á với hơn 500 triệu dân đang là một trong
những hướng phát triển chủ đạo của Công ty trong thời gian tới.
Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường xuất khẩu lớn của rất nhiều sản
phẩm chủ lực của Việt Nam như sản phẩm dệt may, hàng da dày, hàng thủ
công mỹ nghệ,…với những ưu thế hơn hẳn so với các thị trường tiêu thụ khác
trên thế giới như mức cầu lớn, thu nhập bình quân đầu người cao, EU là khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Nắm bắt được thị hiếu của người
tiêu dùng Châu Âu, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã đầu tư cơ
sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu vào khu vực này, đẩy mạnh xúc tiến bán
hàng, tiếp thị, đặt những trụ sở giao dịch, các văn phòng đại diện, đồng thời
Công ty cũng thường xuyên tham gia những Hội trợ triển lãm, trưng bày
những Showroom tại các trung tâm Thương mại lớn như London, Paris,
Berlin,…Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm qua liên
tục tăng, từ 4037,6 nghìn USD năm 1999 lên tới 48.076 nghìn USD năm
2002. Dự kiến trong tương lai kim ngạch xuất khẩu vào EU vẫn tiếp tục tăng.
Hiện nay, EU đang là một trong những thị trường chủ đạo của Công ty. Thị
trường tiêu thụ chủ yếu của khu vực này là Pháp và Đức.
Tỷ trọng thị phần của một số thị trường chủ yếu của Công ty
Đơn vị tính : %
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Khu vực
Bắc Mỹ
15,2
15,48
15,53
19,53
EU
20,4
35,95
39,2
33,83
Nhật Bản
20,28
15,75
18,12
21,12
Đông Nam á
10,38
6,7
8,02
7,05
Trung Nam Mỹ
15,64
14,78
8,11
5,54
Thị trường Nga
10,46
8,39
8,45
10,82
Thị trường khác
7,64
2,95
2,59
2,11
Tổng
100
100
100
100
Thị trường xuất khẩu của Công ty phân bố không đều, tập trung vào một
số thị trường chính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, trong đó chủ yếu là thị
trường EU luôn luôn chiếm ưu thế hơn hẳn so với các thị trường khác chiếm
20,4% năm 1999 sau đó tăng mạnh vào năm 2000 và năm 2001 với 39,2%
doanh thu từ xuất khẩu của Công ty. Sau một thời gian tăng trưởng mạnh thị
trường này đang có xu hướng suy giảm, từ 39,2% năm 2001 xuống còn
33,83% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong năm 2002.
Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những thị trường chính của Công ty,
với phong tục Phương Đông truyền thống, cũng giống như người Việt Nam
hay Trung Quốc, người Nhật có nhu cầu khá lớn về hàng thủ công mỹ nghệ,
hàng Gốm Sứ và đồ gố. Đó đều là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Công ty. Họ có sở thích tặng nhau những món quà làm bằng đồ Gốm Sứ với
những hoạ tiết mang tính nghệ thuật cao mang biểu tượng của tình yêu, tình
bạn. Nắm bắt được phong cách sống cũng như tâm lý của người Nhật với
truyền thống dân tộc bất khuất, Công ty đã xuất khẩu sang thị trường này
những sản phẩm có biểu tượng của đất nước họ như hình con chuồn chuồn và
khóm khoai, hình tượng võ sỹ đạo,…là những sản phẩm rất được người Nhật
ưa thích và đánh giá cao. Do vậy, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang
thị trường này rất thuận lợi và Nhật Bản luôn là một thị trường có thị phần lớn
của Công ty với doanh thu và quy mô các mặt hàng xuất khẩu liên tục tăng.
Mặc dù có suy giảm trong năm 2001 từ 28,28% xuống còn 15,75% tổng kim
ngạch xuất khẩu nhưng đã khôi phục trở lại vào năm 2002 chiếm 21,12%
tổng kim ngạch xuất khẩu .
Trong những năm qua Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng mới
chỉ xuất khẩu được một lượng khá nhỏ vào thị trường Đông Nam Á, mức cao
nhất là 10,38% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sau đó giảm dần vào các năm
sau. Hiện nay, con số này là 7,05% tổng giá trị kim ngach xuất khẩu, một con
số khá khiêm tốn với một thị trường hơn 500 triệu dân trong khu vực. Một
phần là do tại các nước này có các đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều
kiện tự nhiên, phong tục tập quán có sự giao thoa mang đậm phong cách
Phương Đông. Cho nên, phần lớn các nước trong khu vực này cũng tự mình
sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với chất liệu bằng Gốm, Sứ đáp ứng
nhu cầu của nước đó, không những thế mặt hàng này còn được xuất khẩu ra
nước ngoài trên các thị trường mà Công ty đang tiêu thụ sản phẩm của mình.
Vì vậy, sản phẩm của họ cạnh tranh rất quyết liệt với các sản phẩm của Công
ty trên một số thị trường chủ yếu. Tuy vậy, sản phẩm của Việt Nam vẫn được
khách hàng ưa chuộng trên thế giới thậm chí ta còn cạnh tranh quyết liệt và
chiến thắng ngay tại "sân khách". Có được những kết quả đó là so sản phẩm
của ta có sự tinh xảo trong nghệ thuật, sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân
tộc như bộ bàn ghế mây, chiêc nón bài thơ,…mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất
sang thị trường này chủ yếu là đồ trang trí nội thất, hàng sắt, hàng đồ chơi, vật
dụng gia đình, gương gỗ.
Trung- Nam Mỹ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn của Công ty trong
những năm 1999, 2000 với kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 5075 nghìn
USD chiếm 15,64% sau đó tăng lên 10101,4 nghìn USD chiếm 14,78% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu.Công ty xuất khẩu sang 3 thị trường chính là
Achentina, Braxin, Chilê. Trong 2 năm trở lại đây tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường này đã bị suy giảm chỉ chiếm 8,11% năm 2001 và 5,54%
tỷ trọng năm 2002. Từ năm 2001 do kinh tế Achentina rơi vào tình trạng
khủng hoảng, nên xuất khẩu sang thị trường này giảm đi rõ rệt, thị trường
Braxin và Chilê cũng gặp không ít khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu sang
khu vực thị trường này giảm đi rõ rệt. Từ sự khó khăn trên, Công ty đã phải
tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng sang các thị trường và khu vực thị trường
khác. Với sự nỗ lực của Công ty, trong thời gian ngắn, Công ty đã chuyển
hướng xuất khẩu sang một số thị trường mới như thị trường Trung Đông, đẩy
mạnh xuất khẩu vào thị trường EU để có thể chuyển khu vực thị trường theo
hướng phù hợp hơn.
Đối với thị trường Nga và các nước SNG, sau hơn 10 kể từ khi Liên
Bang Xô Viết tan rã, những điều kiện ưu đãi trước kia không còn nữa, mối
quan hệ kinh doanh với khu vực này ngày càng trở lên khó khăn hơn, kim
ngạch xuất khẩu từ 2017,4 nghìn USD chiếm 10,46% năm 1999 tăng lên
5736 nghìn USD nhưng chỉ chiếm 8,39% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Với
sự cố gắng để duy trì và phát triển một thị trường truyền thống, Công ty
Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã nỗ lực rất nhiều để tăng dần giá trị kim
ngạch xuất khẩu cũng như tăng dần tỷ trọng của thị trường này lên, đến năm
2002 kết quả thật đáng khích lệ cho tập thể cán bộ công nhân viên trong Công
ty với 15.371,4 nghìn USD chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Ba thị trường chính là Nga, Hungari, Sec trong đó chỉ có thị trường Nga là
luôn duy trì lượng đơn đặt hàng thường xuyên, mặt hàng xuất khẩu mạnh sang
khu vực là mây tre, thảm, Gốm Sứ và hàng Đồ chơi.
Đặc điểm của khu vực thị trường này là yêu cầu cao về kỹ thuật, mẫu
mã không quá cầu kỳ nhưng đẹp mắt và gây ấn tượng nên trước đây lượng
hàng xuất khẩu sang thị trường này là rất lớn. Thị phần hàng thủ công mỹ
nghệ của hàng Việt Nam nói chung và hàng của Công ty nói riêng bị mất đi là
do sản phẩm của ta bị cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của Trung Quốc và
các nước trong khu vực như Malaysia, Indonexia, Philippin,…Để khắc phục
những khó khăn trên và giành lợi thế trong cạnh tranh, Công ty đã đầu tư xây
dựng và mở rộng một mạng lưới kho tàng, các cửa hàng và nhiều quầy bán
buôn, bán lẻ trên khắp thị trường Nga và các nước SNG, cử đại diện của Việt
Nam sang và thuê thêm lao động của nước sở tại phục vụ. Mạng lưới này hoạt
động khá hiệu quả và đã đem lại những kết quả đáng mừng, thể hiện ở tỷ
trọng thị phần đang được ổn định chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Công ty vẫn chưa bám sát được những thay đổi,
thị hiếu trên thị trường này, thiếu những mẫu mã mới và những mặt hàng có
chất lượng nên đã để rớt mất mảng lớn trên thị trường này. Mặc dù vậy, đây
cũng là khu vực thị trường có nhu cầu lớn, tiêu thụ được cả những mặt hàng
truyền thống và mặt hàng mới. Do đó, Công ty cần có sự quan tâm đúng mức
và có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của thị trường, khai thác thị trường
với đúng quy mô và tiềm năng sẵn có của nó, tạo ra những sản phẩm mẫu mã
mới, chất lượng cao, giá cả và phương thức thanh toán phù hợp hơn nữa để
tăng sức cạnh tranh trên thị trường này.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khác của Công ty cũng đã có
sự điều chỉnh nhất định, từ 7,64% tỷ trọng năm 1999 xuống còn 2,95% năm
2000 và đến năm 2002 con số này là 2,11% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.
Đây phần lớn là những thị trường nhỏ lẻ, không được đầu tư nhiều về mạng
lưới kênh phân phối nên Công ty không coi đây là thị trường chủ lực. Tuy
vậy, Công ty cũng không bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào để có được những đơn
đặt hàng hấp dẫn.
2.Thực trạng xuất khẩu qua một số năm gần đây
2.1. Quy mô của sản phẩm xuất khẩu
Trong thị trường cạnh tranh quốc tế, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực
nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh,
nên thị phần, lợi nhuận của Công ty luôn luôn có nguy cơ bị san sẻ. Để hạn
chế được áp lực cạnh tranh và có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh Công ty
luôn phải tìm cách tận dụng những lợi thế sẵn có của mình, hạn chế đến mức
tối đa những khó khăn của Công ty, luôn có kế hoạch kinh doanh các sản
phẩm phù hợp với nhu cầu, đồng thời cũng đa dạng hoá sản phẩm tránh tập
trung cao vào một số mặt hàng dẫn đến rủi ro trong xuất khẩu.
Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty
Đơn vị tính : nghìn USD
Tên hàng
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Hàng Đồ chơi
6392,94
17.543,55
27.214,39
38.383,24
Hàng thủ công
5423,11
20.851,33
30.174,59
48.558,13
mỹ nghệ
1048,9
4.114,22
7.347,11
9.336,46
Mây tre
1280,57
5.945,8
8.414,72
7.744,86
Gốm sứ
2456,23
7.367,3
9.851,14
13.741,79
Gỗ mỹ nghệ
1496,3
6.607,3
9.006,76
14.864,44
Sắt mỹ nghệ
1694,23
6.663,4
5.046,89
9.478,57
Hàng tạp
phẩm
Tổng
19.792,37
68.342,6
97.055,6
142.107,5
( Nguồn :Báo cáo kết quả kinh doanh: Phòng Kế toán )
Từ khi thành lập cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là mặt hàng
chủ lực mà Công ty tiến hành xuất khẩu. Qua nhiều năm hoạt động kinh
doanh, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xúc tiến xuất khẩu, thẩm
định giá cả, cải tiến mẫu hàng phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng,
Công ty đã có những khách hàng truyền thống trong lĩnh vực này nên việc trị
giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu liên tục tăng từ 5.423,11 nghìn USD
năm 1999 lên 20.851,33 nghìn USD năm 2000 đặc biệt là vào năm 2002 với
trị giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là 48.558,13 nghìn USD.
Sau hàng thủ công mỹ nghệ thì hàng Đồ chơi chiếm trị giá khá lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ 6.392,94 nghìn USD năm 1999 lên 17.543,55
nghìn USD năm 2000 tăng 11.150,61 nghìn USD. Đến năm 2001 trị giá hàng
Đồ chơi trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 27.214,39 nghìn USD và
năm gần đây nhất con số này là 38.383,24 nghìn USD.
Tỷ trọng cơ cấu hàng xuất khẩu so với tổng số
Đơn vị tính : %
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Tên hàng
Hàng Đồ chơi
32,3
25,67
28,04
27,01
Hàng thủ công mỹ nghệ
27,4
30,51
31,09
34,17
Mây tre
5,3
6,02
7,57
6,57
Gốm sứ
6,47
8,7
8,67
5,45
9,67
Gỗ mỹ nghệ
12,41
10,78
10,15
Sắt mỹ nghệ
7,56
8,79
9,28
10,46
Hàng tạp phẩm
8,56
9,75
5,2
6,67
Tổng
100
100
100
100
(Nguồn : Phân xưởng sản xuất)
Qua bảng trên ta thấy, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là hàng
Đồ chơi và hàng thủ công mỹ nghệ. Năm 1999 tỷ trọng hàng Đồ chơi xuất
khẩu là 32,3% so với tổng số sau đó đến hàng thủ công mỹ nghệ chiếm
27,4%, hàng mây tre chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ là 5,3%, đồ Gỗ mỹ
nghệ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn là 12,41%, hàng Đồ chơi của
Công ty rất phong phú về chủng loại và mẫu mã, kiểu dáng đẹp, nên được tiêu
thụ với một số lượng lớn ở nước ngoài. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công
ty không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị văn hoá sâu sắc, mang
hình tượng về đất nước, con người, mang bản sắc văn hoá dân tộc sâu sắc phù
hợp với truyền thống và phong tục tập quán của nước sở tại.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng xuất khẩu chính
của Công ty , luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ
xuất khẩu. Nếu như năm 1999 tỷ trọng của mặt hàng này là 27,4%thì đến năm
2000 là 30,51% và năm 2001 con số này là 31,09% và năm 2002 chiếm tỷ
trọng là 34,17%. Hầu hết các sản phẩm của Công ty làm bằng chất liệu tự
nhiên như bằng đất sét, hiện nay các sản phẩm này đã được bổ sung bằng các
chất liệu nhân tạo như bằng thạch cao, hay bằng nhựa tổng hợp. Các sản phẩm
như lọ hoa, khay đựng hoa quả, guốc gỗ, tượng phật, và hình tượng chúa
Giêsu, hình Đức mẹ đồng trinh, hay tượng thần Cupid,…các mặt hàng này
được khách hàng nước ngoài đánh giá cao có giá trị nghệ thuật cao, điêu khắc
hoa văn tinh tế và độc đáo. Tuy nhiên mặt hàng này vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có của Công ty.
Mặt hàng Đồ chơi cũng chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng số các
mặt hàng xuất khẩu, nhưng hiện nay mặt hàng này đang dần được thay thế bởi
các mặt hàng khác, từ 32.3% năm 1999 đến năm 2000 là 25,67%, năm 2001 là
28,04%, đến năm 2002 chiếm 27,01%. Hàng Đồ chơi là mặt hàng có chủng
loại phong phú nhất với nhiều mẫu mã, chủng loại, các sản phẩm của Công ty
có sự chọn lọc ở mẫu mã và chất liệu hợp lý có sự thử nghiệm ở một số thị
trường lớn trước khi tung sản phẩm ra thị trường. Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu
của mặt hàng này có suy giảm hơn nhưng trước yêu cầu của sự điều chỉnh cơ
cấu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện của Công ty là một sự sắp
xếp có kế hoạch, có sự tính toán từ trước để phù hợp với xu thế tiêu dùng xuất
khẩu.
Hàng Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ cũng là mặt hàng chiếm tỷ trọng
tương đối trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Với ưu thế hơn hẳn
so với các nước trong khu vực về nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao,
được đào tạo từ Trường Dạy Nghề do chính Công ty tổ chức. Nguồn lao động
này đã tạo ra những sản phẩm có độ tinh xảo trong kiến trúc, hoa văn mang
đậm nét văn hoá của các nền văn hoá khác nhau. Mặt hàng Gỗ mỹ nghệ từ chỗ
chiếm 12,41% tỷ trọng năm 1999 với trị giá 2.456,23 nghìn USD đang có xu
hướng giảm dần và đến năm 2002 chỉ chiếm 9,67% tỷ trọng tương ứng với
13.741,79 nghìn USD.
Còn mặt hàng Sắt mỹ nghệ lại tăng dần trong tỷ trọng các mặt hàng xuất
khẩu. Từ 7,56% năm 1999 lên 8,79% năm 2000, năm 2001 là 9,28% và đến
năm 2002 con số này là 10,46%. Qua đó ta có thể thấy, doanh số xuất khẩu
hàng Sắt mỹ nghệ liên tục tăng qua các năm và dự kiến mặt hàng này sẽ là
một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Công ty. Các mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu là Chân nến, Chao đèn, Giá kệ, Ghế ngồi,… sản phẩm làm từ sắt
rất đa dạng do sử dụng sơn tĩnh điện nên màu sắc đặc trưng thường là màu
đen chì và được kết hợp với một số vật liệu khác để tạo nên một sản phẩm
hoàn chỉnh như khung sắt đựng rượu có quấn mây ở thành tạo nên một sản
phẩm rất ấn tượng, độc đáo, mặt hàng này một phần là Công ty thu gom
nhưng phần lớn Công ty tự sản xuất. Trong thời gian tới, Công ty sẽ xuất khẩu
mặt hàng sắt tự sản xuất chứ không phải thu gom từ nơi khác. khi đó tỷ trọng
mặt hàng sắt mỹ nghệ xuất khẩu sẽ tăng lên.
Sản phẩm Gốm Sứ của Công ty rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã phong
phú, kiểu dáng đẹp, không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị sử
dụng lâu bền. Các loại bình hoa, chậu, đôn, đĩa ấm chén làm bằng Gốm men
rạn, men ngọc, men chảy,… với hoa văn phong phú, độc đáo là những sản
phẩm được rất nhiều khách hàng nước ngoài quan tâm. Bên cạnh đó, Công ty
cũng chú ý thu mua, sản xuất những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc
dân tộc như những tấm bình phong có hình tượng đồng quê, sản phẩm Gốm
với màu xanh đặc trưng khiến khách hàng rất thích.
Tuy nhiên, việc vận chuyển hàng Gốm sứ rất khó khăn vì đây là mặt
hàng cồng kềnh, dễ vỡ nên đòi hỏi phải cẩn thận trong mọi khâu nhất là khâu
vận chuyển, kể cả chèn lót, bốc xếp, chi phí vận chuyển lại cao. Hơn nữa hàng
Gốm Sứ lại chịu ảnh hưởng của sự biến động thị trường và giá cả của mặt
hàng Gốm nên kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng không ổn định, có khi
không đạt được mục tiêu đề ra. Năm 1999 chiếm 6,47% tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu, năm 2000 chiếm 8,7%, năm 2001 chiếm 8,67% và năm 2002 con
số này là 5,45% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra, phải kể đế mặt hàng tạp phẩm, là một mặt hàng chiếm tỷ trọng
đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng tạp
phẩm của Công ty gồm hàng trăm vật dụng, đồ lưu niệm, hàng thêu ren, khăn
trải bàn, túi xách, các mặt hàng thuỷ tinh như lọ hoa, hàng Gương, Kính, Đồ
nội thất gia đình,…năm 1999 hàng tạp phẩm chiếm 8,56% tỷ trọng, năm 2000
chiếm 9,75%, năm 2001 chiếm 5,2% và năm 2002 chiếm 6,67%. Có sự sụt
giảm trong năm 2001 là do tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu tập trung vào một
số mặt hàng chủ đạo như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng Đồ chơi, hàng Gốm
Sứ, Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ. Nhưng trong năm 2002 thì loại hàng này lại
giữ được tỷ trọng trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Hàng Mây tre chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu, sản phẩm chủ yếu là những giỏ quà lưu niệm, trong 4 năm trở lại
đây, tỷ trọng của mặt hàng này chỉ chiếm tỷ trọng khoảng từ 5 đến 7%. Như
vậy, Công ty cần đa dạng hoá hơn nữa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhất là cần
tăng tỷ trọng hàng mây tre vì giá nguyên liệu rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào rất
thuận lợi cho sản xuất, cần nghiên cứu thêm nhu cầu để không làm mất thị
trường đầu ra cho loại hàng này.
2.2. Quy mô thị trường xuất khẩu
Quy mô thị trường xuất khẩu thể hiện ở số lượng thị trường mà hàng thủ
công mỹ nghệ của Công ty đã tiêu thụ được. Hiện nay, hàng thủ công mỹ
nghệ của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục với trên 25 quốc gia trên thế giới,
mặc dù sản phẩm xuất khẩu của Công ty còn phân bố không đồng đều, mới
chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm như Nhật Bản, EU, Mỹ.
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên một số thị
trường chính
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Thị trường
Trị giá
Tỷ
Trị giá
Tỷ
Trị giá
trọng (%)
trọng (%)
trọng (%)
Nhật Bản
4013,89
10763,96
15,75
17586,47
20,28
8,39
8201,2
Nga
2071,4
10,46
5733,94
7182,11
Pháp
950,3
4,8
4237,24
6,2
Đức
1286,5
6,5
5262,38
7,7
6988
Anh
672,94
3,4
2050,29
3,0
2814,6
Thuỵ Điển
514,6
2,6
2597,02
3,8
2960,2
Đan Mạch
205,84
1,04
1407,86
2,06
1950,82
Brazil
1702,14
8,6
6130,33
8,97
7628,57
Italya
150,42
0,76
1052,48
1,54
1514,07
Hàn Quốc
672,94
3,4
2063,95
3,02
2882,55
Đài Loan
494,81
2,5
1845,25
2,7
2057,58
Thổ Nhĩ Kỳ
203,86
1,03
1414,69
2,07
1640,24
Chi Lê
0
0
382,72
0,56
1164,67
Du bai
633,36
3,2
1845,25
2,7
2183,75
Malaysia
0
0
874,78
1,28
1087,02
Singapore
279,07
1,41
2323,65
3,4
2426,39
Philippin
116,78
0,59
1380,52
2,02
3028,13
Mỹ
1900,07
9,6
6424,2
9,4
9812,32
Canada
1108,37
5,6
2262,14
3,31
3202,83
Colombia
354,28
1,79
956,87
1,4
1649,95
Achentina
405,74
2,05
785,94
1,15
0
Arập
2002,99
10,12
6547,22
9,58
9113,52
Tổng
19792,37
100
68342,6
100
97055,6
( Nguồn : Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu )
Qua bảng trên ta thấy được quy mô thị trường xuất khẩu chủ yếu của
Công ty. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục, với giá trị
kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, quy mô thị
trường ngày càng mở rộng, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không ngừng lớn
mạnh.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty vẫn tập trung vào một số thị
trường trọng điểm như Nhật Bản, Nga, Mỹ và EU, thị trường Nhật Bản luôn
dẫn đầu về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với 20,28% tỷ trọng năm 2000,
15,75% năm 2001, 18,12% năm 2002 và một con số kỷ lục 21,12% năm 2003.
Từ đó ta có thể thấy thị trường Nhật Bản có ý nghĩa quan trọng như thế nào
trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương
Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói riêng cũng như sản phẩm thủ công mỹ nghệ
của Việt Nam nói chung. Là một thị trường năng động nhất Châu Á cũng như
của thế giới, Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu lớn của nhiều chủng loại
hàng hoá của ta. Tiếp sau Nhật Bản là thị trường Nga là một thị trường cũng
khá quan trọng với 10,46% tỷ trọng năm 2000, 8,39% năm 2001, 8,45% tỷ
trọng năm 2002 và lại tăng lên 10,82% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm
2003. Đó là do sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong quá trình
thúc đẩy xuất khẩu cộng với yếu tố khách quan là do kinh tế Nga phục hồi trở
lại sau nhiều năm suy thoái, hơn nữa Nga là thị trường có số lượng kiều bào
Việt Nam sinh sống nhiều nhất thế giới, nên chúng ta có điều kiện tốt để tiêu
thụ sản phẩm ở thị trường này, dễ bắt kịp thị hiếu của khách hàng hơn và có
điều kiện nghiên cứu, thăm dò thị trường tốt hơn. Mặc dù đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ trên nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác hết tiềm năng
sẵn có của khu vực thị trường này, vẫn để mất không nhiều đơn đặt hàng lớn
và bị hàng của Trung Quốc, Thái Lan giành mất thị trường. Trong thời gian
tới, Công ty cần có kế hoạch đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, quan tâm
đúng mức tới khu vực thị trường này tương xứng với tiềm năng sẵn có của nó.
Thị trường EU là một mảnh đất màu mỡ cho rất nhiều chủng loại hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam và hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong số đó, các
thị trường tiêu thụ sản phẩm mạnh là Đức, Pháp, Anh. Đây là những thị
trường mà Công ty đã có quan hệ từ lâu nên có lợi thế hơn trong khâu xúc tiến
thương mại và phân phối hàng hoá, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch
Đằng có trụ sở đặt tại các trung tâm kinh tế lớn như Paris, London, Berlin, và
các trung tâm này hoạt động khá hiệu quả, ngoài ra các thị trường khác như
Thuỵ Điển, Italya, Đan Mạch cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Ngày 1 tháng
5 năm 2004 vừa qua, EU đã chính thức kết nạp thêm 10 thành viên nữa vào
khu vực của mình, tiêu dùng đồng tiền chung Châu Âu. Với những chính sách
ưu đãi về hạn ngạch và hàng rào thuế quan, là một thị trường có mức thu nhập
bình quân đầu người cao gần nhất thế giới, trình độ thưởng thức văn hoá cũng
vào loại hàng đầu thế giới, EU là một thị trường đầy tiềm năng cho các chủng
loại hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường khó tính nhưng cũng chiếm
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá cao với 9,6% năm 2000, 9,4% tỷ trọng năm
2001 sau đó tăng lên 10,11% tỷ trọng năm 2002 và có xu hướng giảm vào
năm 2003 với 7,36% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Với hơn 250
triệu dân sinh sống với nhiều chủng loại sắc tộc khác nhau, trong đó kiều bào
của ta khá lớn, thị trường Mỹ luôn là một trong những mảnh đất phì nhiêu
của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, một vấn đề đáng quan tâm là
hàng rào thuế quan của thị trường này khá chắc, chúng ta đã nhận được khá
nhiều bài học từ việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này như xuất khẩu
thuỷ sản, hàng dệt may, với nhiều vụ kiện bán phá giá vu khống của Bộ
Thương Mại Mỹ, chúng ta đã bị khu vực thị trường này làm cho điêu đứng
vẫn biết rằng không phải lỗi của ta. Vì vậy, sống trên mảnh đất màu mỡ
nhưng cũng đầy chông gai này, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng
cần phải rất cảnh giác đề phòng để có thể đối đầu với nhiều mánh khoé của
khu vực thị trường này.
Thị trường Nga là một trong những thị trường truyền thống của nhiều
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm qua, tỷ trọng hàng thủ
công mỹ nghệ của Công ty xuất khẩu vào thị trường này vẫn chiếm một khối
lượng đáng kể với kim ngạch ổn định. Từ khi Liên bang Xô Viết tan rã năm
1991, kinh tế Nga rơi vào tình trạng suy thoái trong một thời gian khá dài, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ ngoại thương giữa 2 nước, xuất khẩu
vào thị trường này giảm sút trong một thời gian khá dài, chúng ta bị hàng của
nước láng giềng Trung Quốc và Thái Lan cạnh tranh gay gắt do họ có những
điều kiện về hải quan hơn ta, hàng của họ có mẫu mã, chủng loại phong phú,
khiến cho chúng ta bị mất khá nhiều đơn đặt hàng và nhiều mảng thị trường
con. Mặc dù vậy, sản phẩm thủ công mỹ nghệ vẫn duy trì được tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu vào thị trường này cho dù có những thời kỳ rơi vào tình trạng
suy giảm nghiêm trọng, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế Nga, mức sống
của người dân được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong mấy năm trở
lại đây, khối lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu vào thị trường này cũng
dần đi vào quỹ đạo, tăng trưởng ổn định. Nhưng tiềm năng của khu vực thị
trường này vẫn là rất lớn và Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng cũng
như các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta cần quan tâm nhiều hơn nữa đến
khu vực thị trường này, cố gắng khai thác hết mọi khả năng có thể tránh lãng
phí, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh.
Bên cạnh thị trường Nga là cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, đây là
một mảng thị trường tương đối hấp dẫn vì chúng ta có quan hệ làm ăn từ
trước với họ nên dễ dàng thâm nhập và triển khai hiệu quả hơn, kinh doanh
trên mảng thị trường này chúng ta gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các
nước xuất khẩu khác như Trung Quốc, Malaysia,…nhưng với những lợi thế
về chất lượng sản phẩm tương đối bền, mối quan hệ làm ăn lâu dài từ trước
nên sản phẩm của ta vẫn xuất khẩu vào thị trường này một tỷ trọng đáng kể,
mặc dù vậy nó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của Công ty.
Một số thị trường chúng ta mới thực hiện triển khai như thị trường
Malaysia, mới có kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm trở lại đây, là một tín hiệu
đáng mừng vì chúng ta có thể cạnh tranh được với sản phẩm của chính nước
sở tại, tiêu thụ được ở thị trường này cho dù tỷ trọng xuất khẩu còn thấp.
Nhưng chúng ta cần cố gắng hơn nữa vì mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn
tiếp theo để có thể chiến thắng trong cạnh tranh trong tiến trình hội nhập
AFTA.
Bên cạnh những thành công đạt được, Công ty cũng gặp phải những khó
khăn nhất định, làm mất không thị phần tại thị trường Achentina, do kinh tế
nước này suy thoái nên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Công ty cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng rơi vào tình
trạng tương tự. Đó là một trong những khó khăn của Công ty mà Công ty cần
có chiến lược chuyển hướng thị trường, giữ vững được tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu.
Ngoài các thị trường xuất khẩu chính của Công ty như kể trên, là các thị
trường nhỏ lẻ, chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ ở các khu vực Châu Mỹ. Những
thị trường này góp phần làm phong phú thêm quy mô thị trường xuất khẩu của
Công ty, cần quan tâm nhiều hơn đến khu vực thị trường này để tăng dần tỷ
trọng xuất khẩu, không phải phụ thuộc quá nhiều vào một số thị trường lớn,
tránh rơi vào tình trạng rủi ro trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau, một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khi nó
có tốc độ tiêu thụ nhanh hơn các sản phẩm cùng loại khác.
Là một doanh nghiệp sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, với đặc trưng của
sản phẩm là không qua nhiều quy trình công nghệ phức tạp mà chủ yếu là hao
phí sức lao động trực tiếp. Nên sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế hơn so
với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. Nó được thể
hiện thông qua giá, chất lượng nguyên vật liệu, kỹ xảo trong hoa văn, và được
thể hiện ở thương hiệu của sản phẩm.
Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào, với hơn 50% dân số là
trong độ tuổi lao động, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với các
nước trong khu vực, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tiền
công lao động còn rẻ. Hơn nữa, là một doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công
mỹ nghệ, nên Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng càng có lợi thế
trong việc tận dụng nguồn lực lao động này, với tính chất của sản phẩm là hao
phí lao động trực tiếp, lao động thủ công là chính nên Công ty đã tận dụng
được đội ngũ lao động thủ công từ nông thôn ra là chính, số lượng lao động
này phần lớn được đào tạo tại Công ty trong quá trình thử việc và học nghề.
Nếu làm việc tốt, và có kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn cao, Công ty sẽ tiếp
tục bồi dưỡng và đào tạo chuyên sâu. Trong những tháng thử việc này, tiền
lương của công nhân chỉ là lương thử việc, nên Công ty tiết kiệm được chi phí
mà vẫn có sản phẩm để tiêu thụ. Đó là một trong những lý do khiến cho sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng có
giá rẻ hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong nước cũng như
trong khu vực.
Ngoài lợi thế về giá rẻ, sản phẩm của Công ty còn có chất lượng nguyên
liệu bảo đảm, Công ty có liên kết với các nhà cung cấp truyền thống, cung cấp
đủ lượng nguyên vật liệu cho Công ty đúng tiến độ và đúng chất lượng, phù
hợp với yêu cầu về chất lượng của khách hàng. Với nhiều chủng loại hàng hoá
tham gia xuất khẩu trong đó chủ yếu là hàng mỹ nghệ, cộng với mặt hàng gỗ
trang trí nội thất, đều là những sản phẩm được gia công chế biến từ nguyên
liệu tự nhiên, nên Công ty cũng có được lợi thế về giá nguyên liệu rẻ vì nước
ta là nước có tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Đó là lý do khiến cho sức cạnh
tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty mạnh hơn trong quá trình
xuất khẩu.
Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp trực
thuộc Bộ Giao Thông Vận tải, nên cũng có nhiều lợi thế hơn khi tham gia thị
trường xuất khẩu. Với sự trợ giúp từ phía các Bộ, ngành nhất là Bộ Thương
mại đã có chính sách trợ giúp về nhiều mặt, về tài chính, về thuế quan và đặc
biệt là về thủ tục hải quan khiến cho sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế
cạnh tranh hơn so với sản phẩm của các nước khác.
Ngoài ra, sức cạnh tranh của sản phẩm còn được thể hiện ở thương hiệu
của sản phẩm, đây là một trong những tồn tại của Công ty vì sản phẩm của
Công ty còn chưa được nhiều khách hàng biết đến. Công ty vẫn phải sử dụng
thương hiệu của nước ngoài để thâm nhập thị trường mới. Để tiêu thụ được
hàng có khi Công ty phải sử dụng thương hiệu của nhà phân phối mới có thể
tiếp cận được thị trường mới và tiêu thụ được sản phẩm một cách dễ dàng.
Đó cũng là khó khăn của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói
riêng và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung khi tham gia thị trường
xuất khẩu. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, thương hiệu là một trong những vấn
đề quan trọng có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và diệt vong của sản
phẩm. Vì vậy, nếu như trong thời gian tới, nếu như Công ty không có kế
hoạch cụ thể cho việc quảng bá thương hiệu của mình thì có thể sẽ là một
thách thức to lớn đối với quá trình xuất khẩu sản phẩm trong tiến trình hội
nhập kinh tế toàn cầu.
Nhìn chung, so với sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong nước và thế giới,
sản phẩm của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn có nhiều vấn
đề cần phải giải quyết nếu như Công ty muốn cạnh tranh được với sản phẩm
của Trung Quốc, Thái Lan,…và sản phẩm của các nước trong khu vực như
Indonêxia, Malaysia. Trong thời gian tới Công ty cần tăng cường sức cạnh
tranh của sản phẩm hơn nữa nếu như muốn chiến thắng trong cạnh tranh, giữ
vững được thị trường xuất khẩu.
3. Chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Công ty
3.1. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường nước ngoài
Nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động mở rộng thị trường ngoài
nước, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã phải tự mình tìm hiểu
đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng, lựa chọn sản phẩm phù hợp
với thị hiếu của khách hàng. Tóm lại là từ khâu ký kết hợp đồng đến kết thúc
hợp đồng xuất khẩu đều do các phòng ban trong Công ty có nhiệm vụ thực
hiện. Vì vậy, Công ty có thành lập một bộ phận nghiên cứu và dự báo thị
trường riêng biệt để thực hiện chức năng chuyên môn hoá của mình, đó là
mảng thị trường của phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Họ thường xuyên cập
nhật thông tin về thị trường xuất khẩu qua đài, báo. mạng Internet, qua các đại
lý, chi nhánh của Công ty trong và ngoài nước, hoặc qua những khách hàng
quen thuộc, các tổ chức của Nhà nước như Sở Thương mại, Phòng xúc tiến
thương mại…Công ty thường xuyên cử các phái đoàn ra nước ngoài để thâm
nhập , tìm hiểu thị trường và tạo lập mối quan hệ làm ăn với khách hàng. Mặc
dù công tác này rất tốn kém nhưng cho phép Công ty đảm bảo thông tin về thị
trường một cách cụ thể và xác thực.
Trên cơ sở đó, Công ty tiến hành sàng lọc, phân tích thông tin, đưa ra
những đánh giá và nhu cầu hiện tại của thị trường. Từ đó, ban lãnh đạo và
Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty có kế hoạch lập các phương
án kinh doanh về số lượng, chất lượng và chủng loại mặt hàng cho xuất khẩu.
Dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp với công tác dự báo thị
trường ( dự báo sức mua, biến động của thị trường…) giúp xây dựng tốt mối
quan hệ với khách hàng nước ngoài và các nguồn cung ứng nguyên liệu trong
nước, duy trì hoạt động kinh doanh lâu dài của Công ty. Kết quả kinh doanh
hiện tại kết hợp với dự báo về nhu cầu, thị trường xuất khẩu trong tương lai
chính là căn cứ để Công ty đề ra các chỉ tiêu kế hoạch năm cho các phòng
ban, và các phân xưởng sản xuất.
3.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại
Thị trường là một trong những mắt xích quan trọng để giành thắng lợi
trong cạnh tranh. Vì vậy công tác xúc tiến thương mại là một sự đầu tư có
chọn lọc để Công ty đánh bại đối thủ trên các mặt trận trong và ngoài nước.
Công ty rất coi trọng việc quảng cáo và chào bán hàng hoá, tìm kiếm khách
hàng mới. Cụ thể như Công ty đã thành lập phòng trưng bày hàng mẫu ở các
khu đô thị sầm uất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ,
Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột. Tại các showrow, Công ty thiết kế trang trí sản
phẩm rất khoa học và đẹp mắt, không gian hài hoà thu hút sự chú ý của khách
tham quan, đặc biệt là du khách nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty còn cử
những nhân viên có ngoại hình giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ để tiếp xúc
và giới thiệu sản phẩm trực tiếp cho du khách. Đó là hình thức quảng bá sản
phẩm của Công ty tới những thị trường tiềm năng mà Công ty chưa vươn tới
được.
Hàng năm, Công ty còn tổ chức các đoàn cán bộ ra nước ngoài để thâm
nhập và tìm kiếm thị trường, tham gia các Hội chợ trong và ngoài nước, để
quảng bá sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng, duy trì các thị trường truyền thống,
mở rộng thêm các thị trường mới, gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng,
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau để tạo một mạng lưới tiêu thụ hàng hoá ổn
định. Trong năm 2003, Công ty đã tổ chức 12 phái đoàn đi khảo sát thị trường
ngoài nước, tham gia các Hội chợ lớn tại Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Hồng Kông, Ai
Cập, Singapore, Philippin, tận dụng tối đa các cuộc tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng ở nhiều nước khác nhau.
Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài đầy tiềm năng, ngoài việc tham
gia các gian hàng tại các Hội chợ quốc tế Công ty không bỏ qua một cơ hội
nào để tiếp cận nguồn đơn đặt hàng, luôn có mặt tại các gian hàng triển lãm,
các Hội chợ tiêu dùng trong nước và quốc tế do Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) hay Bộ Thương mại kết hợp với các tổ chức nước
ngoài thực hiện như triển lãm hàng tiêu dùng Nhật Bản của JETRO năm 2000.
Ngoài ra, Công ty còn quảng cáo sản phẩm của mình qua báo chí, ấn
phẩm, qua mạng Internet.
3.3. Chính sách Marketing
Marketing là mộ
3.4. Chính sách sản phẩm
Công ty chủ chương đa dạng hoá sản phẩm. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ
của công ty có hàng trăm chủng loạị, với nhiều mẫu mã kiểu dáng, màu sắc
phong phú, tạo điều kiện cho khách hàng có thể lựa chọn sản phẩm ưng ý
nhất. Công ty đă quan tâm điều chỉnh cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu
thị trường và thị hiếu của ngường tiêu dùng. Khi phát hiện ra một xu hướng
tiêu dùng đã hình thành trên thị trường hăy lắm bắt được xu hướng tiêu dùng
hiện tại, công ty không ngần ngại tung ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu, giá
cả và chất lượng .
Với chính sách sản phẩm như vậy, Công ty đã và đang tăng dần kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, nâng cao dần sức cạnh tranh của sản
phẩm, thu hút ngày một nhiêu hơn đơn đặt hàng từ các nhà phân phối trong và
ngoài nước, từ đó tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất khẩu.
3.5. Chính sách giá cả
Mục tiêu của Công ty là lợi nhuận ngày một tăng, mà lợi nhuận luôn luôn
tỷ lệ thuận với lượng hàng bán ra. Để duy trì và phát triển được tốc độ tiêu thụ
sản phẩm, ngoài việc sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu, Công
ty còn thực hiện chính sách giá cả hợp lý, có chế độ đãi ngộ phù hợp với
khách hàng mua với khối lượng lớn, hay những nhà phân phối truyền thống
của mình
Công ty thực hiện phân biệt đối tượng thị trường và đối tượng khách
hàng để có chính sách giá cả phù hợp. Giá cả phải được xây dựng trên cơ sở
giá thành sản xuất, giá thành sản xuất phải làm sao thấp đến mức có thể nhất
định để giá cả giảm tương đối so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường,
Công ty phải lấy giá cả là một trong những nhân tố quan trọng để cạnh tranh
với sản phẩm khác. Giá cả được so sánh với giá của các sản phẩm cùng loại
trên thị trường để đảm bảo giá bán không đi chệch xu hướng của thị trường.
Với chính sách giá cả như trên, Công ty đã làm hài lòng nhiều đối tượng
khách hàng cả truyền thống lẫn khách hàng tiềm năng. Trong thời gian tới
Công ty cần phát huy lợi thế của mình trên thị trường.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ CỦA CÔNG TY
1.Những ưu điểm trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của Công ty
Trong những năm qua, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng luôn
luôn đạt được những thành tích đáng mừng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, sản
phẩm của Công ty đã có mặt ở trên 25 nước, và là một trong những doanh
nghiệp dẫn đầu về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ luôn đạt từ 27-30%/ năm, trong đó,
các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao là gốm sứ, sắt mỹ nghệ. Còn các thị
trường có tốc độ tăng trưởng cao là Tây Âu, Nhật Bản và Châu Mỹ. Thị
trường Nga và các nước SNG còn chưa được Công ty đầu tư đúng so với tiềm
năng vốn có của nó. Trong thời gian qua có được những thành tích đáng khích
lệ đối với tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty như vậy là do sự nỗ lực
vượt bậc của toàn Công ty, với tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật và khả
năng sáng tạo của đội ngũ thiết kế mẫu hàng, sự không ngừng học hỏi của cán
bộ công nhân viên trong Công ty, luôn trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp, nâng cao trình độ, nắm bắt thị trường, điều chỉnh cơ cấu mặt hàng cho
phù hợp với sự thay đổi của thị trường từng bước nâng cao hiệu quả kinh
doanh của Công ty.
1.1.Xây dựng kế hoạch xuất khẩu
Công ty dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp công tác dự báo
thị trường để xây dựng kế hoạch kinh doanh. Trong thời gian qua, Công ty đã
xây dựng tốt các mối quan hệ với khách hàng trong và ngoài nước, thực hiện
tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cho các phòng ban và cho toàn Công ty.
Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng từ khâu nghiên cứu và dự báo thị
trường nước ngoài. Đó là quá trình thu thập, xử lý và phân tích số liệu về thị
trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các quyết định quản trị. Một mặt,
mục tiêu cuả nghiên cứu thị trường là xác định thực trạng của thị trường theo
các tiêu thức có thể lượng hoá được. Mặt khác, phải giải thích các ý kiến về
cầu sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng như lý do người tiêu dùng mua
hay không mua sản phẩm. Đó là nhiệm vụ của phòng Kinh doanh-Xuất nhập
khẩu trong việc tìm hiểu đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng và
tiêu thụ sản phẩm.
Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng trên cơ sở những thông tin thu thập
được về thị trường nước ngoài, mảng thị trường tiến hàng sàng lọc, phân tích
thông tin, đưa ra những đánh giá về nhu cầu hiện tại, đồng thời giải thích các
phản ứng của đối thủ trước những chính sách mới của doanh nghiệp, tìm ra
các khả năng có thể ảnh hưởng tới cầu như giá cả sản phẩm, thu nhập của
người tiêu dùng, các biện pháp quảng cáo,…từ đó lập kế hoạch kinh doanh cụ
thể.
1.2.Phương pháp xây dựng kế hoạch
Xuất khẩu là một trong những nội dung của chiến lược tiêu thụ sản phẩm
mà tiêu thụ sản phẩm là một trong 6 chức năng hoạt động cơ bản của doanh
nghiệp. Chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm quyết định hiệu quả của
hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị dịch vụ
Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng giao nhiệm vụ thực hiện kế
hoạch xuất khẩu cho Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu. Họ có bộ phận
nghiên cứu thị trường xuất khẩu riêng, bộ phận này thường xuyên cập nhật
thông tin về thị trường xuất khẩu qua mạng Internet, qua đài, báo, qua các đại
lý, qua thông tấn xã Việt Nam, chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài.
Không những thế phòng ban này còn nghiên cứu thị trường trong nước, tìm
hiểu các đối thủ cạnh tranh ngay tại sân nhà để có kế hoạch sản xuất cho phù
hợp với mức cầu trong và ngoài nước. Chiến lược xuất khẩu được xây dựng
cho từng năm, mỗi năm lại được phân ra từng quý và cứ 6 tháng Công ty lại
tổng kết doanh thu từ xuất khẩu. Trong thời gian ngắn như vậy, cho phép
Công ty có thể có những điều chỉnh phù hợp với năng lực sản xuất và có biện
pháp thúc đẩy xuất khẩu, khắc phục những hạn chế, tăng lợi nhuận phấn đấu
đạt mục tiêu đề ra cho toàn Công ty.
1.3.Tổ chức thực hiện kế hoạch
Công ty đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tổ chức nhiều đợt khảo sát
thị trường nước ngoài, cắt cử những cán bộ nhiệt tình, có năng lực đi về các
làng nghề tìm nguồn hàng cho xuất khẩu, khảo sát thị trường để tìm những
sản phẩm mới, mẫu mã mới làm phong phú thêm danh sách các sản phẩm
tham gia xuất khẩu của Công ty. Từ lãnh đạo cho đến các phòng ban đều thiết
lập mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan thương vụ phục vụ cho công tác tiêu
thụ sản phẩm nói riêng và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói chung.
Công ty còn tích cực tham gia gửi mẫu hàng đi các Hội trợ, triển lãm
nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm trên nhiều thị trường truyền thống cũng
như thị trường tiềm năng, qua các kênh xúc tiến thương mại do Nhà nước,
phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức quốc tế tổ chức.
Công ty đã giữ vững được nhiều thị trường truyền thống như Nhật Bản,
Anh, Pháp, Mỹ,…thâm nhập được một số thị trường mới như Chi Lê,
Mêhicô,…nâng tổng số thị trường xuất khẩu của Công ty lên trên 25 nước,
tăng 4,3 lần so với năm 1999
1.4.Chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, ngoài việc củng cố các thị trường
truyền thống, Công ty không ngừng mở rộng và phát triển thêm các thị trường
mới bằng nhiều phương thức khác nhau. Cụ thể, Công ty đã thành lập phòng
Nghiên cứu và phát triển thị trường có trụ sở tại Hà Nội và phòng Đối ngoại ở
trong Nam để có thể nghiên cứu và khảo sát thị trường một cách sát sao hơn,
cho phép doanh nghiệp dự báo được nhu cầu tương lai, đồng thời có thể
nghiên cứu sự thay đổi chu kỳ sống của sản phẩm đáp ứng nhu cầu phục vụ
cho công tác tiêu thụ sản phẩm nói chung và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói
riêng.
Trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được về thị trường nước
ngoài, Công ty tiến hành phân tích thông tin và đánh giá nhu cầu hiện tại lấy
đó làm căn cứ cho việc lập kế hoạch kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo, xác
định xem tiếp tục sản xuất mặt hàng nào, mẫu mã nào cần phải cải tiến, kiểu
dáng hàng hoá nào đang được người tiêu dùng ưu chuộng và kiểu nào có chu
kỳ sống trong giai đoạn suy thoái. Đó là những căn cứ cho việc lập kế hoạch
sản xuất kinh doanh trong giai đoạn sau đó mà Công ty đã thực hiện rất tích
cực trong thời gian qua.
Hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ngoài nước đã được
Công ty thực hiện khá tốt. Công ty rất coi trọng việc quảng cáo để chào bán
hàng hoá, tìm kiếm khách hàng mới, thành lập phòng trưng bày tại các khu
đô thị sầm uất như Hà Nội, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Nai,…Tại các showroom, Công ty thực hiện khá tốt về không gian trang trí
nội thất, sáng tạo để thu hút sự chú ý của khách nước ngoài, cử những nhân
viên có chuyên môn về thiết kế sản phẩm, thông thạo ngoại ngữ, có khả năng
giao tiếp tốt làm công tác marketing và giới thiệu sản phẩm.
Thực hiện chính sách sản phẩm đa dạng hoá và thích nghi hoá sản phẩm,
ngoài việc tự sản xuất ra sản phẩm, Công ty còn thực hiện việc thu gom những
mặt hàng mà Công ty không tự sản xuất được khi có đơn đặt hàng từ phía đối
tác. Đến nay, Công ty đã xây dựng được hệ thống chân hàng ổn định, tạo thêm
rất nhiều kiểu dáng mới về mặt hàng thủ công mỹ nghệ với nguyên liệu làm
bằng đất sét và làm bằng gốm, thêm vào đó là mặt hàng làm bằng mây tre,
chiếu, có quan hệ với rất nhiều nhà cung cấp, tự tổ chức công việc thu mua
những sản phẩm mây được người nông dân ở khu vực lân cận sơ chế như
Hưng Yên, Bắc Ninh,…Bên cạnh đó, Công ty còn xây dựng và phát triển
thêm các cơ sở chân hàng mới trên nhiều tỉnh trong cả nước để phục vụ tốt
công tác xuất khẩu.
Với chính sách giá cả hợp lý, Công ty có chính sách ưu đãi với những
khách hàng truyền thống để giữ vững được mối quan hệ làm ăn lâu dài này.
Trong việc thực hiện chính sách sản phẩm, chủ trương đa dạng hoá và thích
nghi hoá sản phẩm cũng được Công ty thực hiện khá tốt cùng với công tác xúc
tiến thương mại, khai thác thêm được một số thị trường mới như Chi Lê,
Indonexia,…tiếp tục quay trở lại khai thác thị trường Nga và các nước SNG,
là một thị trường với hơn 300 triệu dân với một lượng cầu khá lớn mà ta đã
không chú ý đúng mức, làm cho hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan tràn lan,
cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá của Việt Nam trong mấy năm gần đây.
Hiện nay, thị trường này đang được Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch
Đằng cũng như các doanh nghiệp nước ta rất quan tâm.
Mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định trong việc thúc đẩy
xuất khẩu, Công ty vẫn chưa đạt được một số chỉ tiêu để ra. Với áp lực cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, Công ty phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa, tích cực
hơn trong công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu
bằng nhiều hình thức trực tiếp cũng như gián tiếp, phấn đấu đạt mục tiêu kế
hoạch trong thời gian trong giai đoạn tiếp theo,
2.Những tồn tại trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Dù đã có mặt trên 25 thị trường trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng
dần qua các năm, nhưng Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vẫn còn
nhiều vấn đề tồn tại trong công tác thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ, cụ thể như:
2.1.Chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm
Hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã có mặt trên 25 nước trên thế
giới, nhưng trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu chỉ tập trung vào một số thị
trường trọng điểm như Nhật Bản, Tây Âu còn các khu vực thị trường khác chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Như vậy công tác
thúc đẩy xuất khẩu còn chưa đồng đều giữa các khu vực. Như vậy, Công ty
còn chưa quan tâm đúng mức đến từng khu vực thị trường, bỏ qua nhiều thị
trường có mức cầu khá cao như thị trường Nga và các nước SNG, để hàng thủ
công mỹ nghệ của Trung Quốc và Thái Lan cũng như của các nước xuất khẩu
khác thâm nhập và chiếm lĩnh những mảnh đất màu mỡ này.
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không đều ở các thị trường, chỉ có một
số thị trường truyền thống như Nhật Bản hay Tây Âu như Đức, Pháp là có tốc
độ tăng tương đối đều qua các năm, để hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh
giành mất một số thị trường như Nga, Đài Loan, Hàn Quốc,…đây là những thị
trường lớn mà trước đó Công ty đã có tỷ trọng khá lớn mà hiện nay ta đã bị
hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonexia cạnh tranh quyết
liệt.
Những thị trường có nhu cầu lớn, nhưng do khoảng cách địa lý quá xa,
chi phí vận chuyển lớn, lại gặp phải hàng rào thuế quan của nước nhập khẩu
nên chúng ta vẫn xuất khẩu một khối lượng hạn chế vào các thị trường này
chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có như Mỹ, Canada, Mehicô,…
2.2.Về sản phẩm
- Chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực, chưa có sự đa dạng hoá phù
hợp, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, thêm
một số mặt hàng trang trí nội thất, hàng đồ chơi và sắt mỹ nghệ, hàng mây tre
vẫn chưa thực sự được chú trọng đúng mức so với tiềm năng của khu vực thị
trường chưa tận dụng được hết nguồn tài nguyên thiên nhiên này, hàng Gốm
Sứ cũng chưa được phát huy hết sức mạnh vốn có của nó, tỷ trọng xuất khẩu
hàng này có xu hướng giảm dần một phần do tính chất khó vận chuyển của
nó.
- Thiếu những sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của những
đoạn thị trường yêu cầu cao về trình độ thẩm mỹ và chất lượng hàng hoá,
- Mẫu mã sản phẩm còn chưa phong phú, ít có sự điều chỉnh về kiểu
dáng phù hợp với thị hiếu, so với hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc thì
mẫu mã của ta có sức cạnh tranh kém hơn nhiều, kiểu dáng còn chưa thực sự
thu hút sự chú ý của khách nước ngoài.
- Chưa đáp ứng được yêu cầu của các đơn đặt hàng lớn do quy mô chưa
được mở rộng, phải đi thu gom để thực hiện hợp đồng làm cho uy tín về chất
lượng sản phẩm của Công ty bị ảnh hưởng
2.3.Về giá cả
Giá thành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn cao so với sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, làm giảm sức cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường nước ngoài. So với sản phẩm cùng loại của
các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì sản phẩm của Công ty vẫn có giá
cao hơn ở một số chủng loại sản phẩm.
2.4.Về hoạt động xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến thương mại còn chưa được quan tâm đúng so với vị
trí của nó, Công ty tham gia hoạt động này còn nặng về tính chất thăm dò, tìm
hiểu thị trường, chưa tận dụng một cách triệt để như kết hợp bán hàng và giới
thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác để tiêu thụ ngay trong chương trình quảng bá
và giới thiệu sản phẩm.
Thiếu hiểu biết về nhu cầu thị trường, chưa có sự phân đoạn thị trường
một cách rõ ràng để tung sản phẩm vào phù hợp với thị hiếu, chưa đi sâu
nghiên cứu thị hiếu của khách hàng ở từng thị trường cụ thể như hàng Gốm
Sứ, hàng mây tre thích hợp với văn hoá nào, thị trường nào.
Chưa cập nhật thông tin đầy đủ về biến động thị trường thế giới do ảnh
hưởng của vấn đề chính trị- xã hội, xung đột sắc tộc.
Công tác nghiên cứu thị trường còn tản mạn, mang tính bị động và thiếu
định hướng, khâu tiếp cận khách hàng còn chưa tốt, phụ thuộc quá nhiều vào
khách hàng truuyền thống và khách hàng lớn nên nhiều khi còn bị động trước
sự thay đổi nhu cầu của phía bạn hàng này.
Vấn đề quảng bá thương hiệu của Công ty còn hạn chế rất lớn, hàng thủ
công mỹ nghệ của Công ty chỉ mang nhãn hiệu của Việt Nam, đôi khi chúng
ta phải mượn thương hiệu nổi tiếng của nhà phân phối để có thể thâm nhập thị
trường mới.
Bất kỳ doanh nghiệp nào trong cơ chế kinh tế thị trường cũng phải đối
mặt với những khó khăn lớn, cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn, những
tồn tại và hạn chế là không tránh khỏi. Điều quan trọng là có thể tìm ra
nguyên nhân và khắc phục những điểm yếu đó nhằm đạt được mục tiêu trước
mắt cũng như lâu dài của doanh nghiệp.
3.Nguyên nhân của những tồn tại trên
3.1.Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ phía
các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới, đó là các đối thủ có
nhiều kinh nghiệm, hàng hoá có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp mắt như Trung
Quốc, Thái Lan, India, Philippin, Indonêxia,…Hàng thủ công mỹ nghệ của
các nước này có mẫu mã và chất lượng tương đối đồng đều, giá cả rất hấp dẫn
nên hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã bị cạnh tranh mạnh trên một số thị
trường lớn như Nga và các nước SNG, hay tại thị trường Đài Loan, đặc biệt là
hàng của Trung Quốc có văn hoa tinh xảo, chạm trổ cầu kỳ nước men bóng
bẩy và mềm mại hơn hàng của Việt Nam, giá cả lại tương đối rẻ nên hàng thủ
công mỹ nghệ của ta đã bị đánh bật ra khỏi một số thị trường. Những yếu tố
đó ảnh hưởng không nhỏ tới kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Công ty.
Thứ hai, là do sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp trong
nước, cùng với chính sách trợ giúp xuất khẩu nói chung, khuyến khích các sản
phẩm của Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới, đi cùng với tiến trình hội
nhập, cơ chế kinh tế mới đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước
tham gia vào thị trường xuất khẩu tăng lên nhanh chóng, khách hàng của
Công ty hiện nay có rất nhiều sự lựa chọn, không phụ thuộc vào Công ty như
trước nữa. Mặt khác, do điều kiện về nhân lưc, về tài nguyên thiên nhiên của
Việt Nam nên nước ta có rất nhiều lợi thế trong sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ làm cho khối lượng hàng sản xuất ngày một tăng lên, càng có nhiều
doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu. Công ty Thương Mại-Xây
Dựng Bạch Đằng cùng các Công ty khác như : Xí nghiệp Rapexco xuất khẩu
hàng mây tre đan của Nha Trang, Hợp tác xã mây tre Hàng Kênh- Hải Phòng,
Công ty Tocontap, Công ty TNHH thủ công mỹ nghệ Kim Bôi, Công ty
TNHH thêu ren Đà Lạt, Hợp tác xã Mây-tre- lá Ba Nhất thành phố Hồ Chí
Minh, Haprosimex-Saigon,…các doanh nghiệp trong nước vẫn thực hiện hình
thức xuất khẩu riêng lẻ, không liên kết với nhau tạo ra nhiều kẽ hở khiến sản
phẩm của ta kém sức cạnh tranh hơn sản phẩm của thế giới, đôi khi chúng ta
còn bị ép giá ở biên giới làm cho hàng của ta rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan,
các doanh nghiệp trong nước còn xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, không có mức giá thống nhất trong xuất khẩu nên xuất hiện tình trạng
bán phá giá, tạo không khí căng thẳng, làm hỏng kế hoạch xuất khẩu của
Công ty, sự thâm nhập thị trường mới bị các doanh nghiệp trong nước cạnh
tranh gay gắt, tình trạng giành giật thị trường của nhau vẫn còn. Hơn nữa,
nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng
được nâng cao, lượng hàng hoá mà các Công ty khác giao uỷ thác ngày càng
ít, nhiều cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trước đây chỉ là cơ sở chuyên
sơ chế, gia công nay cũng kiêm luôn cả nghiệp vụ xuất khẩu. Vì vậy, Công ty
Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải cố gắng rất nhiều trong việc khai
thác thị trường, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm ngay tại sân nhà.
Thứ ba, là do ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế
giới. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới
đặc biệt là ở khu vực Châu Á làm biến đổi tình hình kinh tế của một số quốc
gia, giá cả tăng lên tương đối, làm cho hàng hoá trong nước có sức cạnh tranh
giảm so với các nước khác, hệ thống thanh toán cũng khó khăn hơn, mức cầu
giảm, khiến cho Công ty mất rất nhiều đơn đặt hàng từ khu vực thị trường này
như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,…ba năm qua, nền kinh tế Achentina rơi
vào tình trạng suy thoái, sức mua chung của thị trường giảm làm cho kế hoạch
xuất khẩu của ta vào thị trường này không đạt được chỉ tiêu ban đầu, không có
kim ngạch, hơn nữa còn ảnh hưởng tới kinh tế của các nước trong khu vực,
gây ảnh hưởng không nhỏ tới chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Công ty.
Trong điều kiện như hiện nay, xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang
diễn ra rất mạnh mẽ, xung đột vũ trang và khủng bố xảy ra ở nhiều điểm nóng
trên thế giới, các trung tâm kinh tế lớn như Nữu Ước, Tokyo, London,…đang
có nguy cơ bị đe dọa về vấn đề khủng bố, tạo ra một xu hướng tiêu dùng hoàn
toàn mới, mỗi quốc gia đang cố gắng để có thể tự mình đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước, xây dựng cho mình một hàng rào thuế quan tương đối chắc,
nên hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói chung và của Công ty nói riêng
càng gặp phải khó khăn hơn.
Thứ tư, là tình trạng không đáp ứng được nhu cầu của một số đơn đặt
hàng lớn, không có đủ điều kiện về nguyên liệu, trình độ tay nghề của công
nhân chưa cao, năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất, các phân xưởng sản
xuất còn hạn chế nhiều, nguồn nguyên liệu còn phân tán, manh mún, thiếu
thông tin về diễn biến của thị trường, giá cả, yếu kém trong khâu phối hợp
đồng bộ giữa các doanh nghiệp, làm cho chúng ta không thực hiện giao hàng
đúng thời hạn, dẫn đến việc làm mất uy tín của Công ty. Trên một số thị
trường xuất khẩu, nguồn hàng của chúng ta thậm chí còn không đáp ứng được
nhu cầu chứ không phải do điều kiện về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.
Mặt khác, trình độ công nghệ của những cơ sở chế biến nguồn nguyên liệu
như mây-tre, gỗ,… còn chưa đáp ứng được chất lượng nguồn nguyên liệu, còn
thiếu vốn để mở rộng và nâng cao chất lượng nguyên liệu, ảnh hưởng đến chất
lượng hàng hoá.
Thứ năm, là do môi trường pháp lý và thủ tục hành chính của nước ta còn
rườm rà, phức tạp, thiếu linh hoạt, nhất là thủ tục hải quan còn nhiều vướng
mắc, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp.
Những thủ tục hải quan chủ yếu xoay quanh việc áp giá, áp mã để tính thuế và
thủ tục thông quan, giải phóng hàng hoá.
Thứ sáu, là vấn đề thuế và các chi phí hành chinh khác liên quan, một số
luật thuế mới ra đời đã làm thay đổi kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp và Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng là không ngoại trừ.
Việc hoàn thuế giá trị gia tăng được thực hiện rất chậm, mất rất nhiều thời
gian, gây ứ đọng vốn, ảnh hưởng đến vòng quay của vốn và ảnh hưởng đến kế
hoạch sản xuất kinh doanh.
Các chi phí về hành chính cũng làm tăng chi phí sản xuất của doanh
nghiệp, dẫn đến việc tăng giá thành sản xuất, giảm hiệu quả kinh doanh, các
cơ quan quản lý Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn hàng cho xuất
khẩu, trợ giá cho xuất khẩu, hướng dẫn và thực hiện đẩy mạnh các hoạt động
xúc tiến thương mại. Thông tin từ phía các cơ quan này còn chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, làm cho quá trình thâm nhập vào một số thị trường mới còn
chậm, dẫn đến việc mất thị phần, giảm kim ngạch xuất khẩu.
3.2.Nguyên nhân chủ quan
Ngoài những nguyên nhân khách quan trên, xét từ phía Công ty cũng có
nhiều vấn đề cần phải kể đến như:
Một là, vấn đề phát triển sản phẩm, sản phẩm của Công ty chủ yếu là ở 6
nhóm hàng chính là hàng đồ chơi, sắt mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ, hàng gốm sứ,
hàng mây tre và hàng thủ công mỹ nghệ, chưa đáp ứng được nhu cầu thị
trường về nhiều loại hàng mỹ nghệ khác như khắc đá, chạm đồng, chạm
bạc,…trong khi thị trường đầu ra cho các loại hàng hoá này là không nhỏ, chất
lượng sản phẩm còn chưa đạt yêu cầu của một số thị trường khó tính như EU,
Mỹ, mẫu mã còn chưa phong phú, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, Công ty chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ đạo như hàng thủ công
mỹ nghệ, hàng đồ chơi nên rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi. Trong
thời gian tới, Công ty cần thực hiện đa dạng hoá hơn nữa nguồn hàng phục vụ
cho xuất khẩu, cần phân tán chứ không nên chú ý vào một số thị trường truyền
thống, để giảm rủi ro trong kinh doanh.
Hai là, hoạt động xúc tiến thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu, công
tác nghiên cứu thị trường chưa được chú ý đúng mức, thiếu đội ngũ nhân viên
có năng lực trong công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng và lập
kế hoạch. Mặc dù hoạt động này luôn được Công ty xác định là một trong
những hoạt động có tính chất quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu nhưng Công
ty vẫn chưa tiếp cận được nhiều thị trường mới, chưa nắm bắt được thông tin
từ phía thị trường này, hoạt động nghiên cứu sự thay đổi thị hiếu, nhu cầu của
khu vực thị trường nước ngoài chưa sát sao, khiến cho quá trình tiêu thụ sản
phẩm ở nước ngoài gặp khó khăn. Các trụ sở kinh doanh ở nước ngoài còn
hoạt động chưa hiệu quả, chưa quản lý tốt các Showroom ở nước ngoài. Hơn
nữa, chúng ta còn để mất một số thị trường hấp dẫn như SNG. Trình độ tổ
chức hoạt động tiêu thụ cũng như trình độ tiếp thị còn yếu mặc dù có tham gia
Hội trợ, triển lãm nhiều, chưa thực sự có những chiến dịch nhằm khuyếch
trương hình ảnh của Công ty trên trường quốc tế.
Ba là, việc ký kết hợp đồng cũng là một khâu quan trọng, thực hiện hợp
đồng qua tài liệu giao dịch là chính do hai bên có khoảng cách địa lý ở xa nên
gặp phải một số khó khăn nhất định.
Bốn là, chưa tạo lập được một hệ thống phân phối trực tiếp trên các thị
trường nước ngoài, việc thiết lập các cửa hàng, văn phòng đại diện, các đại lý
ở nước ngoài còn rất nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu,
khiến cho hàng hoá của Công ty chỉ tiếp cận trực tiếp được với một số ít
khách hàng, khó khăn trong việc tham khảo ý kiến, để có thể thay đổi sản
phẩm phù hợp hơn với thị hiếu người tiêu dùng.
Năm là, hình thức xuất khẩu còn hạn chế và đơn điệu, chủ yếu là hình
thức xuất khẩu trực tiếp nên phù hợp với việc xuất khẩu những lô hàng có giá
trị lớn do Công ty tự mình kiểm soát được toàn bộ quá trình, trong thời gian
tới Công ty cần tham khảo thêm một số hình thức xuất khẩu mới như xuất
khẩu gián tiếp hay xuất khẩu qua trung gian để có thể giảm chi phí với mục
tiêu là đạt hiệu quả kinh doanh cao cũng như tăng tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu.
Sáu là, trình độ cán bộ công nhân viên không đồng đều, cán bộ chuyên
sâu và có kinh nghiệm trong kinh doanh xuất khẩu còn thiếu, kỹ năng nghiệp
vụ ngoại thương còn chưa cao, đội ngũ nhân viên ở phòng ban còn hạn chế về
ngoại ngữ, về công tác tiếp thị, và công tác nghiên cứu thị trường. Trình độ
tay nghề của công nhân sản xuất trực tiếp còn chưa đồng đều, còn ít lao động
có tay nghề cao, chủ yếu là lao động phổ thông nên quá trình học việc của
công nhân khá dài ( thường là 6 tháng ) làm cho Công ty tốn kém khá nhiều
chi phí, không những thế, sau thời gian học việc thì hợp đồng lao động lại
không có gì ràng buộc nên Công ty để mất rất nhiều lao động có tay nghề cao.
Trên đây là những khó khăn chủ yếu dẫn đến những tồn tại của Công ty
Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu. Trong
thời gian tới, Công ty cần sớm có những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục
những khó khăn trên, phát huy những mặt mạnh của mình và hạn chế những
tồn tại, thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu theo đúng kế hoạch đặt ra trong
giai đoạn tới.
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI-
XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG
I.ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
1.Định hướng về thị trường
Duy trì và mở rộng thị trường trong thời gian tới đây là một nhiệm vụ
không dễ dàng đối với Công ty. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra trong kế
hoạch là củng cố những thị trường xuất khẩu truyền thống, giữ chân khách
hàng quen thuôc, thâm nhập thêm các thị trường mới, còn đang ở dạng tiềm
năng.
Các thị trường truyền thống như EU và Bắc Mỹ cần có định hướng cụ
thể trong thời gian tới, soát xét lại hệ thống mắt xích nối liền với khách hàng
này. Thực hiện đồng loạt các hệ thống chiến lược nhằm giữ vững và phát triển
nguồn hàng xuất khẩu
Đối với những thị trường tiềm năng, Công ty cần có chính sách cụ thể
như:
Phát huy những kinh nghiệm về xuất khẩu, tăng lượng hàng xuất khẩu
bằng cách liên doanh, liên kết qua hình thức gửi hàng hoặc qua thương hiệu
của nhà cung cấp
Mở các văn phòng đại diện, các Showrow ở nước ngoài nhằm mục tiêu
hỗ trợ cho công tác xuất khẩu
Củng cố lại hệ thống các cửa hàng bán lẻ trong nước, tiếp cận thị trường
nước ngoài qua hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà cung cấp của Việt Nam
với nước ngoài.
2.Định hướng về sản phẩm
Sản phẩm của Công ty cần được duy trì những mẫu mã đang được khách
hàng ưa chuộng, phù hợp với từng lứa tuổi, đặc biệt là phù hợp với sở thích và
lối sống của từng đối tượng khách hàng. Cơ cấu mặt hàng cần được đa dạng
hoá hơn nữa về kiểu dáng, mẫu mã và chất lượng, đồng thời nguồn nguyên
liệu cũng phải phù hợp hơn với kiểu dáng sản phẩm
Nghiên cứu thị trường để nhận biết nhu cầu sản phẩm là một khâu quan
trọng không thể thiếu trong. Thông tin về sở thích của khách hàng, thu nhập,
thói quen và phong cách sống có quan hệ đến sự lựa chọn sản phẩm của họ.
Ví dụ như giới trẻ thì thích những sản phẩm mang phong cách sống trẻ trung,
năng động, đó thường là những món quà tặng có ý nghĩa, giúp con người có
đủ nghị lực và niềm tin vào cuộc sống hay biểu tượng của tình yêu và lòng
dũng cảm. Nắm bắt được tâm lý này của giới trẻ, Công ty cần đưa ra những
sản phẩm làm biểu tượng cho những món quà tặng.
Chất lượng hàng, uy tín, truyền thống của Công ty cần được củng cố và
nâng cao dần hơn nữa, bằng nhiều hình thức khác nhau để xây dựng và quảng
bá thương hiệu của mình
Hoàn thiện dần cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng đổi mới công nghệ để
có thể đáp ứng được chất lượng và mẫu mã của sản phẩm, để sản phẩm của
Công ty có sự phù hợp nhất định về chất lượng và giá cả
3.Định hướng về nguồn nhân lực
Con người là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và
đóng vai trò sáng tạo, lao động là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi
hoạt động của doanh nghiệp. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất -kinh doanh,
tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm và thực hiện các mục tiêu khác cần có
định hướng về nguồn nhân lực.
Đây là một trong những khâu rất quan trọng trong chiến lược phát triển
của Công ty trong giai đoạn hiện nay. Nhân tố con người mục tiêu và cũng là
động lực của mọi sự phát triển. Để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực
trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ công nhân
viên có nghiệp vụ chuyên môn giỏi luôn là nhiệm vụ trung tâm trong công tác
đào tạo và tuyển dụng của Công ty. Trong năm 2003 Công ty đã cử 129 cán
bộ đi học các lớp về luật Hải quan mới, tập huấn về cách thức xây dựng một
hệ thống kênh phân phối mới, cử nhiều đợt cán bộ tham gia các lớp học ngắn
hạn về quản lý kinh tế, về chiến lược kinh doanh trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế. Các hội thảo nâng cao nhận thức về sự thay đổi của môi
trường kinh doanh xuất khẩu luôn được Công ty chú trọng.
Về lao động trực tiếp tại phân xưởng, năm 2003 vừa qua, Công ty đã tổ
chức 3 lần các lớp học việc ngắn hạn cho công nhân mới vào nghề, với
phương châm vừa học vừa làm, nhiều công nhân đặc biệt là số công nhân có
khó khăn về tài chính có thể tự trang trải chi tiêu cho mình. Qua đó, Công ty
có thể tuyển chọn được số lượng lao động thủ công có kỹ thuật tốt để có kế
hoạch bồi dưỡng nhân lực phù hợp
4.Định hướng về nguồn nguyên liệu
Bảo đảm được nguồn nguyên liệu trong suốt quá trình sản xuất không
phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nguồn nguyên liệu cần được dự trữ để có thể
cung cấp thường xuyên, không làm gián đoạn quá trình sản xuất. Công tác
mua sắm và dự trữ nguyên liệu là điều kiện tiền đề nhằm đảm bảo cho hoạt
động sản xuất hiệu quả
Công ty cần thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Tính toán và xác định chính xác số lượng, chất lượng mỗi loại nguyên
vật liệu cần có trong kỳ sản xuất
Xây dựng phương án và quyết định phương án mua sắm, bố trí kho tàng,
đường vận chuyển và kết hợp đường vận chuyển tối ưu.
Xác định và lựa chọn bạn hàng, tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn
phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh toán.
Tổ chức vận chuyển hàng hoá bao gồm việc lựa chọn và quyết định tự
vận chuyển hay thuê ngoài, quyết định lựa chọn phương án vận chuyển
Bố trí và tổ chức kho tàng hợp lý, quản trị và cấp phát kịp thời theo yêu
cầu sản phẩm.
Công ty cần tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp, làm sao cho nguồn
nguyên liệu có thể giảm chi phí tới mức tối thiểu nhỏ nhất mà vẫn bảo đảm
được chất lượng phù hợp với sản phẩm. Công ty thường xuyên tìm kiếm
những nhà cung cấp mới để có thể chọn được nhà cung cấp với giá cả rẻ, đem
lại chi phí kinh doanh thấp nhất. Bên cạnh đó, với những nhà cung cấp truyền
thống, Công ty tiến hành marketing với họ nhằm tạo độ tin cậy cao giữa mình
với họ.
5.Định hướng về tài chính
Tài chính của doanh nghiệp là hoạt động gắn với các dòng luân chuyển
tiền tệ phát sinh trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Định hướng các hoạt động tài chính là việc tổng hợp và tạo ra
các nguồn vốn tiền tệ cần thiết đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tiến hành liên tục với hiệu quả kinh tế cao. Định hướng các hoạt
động tài chính để đảm bảo huy động đầy đủ vốn tiền tệ cần thiết, đảm bảo các
quyết định đầu tư đúng lúc, đúng chỗ và có hiệu quả.
Trong thời gian tới, doanh nghiệp cần đa dạng hoá các nguồn cung ứng
vốn, bao gồm cả nguồn tự cung ứng và cung ứng từ bên ngoài. Nguồn tự cung
ứng có phương thức khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp thường xuyên
tổ chức khấu hao theo từng quý, năm bên cạnh đó doanh nghiệp phải tự tích
luỹ cho mình bằng. Đây là nguồn cung ứng tài chính quan trọng của doanh
nghiệp vì doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, không phụ thuộc vào phía
các nhà cung ứng, tăng tiềm lực tài chính và giảm tỷ lệ nợ trên vốn. Ngoài
nguồn tự cung ứng, doanh nghiệp phải cung ứng vốn từ ngân sách Nhà nước.
Là một Công ty trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải, nên Công ty Thương Mại-
Xây Dựng Bạch Đằng được nhận lượng vốn từ ngân sách để trợ giúp cho
công tác xuất khẩu. Tuy nhiên càng ngày, nguồn cung ứng này càng bị thu
hẹp cả quy mô và phạm vi được cấp vốn vì là doanh nghiệp tự hạch hoán kinh
doanh.
Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn gọi hùn vốn qua việc
vay vốn của các ngân hàng thương mại, liên doanh liên kết với một số doanh
nghiệp khác, thêm vào đó doanh nghiệp tiến hành phát hành trái phiếu để huy
động vốn. Để thực hiện đúng theo kế hoạch kinh doanh của mình, sản xuất kịp
thời, thì vấn đề về định hướng nguồn tài chính là hết sức quan trọng. Nên đa
dạng hoá các nguồn cung ứng tài chính là một trong những nội dung quan
trọng trong việc hoạch định chính sách tài chính. Công ty cần có những biện
pháp để tăng cường nguồn lực tài chính của mình bằng những công cụ như
vay vốn, xin trợ cấp, cổ phần hoá, và phát hành công trái, những công cụ này
phù hợp với hình thức kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, và phù hợp với
chính sách của Đảng và Nhà nước.
II.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.Những giải pháp về phía nội bộ Công ty
1.1.Xây dựng chiến lược sản phẩm
Cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm
Tính chất mặt hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng cần có sự phù hợp với
thị hiếu của khách hàng. Thị hiếu của con người luôn luôn thay đổi và không
hề có một chuẩn mực nhất định. Nên đa dạng hóa sản phẩm là chiến lược sản
phẩm đầu tiên mà Công ty áp dụng nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Với chính sách sản phẩm như trên, Công ty có thể thu hút được nhiều đối
tượng khách hàng, tránh được rủi ro khi tập trung vào một loại hàng chủ lực,
có phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường.
Với mỗi loại sản phẩm thì yêu cầu về kiểu dáng lại khác nhau, hàng thủ
công mỹ nghệ phần lớn là trang trí, nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng,
còn có yếu tố rất cao về thẩm mỹ, tính độc đáo trong kiểu dáng và mang tính
chất thưởng thức văn hoá nghệ thuật của tầng lớp thượng lưu và trung lưu,
hay đối tượng có thu nhập cao, am hiểu về nghệ thuật. Đó cũng chính là lý do
mà Công ty cần thường xuyên thay đổi, đa dạng hóa, làm phong phú mẫu mã,
kiểu dáng các sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách hàng nhất là khách hàng
nước ngoài.
Hiện nay, công tác tìm kiếm mẫu hàng của Công ty phụ thuộc chủ yếu
vào bộ phận thiết kế sản phẩm, việc thuê chuyên gia bên ngoài còn chưa được
sử dụng do có những hạn chế về chi phí và trách nhiệm. Để thực hiện đa dạng
hoá sản phẩm Công ty có một số biện pháp sau:
Sử dụng chuyên gia thiết kế sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu thị
hiếu của người tiêu dùng được bộ phận nghiên cứu thị trường kết luận, tư vấn
cho phân xưởng sản xuất về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng, tạo ra các sản
phẩm mới lạ, độc đáo, thu hút sự chú ý của khách hàng. Ví dụ như sản phẩm
gốm sứ bên cạnh hoa văn về phong cảnh Việt Nam còn có thể có những biểu
tượng của các nền văn hoá khác nhau của chính nước nhập khẩu.
Đối với các thị trường truyền thống vẫn duy trì các sản phẩm truyền
thống, có kết hợp giới thiệu các sản phẩm mới để thăm dò thị trường, cần chú
ý đến màu sắc, hoạ tiết cho phù hợp hơn. Khi xuất khẩu sang thị trường nào
thì cần thiết phải phù hợp với nghệ thuật và nền văn hoá của họ. Ví dụ như
văn hoá phương Tây thích các sản phẩm có màu sắc tự nhiên, không dùng
men bóng, văn hoá phương Đông thì văn hoa phải cầu kỳ nước men phải thật
bóng bẩy.
Có thể thuê chuyên gia trong thời gian tới, tiền thiết kế sẽ tính vào tiền
bán sản phẩm theo tỷ lệ phần trăm. Như vậy, Công ty sẽ không phải chịu rủi
ro nếu sản phẩm không tiêu thụ được. Nhà thiết kế bên ngoài có thể chuyên
sâu hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, Công ty cũng sẽ được lợi
khi sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ được.
Công ty nên tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm để tìm ra những
người thợ tài ba. Đồng thời, cũng tham gia các cuộc thi thiết kế để khẳng định
uy tín của mình trên thương trường.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Nâng cao chất lượng sản phẩm
muốn nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì một trong những yếu tố
quan trọng là nâng cao chất lượng hàng hoá. Đây là yếu tố quan trọng quyết
định thành công trong công tác xuất khẩu. Đặc biệt là đối với những thị
trường khó tính như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được làm chủ yếu bằng lao động thủ công là
chính, không trải qua quy trình công nghệ máy móc hiện đại nên chất lượng
sản phẩm khó đồng đều, lại dễ hư hỏng khi thời tiết xấu. Công ty Thương
Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vừa là nhà sản xuất lại vừa đóng vai trò tiêu thụ
nên phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc, phải móc xích và chắp nối với thị
trường nước ngoài đồng thời cung cấp kịp thời cho phân xưởng sản xuất thị
hiếu của khách hàng, về yêu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm.
Những biện pháp mà Công ty thực hiện là :
- Nghiên cứu thị trường trong nước, kịp thời nắm bắt những thông tin về
nguồn nguyên liệu, về nguồn hàng từ những nguồn thông tin đáng tin cậy.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác kiểm định chất lượng sản
phẩm, cũng như uy tín về chất lượng sản phẩm, thương hiệu của Công ty trên
thị trường trong và ngoài nước,
- Tích cực tìm kiếm nhiều cơ sở chế biến nguyên liệu để cung cấp cho
Công ty, tạo ra những sản phẩm với chất lượng tốt, phù hợp với mức cầu trên
thị trường.
- Thường xuyên có những đợt kiểm tra tình hình tại phân xưởng sản xuất
để giám sát chất lượng hàng hoá ngay từ khâu sản xuất. Khi hàng được làm
xong, cần kiểm tra độ bền, độ bóng, độ dẻo của các sản phẩm bằng các
phương pháp khoa học, tuyệt đối không để hàng lỗi, hàng kém chất lượng sót
lại trong lô hàng xuất khẩu.
Để giải quyết, ngoài việc phải tìm hiểu nguồn hàng sản xuất với chất
lượng tốt, bản thân Công ty cũng phải đổi mới trang thiết bị bảo quản, mở
rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng cũng như chiều sâu, tạo ra những điều
kiện bảo quản hàng hoá tốt trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Những
biện pháp này đòi hỏi Công ty phải tìm hiểu kỹ hơn các nguồn cung ứng và
tham khảo thêm nhiều kinh nghiệm của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài
nước.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm qua giá
Cạnh tranh về giá là một trong những hình thức cạnh tranh gay gắt và
được nhiều doanh nghiệp áp dụng bởi giá cả là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định mua hàng của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
lợi của người mua. Khi giá của hàng hoá thay đổi thì cầu cũng thay đổi theo.
Để định giá sản phẩm doanh nghiệp phải căn cứ vào độ co dãn của cầu theo
giá, tâm lý của khách hàng, chính sách giá cả, chính sách sản phẩm của đối
thủ cạnh tranh,…nhưng giá chỉ là một công cụ cạnh tranh lôi kéo sự quan tâm
của khách hàng, nó cũng tuỳ thuộc vào sự nhạy cảm về giá của khách hàng.
Công ty có thể áp dụng cách định giá theo mức chênh lệch hiện hành, lấy
giá của đối thủ cạnh tranh làm cơ sở, giá bán sản phẩm của Công ty có thể cao
hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với giá của đối thủ cạnh tranh, áp dụng chiến
lược giá cả nào, chiến lược "hớt váng sữa" hay chiến lược phân biệt giá thị
trường ngách phụ thuộc vào từng giai đoạn trong chu kỳ sống sản phẩm và
phụ thuộc vào từng đoạn thị trường. Đối với đoạn thị trường nhạy cảm về giá,
Công ty áp dụng chiến lược giá thấp, để có thể cạnh tranh với đối thủ nhưng
vẫn phải đảm bảo có sự chênh lệch dương giữa giá thành sản xuất với giá bán
sản phẩm.
Chiến lược giá cả có tính chất quyết định đến khả năng thành công của
Công ty trong cạnh tranh, cần lưu ý khi thực hiện từng chiến lược giá một, nếu
sử dụng giá thấp hơn đối thủ có thể làm cho khách hàng có phản ứng nghi ngờ
về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, lựa chọn chiến lược giá cả nào phải được
phân tích và nếu cần thiết phải có sự thử nghiệm trên thực tế, tránh rủi ro
trong kinh doanh.
1.2. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu
Việc xây dựng chiến lược thị trường dựa trên cơ sở sự phân tích kỹ
lưỡng những thông tin thu thập được từ việc phân tích và dự báo thị trường,
đánh giá thực trạng và triển vọng của Công ty trên các thị trường hiện tại cũng
như thị trường tiềm năng cho hoạt động xuất khẩu. Công ty cần xác định rõ thị
trường trọng điểm, thị trường tiềm năng trong tương lai và những thị trường
nào đang suy thoái để có biện pháp chấn chỉnh, có những chính sách, chiến
lược mở rộng thị trường, tạo thị trường đầu ra cho xuất khẩu.
Thâm nhập vào một thị trường để tồn tại đã khó, duy trì và phát triển lại
càng khó hơn. Vì vậy, tạo lập chiến lược thị trường là một nội dung không thể
thiếu trong công tác đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Cần dựa trên những cơ sở
sau để xây dựng chiến lược thị trường
- Đánh giá nhu cầu, dung lượng tiêu thụ của mỗi thị trường
- Xác định kênh phân phối và cách thức thâm nhập trên từng thị trường
- Nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường
- Nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng
Trong quá trình thực hiện chiến lược, Công ty phải theo dõi sát sao, luôn
đánh giá kết quả thu được, đồng thời xem xét sự biến động của thị trường để
có những biện pháp điều chỉnh chiến lược, thực hiện kế hoạch một cách linh
hoạt đạt hiệu quả kinh doanh cao.
Chiến lược thị trường phải phù hợp với chukỳ sống của sản phẩm, mỗi
sản phẩm có chu kỳ sống cụ thể trên thị trường. Tương ứng với mỗi giai đoạn
cụ thể của chu kỳ sống cần có những giải pháp chiến lược khác nhau nhằm
đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển cũng như chiến thắng trong cạnh tranh.
Giai đoạn thâm nhập thị trường là giai đoạn sản phẩm mới đưa vào thử
nghiệm ở một thị trường mới, số lượng khách hàng ít nên doanh thu thường ít.
Trong giai đoạn này, Công ty cần đẩy mạnh hoạt động marketing, quảng cáo
sản phẩm, đưa sản phẩm của Công ty gần hơn với người tiêu dùng
Giai đoạn thị trường tăng trưởng, cầu về sản phẩm tăng nhanh, thực hiện
chiến lược đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá,
hình thức, mẫu mã, bao gói.
Ngoài những thị trường truyền thống, Công ty cần thăm dò và khai thác
thêm thị trường tiềm năng, đối với từng thị trường chúng ta phải có chính sách
phù hợp. Ví dụ đối với thị trường truyền thống, là bạn hàng quen thuộc của ta,
Công ty cần duy trì tốt mối quan hệ lâu dài, giữ uy tín, thực hiện đúng hợp
đồng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng mua được hàng với chất lượng
và giá cả tốt nhất.
Đối với thị trường mới, phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo, tham
gia nhiều Hội trợ, triển lãm, mở cửa hàng bán thử, thành lập nhiều Showroom
để giới thiệu sản phẩm.
Đối với thị trường xuất khẩu mà ta đã để mất thị phần, tìm cách khôi
phục lại bằng nhiều biện pháp linh hoạt vì đây là những thị trường đã từng là
bạn hàng quen thuộc của ta, quay trở lại chúng ta sẽ có những lợi thế hơn
trong khâu tiếp thị sản phẩm.
1.3. Về nguồn cung cấp nguyên liệu
Trước kia, khi công ty còn là xởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trờng
tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và
chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao
và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và
chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nguyên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng
hợp, polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn
nguyên liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên
liệu có sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá
thành. Trong thời gian tới, Công ty có kế hoạch đa dạng hoá các nguồn
nguyên liệu, sản phẩm làm ra không phải chỉ có chất liệu tự nhiên mà còn
bằng chất liệu tổng hợp như polyme. Công ty có kế hoạch xây dựng thêm
nhiều cơ sở sản xuất chế biến nguyên liệu cho mình, nguồn này sẽ là nguồn
cung cấp nguyên liệu chính cho phân xưởng sản xuất, tránh sự phụ thuộc vào
nhà cung cấp nguyên liệu. Các cơ sở này có thu mua nguyên liệu từ các làng
nghề truyền thống như Bát Tràng, để Công ty không phải phụ thuộc vào nhà
cung ứng, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh.
1.4.Chính sách Marketing
Quan điểm về Marketing chiến lược hiện đại cho rằng “ Chìa khoá để đạt
tới sự thành công của công ty là xác định rõ nhu cầu và mong muốn của thị
trường trọng điểm và phân phối sự thoả mãn được mong đợi một cách có chất
lượng và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh”. Nên trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay thì chiến lược Marketing là rất quan trọng và có ý nghĩa
chiến lược đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, Công ty Thương Mại-Xây
Dựng Bặch Đằng cũng nằm trong số đó.
Về quảng cáo : Tích cực quảng cáo sản phẩm thủ công mỹ nghệ dưới
mọi hình thức như : tham gia hội trợ, triển lãm, quảng cáo qua đài, báo, các
phương tiện truyền hình, internet,…Hiện nay, Công ty đã có phòng trưng bày
ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng cần phải cải thiện thêm các hệ
thống này bằng cách mở thêm các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các thành
phố, khu du lịch, siêu thị,…
Thực hiện đăng ký thương hiệu trên từng thị trường
Hoàn thiện trang Web giới thiệu về sản phẩm của Công ty, thực hiện các
thao tác chào bán sản phẩm bằng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, lấy
đó là một địa chỉ tin cậy, thông tin trung thực, cập nhật, có sức lôi cuốn, hấp
dẫn khách hàng.
Nghiên cứu động cơ tiêu dùng và nội dung quảng cáo, sử dụng phương
tiện quảng cáo thích hợp đối với từng thị trường. Đánh giá hiệu quả quảng cáo
qua việc điều tra thăm dò phản ứng của người tiêu dùng đối với mỗi chiến
lược quảng cáo cụ thể.
Về xúc tiến bán hàng :
Xúc tiến bán hàng là biện pháp kích thích để thúc đẩy bán hàng, tăng cầu
về sản phẩm. Trong thời gian tới, Công ty cần chủ động quan tâm hơn trong
các hoạt động xúc tiến bán hàng.
Một là, duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng
thông qua việc đưa hàng hoá mang nhãn hiệu Công ty tới các Hội trợ quốc tế
bằng những mẫu mã mới luôn thay đổi, phong phú và phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng.
Hai là, từng bước phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến
thương mại, tích cực tham gia hội chợ thương mại, triển lãm, bán hàng trực
tiếp thông qua Internet, qua điện thoại, qua thư trực tiếp, khai thác triệt để các
nguồn truyền tin khác nhau như từ công chúng, từ những người nổi tiếng…
Ba là, mở các buổi hội thảo, các cuộc thi hiểu biết về sản phẩm, các
chương trình khuyến mại đặc biệt hoặc tỷ lệ chiết khấu đối với khách hàng
quen thuộc của Công ty.
Tăng cường hoạt động sản xuất, chú trọng hoạt động liên doanh liên kết
với các đối tác trong và ngoài nước
+ Khuyến khích các nhân viên tăng cường học hỏi để nâng cao kiến thức
đồng thời công ty cũng nên tăng cường tổ chức các hội thảo hội nghị bán hàng
thông qua đó để nhân viên của công ty có điều kiện học hỏi kinh nghiệm.
+ Xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng và với các bạn hàng trong
kinh doanh để tăng cường hiệu quả xúc tiến thương mại.
+ Xây dựng các mối quan hệ với chính phủ Việt Nam và các Bộ như Bộ
Thương Mại, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao và đại sứ quán Việt Nam tại các
nước.
+ Chính sách phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động marketing,
làm cho quá trình kinh doanh lưu thông nhanh chóng và hiệu quả, tăng uy tín
của Công ty trên thị trường. Thực hiện tiếp cận gần hơn với khách hàng nước
ngoài nên hình thức phân phối theo chiều dọc sẽ được Công ty lựa chọn tức là
đưa hàng trực tiếp đến từng thị trường không qua trung gian nào, hình thức
này khiến cho Công ty có thể kiểm soát được các kênh phân phối, các đại lý
phân phối chính thức của Công ty.
+ Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên
Do nhân tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất,
nên nhân tố con người luôn được quan tâm đặc biệt. Nguồn nhân lực của
Công ty được phân ra thành hai mảng là mảng lao động trực tiếp tại phân
xưởng và nhân viên văn phòng. Nhân viên văn phòng không trực tiếp tạo ra
sản phẩm nhưng lại là bộ phận đóng vai trò quan trọng quyết định thành công
trong quá trình thực hiện hợp đồng, tổ chức tốt công tác tiêu thụ, thực hiện
chào hàng, tiếp thị, định giá sản phẩm cho xuất khẩu. Đội ngũ nhân viên làm
việc tại văn phòng của Công ty chủ yếu là cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm trong kinh doanh nhưng họ có sức khoẻ, có lòng nhiệt tình và có năng
lực công tác tốt. Vì vậy, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ trẻ.
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, học tập cho nhân viên của Công ty tại
các lơp nghiệp vụ ngắn và dài hạn trong và ngoài nước. Tạo điều kiện cho cán
bộ công nhân viên tham gia các buổi hội thảo, các khoá huấn luyện ngắn
ngày, các buổi nói chuyện với các chuyên gia, những người có kinh nghiệm.
Phối hợp với các trường Đại học tổ chức các buổi học ngắn hạn cho cán
bộ công nhân viên học các khoá học về ngoại thương, marketing, quản trị kinh
doanh xuất nhập khẩu.
Đối với lao động sản xuất trực tiếp tại phân xưởng, Công ty tổ chức
trường Đào tạo dạy nghề trực tiếp tại phân xưởng, tạo điều kiện cho lao động
mới vào nghề vừa học vừa làm trong các tháng thử việc. Ngoài ra, Công ty có
mở các lớp đào tạo chuyên sâu cho công nhân có trình độ lành nghề, có tay
nghề cao để nâng cao hơn nữa trình độ tay nghề của công nhân.
Kiến nghị đối với Nhà nước:
2.1. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ
Phát triển các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những
biện pháp giải quyết tình trạng dư thừa nguồn lao động phổ thông, tạo việc
làm cho nhiều nhân lực chưa được đào tạo qua Cao đẳng hay Đại học, là một
trong những chính sách có tính chất xã hội của Nhà nước ta. Nguồn lao động
thủ công này chủ yếu từ nông thôn, nên thúc đẩy và phát triển sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ mang lại những lợi ích kinh tế thiết thực, còn có ý nghĩa lớn
về mặt xã hội.
Muốn đẩy nhanh hơn nữa tốc độ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì
Nhà nước phải thực hiện những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu như:
Nên có chính sách ưu đãi về thuế Giá trị gia tăng, có ưu đãi đối với một
số chủng loại hàng hoá nhất định như hàng gốm sứ, hàng mây tre.
Nên bổ sung, sửa đổi các nghị định cho vay vốn, chú trọng việc cung ứng
nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhất là nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên như
hàng mây tre, hàng gỗ mỹ nghệ, để các doanh nghiệp trong nước không phải
nhập khẩu nguồn nguyên liệu để sản xuất.
Tạo điều kiện tốt về thủ tục hải quan, giảm bớt các thủ tục hải quan rườm
rà, làm thông thoáng hơn nữa thủ tục xuất khẩu.
Nên sửa đổi tiêu chuẩn thưởng đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Hiện nay để được thưởng xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu phải đạt từ 5
triệu USD/ năm là một tiêu chuẩn quá cao đối với một doanh nghiệp có quy
mô xuất khẩu vừa và nhỏ.
Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển mẫu mã sản phẩm, nên thành
lập các hiệp hội phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, tổ chức thêm nhiều
cuộc triển lãm có sự tham gia của các chuyên gia thiết kế của nước ngoài để
các doanh nghiệp có thể học hỏi, mở rộng tầm nhìn, từ đó làm tốt hơn công
tác thiết kế của mình.
Đưa công tác đào tạo đội ngũ thiết kế vào các trung tâm dạy nghề, trường
học nghề, thậm chí cả trường Đại học, tạo nguồn nhân lực dồi dào cho khâu
thiết kế. Tổ chức nhiều cuộc thi sáng tạo về mẫu mã sản phẩm để có thể tạo ra
nhiều hơn nữa các sản phẩm có mẫu mã đẹp, tăng sức cạnh tranh của hàng
Việt Nam.
2.2.Thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương
mại
Mở rộng quan hệ ngoại thương trên cơ sở hợp tác và bình đẳng, tăng
cường xúc tiến thương mại, tổ chức các phái đoàn đi thăm và quan hệ với các
nước là bạn hàng xuất khẩu của ta. Có liên kết về kinh tế- thương mại với quy
mô lớn, lâu dài trên thị trường đó.
Tăng cường cung cấp thông tin chính xác về thị trường nhập khẩu, các
kênh phân phối trên thị trường cho các doanh nghiệp như:
- In ấn các ấn phẩm, đĩa CD room, đưa lên Internet
- Giúp các doanh nghiệp nhận dạng được hàng rào kinh tế, kỹ thuật trên
thị trường, để có giải pháp đối phó với các rào cản phi thuế quan từ phía thị
trường.
Nên thành lập các trung tâm xúc tiến và phát triển thương mại, với chức
năng tổ chức xúc tiến các hợp đồng thương mại, nghiên cứu thị trường xuất
khẩu và tổ chức đưa hàng hoá của Việt Nam ra thị trường thế giới tham gia
vào hệ thống phân phối hàng hoá các nước.
Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách phát triển đăng ký và bảo vệ
thương hiệu hàng hoá Viẹt Nam trên thị trường thế giới
Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường và xem lại định hướng chiến lược
sản xuất hướng ra xuất khẩu, mở rộng vùng nguyên liệu sản xuất.
Nhà nước cần có một chiến lược tổng thể để thực hiện đồng bộ về nâng
cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành hàng hoá để tăng sức cạnh tranh trên
thị trường thế giới: khuyến khích đầu tư xuất khẩu, bảo hộ hàng hoá bằng
chính sách, coi thị trường trong nước là hậu thuẫn để thâm nhập thị trường
quốc tế.
Chỉ đạo công tác xuất khẩu tập trung theo đúng với kế hoạch của Nhà
nước, đồng thời tăng cường hoạt động của các đại diện thương mại, các
thương vụ đặt ở các nước, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
nhằm tăng cường hiệu quả làm việc của thương vụ.
2.3. Xây dựng quy hoạch phát triển các doanh nghiệp, các làng nghề
truyền thống, các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất.
Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các vùng kinh tế để trao
đổi về sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Xây dựng và phát triển thêm
các làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển công
nghiệp hoá nông thôn, cân đối vùng kinh tế, phát triển các vùng nguyên liệu
đảm bảo vấn đề môi trường, hạn chế tình trạng khai thác gỗ tràn lan, khai thác
nguyên liệu bừa bãi.