CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA

CÔNG TY THƯƠNG MẠI - XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

1. Địa chỉ liên hệ

+ Trụ sở chính : Số 71 Bạch Đằng- Quận Hai Bà Trưng- Hà

Nội

+ Tên giao dịch : VIETRCIMEX

+ Điện thoại : 049875636

+ Số Fax : 04.8763567

+ Tài khoản của công ty : Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.

2. Lịch sử hình thành của công ty

Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp nhà

nước thuộc Tổng công ty thương mại và xây dựng (trước kia là Tổng công ty

xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng vật tư ) trực thuộc Bộ Giao Thông Vận

Tải. Với diện tích là 8327 mét vuông theo hợp đồng số 34678/ĐC/ND/HĐND

ký ngày 30/08/1999, khu đất trên đã trải qua quá trình phát triển và sử dụng

như sau:

- Ngày 31/01/1993 Bộ trưởng Bộ GTVT ra quyết định số

130/QĐ/KHĐT, Cảng Hà Nội giao toàn bộ khu đất bao gồm nhà xưởng, nhà

văn phòng, nhà kho, bãi cho Tổng công ty XNK, sản xuất cung ứng vật tư

GTVT.

- Ngày 09/05/1996 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số

989/QĐ/TCCB/LĐ cho phép thành lập “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất

khẩu và trang trí nội thất”.

- Ngày 28/10/1999 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định

số967/QĐ/BGTVT cho phép thành lập DNNN “ Công ty Mỹ nghệ và Trang

trí nội thất” trên cơ sở chuyển đổi tổ chức “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất

khẩu và trang trí nội thất”.

- Ngày 16/12/1999 ông Tổng Giám đốc Tổng công ty Thương mại và

Xây dựng (trước kia là Tổng công ty XNK, sản xuất, cung ứng vật tư GTVT)

ra Quyết định số 54/QĐ/TCLĐ giao cho công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và Trang

trí nội thất toàn bộ mặt bằng 8327 mét vuông bao gồm nhà làm việc, kho

xưởng và các công trình trên khu đất làm trụ sở và sản xuất, kinh doanh.

- Ngày 13/09/2001 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số

3017/QĐ/BGTVT về việc đổi tên doanh nghiệp nhà nước “ Công ty Mỹ nghệ

và Trang trí nội thất” thành “ Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng”.

Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động

rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ,

đồ chơi, quà lưu niệm, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,

phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi...xây dựng công trình giao thông vận

tải công nghiệp và dân dụng.

Hiện nay, công ty đang dùng 4000 mét vuông mặt bằng làm nhà kho,

xưởng sản xuất và nhà văn phòng, số còn lại làm sân, cây xanh và đường đi

bộ

3. Quá trình phát triển

Cùng với sự vận động trưởng thành, mở rộng thị trường tiêu thụ sản

phẩm và cải tiến khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ, công nghệ

kỹ thuật mới, công ty đã không ngừng cố gắng vươn lên theo kịp nhịp sống

của thời đại và trưởng thành nhanh chóng cho kịp xu hướng phát triển của nền

kinh tế thế giới. Công ty đã không ngừng mở rộng qui mô sản xuất kinh

doanh, cải tiến mặt hàng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, kết hợp nội

lực và ưu thế từ bên ngoài môi trường kinh doanh, công ty đã đạt được những

thành tựu nhất định và không ngừng phát triển, đưa tập thể bước đi những

bước vững chắc.

Chính nhờ sự cố gắng không ngừng vươn lên đó, từ khi chỉ là một phân

xưởng nhỏ bé được nâng cấp lên thành “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất

khẩu và trang trí nội thất”. Từ chỗ chỉ với mục đích giải quyết công ăn việc

làm cho người lao động dư thừa của tổng công ty bằng những công việc thủ

công thuần tuý, đã có sự cải tiến khi chuyển sang công nghệ sản xuất mới. Đó

là sự cải tiến về mặt công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành

nguyên nhiên vật liệu, chuyển đổi từ những chất liệu gốm sứ làm bằng đất sét

sang chất liệu nhựa tổng hợp với bột đá tự nhiên, và nguyên liệu thạch cao...

các sản phẩm của công ty cũng ngày một phong phú hơn (các loại ca, cốc, búp

bê, đồ chơi...). Bên cạnh đó công ty còn mở rộng quy mô sản xuất thêm nhiều

xưởng sản xuất mới như xưởng sản xuất đồ mộc, xưởng sản xuất đồ nhựa.

Nhưng khi đó sản phẩm của công ty chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường trong

nước và chưa tìm được đầu ra cho thị trường thế giới. Vì vậy, sản xuất vẫn

mang tính manh mún, thủ công, thị trường không ổn định, hoạt động kinh

doanh phát triển không đồng đều.

Sau hơn 3 năm không ngại gian khó (từ năm 1996 đến 1999), xí nghiệp

luôn tìm cách vươn lên bắt nhịp cùng nhịp sống của cơ chế thị trường. Xí

nghiệp luôn tìm cách xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với trình

độ sản xuất của mình, củng cố thị trường trong nước và luôn tìm kiếm, khai

thác, thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh việc không ngừng cải tiến mẫu mã,

sáng tạo ra những phương thức làm việc mang lại hiệu quả kinh tế cao, xí

nghiệp luôn tìm hiểu, nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng, để có thể thoả

mãn nhu cầu của khách hàng cũng như có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển

của mình. Đến khi được nâng cấp thành “ Công ty Thương Mại -Xây Dựng

Bạch Đằng “, thì không chỉ kinh doanh những ngành nghề đơn thuần với công

nghệ thủ công là chính nữa mà nó đã được nâng cấp lên ở mức cao hơn với

chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công

mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang

trí nội thất, gia công hàng xuất khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ

nghệ, nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu

dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may

mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện máy và lắp giáp điện tử XNK uỷ thác,

kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ đoàn, xây dựng công trình giao thông

thủy lợi công nghiệp và dân dụng.

Trên đà phát triển không ngừng của công ty. Trong thời gian ngắn, nhờ

sự cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, phong phú chủng

loại, các mặt hàng của công ty ngày càng xuất hiện ở nhiều nơi, có mặt trên

khắp các thị trường cả trong và ngoài nước, thu hút được sự chú ý, quan tâm

của nhiều người tiêu dùng, giá trị thương hiệu của công ty cũng dần được

nâng lên.

Hiện nay, công ty đã thu hút được 250 lao động thường xuyên với mức

lương bình quân là 750.000đ/người/tháng và đang trên đà tăng trưởng mạnh,

đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Trong thời gian tới,

công ty sẽ tiếp tục chọn, đào tạo thêm 100 lao động, công nhân kỹ thuật để

sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trong những năm qua Công ty

Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước,

nộp tiền thuê đất đầy đủ và nộp tiền vào ngân sách nhà nước nhiều tỷ đồng.

Từ đó ta có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của công ty khá

thần tốc. Đó là nhờ vào sự nỗ lực của nội bộ công ty cùng với những chính

sách ưu đãi của Bộ GTVT dành cho công ty. Từ một phân xưởng nhỏ trước

năm 1996, giờ đây công ty đã trưởng thành và tự thân vận động không ngừng

lớn mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường quốc tế.

Từ chỗ thị trường tròng nước chiếm ưu thế, hiện nay thị trường quốc tế là

một thị trường trọng điểm của công ty mà công ty chưa khai thác được hết

tiềm năng nhưng không hề bỏ qua thị trường trong nước với hơn 70 triệu dân,

thu lợi cho nhà nước nhiều tỷ đồng. Giờ đây, Công ty Thương Mại -Xây

Dựng Bạch Đằng (trực thuộc Bộ GTVT), có tư cách pháp nhân, có con dấu

riêng theo quy định của nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, công ty

có tài khoản tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Về mặt hàng kinh doanh

xuất nhập khẩu nằm trong danh mục hàng hoá đã được Bộ Thương Mại phê

duyệt và nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu với số lượng và giá trị hàng

hoá tương đối lớn.

2.Chức năng và nhiệm vụ chung của công ty

2.1. Chức năng

Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng là một DNNN thuộc “Tổng

công ty xây dựng- Thương mại “ thuộc Bộ GTVT có các chức năng chính sau:

+ Sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện

máy và lắp ráp điện tử. Nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế

trong và ngoài nước.

+ Tổ chức xuất nhập khẩu và kinh doanh phương tiện vận tải, kinh doanh

kho bãi theo giấy phép kinh doanh của công ty phù hợp với quy chế hiện hành

của Nhà nước. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.

2.2. Nhiệm vụ

Với những chức năng trên, công ty có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty theo

quy chế hiện hành phù hợp.

+ Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý xuất nhập khẩu. Thực hiện các

chính sách về thuế nộp ngân sách nhà nước.

+ Kinh doanh đúng mặt hàng, theo đúng ngành nghề đã đăng ký và mục

đích chung của công ty.

+ Bảo toàn và sử dụng tài sản được giao theo đúng chế độ của nhà nước

quy định, đạt hiệu quả kinh tế xã hội và tăng cường điều kiện vật chất cho cán

bộ CNV của công ty.

+Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và các biện pháp khuyến

khích vật chất, tinh thần đúng chế độ chính sách của nhà nước, đảm bảo mức

lương tối thiểu và cải thiện đời sống người lao động.

+ Đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ nghiệp vụ

chuyên môn.

+ Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng trình độ tổ

chức quản lý, phát huy năng lực kinh doanh, tăng năng suất lao động, thực

hiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với hiệu quả cao.

+ Tổ chức và nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nắm vững nhu

cầu thị hiếu tiêu dùng để hoạch định chiến lược Marketing đúng đắn, đảm bảo

cho kinh doanh của đơn vị được chủ động ít rủi ro và mang lại hiệu quả tốt.

II.CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY .

1.Bộ máy quản trị

SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC.

Giám đốc

Phó GĐ

Phòng KHSX Phòng TCKT Phòng dự án Phòng bảo vệ Phòng KD-XNK Phòn g TCH

Xưởng cơ khí Xưởng đồ chơi 1.1.Ban Giám đốc

* Chức năng

- Ban Giám đốc là những người điều hành chính về mọi hoạt động chính

của công ty.

- Đại diện cho quyền lợi của cán bộ công nhân viên dưới quyền.

* Nhiệm vụ

- Chịu trách nhiệm về mọi hành vi của công ty trước pháp luật.

- Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, thực

hiện theo đúng qui định của nhà nước ban hành.

1. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban bộ phận trực thuộc công ty

1.2.Phòng KD-XNK

* Chức năng

- Tổ chức tốt khâu KD-XNK , phương tiện vận tải kho bãi theo giấy phép

kinh doanh của công ty phù hợp quy chế hiện hành của nhà nước.

- Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước.

- Tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và trong nước.

- Quản lý phòng mẫu, trực tiếp chỉ đạo tổ mẫu thực hiện và triển khai

mẫu mã, đáp ứng kịp thời với khách hàng.

* Nhiệm vụ

- Triển khai công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo thương hiệu của

công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Trực tiếp làm các thủ tục xuất, nhập khẩu của công ty, xuất nhập khẩu

uỷ thác. Trực tiếp ký kết, khai thác hàng gia công xuất khẩu, gia công sản xuất

và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Giám đốc công ty về hiệu quả công

việc.

- Đàm phán và dự thảo hợp đồng thương mại trong nước, quốc tế, trình

Giám đốc duyệt.

- Xây dựng bảng giá bán hàng trong nước, xây dựng Catologue cho hàng

hoá, xây dựng chương trình quảng ba thương hiệu của công ty.

- Lập kế hoạch sản xuất hàng hoá nội địa, lập các đơn hàng hợp đồng

xuất khẩu.

- Giao kế hoạch sản xuất và hợp đồng xuất khẩu cho phòng KHSX thực

hiện, giám sát, kiểm tra phòng KHSX thực hiện từng hợp đồng, đơn hàng

(đảm bảo đúng chất lượng, chủng loại, số lượng, thời gian).

- Trực tiếp giao nhận hàng hoá với khách hàng (được biểu hiện bằng các

bảng kê chi tiết hàng hoá có ký nhận của khách hàng).

- Theo dõi, quản lý các điểm bán hàng, các khách hàng và trực tiếp thu

hồi công nợ

- Được phép khai thác kinh doanh hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá bán

trong nước (nhưng phải lập phương án trình Giám đốc duyệt trước khi thực

hiện ).

- Nắm bắt thông tin kinh tế, các văn bản chính sách của nhà nước về

công tác xuất nhập khẩu.

1.3.Phòng tổ chức hành chính

* Chức năng

- Tổ chức tốt bộ máy quản lý điều hành công ty có hiệu quả.

- Công tác tổ chức lao động, chế độ tiền lương, Bảo hiểm xã hội và

thường trực hội đồng thi đua

- Công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ.

* Nhiệm vụ

* Về công tác tổ chức lao động, chế độ, tiền lương:

- Quản lý hồ sơ của CBCNV từ cấp trưởng phòng trở xuống, quản lý và

theo dõi diễn biến nhân sự của toàn công ty.

- Xét tuyển lao động, tiếp nhận lao động, làm thủ tục ký hợp đồng lao

động ngắn hạn, dài hạn, thử việc, lao động thời vụ, đề nghị sa thải, chấm dứt

hợp đồng lao động đối với cán bộ CNV không thực hiện đúng theo hợp đồng

lao động, khi công ty không có nhu cầu sử dụng hoặc đối tượng lao động vi

phạm các quy chế, quy định của công ty.

- Thực hiện giải quyết các chế độ có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ

của người lao động, các chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng theo

quy định của công ty và các văn bản quy định khác của nhà nước.

- Báo cáo định kỳ 6 tháng/lần về lao động, tiền lương và các hình thức

bảo hiểm với các cơ quan quản lý khác.

- Kết hợp với các phòng và Hội đồng thi đua kiểm tra, giám sát, đôn đốc

CBCNV thực hiện tốt quy chế, quy định về giờ giấc làm việc và công tác thực

hành tiết kiệm.

* Về công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ:

- Quản lý toàn bộ tài sản cố định, tài sản văn phòng công ty (trang thiết bị

văn phòng, xe cộ, điện nước...)

- Sắp xếp bố trí xe cộ, phương tiện phục vụ cán bộ công ty đi công tác.

- Tổ chức cuộc họp, hội thảo, Đại hội của công ty.

- Phục vụ lễ tân, tiếp khách, phục vụ lãnh đạo

- Quản lý dấu theo quy định của bộ Công an và quy định sử dụng của

Giám đốc, quản lý lưu trữ hồ sơ, tài liệu các văn bản pháp quy của nhà nước,

các quyết định, công văn đến, đi có liên quan đến mọi hoạt động sản xuất,

kinh doanh, tổ chức của công ty.

- Quan hệ đối ngoại với các cơ quan quản lý hành chính, chính quyền địa

phương, các đơn vị trong địa bàn và với cơ quan quản lý cấp trên.

- Kết hợp với công đoàn, đoàn thanh niên chăm la tới đời sống, văn hoá

xã hội, thăm nom ốm đau, hiếu hỉ của cá nhân, gia đình CBCNV công ty.

- Bí mật mọi công tác tổ chức lao động, tổ chức cán bộ, không phát tán

số liệu, tài liệu khi chưa có ý kiến của lãnh đạo.

1.4.Phòng tài chính kế toán

* Chức năng

- Quản lý toàn bộ tài sản ( vô hình và hữu hình của công ty ): hàng hoá,

tiền tệ, vốn, các khoản thu, chi, tiền lương cán bộ công nhân viên trong công

ty. Quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính của công ty.

- Định hướng xây dựng kế hoạch về công tác tài chính ngắn hạn, dài hạn,

tìm các biện pháp tạo nguồn vốn và thu hút nguồn vốn.

- Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư của công ty. Cân đối và sử dụng

các nguồn vốn hợp lý, có hiệu quả.

* Nhiệm vụ

- Báo cáo định kỳ quyết toán tài chính, báo cáo nhanh mọi hoạt động sản

xuất kinh doanh để Giám đốc kịp thời điều chỉnh.

- Tham gia thẩm định các dự án đầu tư dài hạn, đầu tư bổ xung mở rộng

sản xuất kinh doanh .

- Kiểm tra chứng từ thanh quyết toán của công ty ( kể cả của các đơn vị

thành viên) đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước trước

khi trình Giám đốc duyệt.

- Hướng dẫn chỉ đạo các đơn vị thành viên đang được hạch toán kinh tế

nội bộ trong công ty thực hiện đúng quy định về tài chính kế toán của nhà

nước, của công ty.

- Được phép đề nghị duyệt các phương án kinh doanh, đề nghị cấp vốn,

cho vay vốn đối với các phương án của từng đơn vị lên công ty đúng thời hạn

và theo chỉ số quy định.

- Chỉ đạo các kế toán viên của các đơn vị trong việc hạch toán, lập bảng

biểu, ghi chép sổ sách chứng từ...theo đúng quy định của nhà nước, của công

ty.

- Được phép đề nghị thay đổi kế toán của các đơn bị thành viên khi

không làm đúng chức năng, làm sai nguyên tắc, làm sai quy định và hướng

dẫn của công ty.

- Chủ động quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan nghiệp

vụ (tài chính, thuế, ngân hàng).

- Trình duyệt lương hàng tháng của CBCNV đảm bảo chính xác và đúng

kỳ hạn.

1.5.Phòng dự án

* Chức năng

- Lập hồ sơ dự thầu, lập dự toán, bóc tách dự toán và thẩm định dự toán.

- Lập dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh ngắn hạn, dài hạn,

quản lý các dự án đầu tư đã và đang thực hiện đảm bảo có hiệu quả nhất.

- Lập các dự án, phương án kinh doanh, liên kết, hợp tác với các đối tác

trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh.

* Nhiệm vụ

- Quan hệ đối ngoại, tìm kiếm các dự án xây dựng công trình giao thông,

xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng thuỷ lợi...

- Giao cho các xí nghiệp, đơn vị đội thi công, triển khai thực hiện hợp

đồng thi công.

- Theo dõi kế hoạch tiến độ thi công, chất lượng công trình, quản lý

nguồn nhân lực, quản lý máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và các chi phí

khác.

- Đệ trình Giám đốc duyệt các dự án đầu tư hoặc bổ xung nhiệm vụ cho

các đơn vị thành viên.

1.6.Phòng kế hoạch sản xuất

* Chức năng

- Quản lý theo dõi việc mua bán vật tư theo đúng thời điểm, chủng loại,

số lượng, giá thành hợp lý và làm thủ tục nhập, xuất kho theo trình tự quy

định của công ty.

- Quản lý công tác kỹ thuật, công tác sáng kiến cải tiến trong sản xuất,

điều chỉnh, sửa đổi quy trình công nghệ...

* Nhiệm vụ

- Chỉ được phép triển khai các đơn hàng, các hợp đồng sản xuất do

phòng KD-XNK chuyển giao.

- Trực tiếp quản lý kho vật tư, kho hàng hoá, xuất hàng theo phiếu nhập

kho của phòng KD-XNK.

- Quản lý nhân lực sản xuất, giờ giấc làm việc, định mức vật tư nguyên

liệu, định mức lao động.

- Tìm tòi, nghiên cứu, hoặc cải tiến các biện pháp quản lý nguyên, nhiên

vật liệu, vật tư, giảm chi tiêu, tiêu hao nguyên liệu ngày một tốt hơn, hoàn

thiện hơn.

- Được phép đề nghị Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm Quản đốc, phó

Quản đốc của các phân xưởng sản xuất.

- Được phép thay đổi các tổ trưởng tổ sản xuất theo đề nghị của Quản

đốc phân xưởng.

- Được phép đề nghị phòng TCHC trình Giám đốc buộc thôi việc hoặc

các hình thức kỷ luật khác đối vơí người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật,

chống đối lệnh sản xuất hoặc vi phạm các nội quy, quy chế của công ty.

- Có trách nhiệm phải hoàn thành kế hoạch, đơn hàng, hợp đồng sản xuất

của phòng KD-XNK chuyển giao và chịu sự giám sát, kiểm tra về chất lượng

sản phẩm, chủng loại, thời gian giao hàng của phòng KD-XNK.

- Có những biện pháp tích cực trong việc mới công nghệ để nâng cao

năng lực sản xuất, giảm định mức vật tư, giảm giá thành sản phẩm đảm bảo có

tính chất cạnh tranh cao.

1.7.Phòng kinh doanh thiết bị

* Chức năng

- Tham mưu cho Giám đốc công ty về công tác kinh doanh máy móc

thiết bị, phương tiện vận tải. Trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh thiết bị thi

công công trình và các phương tiện vận tải.

* Nhiệm vụ

- Xây dựng kế hoạch kinh doanh thiết bị của công ty, lập dự án kinh

doanh của phòng gắn liền với kế hoạch sử dụng vốn trong quý, năm gửi

phòng TCKT để trình Giám đốc công ty duyệt.

- Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh tế do Giám đốc công ty giao, đảm bảo

doanh số và lợi nhuận.

- Chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về hiệu quả kinh tế đối với

từng phương án kinh doanh đã đề ra.

- Trực tiếp quản lý, điều hành tổ bảo dưỡng, sửa chữa, phục chế máy

móc thiết bị. Trực tiếp làm thủ tiếp nhận hàng hoá (máy móc, thiết bị) quản lý

và bảo vệ hàng hoá đảm bảo an toàn.

1.8.Phòng bảo vệ

* Chức năng

- Bảo vệ an toàn, an ninh trật tự trong phạm vi mặt bằng của công ty.

- Bảo vệ tài sản của công ty, tài sản của CBCNV (phương tiện đi lại)

* Nhiệm vụ

- Phân công bố trí lực lượng thường trực trong phạm vi quản lý của công

ty 24/24 tháng. Phân công trực cụ thể do trưởng phòng bảo vệ đảm nhận.

- Kiểm tra, giám sát CBCNV thực hiện nội quy, quy chế của công ty (giờ

giấc đi làm, chấp hành mọi nội quy, quy chế trong sản xuất).

- Kiểm tra, giám sát vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị...của công ty khi

mang ra, vào địa phận của công ty.

- Thường xuyên canh gác, tuần tra trong địa phận của công ty quản lý,

đặc biệt là sau giờ hành chính, kịp thời phát hiện các trường hợp gây mất trật

tự, gây nguy hiểm cho người và thiết bị.

- Làm tốt công tác thường trực phòng chống lũ lụt, cháy, nổ...của công

ty.

- Được phép ra, vào vị trí công nhân làm việc (nhưng không ảnh hưởng

đến sản xuất) để kịp thời kiểm tra, nhắc nhở người lao động thực hiện tốt nội

quy, quy chế của công ty và ngăn chặn các hành vi vi phạm.

- Được quyền khám, xét tư trang của CBCNV ra, vào công ty nếu thấy có

nghi ngờ trộm cắp tài sản hoặc đưa vào công ty những chất dễ cháy nổ, hàng

quốc cấm...

1.9.Các trung tâm, xí nghiệp, phân xưởng sản xuất

- Các trung tâm, xí nghiệp, nhà máy thuộc công ty phải thực hiện theo

đúng sự uỷ quyền và phân cấp quản lý của Giám đốc công ty, được thể hiện

trong quyết định thành lập và thể chế hoá ở quy chế tổ chức và hoạt động của

từng đơn vị.

- Chịu sự kiểm tra, giám sát của các phòng, ban nghiệp vụ của công ty,

đặc biệt là công tác tổ chức, công tác tài chính kế toán và thực hiện nghiêm

chỉnh theo pháp lệnh của nhà nước.

- Phải hạch toán đầy đủ mọi chi phí, thực hiện báo cáo đầy đủ đúng định

kỳ theo tháng, quý, năm.

- Phải chấp hành thực hiện chỉ tiêu kinh tế được Giám đốc giao thực hiện

hàng năm gồm:

+ Doanh số:

+ Lợi nhuận:

- Thực hiện các khoản trích nộp phí lên công ty nghiêm chỉnh đúng kỳ

hạn.

- Thực hiện tốt chế độ quản lý, sử dụng người lao động theo quy định của

nhà nước, của công ty.

- Thực hiện trả lương và đóng các loại bảo hiểm cho người lao động,

cũng như các chế độ quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước, của công ty.

- Các khoản đầu tư tài sản cố định, mua sắm trang thiết bị máy móc có

giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), các đơn vị phải có công văn trình giám

đốc công ty duyệt mới được thực hiện.

 Trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo phòng

- Trưởng phòng phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc công ty về mọi

hoạt động công tác của phòng mình.

- Trưởng phòng được phép đề nghị Giám đốc chấm dứt hợp đồng lao

động đối với nhân viên của phòng mình, bãi miễn hoặc đề bạt các phó phòng

giúp việc cho mình.

- Được phép đề nghị định biên của phòng trên cơ sở pháp lý và khoa học

đảm bảo sự hoạt động của phòng ổn định, có hiệu quả.

- Các trưởng phòng khi có nhiệm vụ đi công tác, phải có trách nhiệm bàn

giao công việc cho các phó phòng bằng văn bản cụ thể. Phó phòng phải chịu

hoàn toàn trách nhiệm trước trưởng phòng và Giám đốc công ty về những

công việc được giao.

III. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH

Chỉ tiêu

Năm 1999

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Tổng doanh thu

3230

5250

18475

25320

Doanh thu XNK

2325,5

4620

16627,5

29184

DT từ tiêu thụ trong nước

904,5

630

1847,5

5046

0

2,5

2,5

4,05

10,63

DT thuần

3227,5

5247,5

18470,95

25219,37

Giá vốn hàng bán

2220

3775

15179

21505

Lợi nhuận gộp

1007,5

1472

3291,85

3714,37

Chi phí bán hàng

300

400,5

984

1040

Chi phí quản lý

205,5

900,4

1469

1820

Lợi nhuận thuần từ HĐKD

502

171,6

838,95

854,37

LN thuần từ HĐTC

-60

-75,27

-286,62

-33

LN bất thường

62,5

53

10

-22

Tổng LN trước thuế

504,5

149,33

562,33

799,37

Thuế TNDN

161,44

47,79

179,95

255,8

LN sau thuế

343,06

101,54

382,58

543,57

Bảng 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 4 năm

gần đây.

1.Phân tích tình hình kinh doanh của công ty

Doanh thu bán hàng liên tục tăng trong 4 năm qua, từ 3230 tr.đ năm 1999

lên 25230 tr.đ năm 2002. Điều này chứng tỏ quy mô sản xuất kinh doanh của

công ty ngày càng được mở rộng, mặt hàng kinh doanh phong phú hơn, số

lượng hàng hoá nhiều hơn. Có thể là quy mô sản xuất được mở rộng qua việc

công ty thu hút thêm số lượng lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người

lao động.

Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh là 502 tr.đ năm 1999 sau đó giảm xuống

còn 171,6 tr.đ năm 2000 và tăng dần lên vào các năm 2001 và 2002 là 838,95

và 854,37 tr.đ. Có được kết quả trên chúng ta có thể có nhận xét như sau:

doanh thu liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận từ hoạt

động kinh doanh năm 2000 lại giảm so với năm 1999. Như vậy có thể là do

năm 2000 doanh nghiệp phải chi phí lớn cho chi phí bán hàng hoặc chi phí

quản lý, hoặc do tăng các khoản giảm trừ. Chi phí bán hàng năm 1999 là

205,5 tr.đ nhưng đã tăng lên là 900,4 tr.đ, một con số quả là không nhỏ đối

với một doanh nghiệp có tổng doanh thu là 5250tr.đ.

Như vậy, năm 2000 so với năm 1999:

Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh giảm mặc dù tổng DT tăng là do chi phí

quản lý tăng làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty giảm.

Lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng giảm từ –60 xuống –75tr.đ

Lợi nhuận từ HĐBT giảm từ 62,5 xuống 53tr.đ

Từ sự suy giảm trên làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty cũng giảm từ

343,06tr.đ xuống còn 101,54 tr.đ . Như vậy năm 2000 so với năm 1999 công

ty sản xuất kinh doanh có chiều hướng giảm sút, ngược với xu thế phát triển,

có thể là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân mà chúng ta sẽ được tìm hiểu

sau như thị trường thế giới biến động theo chiều hướng xấu, hay sản phẩm

của công ty không đáp ứng được với nhu cầu của người tiêu dùng...

Năm 2001 so với năm 1999:

Doanh thu bán hàng năm 2001 là 18475tr.đ tăng so với 5250tr.đ năm

2000.

Chi phí bán hàng và chi phí quản lý năm 2001 đều tăng so với năm 2000

nhưng ở một tỷ lệ phù hợp hơn sơ với tổng doanh thu.

Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh năm 2001 là 838,95tr.đ so với năm 2000 là

171,6tr.đ. Lợi nhuận từ HĐTC vẫn giảm từ –75,27tr.đ xuống –286,62 tr.đ ,

chứng tỏ lĩnh vực tài chính doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Lợi

nhuận từ hoạt động BT cũng giảm từ 53 tr.đ xuống 10 tr.đ nên về mặt này

doanh nghiệp cũng không đạt hiệu quả kinh doanh. Như vậy, năm 2001 doanh

nghiệp đã đạt hiệu quả kinh doanh về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, điều chỉnh

lại mức lợi nhuận so với năm 2000. Kết quả là lợi nhuận sau thuế của doanh

nghiệp tăng từ 101,54 tr.đ lên tới 382,58 tr.đ, một kết quả đáng khen của công

ty trong tình hình hiện nay cũng nhờ vào sự nỗ lực của toàn công ty cũng như

kế hoạch cụ thể của ban quản lý trong việc giảm chi phí bán hàng và chi phí

quản lý nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận sau

thuế.

Năm 2002 so với năm 2001:

Tổng doanh thu tăng từ 18475tr.đ lên 25230tr.đ . Đó là một kết quả đáng

mừng đối với toàn công ty. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng là điều

tất nhiên vì tỷ lệ thuận với doanh thu, làm cho lợi nhuận từ HĐ kinh doanh

tăng từ 838,95 lên 854,37 tr.đ.

Lợi nhuận từ HĐTC từ mức thâm hụt là -286,62 lên mức thâm hụt nhỏ

hơn là -33tr.đ, kết quả này làm cho lợi nhuận sau thuế tăng lên.Trong khi

HĐTC có dấu hiệu khả quan thì lợi nhuận HĐBT vẫn giảm từ lãi 10 triệu

xuống thâm hụt –22 triệu đồng làm cho lợi nhuận sau thuế giảm xuống, nhưng

mức giảm này nhỏ hơn so với mức tăng của lợi nhuận từ HĐ kinh doanh và

mức giảm thâm hụt từ HĐTC nên LN sau thuế của doanh nghiệp năm 2002

tăng lên so với năm 2001, tăng từ 382,58 tr.đ lên 543,57 tr.đ

Chúng ta vừa phân tích sơ bộ tình hình kinh doanh của công ty trong 4

năm gần đây. Nhìn vào bảng biểu ta cũng thấy một thực tế là tổng doanh thu

từ thị trường xuất khẩu liên tục tăng và ở mức cao hơn nhiều so với DT từ thị

trường trong nước. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường tiêu thụ chính của doanh

nghiệp đã và đang dần thay đổi. Từ thị trường trong nước sang thị trường xuất

khẩu và hướng mạnh về thị trường này. Nên doanh thu tăng trong những năm

qua cũng có một phần là do chiến lược kinh doanh của công ty đã thay đổi.

Đó cũng chính là lý do mà chi phí bán hàng của công ty tăng chậm trong khi

chi phí quản lý tăng nhanh để tìm kiếm và thâm nhập thị trường nước ngoài.

Đó là chiến lược kinh doanh đúng đắn của công ty trong tình hình hiện nay

khi mà xu hướng toàn cầu hoá đang và sẽ tác động đến mọi ngành nghề, mọi

thành phần kinh tế, hơn nữa trong thời gian tới Việt Nam sẽ chính thức gia

nhập AFTA, là một sự kiện kinh tế to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các doanh

nghiệp đang tồn tại. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được

thì không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà phải có chiến lược thâm nhập

thị trường quốc tế - một thị trường đầy cơ hội nhưng cũng đầy thách thức với

sự cạnh tranh cao, rủi ro cao luôn luôn đi cùng với siêu lợi nhuận.

Cũng từ bảng trên ta thấy: lĩnh vực kinh doanh chính mang lại lợi nhuận

cho công ty là lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Còn về hoạt động tài chính và

hoạt động bất thường thì hầu như không thu được lợi nhuận. Như vậy doanh

nghiệp cần có kế hoạch phân phối nguồn đầu tư hợp lý hơn nữa để nguồn vốn

đâù tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao.

2.Đánh giá các hoạt động quản trị của doanh nghiệp

Đơn vị tính : 1000.000đ

Đã thực hiện

Dự kiến thực

Dự kiến thực

Tổng số nộp ngân sách Đơn vị tính

5 tháng

hiện

hiện 6 tháng

6 tháng

2003

- Thuế GTGT

Triệu

1650,8

430

2081

đồng

- Thuế TNDN

Tr đ

67

- Phụ phí cấp trên

Tr đ

547.5

343,7

891,2

- Thuế khác

Tr đ

29,6

Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách và phân phối lợi nhuận

Sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh Công ty đều tính toán lợi nhuận và

phân bổ lợi nhuận cho các phòng ban theo tỷ lệ thích hợp

Biểu trên cho ta thấy được tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà

nước. Công ty đã làm đúng nghĩa vụ của mình và kinh doanh theo đúng luật

pháp.

Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh

là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này, doanh nghiệp phải

tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ)

cung cấp cho thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Muốn vậy, doanh

nghiệp phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định để tạo ra sản phẩm đầu ra

có giá trị cao hơn đầu vào và tiêu thụ được. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử

dụng các nguồn lực này bao nhiêu thì sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi

nhuận bấy nhiêu. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm đi

thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng không giới hạn.

Quy luật khan hiếm bắt buộc mọi người phải lựa chọn và trả lời chính xác 3

câu hỏi là : sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Vì thị

trường chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào sản xuất đúng loại sản phẩm

(dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mặt khác, mọi doanh nghiệp

kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập

phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh

tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh và đồng

thời cũng đề ra những định hướng mang tính chiến lược, kế hoạch trong từng

điều kiện cụ thể.

2.1.Về chiến lược kinh doanh

Trong thời gian qua, chiến lược của doanh nghiệp đã có sự thay đổi về

mặt thị trường từ thị trường trong nước là chính chuyển sang thị trường xuất

khẩu, với việc thâm nhập vào thị trường này Công ty Thương Mại -Xây Dựng

Bạch Đằng đã phải chi phí rất nhiều cho công tác tìm kiếm thị trường, và

khối quản lý đã làm rất tốt công tác này đặc biệt là mảng thị trường và mảng

mạng trong phòng KD-XNK. Tuy nhiên, vì là người mới gia nhập thị trường

xuât khẩu nên KD-XNK cũng có những thuận lợi và cũng không ít khó khăn.

Về thuận lợi: sản phẩm của công ty rất được người tiêu dùng ưa chuộng

do mẫu mã phong phú, phù hợp với thị hiếu của từng nhóm khách hàng, lại là

một sản phẩm mới tham gia xuất khẩu nên công ty cũng được sự giúp đỡ của

rất nhiều ban, ngành như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính...sản phẩm được sản

xuất ở thị trường lao động rẻ nên giá thành thấp, hấp dẫn người tiêu dùng.

Về khó khăn: Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nhà kinh doanh,

nhà phân phối lớn ở thị trường nước bạn, sản phẩm của ta chưa có uy tín trên

thị trường nước ngoài, về thị hiếu của người tiêu dùng cũng thay đổi mà ta

cần phải tốn chi phí lớn để nghiên cứu...

Nhưng với những thành công bước đầu mà Công ty Thương Mại -Xây

Dựng Bạch Đằng đã đạt được, chúng ta tin tưởng vào chiến lược đúng đắn của

công ty trong thời gian qua và có thể kết luận rằng hướng đi của công ty là

hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và điều kiện sản

xuất kinh doanh của công ty. Hy vọng rằng trong thời gian tới, Công ty

Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng và có

chiến lược thị trường đúng đắn mang lại hiệu quả kinh tế cao.

2.2.Về hoạt động Marketing

Thị trường càng rộng lớn thì tính ổn định càng không cao, nên bộ phận

Marketing ngày càng giữ một trách nhiệm to lớn. Chiến lược Marketing là

một trong 4 bộ phận cấu thành Mar-Mix, nhu cầu và sở thích của con người

ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp, sản xuất và tiêu dùng không phải

lúc nào cũng ăn khớp với nhau, nếu không có chiến lược Mar phù hợp thì

sản xuất khó mà ăn khớp với tiêu dùng. Khi đó tình trạng thừa hoặc thiếu

hàng sẽ xảy ra làm lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả kinh doanh. Chính vì

vậy, mỗi doanh nghiệp phải có một chiến lược Marketing phù hợp với tình

hình kinh doanh của doanh nghiệp mình.

Trong thời gian qua, bộ phận Marketing của công ty đã có được những

kết quả rất đáng khen, biểu hiện ở việc doanh thu ở thị trường trong nước ổn

định, thị trường xuất khẩu thì được khai phá và đang phát triển cả chiều rộng

lẫn chiều sâu. Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng luôn có mặt ở các

phiên triển lãm ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thái

Nguyên...và cả trung tâm thương mại miền nam thành phố Hồ Chí Minh...

Mặt hàng của công ty đã được nhiều người tiêu dùng biết đến và chấp

nhận, giá trị tài sản vô hình tăng lên, thương hiệu khẳng định vững chắc hơn

và uy tín được nâng lên cùng với chất lượng. Đặc biệt là sự thâm nhập thành

công vào thị trường xuất khẩu có công rất lớn của bộ phận Marketing trong

việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, vấn đề tiếp thị

sản phẩm của công ty, vấn đề xây dựng kênh phân phối và xúc tiến bán hàng

đã được bộ phận Marketing thực hiện khá tốt.

2.3.Về tổ chức nhân sự

Ngày nay, người tổ chức phải tìm kiếm cơ cấu tổ chức thích hợp với sự

thay đổi thường xuyên của môi trường đồng thời cũng phải thường xuyên

nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.

Đối mặt với những khó khăn trong cơ chế kinh tế mới, đặc biệt là sự

phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, với những thuận lợi cũng như

khó khăn, chúng ta thử tìm hiểu xem Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch

Đằng đã làm được những gì và hạn chế trong việc giải quyết công ăn việc

làm, xây dựng một đội ngũ tổ chức hợp lý như thế nào. Với hơn 250 lao động

sản xuất trực tiếp sản xuất, so với tiềm năng phát triển của công ty trong thời

gian tới, thì Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng cần phải tuyển thêm

một đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất nữa mới đáp ứng được nhu cầu đề ra.

Bàn về một vấn đề gì chúng ta cũng phải đi từ cái cũ cho đến cái mới và phải

đi từ thực tiễn vì mọi chân lý đều phải bắt nguồn từ thực tiễn. Trong những

năm qua, cơ cấu tổ chức của Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng có

thể nói là khá hợp lý để duy trì sự phát triển của mình và quản lý CBCNV

thực hiện đúng quy chế. Về vấn đề tuyển thêm lao động, công ty luôn có

những lớp học việc cho công nhân mới vào nghề còn bỡ ngỡ, chưa thành thạo

trong công việc. Ngoài ra, hàng năm thường xuyên cử cán bộ đi học những

lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chuyên môn, về việc nắm bắt tình hình kinh tế

mới ...các phòng ban trong công ty luôn luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau

trong công việc để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình vì mục tiêu chung

của công ty.

2.4.Tình hình quản trị

Bộ máy quản trị là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sản xuất kinh

doanh ở tầm vĩ mô, nếu như khu trung tâm này hoạt động tốt thì những hoạt

động ở tầm vi mô mới thu được kết quả như mong muốn được. Ban giám đốc

của công ty mặc dù chỉ có hai người nhưng đã thực hiện đúng chức năng và

nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất, vì mục tiêu chung của công

ty, nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi và đã đạt được những kết quả đáng mừng.

Tuy nhiên trong thời gian tới, khi mà thị trường ngoài nước đang phát triển thì

nhiệm vụ của ban quản trị cũng rất nặng nề. Công ty cần có một đội ngũ quản

trị có trình độ cao để giải quyết tốt nhiệm vụ quản trị trong thời gian tới với

hiệu quả cao trong công việc. Để làm được như vậy thì Công ty Thương Mại -

Xây Dựng Bạch Đằng đang từng bước cải tiến bộ máy quản trị này, công ty

luôn cử một số cán bộ theo học các lớp quản trị chuyên sâu, để mỗi một cán

bộ quản trị đều có kiến thức chuyên môn hoá hoạt động quản trị hay vạn năng

đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao phù hợp với thời đại mới và sự phát

triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức với những kỹ năng, kỹ xảo của đội

ngũ lao động quản trị.

2.5.Về chất lượng sản phẩm và các hoạt động khác

Chất lượng sản phẩm của công ty đã nâng lên rõ rệt do sự thay đổi chất

liệu sản phẩm và cải tiến mẫu mã, đã được người tiêu dùng đánh giá cao.

Trong thời gian tới hy vọng rằng, công ty vẫn giữ vững được ưu thế sản phẩm

của mình và cố gắng phát huy hơn nữa để có thể chiến thắng trong cạnh tranh

về mọi mặt, để không chỉ là một doanh nghiệp non trẻ hiện nay nữa mà sẽ trở

thành một doanh nghiệp có tên tuổi, không phải núp dưới bóng người anh cả

là Tổng công ty Xây Dựng –Thương mại nữa. Chúng ta sẽ hy vọng và không

bao giờ thất vọng cả vì một tương lai tươi sáng của thị trường xuất khẩu của

hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam .

Các hoạt động khác của doanh nghiệp cũng không có gì phải tranh cãi

nhiều, bởi vì các bộ phận đó đêù hoạt động hiệu quả như phòng bảo vệ, phòng

dự án, phòng kinh doanh thiết bị ... đều đang trong quá trình hoạt động tốt

cùng với sự phát triển đi lên của công ty. Mỗi một phòng ban đều có chức

năng hoạt động riêng biệt và nhiệm vụ cụ thể. Nên các phòng ban trong công

ty cần phát huy hơn nữa ưu thế của mình và hạn chế những khuyết điểm, sai

lầm

IV. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY ẢNH

HƯỞNG ĐẾN VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU

1. Đặc điểm về thị trường

Thị trường đầu ra chính cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty

bao gồm 2 mảng thị trường là thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu.

Trong đó, thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 30% khối lượng sản phẩm,

phần còn lại được tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Nên đẩy mạnh xuất khẩu là

một trong những chiến lược quan trọng nằm trong chiến lược tiêu thụ sản

phẩm của Công ty. Trong mảng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

thì Công ty tập trung vào những thị trường xuất khẩu chính như Nhật Bản,

Tây Âu,…bên cạnh một số thị trường nhỏ lẻ khác mà Công ty mới thâm nhập

được, nhưng khối lượng sản phẩm ở những thị trường này không nhiều chủ

yếu là hàng thủ công mỹ nghệ chứ không có những mặt hàng khác như hàng

đồ chơi, hay sắt mỹ nghệ. Từ vấn đề mấu chốt thị trường ta hoạch định chiến

lược kinh doanh cho từng giai đoạn và có những chính sách phù hợp với chiến

lược tiêu thụ sản phẩm của Công ty, chủ yếu tập trung vào thị trường quốc tế

và vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những nội dung quan trọng cần

giải quyết.

2. Đặc điểm về sản phẩm

Sản phẩm chủ yếu của Công ty là hàng thủ công mỹ nghệ chiếm trên

30% khối lượng sản phẩm, ngoài ra là các mặt hàng như Gốm Sứ, hàng Đồ

chơi, hàng Mây tre, hàng Sắt mỹ nghệ và hàng tạp phẩm. Hàng thủ công mỹ

nghệ là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, sau đó đến hàng Đồ chơi,

những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại phân xưởng của Công ty, hiếm

khi Công ty phải đi thu mua hàng từ các cơ sở sản xuất khác nên Công ty có

thể chủ động trong việc nhận và thực hiện đơn hàng. Đến nay, trong danh sách

các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu vẫn là 6 nhóm mặt hàng chính,

Công ty đang từng bước thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nghiên cứu thêm

nhiều nhóm mặt hàng mới, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng

hoá chất lượng nguồn nguyên liệu tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất

lượng khác nhau phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng.

3.Cơ cấu lao động

Công ty gồm 270 cán bộ CNV. Trong đó có 65 cán bộ làm công tác quản

lý (23,7%) và số còn lại là công nhân trực tiêp sản xuất và người lao động làm

thuê theo hợp đồng lao động.

Đứng đầu công ty là Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 1 phó Giám đốc.

Dưới Ban Giám đốc là các phòng ban trực thuộc, những phòng ban này

được chia thành hai khối là khối kinh doanh và khối quản lý.

+ Trong khối kinh doanh có các phòng ban như : phòng KD-XNK,

phòng KHSX, phòng kinh doanh thiết bị, (gồm xưởng cơ khí và xưởng đồ

chơi).

+ Trong khối quản lý có các phòng ban như : phòng TCHC, phòng dự án,

phòng TCKT.

Ngoài ra, công ty còn có văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố khác.

4.Đặc điểm ngành nghề kinh doanh

Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động

rộng rãi đa ngành nghề : sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ

chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công

hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nguyên

vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng,

phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may mặc,

đồ da, kim khí, hoá chất, điện máy và lắp ráp điện tử xuất nhập khẩu uỷ thác,

kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ hành, xây dựng công trình giao thông

vận tải, thuỷ lợi công nghiệp và dân dụng.

5.Thiết bị công nghệ máy móc

Là một doanh nghiệp thương mại kiêm sản xuất với chức năng hoạt động

rộng rãi đa ngành nghề, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng sản xuất

các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là chính, còn các ngành nghề khác như xây

dựng công trình giao thông thủy lợi, kinh doanh nông lâm thuỷ sản, kim khí

hoá chất, kinh doanh hàng may mặc...chỉ là những ngành nghề mang tính thời

vụ của công ty. Hiện nay, nhìn chung trang thiết bị công nghệ máy móc của

công ty còn khá sơ sài, chưa có gì là hiện đại cả so với các doanh nghiệp khác.

Một phần là do lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty quyết định, do sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi trang thiết bị công nghệ hiện đại

mà chủ yếu là dựa vào trình độ tay nghề của công nhân, nên công ty chú trọng

đến khâu đào tạo đội ngũ công nhân viên mới vào nghề qua các khoá học việc

(thường là 6 tháng ). Lĩnh vực kinh doanh còn lại của công ty chủ yếu là vấn

đề thương mại bán hàng, công ty có đầu tư thêm 30 chiếc xe tải chở hàng

phục vụ cho công tác chuyên chở hàng hoá. Hiện nay, trong cảng của công ty

luôn có 7 chiếc máy xúc hiệu Hàn Quốc và cần cẩu hàng hoá (5 chiếc) tại mặt

bằng cạnh sông Hồng.

6.Tình hình cung ứng nguyên vật liệu

Trước kia, khi công ty còn là xưởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trường

tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và

chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao

và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và

chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nhiên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng hợp,

polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn nguyên

liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên liệu có

sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành. Hàng

ngày công ty có bộ phận chuyên phụ trách về vấn đề nguyên liệu cung cấp

cho công nhân sản xuất trực tiếp tại phân xưởng. Và bộ phận này chuyên ký

kết cũng như giao dịch với các nguồn cung ứng nguyên liệu để vận hành bộ

máy sản xuất của doanh nghiệp. Bộ phận chuyên trách vấn đề cung ứng

nguyên vật liệu chịu trách nhiệm trước trưởng phòng kế hoạch sản xuất và

thống kê đơn giá, số lượng nguyên vật liệu chuyển vào hàng ngày, hàng

tháng, quý một cách cụ thể.

7.Đặc điểm về tài chính của công ty

Đơn vị tính : 1000.000đ

Vốn cố định

Vốn lưu động

Năm

Tổng vốn

Số tiền

Tỷ lệ%

Số tiền

Tỷ lệ %

2000

6455

2662,8

41,25

3792,2

58,75

2001

8770

2506

28,57

6264

71,43

2002

10131

3431

33,87

6700

66,13

Biểu hình 1.1 : Tình hình vốn kinh doanh của công ty

Nhìn vào biểu trên ta thấy tổng số vốn kinh doanh của công ty tăng đều

qua các năm. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất

khả quan. Hàng năm tỷ trọng vốn lưu động luôn luôn cao hơn tỷ trọng vốn cố

định. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Do công ty có chức năng chính là kinh

doanh thương mại nên tỷ trọng vốn lưu động cao hơn vốn cố định là rất tốt.

Riêng năm 2001 VLĐ tăng lên 71,43% trong khi vốn cố định giảm xuỗng còn

28,57% là do công ty nhận thức được tầm quan trọng của việc kinh doanh tiêu

thụ hàng hoá nên hướng mạnh vào thị trường này để phát triển sản xuất khi

thị trường tiêu thụ mở rộng đối với một số mặt hàng chủ chốt của công ty như

kinh doanh hàng may mặc, hàng nông lâm thuỷ sản, kim khí hóa chất...thúc

đẩy tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu. Nhưng đến năm 2002 thì VCĐ tăng lên

là 33,87% làm giảm tỷ lệ VLĐ xuống. Do công ty đã đầu tư thêm trang thiết

bị, nhà xưởng để mở rộng quy mô sản xuất, tuyển thêm lao động mua thêm

một số tài sản cố định khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Điều

đó chứng tỏ rằng công ty đã có một chiến lược kinh doanh hợp lý với từng

giai đoạn phát triển riêng biệt phù hợp với tình hình tài chính của công ty và

phù hợp với những thay đổi của smôi trường kinh doanh trong giai đoạn mới.

Số đầu năm

Số cuối kỳ

Tài sản

Mã số

(VNĐ)

(VNĐ)

100

I. TSLĐ và đầu tư ngằn hạn

31850102075

47173797477

4395846364

11378854531

1. Tiền

110

758035686

760001585

-Tiền tồn quỹ

111

3637810678

10618852946

-Tiền giửi ngân hàng

112

-Tiền đang chuyển

113

2. Các khoản đầu tư tài chính

120

ngăn hạn

- Đầu tư tài chính ngắn hạn

121

- Đầu tư ngắn hạn khác

128

- Dự phòng giảm giá đầu tư

129

ngắn hạn

3. Các khoản phải thu

130

12126456867

14260345292

- Phải thu của khách hàng

131

12012801463

13306249407

- Trả trước cho người bán

132

- Thúe GTGT được khấu trừ

133

- Phải thu nội bộ

134

+ Vốn kinh doanh ở các đơn

135

vị nôi bộ

+ Phải thu về

136

+Phải thu nội bộ khác

137

- Các khoản phải thu khác

113655404

274020685

138

- Dự phòng phải thu khó đòi

139

4. Hàng tồn kho

140

9921625050

16285769250

- Hàng mua đang đi đường

141

- NVL tồn kho

142

1966500

4980500

- Công cu, dụng cụ trong kho

143

11004

11000

- Chi phi SXKD dở dang

144

9919647546

16288777750

- Thành phẩm tồn kho

145

- Hàng hoá tồn kho

146

- Hàng gửi đi bán

147

- Dự phòng giảm giá hàng tồn

149

kho

150

5. Tài sản lưu đông khác

5406173794

5248828404

- Tạm ứng

152

3907276683

4063736550

- Chi phí trả trước

152

922328100

509830819

- Chi phỉ chờ kết chuyển

153

545436875

554513489

- Tài sản thiếu chờ sử lý

154

- Các khoản ký cược

155

31132136

120747546

6. Chi sự ngiệp

160

- Chi sự nghiệp năm trước

161

- Chi sự nghiệp năm nay

162

Tình hình quản lý các loại tài sản lưu động

V.CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH

Kinh doanh trên thị trường quốc tế, phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về

cạnh tranh gay gắt

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ

CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI-XÂY DỰNG BẠCH

ĐẰNG

I.ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM THỦ CÔNG MỸ

NGHỆ

1.Tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh

vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh

tranh. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải tự hạch toán kinh

doanh nên Công ty đã tận dụng tối đa mọi cơ hội kinh doanh để tìm được

nguồn đơn đặt hàng cho mình. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty đang có sự

cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Thị trường đầu ra lúc

này như là mảnh đất đầy dinh dưỡng nuôi sống cả tập thể công nhân viên

trong công ty, có được thị trường hay không, có nhiều hay ít thị trường sẽ

quyết định đến sự tồn tại, hay diệt vong của mình. Do đó, mở rộng thị trường

là điều kiện tất yếu để công ty tồn tại và phát triển.

Đến nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt ở trên 30

quốc gia tới các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong lĩnh vực kinh doanh của

mình, công ty đã thực hiện tốt các đơn đặt hàng đảm bảo chất lượng hàng cho

nhà phân phối, tạo lòng tin cho khách hàng để ổn định và tiếp tục phát triển

khu vực bạn hàng của Công ty. Quy mô mặt hàng xuất khẩu tuy chưa lớn

nhưng đã đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Công ty hàng ngàn USD, đóng góp

vào ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm, duy trì và nâng cao dần thu

nhập cho cán bộ nhân viên và công nhân lao động trực tiếp tại phân xưởng.

Kết quả kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty theo

khu vực được thể hiện

Đơn vị : 1000 USD

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Khu vực

3008,47

10578

15073

27750

Bắc Mỹ

4037,6

24570

38048

48076

EU

4013,89

10764,5

17576

30015

Nhật Bản

2054

4578

7786

10015,7

Đông nam Á

5075

10101,4

7875,7

7877,9

Trung Nam Mỹ

2071,4

57363

8197,3

15371,4

Thị trường Nga

1511,5

2014,7

2517,6

3001,5

Thị trường khác

Tổng

19792,37

68342,6

97055,6

142.107,5

(Nguồn : Phòng kinh doanh Xuất Nhập khẩu)

Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của Công ty

trong những năm gần đây liên tục tăng, đặc biệt là có sự tăng trưởng mạnh

vào năm 2002. Đó là một tín hiệu đáng khả quan đối với cả tập thể cán bộ

công nhân viên của Công ty trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.

Bảng trên cũng cho ta thấy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là

thị trường Bắc Mỹ, Nhật Bản và EU. Hiện nay, thị trường Nhật Bản là một

trong những thị trường có nhu cầu lớn nhất về nhiều loại hàng thủ công mỹ

nghệ cũng như các sản phẩm khác mà Công ty xuất khẩu như sản phẩm

Gương, Hàng Đồ chơi, Hàng Sắt. Bên cạnh đó là một số thị trường mới nổi

lên như thị trường Đông Nam á với hơn 500 triệu dân đang là một trong

những hướng phát triển chủ đạo của Công ty trong thời gian tới.

Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường xuất khẩu lớn của rất nhiều sản

phẩm chủ lực của Việt Nam như sản phẩm dệt may, hàng da dày, hàng thủ

công mỹ nghệ,…với những ưu thế hơn hẳn so với các thị trường tiêu thụ khác

trên thế giới như mức cầu lớn, thu nhập bình quân đầu người cao, EU là khu

vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Nắm bắt được thị hiếu của người

tiêu dùng Châu Âu, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã đầu tư cơ

sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu vào khu vực này, đẩy mạnh xúc tiến bán

hàng, tiếp thị, đặt những trụ sở giao dịch, các văn phòng đại diện, đồng thời

Công ty cũng thường xuyên tham gia những Hội trợ triển lãm, trưng bày

những Showroom tại các trung tâm Thương mại lớn như London, Paris,

Berlin,…Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm qua liên

tục tăng, từ 4037,6 nghìn USD năm 1999 lên tới 48.076 nghìn USD năm

2002. Dự kiến trong tương lai kim ngạch xuất khẩu vào EU vẫn tiếp tục tăng.

Hiện nay, EU đang là một trong những thị trường chủ đạo của Công ty. Thị

trường tiêu thụ chủ yếu của khu vực này là Pháp và Đức.

Tỷ trọng thị phần của một số thị trường chủ yếu của Công ty

Đơn vị tính : %

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Khu vực

Bắc Mỹ

15,2

15,48

15,53

19,53

EU

20,4

35,95

39,2

33,83

Nhật Bản

20,28

15,75

18,12

21,12

Đông Nam á

10,38

6,7

8,02

7,05

Trung Nam Mỹ

15,64

14,78

8,11

5,54

Thị trường Nga

10,46

8,39

8,45

10,82

Thị trường khác

7,64

2,95

2,59

2,11

Tổng

100

100

100

100

Thị trường xuất khẩu của Công ty phân bố không đều, tập trung vào một

số thị trường chính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, trong đó chủ yếu là thị

trường EU luôn luôn chiếm ưu thế hơn hẳn so với các thị trường khác chiếm

20,4% năm 1999 sau đó tăng mạnh vào năm 2000 và năm 2001 với 39,2%

doanh thu từ xuất khẩu của Công ty. Sau một thời gian tăng trưởng mạnh thị

trường này đang có xu hướng suy giảm, từ 39,2% năm 2001 xuống còn

33,83% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong năm 2002.

Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những thị trường chính của Công ty,

với phong tục Phương Đông truyền thống, cũng giống như người Việt Nam

hay Trung Quốc, người Nhật có nhu cầu khá lớn về hàng thủ công mỹ nghệ,

hàng Gốm Sứ và đồ gố. Đó đều là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của

Công ty. Họ có sở thích tặng nhau những món quà làm bằng đồ Gốm Sứ với

những hoạ tiết mang tính nghệ thuật cao mang biểu tượng của tình yêu, tình

bạn. Nắm bắt được phong cách sống cũng như tâm lý của người Nhật với

truyền thống dân tộc bất khuất, Công ty đã xuất khẩu sang thị trường này

những sản phẩm có biểu tượng của đất nước họ như hình con chuồn chuồn và

khóm khoai, hình tượng võ sỹ đạo,…là những sản phẩm rất được người Nhật

ưa thích và đánh giá cao. Do vậy, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang

thị trường này rất thuận lợi và Nhật Bản luôn là một thị trường có thị phần lớn

của Công ty với doanh thu và quy mô các mặt hàng xuất khẩu liên tục tăng.

Mặc dù có suy giảm trong năm 2001 từ 28,28% xuống còn 15,75% tổng kim

ngạch xuất khẩu nhưng đã khôi phục trở lại vào năm 2002 chiếm 21,12%

tổng kim ngạch xuất khẩu .

Trong những năm qua Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng mới

chỉ xuất khẩu được một lượng khá nhỏ vào thị trường Đông Nam Á, mức cao

nhất là 10,38% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sau đó giảm dần vào các năm

sau. Hiện nay, con số này là 7,05% tổng giá trị kim ngach xuất khẩu, một con

số khá khiêm tốn với một thị trường hơn 500 triệu dân trong khu vực. Một

phần là do tại các nước này có các đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều

kiện tự nhiên, phong tục tập quán có sự giao thoa mang đậm phong cách

Phương Đông. Cho nên, phần lớn các nước trong khu vực này cũng tự mình

sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với chất liệu bằng Gốm, Sứ đáp ứng

nhu cầu của nước đó, không những thế mặt hàng này còn được xuất khẩu ra

nước ngoài trên các thị trường mà Công ty đang tiêu thụ sản phẩm của mình.

Vì vậy, sản phẩm của họ cạnh tranh rất quyết liệt với các sản phẩm của Công

ty trên một số thị trường chủ yếu. Tuy vậy, sản phẩm của Việt Nam vẫn được

khách hàng ưa chuộng trên thế giới thậm chí ta còn cạnh tranh quyết liệt và

chiến thắng ngay tại "sân khách". Có được những kết quả đó là so sản phẩm

của ta có sự tinh xảo trong nghệ thuật, sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân

tộc như bộ bàn ghế mây, chiêc nón bài thơ,…mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất

sang thị trường này chủ yếu là đồ trang trí nội thất, hàng sắt, hàng đồ chơi, vật

dụng gia đình, gương gỗ.

Trung- Nam Mỹ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn của Công ty trong

những năm 1999, 2000 với kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 5075 nghìn

USD chiếm 15,64% sau đó tăng lên 10101,4 nghìn USD chiếm 14,78% tổng

giá trị kim ngạch xuất khẩu.Công ty xuất khẩu sang 3 thị trường chính là

Achentina, Braxin, Chilê. Trong 2 năm trở lại đây tỷ trọng kim ngạch xuất

khẩu sang thị trường này đã bị suy giảm chỉ chiếm 8,11% năm 2001 và 5,54%

tỷ trọng năm 2002. Từ năm 2001 do kinh tế Achentina rơi vào tình trạng

khủng hoảng, nên xuất khẩu sang thị trường này giảm đi rõ rệt, thị trường

Braxin và Chilê cũng gặp không ít khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu sang

khu vực thị trường này giảm đi rõ rệt. Từ sự khó khăn trên, Công ty đã phải

tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng sang các thị trường và khu vực thị trường

khác. Với sự nỗ lực của Công ty, trong thời gian ngắn, Công ty đã chuyển

hướng xuất khẩu sang một số thị trường mới như thị trường Trung Đông, đẩy

mạnh xuất khẩu vào thị trường EU để có thể chuyển khu vực thị trường theo

hướng phù hợp hơn.

Đối với thị trường Nga và các nước SNG, sau hơn 10 kể từ khi Liên

Bang Xô Viết tan rã, những điều kiện ưu đãi trước kia không còn nữa, mối

quan hệ kinh doanh với khu vực này ngày càng trở lên khó khăn hơn, kim

ngạch xuất khẩu từ 2017,4 nghìn USD chiếm 10,46% năm 1999 tăng lên

5736 nghìn USD nhưng chỉ chiếm 8,39% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Với

sự cố gắng để duy trì và phát triển một thị trường truyền thống, Công ty

Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã nỗ lực rất nhiều để tăng dần giá trị kim

ngạch xuất khẩu cũng như tăng dần tỷ trọng của thị trường này lên, đến năm

2002 kết quả thật đáng khích lệ cho tập thể cán bộ công nhân viên trong Công

ty với 15.371,4 nghìn USD chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Ba thị trường chính là Nga, Hungari, Sec trong đó chỉ có thị trường Nga là

luôn duy trì lượng đơn đặt hàng thường xuyên, mặt hàng xuất khẩu mạnh sang

khu vực là mây tre, thảm, Gốm Sứ và hàng Đồ chơi.

Đặc điểm của khu vực thị trường này là yêu cầu cao về kỹ thuật, mẫu

mã không quá cầu kỳ nhưng đẹp mắt và gây ấn tượng nên trước đây lượng

hàng xuất khẩu sang thị trường này là rất lớn. Thị phần hàng thủ công mỹ

nghệ của hàng Việt Nam nói chung và hàng của Công ty nói riêng bị mất đi là

do sản phẩm của ta bị cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của Trung Quốc và

các nước trong khu vực như Malaysia, Indonexia, Philippin,…Để khắc phục

những khó khăn trên và giành lợi thế trong cạnh tranh, Công ty đã đầu tư xây

dựng và mở rộng một mạng lưới kho tàng, các cửa hàng và nhiều quầy bán

buôn, bán lẻ trên khắp thị trường Nga và các nước SNG, cử đại diện của Việt

Nam sang và thuê thêm lao động của nước sở tại phục vụ. Mạng lưới này hoạt

động khá hiệu quả và đã đem lại những kết quả đáng mừng, thể hiện ở tỷ

trọng thị phần đang được ổn định chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất

khẩu.

Tuy nhiên, bên cạnh đó Công ty vẫn chưa bám sát được những thay đổi,

thị hiếu trên thị trường này, thiếu những mẫu mã mới và những mặt hàng có

chất lượng nên đã để rớt mất mảng lớn trên thị trường này. Mặc dù vậy, đây

cũng là khu vực thị trường có nhu cầu lớn, tiêu thụ được cả những mặt hàng

truyền thống và mặt hàng mới. Do đó, Công ty cần có sự quan tâm đúng mức

và có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của thị trường, khai thác thị trường

với đúng quy mô và tiềm năng sẵn có của nó, tạo ra những sản phẩm mẫu mã

mới, chất lượng cao, giá cả và phương thức thanh toán phù hợp hơn nữa để

tăng sức cạnh tranh trên thị trường này.

Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khác của Công ty cũng đã có

sự điều chỉnh nhất định, từ 7,64% tỷ trọng năm 1999 xuống còn 2,95% năm

2000 và đến năm 2002 con số này là 2,11% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu.

Đây phần lớn là những thị trường nhỏ lẻ, không được đầu tư nhiều về mạng

lưới kênh phân phối nên Công ty không coi đây là thị trường chủ lực. Tuy

vậy, Công ty cũng không bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào để có được những đơn

đặt hàng hấp dẫn.

2.Thực trạng xuất khẩu qua một số năm gần đây

2.1. Quy mô của sản phẩm xuất khẩu

Trong thị trường cạnh tranh quốc tế, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực

nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh,

nên thị phần, lợi nhuận của Công ty luôn luôn có nguy cơ bị san sẻ. Để hạn

chế được áp lực cạnh tranh và có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh Công ty

luôn phải tìm cách tận dụng những lợi thế sẵn có của mình, hạn chế đến mức

tối đa những khó khăn của Công ty, luôn có kế hoạch kinh doanh các sản

phẩm phù hợp với nhu cầu, đồng thời cũng đa dạng hoá sản phẩm tránh tập

trung cao vào một số mặt hàng dẫn đến rủi ro trong xuất khẩu.

Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty

Đơn vị tính : nghìn USD

Tên hàng

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Hàng Đồ chơi

6392,94

17.543,55

27.214,39

38.383,24

Hàng thủ công

5423,11

20.851,33

30.174,59

48.558,13

mỹ nghệ

1048,9

4.114,22

7.347,11

9.336,46

Mây tre

1280,57

5.945,8

8.414,72

7.744,86

Gốm sứ

2456,23

7.367,3

9.851,14

13.741,79

Gỗ mỹ nghệ

1496,3

6.607,3

9.006,76

14.864,44

Sắt mỹ nghệ

1694,23

6.663,4

5.046,89

9.478,57

Hàng tạp

phẩm

Tổng

19.792,37

68.342,6

97.055,6

142.107,5

( Nguồn :Báo cáo kết quả kinh doanh: Phòng Kế toán )

Từ khi thành lập cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là mặt hàng

chủ lực mà Công ty tiến hành xuất khẩu. Qua nhiều năm hoạt động kinh

doanh, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xúc tiến xuất khẩu, thẩm

định giá cả, cải tiến mẫu hàng phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng,

Công ty đã có những khách hàng truyền thống trong lĩnh vực này nên việc trị

giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu liên tục tăng từ 5.423,11 nghìn USD

năm 1999 lên 20.851,33 nghìn USD năm 2000 đặc biệt là vào năm 2002 với

trị giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là 48.558,13 nghìn USD.

Sau hàng thủ công mỹ nghệ thì hàng Đồ chơi chiếm trị giá khá lớn trong

tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ 6.392,94 nghìn USD năm 1999 lên 17.543,55

nghìn USD năm 2000 tăng 11.150,61 nghìn USD. Đến năm 2001 trị giá hàng

Đồ chơi trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 27.214,39 nghìn USD và

năm gần đây nhất con số này là 38.383,24 nghìn USD.

Tỷ trọng cơ cấu hàng xuất khẩu so với tổng số

Đơn vị tính : %

Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003

Tên hàng

Hàng Đồ chơi

32,3

25,67

28,04

27,01

Hàng thủ công mỹ nghệ

27,4

30,51

31,09

34,17

Mây tre

5,3

6,02

7,57

6,57

Gốm sứ

6,47

8,7

8,67

5,45

9,67

Gỗ mỹ nghệ

12,41

10,78

10,15

Sắt mỹ nghệ

7,56

8,79

9,28

10,46

Hàng tạp phẩm

8,56

9,75

5,2

6,67

Tổng

100

100

100

100

(Nguồn : Phân xưởng sản xuất)

Qua bảng trên ta thấy, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là hàng

Đồ chơi và hàng thủ công mỹ nghệ. Năm 1999 tỷ trọng hàng Đồ chơi xuất

khẩu là 32,3% so với tổng số sau đó đến hàng thủ công mỹ nghệ chiếm

27,4%, hàng mây tre chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ là 5,3%, đồ Gỗ mỹ

nghệ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn là 12,41%, hàng Đồ chơi của

Công ty rất phong phú về chủng loại và mẫu mã, kiểu dáng đẹp, nên được tiêu

thụ với một số lượng lớn ở nước ngoài. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công

ty không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị văn hoá sâu sắc, mang

hình tượng về đất nước, con người, mang bản sắc văn hoá dân tộc sâu sắc phù

hợp với truyền thống và phong tục tập quán của nước sở tại.

Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng xuất khẩu chính

của Công ty , luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ

xuất khẩu. Nếu như năm 1999 tỷ trọng của mặt hàng này là 27,4%thì đến năm

2000 là 30,51% và năm 2001 con số này là 31,09% và năm 2002 chiếm tỷ

trọng là 34,17%. Hầu hết các sản phẩm của Công ty làm bằng chất liệu tự

nhiên như bằng đất sét, hiện nay các sản phẩm này đã được bổ sung bằng các

chất liệu nhân tạo như bằng thạch cao, hay bằng nhựa tổng hợp. Các sản phẩm

như lọ hoa, khay đựng hoa quả, guốc gỗ, tượng phật, và hình tượng chúa

Giêsu, hình Đức mẹ đồng trinh, hay tượng thần Cupid,…các mặt hàng này

được khách hàng nước ngoài đánh giá cao có giá trị nghệ thuật cao, điêu khắc

hoa văn tinh tế và độc đáo. Tuy nhiên mặt hàng này vẫn chưa tương xứng với

tiềm năng sẵn có của Công ty.

Mặt hàng Đồ chơi cũng chiếm một tỷ trọng tương đối trong tổng số các

mặt hàng xuất khẩu, nhưng hiện nay mặt hàng này đang dần được thay thế bởi

các mặt hàng khác, từ 32.3% năm 1999 đến năm 2000 là 25,67%, năm 2001 là

28,04%, đến năm 2002 chiếm 27,01%. Hàng Đồ chơi là mặt hàng có chủng

loại phong phú nhất với nhiều mẫu mã, chủng loại, các sản phẩm của Công ty

có sự chọn lọc ở mẫu mã và chất liệu hợp lý có sự thử nghiệm ở một số thị

trường lớn trước khi tung sản phẩm ra thị trường. Mặc dù tỷ trọng xuất khẩu

của mặt hàng này có suy giảm hơn nhưng trước yêu cầu của sự điều chỉnh cơ

cấu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện của Công ty là một sự sắp

xếp có kế hoạch, có sự tính toán từ trước để phù hợp với xu thế tiêu dùng xuất

khẩu.

Hàng Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ cũng là mặt hàng chiếm tỷ trọng

tương đối trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Với ưu thế hơn hẳn

so với các nước trong khu vực về nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao,

được đào tạo từ Trường Dạy Nghề do chính Công ty tổ chức. Nguồn lao động

này đã tạo ra những sản phẩm có độ tinh xảo trong kiến trúc, hoa văn mang

đậm nét văn hoá của các nền văn hoá khác nhau. Mặt hàng Gỗ mỹ nghệ từ chỗ

chiếm 12,41% tỷ trọng năm 1999 với trị giá 2.456,23 nghìn USD đang có xu

hướng giảm dần và đến năm 2002 chỉ chiếm 9,67% tỷ trọng tương ứng với

13.741,79 nghìn USD.

Còn mặt hàng Sắt mỹ nghệ lại tăng dần trong tỷ trọng các mặt hàng xuất

khẩu. Từ 7,56% năm 1999 lên 8,79% năm 2000, năm 2001 là 9,28% và đến

năm 2002 con số này là 10,46%. Qua đó ta có thể thấy, doanh số xuất khẩu

hàng Sắt mỹ nghệ liên tục tăng qua các năm và dự kiến mặt hàng này sẽ là

một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của Công ty. Các mặt hàng xuất

khẩu chủ yếu là Chân nến, Chao đèn, Giá kệ, Ghế ngồi,… sản phẩm làm từ sắt

rất đa dạng do sử dụng sơn tĩnh điện nên màu sắc đặc trưng thường là màu

đen chì và được kết hợp với một số vật liệu khác để tạo nên một sản phẩm

hoàn chỉnh như khung sắt đựng rượu có quấn mây ở thành tạo nên một sản

phẩm rất ấn tượng, độc đáo, mặt hàng này một phần là Công ty thu gom

nhưng phần lớn Công ty tự sản xuất. Trong thời gian tới, Công ty sẽ xuất khẩu

mặt hàng sắt tự sản xuất chứ không phải thu gom từ nơi khác. khi đó tỷ trọng

mặt hàng sắt mỹ nghệ xuất khẩu sẽ tăng lên.

Sản phẩm Gốm Sứ của Công ty rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã phong

phú, kiểu dáng đẹp, không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị sử

dụng lâu bền. Các loại bình hoa, chậu, đôn, đĩa ấm chén làm bằng Gốm men

rạn, men ngọc, men chảy,… với hoa văn phong phú, độc đáo là những sản

phẩm được rất nhiều khách hàng nước ngoài quan tâm. Bên cạnh đó, Công ty

cũng chú ý thu mua, sản xuất những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc

dân tộc như những tấm bình phong có hình tượng đồng quê, sản phẩm Gốm

với màu xanh đặc trưng khiến khách hàng rất thích.

Tuy nhiên, việc vận chuyển hàng Gốm sứ rất khó khăn vì đây là mặt

hàng cồng kềnh, dễ vỡ nên đòi hỏi phải cẩn thận trong mọi khâu nhất là khâu

vận chuyển, kể cả chèn lót, bốc xếp, chi phí vận chuyển lại cao. Hơn nữa hàng

Gốm Sứ lại chịu ảnh hưởng của sự biến động thị trường và giá cả của mặt

hàng Gốm nên kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng không ổn định, có khi

không đạt được mục tiêu đề ra. Năm 1999 chiếm 6,47% tỷ trọng kim ngạch

xuất khẩu, năm 2000 chiếm 8,7%, năm 2001 chiếm 8,67% và năm 2002 con

số này là 5,45% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Ngoài ra, phải kể đế mặt hàng tạp phẩm, là một mặt hàng chiếm tỷ trọng

đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng tạp

phẩm của Công ty gồm hàng trăm vật dụng, đồ lưu niệm, hàng thêu ren, khăn

trải bàn, túi xách, các mặt hàng thuỷ tinh như lọ hoa, hàng Gương, Kính, Đồ

nội thất gia đình,…năm 1999 hàng tạp phẩm chiếm 8,56% tỷ trọng, năm 2000

chiếm 9,75%, năm 2001 chiếm 5,2% và năm 2002 chiếm 6,67%. Có sự sụt

giảm trong năm 2001 là do tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu tập trung vào một

số mặt hàng chủ đạo như hàng thủ công mỹ nghệ, hàng Đồ chơi, hàng Gốm

Sứ, Gỗ mỹ nghệ và Sắt mỹ nghệ. Nhưng trong năm 2002 thì loại hàng này lại

giữ được tỷ trọng trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.

Hàng Mây tre chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch

xuất khẩu, sản phẩm chủ yếu là những giỏ quà lưu niệm, trong 4 năm trở lại

đây, tỷ trọng của mặt hàng này chỉ chiếm tỷ trọng khoảng từ 5 đến 7%. Như

vậy, Công ty cần đa dạng hoá hơn nữa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhất là cần

tăng tỷ trọng hàng mây tre vì giá nguyên liệu rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào rất

thuận lợi cho sản xuất, cần nghiên cứu thêm nhu cầu để không làm mất thị

trường đầu ra cho loại hàng này.

2.2. Quy mô thị trường xuất khẩu

Quy mô thị trường xuất khẩu thể hiện ở số lượng thị trường mà hàng thủ

công mỹ nghệ của Công ty đã tiêu thụ được. Hiện nay, hàng thủ công mỹ

nghệ của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục với trên 25 quốc gia trên thế giới,

mặc dù sản phẩm xuất khẩu của Công ty còn phân bố không đồng đều, mới

chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm như Nhật Bản, EU, Mỹ.

Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên một số thị

trường chính

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Thị trường

Trị giá

Tỷ

Trị giá

Tỷ

Trị giá

trọng (%)

trọng (%)

trọng (%)

Nhật Bản

4013,89

10763,96

15,75

17586,47

20,28

8,39

8201,2

Nga

2071,4

10,46

5733,94

7182,11

Pháp

950,3

4,8

4237,24

6,2

Đức

1286,5

6,5

5262,38

7,7

6988

Anh

672,94

3,4

2050,29

3,0

2814,6

Thuỵ Điển

514,6

2,6

2597,02

3,8

2960,2

Đan Mạch

205,84

1,04

1407,86

2,06

1950,82

Brazil

1702,14

8,6

6130,33

8,97

7628,57

Italya

150,42

0,76

1052,48

1,54

1514,07

Hàn Quốc

672,94

3,4

2063,95

3,02

2882,55

Đài Loan

494,81

2,5

1845,25

2,7

2057,58

Thổ Nhĩ Kỳ

203,86

1,03

1414,69

2,07

1640,24

Chi Lê

0

0

382,72

0,56

1164,67

Du bai

633,36

3,2

1845,25

2,7

2183,75

Malaysia

0

0

874,78

1,28

1087,02

Singapore

279,07

1,41

2323,65

3,4

2426,39

Philippin

116,78

0,59

1380,52

2,02

3028,13

Mỹ

1900,07

9,6

6424,2

9,4

9812,32

Canada

1108,37

5,6

2262,14

3,31

3202,83

Colombia

354,28

1,79

956,87

1,4

1649,95

Achentina

405,74

2,05

785,94

1,15

0

Arập

2002,99

10,12

6547,22

9,58

9113,52

Tổng

19792,37

100

68342,6

100

97055,6

( Nguồn : Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu )

Qua bảng trên ta thấy được quy mô thị trường xuất khẩu chủ yếu của

Công ty. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã có mặt trên 4 châu lục, với giá trị

kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, quy mô thị

trường ngày càng mở rộng, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không ngừng lớn

mạnh.

Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty vẫn tập trung vào một số thị

trường trọng điểm như Nhật Bản, Nga, Mỹ và EU, thị trường Nhật Bản luôn

dẫn đầu về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với 20,28% tỷ trọng năm 2000,

15,75% năm 2001, 18,12% năm 2002 và một con số kỷ lục 21,12% năm 2003.

Từ đó ta có thể thấy thị trường Nhật Bản có ý nghĩa quan trọng như thế nào

trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương

Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói riêng cũng như sản phẩm thủ công mỹ nghệ

của Việt Nam nói chung. Là một thị trường năng động nhất Châu Á cũng như

của thế giới, Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu lớn của nhiều chủng loại

hàng hoá của ta. Tiếp sau Nhật Bản là thị trường Nga là một thị trường cũng

khá quan trọng với 10,46% tỷ trọng năm 2000, 8,39% năm 2001, 8,45% tỷ

trọng năm 2002 và lại tăng lên 10,82% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm

2003. Đó là do sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong quá trình

thúc đẩy xuất khẩu cộng với yếu tố khách quan là do kinh tế Nga phục hồi trở

lại sau nhiều năm suy thoái, hơn nữa Nga là thị trường có số lượng kiều bào

Việt Nam sinh sống nhiều nhất thế giới, nên chúng ta có điều kiện tốt để tiêu

thụ sản phẩm ở thị trường này, dễ bắt kịp thị hiếu của khách hàng hơn và có

điều kiện nghiên cứu, thăm dò thị trường tốt hơn. Mặc dù đã đạt được những

kết quả đáng khích lệ trên nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác hết tiềm năng

sẵn có của khu vực thị trường này, vẫn để mất không nhiều đơn đặt hàng lớn

và bị hàng của Trung Quốc, Thái Lan giành mất thị trường. Trong thời gian

tới, Công ty cần có kế hoạch đẩy mạnh việc xúc tiến thương mại, quan tâm

đúng mức tới khu vực thị trường này tương xứng với tiềm năng sẵn có của nó.

Thị trường EU là một mảnh đất màu mỡ cho rất nhiều chủng loại hàng

hoá xuất khẩu của Việt Nam và hàng thủ công mỹ nghệ nằm trong số đó, các

thị trường tiêu thụ sản phẩm mạnh là Đức, Pháp, Anh. Đây là những thị

trường mà Công ty đã có quan hệ từ lâu nên có lợi thế hơn trong khâu xúc tiến

thương mại và phân phối hàng hoá, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch

Đằng có trụ sở đặt tại các trung tâm kinh tế lớn như Paris, London, Berlin, và

các trung tâm này hoạt động khá hiệu quả, ngoài ra các thị trường khác như

Thuỵ Điển, Italya, Đan Mạch cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể. Ngày 1 tháng

5 năm 2004 vừa qua, EU đã chính thức kết nạp thêm 10 thành viên nữa vào

khu vực của mình, tiêu dùng đồng tiền chung Châu Âu. Với những chính sách

ưu đãi về hạn ngạch và hàng rào thuế quan, là một thị trường có mức thu nhập

bình quân đầu người cao gần nhất thế giới, trình độ thưởng thức văn hoá cũng

vào loại hàng đầu thế giới, EU là một thị trường đầy tiềm năng cho các chủng

loại hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty.

Thị trường Mỹ là một trong những thị trường khó tính nhưng cũng chiếm

tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá cao với 9,6% năm 2000, 9,4% tỷ trọng năm

2001 sau đó tăng lên 10,11% tỷ trọng năm 2002 và có xu hướng giảm vào

năm 2003 với 7,36% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Với hơn 250

triệu dân sinh sống với nhiều chủng loại sắc tộc khác nhau, trong đó kiều bào

của ta khá lớn, thị trường Mỹ luôn là một trong những mảnh đất phì nhiêu

của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, một vấn đề đáng quan tâm là

hàng rào thuế quan của thị trường này khá chắc, chúng ta đã nhận được khá

nhiều bài học từ việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này như xuất khẩu

thuỷ sản, hàng dệt may, với nhiều vụ kiện bán phá giá vu khống của Bộ

Thương Mại Mỹ, chúng ta đã bị khu vực thị trường này làm cho điêu đứng

vẫn biết rằng không phải lỗi của ta. Vì vậy, sống trên mảnh đất màu mỡ

nhưng cũng đầy chông gai này, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng

cần phải rất cảnh giác đề phòng để có thể đối đầu với nhiều mánh khoé của

khu vực thị trường này.

Thị trường Nga là một trong những thị trường truyền thống của nhiều

mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm qua, tỷ trọng hàng thủ

công mỹ nghệ của Công ty xuất khẩu vào thị trường này vẫn chiếm một khối

lượng đáng kể với kim ngạch ổn định. Từ khi Liên bang Xô Viết tan rã năm

1991, kinh tế Nga rơi vào tình trạng suy thoái trong một thời gian khá dài, làm

ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ ngoại thương giữa 2 nước, xuất khẩu

vào thị trường này giảm sút trong một thời gian khá dài, chúng ta bị hàng của

nước láng giềng Trung Quốc và Thái Lan cạnh tranh gay gắt do họ có những

điều kiện về hải quan hơn ta, hàng của họ có mẫu mã, chủng loại phong phú,

khiến cho chúng ta bị mất khá nhiều đơn đặt hàng và nhiều mảng thị trường

con. Mặc dù vậy, sản phẩm thủ công mỹ nghệ vẫn duy trì được tỷ trọng kim

ngạch xuất khẩu vào thị trường này cho dù có những thời kỳ rơi vào tình trạng

suy giảm nghiêm trọng, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế Nga, mức sống

của người dân được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng tăng lên trong mấy năm trở

lại đây, khối lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu vào thị trường này cũng

dần đi vào quỹ đạo, tăng trưởng ổn định. Nhưng tiềm năng của khu vực thị

trường này vẫn là rất lớn và Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng cũng

như các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta cần quan tâm nhiều hơn nữa đến

khu vực thị trường này, cố gắng khai thác hết mọi khả năng có thể tránh lãng

phí, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh.

Bên cạnh thị trường Nga là cộng đồng các quốc gia độc lập SNG, đây là

một mảng thị trường tương đối hấp dẫn vì chúng ta có quan hệ làm ăn từ

trước với họ nên dễ dàng thâm nhập và triển khai hiệu quả hơn, kinh doanh

trên mảng thị trường này chúng ta gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các

nước xuất khẩu khác như Trung Quốc, Malaysia,…nhưng với những lợi thế

về chất lượng sản phẩm tương đối bền, mối quan hệ làm ăn lâu dài từ trước

nên sản phẩm của ta vẫn xuất khẩu vào thị trường này một tỷ trọng đáng kể,

mặc dù vậy nó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của Công ty.

Một số thị trường chúng ta mới thực hiện triển khai như thị trường

Malaysia, mới có kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm trở lại đây, là một tín hiệu

đáng mừng vì chúng ta có thể cạnh tranh được với sản phẩm của chính nước

sở tại, tiêu thụ được ở thị trường này cho dù tỷ trọng xuất khẩu còn thấp.

Nhưng chúng ta cần cố gắng hơn nữa vì mục tiêu tăng trưởng trong giai đoạn

tiếp theo để có thể chiến thắng trong cạnh tranh trong tiến trình hội nhập

AFTA.

Bên cạnh những thành công đạt được, Công ty cũng gặp phải những khó

khăn nhất định, làm mất không thị phần tại thị trường Achentina, do kinh tế

nước này suy thoái nên kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của

Công ty cũng như nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng rơi vào tình

trạng tương tự. Đó là một trong những khó khăn của Công ty mà Công ty cần

có chiến lược chuyển hướng thị trường, giữ vững được tốc độ tăng trưởng

xuất khẩu.

Ngoài các thị trường xuất khẩu chính của Công ty như kể trên, là các thị

trường nhỏ lẻ, chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ ở các khu vực Châu Mỹ. Những

thị trường này góp phần làm phong phú thêm quy mô thị trường xuất khẩu của

Công ty, cần quan tâm nhiều hơn đến khu vực thị trường này để tăng dần tỷ

trọng xuất khẩu, không phải phụ thuộc quá nhiều vào một số thị trường lớn,

tránh rơi vào tình trạng rủi ro trong kinh doanh xuất nhập khẩu.

2.3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác

nhau, một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường khi nó

có tốc độ tiêu thụ nhanh hơn các sản phẩm cùng loại khác.

Là một doanh nghiệp sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, với đặc trưng của

sản phẩm là không qua nhiều quy trình công nghệ phức tạp mà chủ yếu là hao

phí sức lao động trực tiếp. Nên sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế hơn so

với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới. Nó được thể

hiện thông qua giá, chất lượng nguyên vật liệu, kỹ xảo trong hoa văn, và được

thể hiện ở thương hiệu của sản phẩm.

Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào, với hơn 50% dân số là

trong độ tuổi lao động, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với các

nước trong khu vực, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tiền

công lao động còn rẻ. Hơn nữa, là một doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công

mỹ nghệ, nên Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng càng có lợi thế

trong việc tận dụng nguồn lực lao động này, với tính chất của sản phẩm là hao

phí lao động trực tiếp, lao động thủ công là chính nên Công ty đã tận dụng

được đội ngũ lao động thủ công từ nông thôn ra là chính, số lượng lao động

này phần lớn được đào tạo tại Công ty trong quá trình thử việc và học nghề.

Nếu làm việc tốt, và có kỹ năng nghề nghiệp chuyên môn cao, Công ty sẽ tiếp

tục bồi dưỡng và đào tạo chuyên sâu. Trong những tháng thử việc này, tiền

lương của công nhân chỉ là lương thử việc, nên Công ty tiết kiệm được chi phí

mà vẫn có sản phẩm để tiêu thụ. Đó là một trong những lý do khiến cho sản

phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng có

giá rẻ hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong nước cũng như

trong khu vực.

Ngoài lợi thế về giá rẻ, sản phẩm của Công ty còn có chất lượng nguyên

liệu bảo đảm, Công ty có liên kết với các nhà cung cấp truyền thống, cung cấp

đủ lượng nguyên vật liệu cho Công ty đúng tiến độ và đúng chất lượng, phù

hợp với yêu cầu về chất lượng của khách hàng. Với nhiều chủng loại hàng hoá

tham gia xuất khẩu trong đó chủ yếu là hàng mỹ nghệ, cộng với mặt hàng gỗ

trang trí nội thất, đều là những sản phẩm được gia công chế biến từ nguyên

liệu tự nhiên, nên Công ty cũng có được lợi thế về giá nguyên liệu rẻ vì nước

ta là nước có tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Đó là lý do khiến cho sức cạnh

tranh của sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty mạnh hơn trong quá trình

xuất khẩu.

Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp trực

thuộc Bộ Giao Thông Vận tải, nên cũng có nhiều lợi thế hơn khi tham gia thị

trường xuất khẩu. Với sự trợ giúp từ phía các Bộ, ngành nhất là Bộ Thương

mại đã có chính sách trợ giúp về nhiều mặt, về tài chính, về thuế quan và đặc

biệt là về thủ tục hải quan khiến cho sản phẩm của Công ty có nhiều lợi thế

cạnh tranh hơn so với sản phẩm của các nước khác.

Ngoài ra, sức cạnh tranh của sản phẩm còn được thể hiện ở thương hiệu

của sản phẩm, đây là một trong những tồn tại của Công ty vì sản phẩm của

Công ty còn chưa được nhiều khách hàng biết đến. Công ty vẫn phải sử dụng

thương hiệu của nước ngoài để thâm nhập thị trường mới. Để tiêu thụ được

hàng có khi Công ty phải sử dụng thương hiệu của nhà phân phối mới có thể

tiếp cận được thị trường mới và tiêu thụ được sản phẩm một cách dễ dàng.

Đó cũng là khó khăn của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng nói

riêng và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói chung khi tham gia thị trường

xuất khẩu. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, thương hiệu là một trong những vấn

đề quan trọng có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và diệt vong của sản

phẩm. Vì vậy, nếu như trong thời gian tới, nếu như Công ty không có kế

hoạch cụ thể cho việc quảng bá thương hiệu của mình thì có thể sẽ là một

thách thức to lớn đối với quá trình xuất khẩu sản phẩm trong tiến trình hội

nhập kinh tế toàn cầu.

Nhìn chung, so với sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong nước và thế giới,

sản phẩm của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn có nhiều vấn

đề cần phải giải quyết nếu như Công ty muốn cạnh tranh được với sản phẩm

của Trung Quốc, Thái Lan,…và sản phẩm của các nước trong khu vực như

Indonêxia, Malaysia. Trong thời gian tới Công ty cần tăng cường sức cạnh

tranh của sản phẩm hơn nữa nếu như muốn chiến thắng trong cạnh tranh, giữ

vững được thị trường xuất khẩu.

3. Chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Công ty

3.1. Công tác nghiên cứu và dự báo thị trường nước ngoài

Nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động mở rộng thị trường ngoài

nước, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã phải tự mình tìm hiểu

đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng, lựa chọn sản phẩm phù hợp

với thị hiếu của khách hàng. Tóm lại là từ khâu ký kết hợp đồng đến kết thúc

hợp đồng xuất khẩu đều do các phòng ban trong Công ty có nhiệm vụ thực

hiện. Vì vậy, Công ty có thành lập một bộ phận nghiên cứu và dự báo thị

trường riêng biệt để thực hiện chức năng chuyên môn hoá của mình, đó là

mảng thị trường của phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Họ thường xuyên cập

nhật thông tin về thị trường xuất khẩu qua đài, báo. mạng Internet, qua các đại

lý, chi nhánh của Công ty trong và ngoài nước, hoặc qua những khách hàng

quen thuộc, các tổ chức của Nhà nước như Sở Thương mại, Phòng xúc tiến

thương mại…Công ty thường xuyên cử các phái đoàn ra nước ngoài để thâm

nhập , tìm hiểu thị trường và tạo lập mối quan hệ làm ăn với khách hàng. Mặc

dù công tác này rất tốn kém nhưng cho phép Công ty đảm bảo thông tin về thị

trường một cách cụ thể và xác thực.

Trên cơ sở đó, Công ty tiến hành sàng lọc, phân tích thông tin, đưa ra

những đánh giá và nhu cầu hiện tại của thị trường. Từ đó, ban lãnh đạo và

Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty có kế hoạch lập các phương

án kinh doanh về số lượng, chất lượng và chủng loại mặt hàng cho xuất khẩu.

Dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp với công tác dự báo thị

trường ( dự báo sức mua, biến động của thị trường…) giúp xây dựng tốt mối

quan hệ với khách hàng nước ngoài và các nguồn cung ứng nguyên liệu trong

nước, duy trì hoạt động kinh doanh lâu dài của Công ty. Kết quả kinh doanh

hiện tại kết hợp với dự báo về nhu cầu, thị trường xuất khẩu trong tương lai

chính là căn cứ để Công ty đề ra các chỉ tiêu kế hoạch năm cho các phòng

ban, và các phân xưởng sản xuất.

3.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại

Thị trường là một trong những mắt xích quan trọng để giành thắng lợi

trong cạnh tranh. Vì vậy công tác xúc tiến thương mại là một sự đầu tư có

chọn lọc để Công ty đánh bại đối thủ trên các mặt trận trong và ngoài nước.

Công ty rất coi trọng việc quảng cáo và chào bán hàng hoá, tìm kiếm khách

hàng mới. Cụ thể như Công ty đã thành lập phòng trưng bày hàng mẫu ở các

khu đô thị sầm uất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ,

Vũng Tàu, Buôn Mê Thuột. Tại các showrow, Công ty thiết kế trang trí sản

phẩm rất khoa học và đẹp mắt, không gian hài hoà thu hút sự chú ý của khách

tham quan, đặc biệt là du khách nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty còn cử

những nhân viên có ngoại hình giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ để tiếp xúc

và giới thiệu sản phẩm trực tiếp cho du khách. Đó là hình thức quảng bá sản

phẩm của Công ty tới những thị trường tiềm năng mà Công ty chưa vươn tới

được.

Hàng năm, Công ty còn tổ chức các đoàn cán bộ ra nước ngoài để thâm

nhập và tìm kiếm thị trường, tham gia các Hội chợ trong và ngoài nước, để

quảng bá sản phẩm, tìm kiếm bạn hàng, duy trì các thị trường truyền thống,

mở rộng thêm các thị trường mới, gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng,

tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau để tạo một mạng lưới tiêu thụ hàng hoá ổn

định. Trong năm 2003, Công ty đã tổ chức 12 phái đoàn đi khảo sát thị trường

ngoài nước, tham gia các Hội chợ lớn tại Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Hồng Kông, Ai

Cập, Singapore, Philippin, tận dụng tối đa các cuộc tiếp xúc trực tiếp với

khách hàng ở nhiều nước khác nhau.

Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài đầy tiềm năng, ngoài việc tham

gia các gian hàng tại các Hội chợ quốc tế Công ty không bỏ qua một cơ hội

nào để tiếp cận nguồn đơn đặt hàng, luôn có mặt tại các gian hàng triển lãm,

các Hội chợ tiêu dùng trong nước và quốc tế do Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam (VCCI) hay Bộ Thương mại kết hợp với các tổ chức nước

ngoài thực hiện như triển lãm hàng tiêu dùng Nhật Bản của JETRO năm 2000.

Ngoài ra, Công ty còn quảng cáo sản phẩm của mình qua báo chí, ấn

phẩm, qua mạng Internet.

3.3. Chính sách Marketing

Marketing là mộ

3.4. Chính sách sản phẩm

Công ty chủ chương đa dạng hoá sản phẩm. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ

của công ty có hàng trăm chủng loạị, với nhiều mẫu mã kiểu dáng, màu sắc

phong phú, tạo điều kiện cho khách hàng có thể lựa chọn sản phẩm ưng ý

nhất. Công ty đă quan tâm điều chỉnh cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu

thị trường và thị hiếu của ngường tiêu dùng. Khi phát hiện ra một xu hướng

tiêu dùng đã hình thành trên thị trường hăy lắm bắt được xu hướng tiêu dùng

hiện tại, công ty không ngần ngại tung ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu, giá

cả và chất lượng .

Với chính sách sản phẩm như vậy, Công ty đã và đang tăng dần kim

ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, nâng cao dần sức cạnh tranh của sản

phẩm, thu hút ngày một nhiêu hơn đơn đặt hàng từ các nhà phân phối trong và

ngoài nước, từ đó tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất khẩu.

3.5. Chính sách giá cả

Mục tiêu của Công ty là lợi nhuận ngày một tăng, mà lợi nhuận luôn luôn

tỷ lệ thuận với lượng hàng bán ra. Để duy trì và phát triển được tốc độ tiêu thụ

sản phẩm, ngoài việc sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu, Công

ty còn thực hiện chính sách giá cả hợp lý, có chế độ đãi ngộ phù hợp với

khách hàng mua với khối lượng lớn, hay những nhà phân phối truyền thống

của mình

Công ty thực hiện phân biệt đối tượng thị trường và đối tượng khách

hàng để có chính sách giá cả phù hợp. Giá cả phải được xây dựng trên cơ sở

giá thành sản xuất, giá thành sản xuất phải làm sao thấp đến mức có thể nhất

định để giá cả giảm tương đối so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường,

Công ty phải lấy giá cả là một trong những nhân tố quan trọng để cạnh tranh

với sản phẩm khác. Giá cả được so sánh với giá của các sản phẩm cùng loại

trên thị trường để đảm bảo giá bán không đi chệch xu hướng của thị trường.

Với chính sách giá cả như trên, Công ty đã làm hài lòng nhiều đối tượng

khách hàng cả truyền thống lẫn khách hàng tiềm năng. Trong thời gian tới

Công ty cần phát huy lợi thế của mình trên thị trường.

II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ

NGHỆ CỦA CÔNG TY

1.Những ưu điểm trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

của Công ty

Trong những năm qua, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng luôn

luôn đạt được những thành tích đáng mừng trong việc thúc đẩy xuất khẩu, sản

phẩm của Công ty đã có mặt ở trên 25 nước, và là một trong những doanh

nghiệp dẫn đầu về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của cả nước. Tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ luôn đạt từ 27-30%/ năm, trong đó,

các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao là gốm sứ, sắt mỹ nghệ. Còn các thị

trường có tốc độ tăng trưởng cao là Tây Âu, Nhật Bản và Châu Mỹ. Thị

trường Nga và các nước SNG còn chưa được Công ty đầu tư đúng so với tiềm

năng vốn có của nó. Trong thời gian qua có được những thành tích đáng khích

lệ đối với tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty như vậy là do sự nỗ lực

vượt bậc của toàn Công ty, với tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật và khả

năng sáng tạo của đội ngũ thiết kế mẫu hàng, sự không ngừng học hỏi của cán

bộ công nhân viên trong Công ty, luôn trau dồi kiến thức, kỹ năng nghề

nghiệp, nâng cao trình độ, nắm bắt thị trường, điều chỉnh cơ cấu mặt hàng cho

phù hợp với sự thay đổi của thị trường từng bước nâng cao hiệu quả kinh

doanh của Công ty.

1.1.Xây dựng kế hoạch xuất khẩu

Công ty dựa trên việc xác định nhu cầu hiện tại kết hợp công tác dự báo

thị trường để xây dựng kế hoạch kinh doanh. Trong thời gian qua, Công ty đã

xây dựng tốt các mối quan hệ với khách hàng trong và ngoài nước, thực hiện

tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra cho các phòng ban và cho toàn Công ty.

Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng từ khâu nghiên cứu và dự báo thị

trường nước ngoài. Đó là quá trình thu thập, xử lý và phân tích số liệu về thị

trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các quyết định quản trị. Một mặt,

mục tiêu cuả nghiên cứu thị trường là xác định thực trạng của thị trường theo

các tiêu thức có thể lượng hoá được. Mặt khác, phải giải thích các ý kiến về

cầu sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cũng như lý do người tiêu dùng mua

hay không mua sản phẩm. Đó là nhiệm vụ của phòng Kinh doanh-Xuất nhập

khẩu trong việc tìm hiểu đối tác, tạo lập nguồn hàng, tìm kiếm hợp đồng và

tiêu thụ sản phẩm.

Kế hoạch xuất khẩu được xây dựng trên cơ sở những thông tin thu thập

được về thị trường nước ngoài, mảng thị trường tiến hàng sàng lọc, phân tích

thông tin, đưa ra những đánh giá về nhu cầu hiện tại, đồng thời giải thích các

phản ứng của đối thủ trước những chính sách mới của doanh nghiệp, tìm ra

các khả năng có thể ảnh hưởng tới cầu như giá cả sản phẩm, thu nhập của

người tiêu dùng, các biện pháp quảng cáo,…từ đó lập kế hoạch kinh doanh cụ

thể.

1.2.Phương pháp xây dựng kế hoạch

Xuất khẩu là một trong những nội dung của chiến lược tiêu thụ sản phẩm

mà tiêu thụ sản phẩm là một trong 6 chức năng hoạt động cơ bản của doanh

nghiệp. Chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm quyết định hiệu quả của

hoạt động sản xuất hoặc chuẩn bị dịch vụ

Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng giao nhiệm vụ thực hiện kế

hoạch xuất khẩu cho Phòng Kinh doanh - Xuất nhập khẩu. Họ có bộ phận

nghiên cứu thị trường xuất khẩu riêng, bộ phận này thường xuyên cập nhật

thông tin về thị trường xuất khẩu qua mạng Internet, qua đài, báo, qua các đại

lý, qua thông tấn xã Việt Nam, chi nhánh và văn phòng đại diện ở nước ngoài.

Không những thế phòng ban này còn nghiên cứu thị trường trong nước, tìm

hiểu các đối thủ cạnh tranh ngay tại sân nhà để có kế hoạch sản xuất cho phù

hợp với mức cầu trong và ngoài nước. Chiến lược xuất khẩu được xây dựng

cho từng năm, mỗi năm lại được phân ra từng quý và cứ 6 tháng Công ty lại

tổng kết doanh thu từ xuất khẩu. Trong thời gian ngắn như vậy, cho phép

Công ty có thể có những điều chỉnh phù hợp với năng lực sản xuất và có biện

pháp thúc đẩy xuất khẩu, khắc phục những hạn chế, tăng lợi nhuận phấn đấu

đạt mục tiêu đề ra cho toàn Công ty.

1.3.Tổ chức thực hiện kế hoạch

Công ty đã mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tổ chức nhiều đợt khảo sát

thị trường nước ngoài, cắt cử những cán bộ nhiệt tình, có năng lực đi về các

làng nghề tìm nguồn hàng cho xuất khẩu, khảo sát thị trường để tìm những

sản phẩm mới, mẫu mã mới làm phong phú thêm danh sách các sản phẩm

tham gia xuất khẩu của Công ty. Từ lãnh đạo cho đến các phòng ban đều thiết

lập mối quan hệ tốt đẹp với các cơ quan thương vụ phục vụ cho công tác tiêu

thụ sản phẩm nói riêng và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói chung.

Công ty còn tích cực tham gia gửi mẫu hàng đi các Hội trợ, triển lãm

nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm trên nhiều thị trường truyền thống cũng

như thị trường tiềm năng, qua các kênh xúc tiến thương mại do Nhà nước,

phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức quốc tế tổ chức.

Công ty đã giữ vững được nhiều thị trường truyền thống như Nhật Bản,

Anh, Pháp, Mỹ,…thâm nhập được một số thị trường mới như Chi Lê,

Mêhicô,…nâng tổng số thị trường xuất khẩu của Công ty lên trên 25 nước,

tăng 4,3 lần so với năm 1999

1.4.Chính sách thúc đẩy xuất khẩu

Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, ngoài việc củng cố các thị trường

truyền thống, Công ty không ngừng mở rộng và phát triển thêm các thị trường

mới bằng nhiều phương thức khác nhau. Cụ thể, Công ty đã thành lập phòng

Nghiên cứu và phát triển thị trường có trụ sở tại Hà Nội và phòng Đối ngoại ở

trong Nam để có thể nghiên cứu và khảo sát thị trường một cách sát sao hơn,

cho phép doanh nghiệp dự báo được nhu cầu tương lai, đồng thời có thể

nghiên cứu sự thay đổi chu kỳ sống của sản phẩm đáp ứng nhu cầu phục vụ

cho công tác tiêu thụ sản phẩm nói chung và công tác thúc đẩy xuất khẩu nói

riêng.

Trên cơ sở phân tích các thông tin thu thập được về thị trường nước

ngoài, Công ty tiến hành phân tích thông tin và đánh giá nhu cầu hiện tại lấy

đó làm căn cứ cho việc lập kế hoạch kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo, xác

định xem tiếp tục sản xuất mặt hàng nào, mẫu mã nào cần phải cải tiến, kiểu

dáng hàng hoá nào đang được người tiêu dùng ưu chuộng và kiểu nào có chu

kỳ sống trong giai đoạn suy thoái. Đó là những căn cứ cho việc lập kế hoạch

sản xuất kinh doanh trong giai đoạn sau đó mà Công ty đã thực hiện rất tích

cực trong thời gian qua.

Hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ngoài nước đã được

Công ty thực hiện khá tốt. Công ty rất coi trọng việc quảng cáo để chào bán

hàng hoá, tìm kiếm khách hàng mới, thành lập phòng trưng bày tại các khu

đô thị sầm uất như Hà Nội, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng

Nai,…Tại các showroom, Công ty thực hiện khá tốt về không gian trang trí

nội thất, sáng tạo để thu hút sự chú ý của khách nước ngoài, cử những nhân

viên có chuyên môn về thiết kế sản phẩm, thông thạo ngoại ngữ, có khả năng

giao tiếp tốt làm công tác marketing và giới thiệu sản phẩm.

Thực hiện chính sách sản phẩm đa dạng hoá và thích nghi hoá sản phẩm,

ngoài việc tự sản xuất ra sản phẩm, Công ty còn thực hiện việc thu gom những

mặt hàng mà Công ty không tự sản xuất được khi có đơn đặt hàng từ phía đối

tác. Đến nay, Công ty đã xây dựng được hệ thống chân hàng ổn định, tạo thêm

rất nhiều kiểu dáng mới về mặt hàng thủ công mỹ nghệ với nguyên liệu làm

bằng đất sét và làm bằng gốm, thêm vào đó là mặt hàng làm bằng mây tre,

chiếu, có quan hệ với rất nhiều nhà cung cấp, tự tổ chức công việc thu mua

những sản phẩm mây được người nông dân ở khu vực lân cận sơ chế như

Hưng Yên, Bắc Ninh,…Bên cạnh đó, Công ty còn xây dựng và phát triển

thêm các cơ sở chân hàng mới trên nhiều tỉnh trong cả nước để phục vụ tốt

công tác xuất khẩu.

Với chính sách giá cả hợp lý, Công ty có chính sách ưu đãi với những

khách hàng truyền thống để giữ vững được mối quan hệ làm ăn lâu dài này.

Trong việc thực hiện chính sách sản phẩm, chủ trương đa dạng hoá và thích

nghi hoá sản phẩm cũng được Công ty thực hiện khá tốt cùng với công tác xúc

tiến thương mại, khai thác thêm được một số thị trường mới như Chi Lê,

Indonexia,…tiếp tục quay trở lại khai thác thị trường Nga và các nước SNG,

là một thị trường với hơn 300 triệu dân với một lượng cầu khá lớn mà ta đã

không chú ý đúng mức, làm cho hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan tràn lan,

cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá của Việt Nam trong mấy năm gần đây.

Hiện nay, thị trường này đang được Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch

Đằng cũng như các doanh nghiệp nước ta rất quan tâm.

Mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định trong việc thúc đẩy

xuất khẩu, Công ty vẫn chưa đạt được một số chỉ tiêu để ra. Với áp lực cạnh

tranh gay gắt như hiện nay, Công ty phải cố gắng, nỗ lực hơn nữa, tích cực

hơn trong công tác nghiên cứu và mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu

bằng nhiều hình thức trực tiếp cũng như gián tiếp, phấn đấu đạt mục tiêu kế

hoạch trong thời gian trong giai đoạn tiếp theo,

2.Những tồn tại trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Dù đã có mặt trên 25 thị trường trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu tăng

dần qua các năm, nhưng Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vẫn còn

nhiều vấn đề tồn tại trong công tác thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ, cụ thể như:

2.1.Chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm

Hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã có mặt trên 25 nước trên thế

giới, nhưng trên thực tế, kim ngạch xuất khẩu chỉ tập trung vào một số thị

trường trọng điểm như Nhật Bản, Tây Âu còn các khu vực thị trường khác chỉ

chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Như vậy công tác

thúc đẩy xuất khẩu còn chưa đồng đều giữa các khu vực. Như vậy, Công ty

còn chưa quan tâm đúng mức đến từng khu vực thị trường, bỏ qua nhiều thị

trường có mức cầu khá cao như thị trường Nga và các nước SNG, để hàng thủ

công mỹ nghệ của Trung Quốc và Thái Lan cũng như của các nước xuất khẩu

khác thâm nhập và chiếm lĩnh những mảnh đất màu mỡ này.

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu không đều ở các thị trường, chỉ có một

số thị trường truyền thống như Nhật Bản hay Tây Âu như Đức, Pháp là có tốc

độ tăng tương đối đều qua các năm, để hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh

giành mất một số thị trường như Nga, Đài Loan, Hàn Quốc,…đây là những thị

trường lớn mà trước đó Công ty đã có tỷ trọng khá lớn mà hiện nay ta đã bị

hàng hoá của Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonexia cạnh tranh quyết

liệt.

Những thị trường có nhu cầu lớn, nhưng do khoảng cách địa lý quá xa,

chi phí vận chuyển lớn, lại gặp phải hàng rào thuế quan của nước nhập khẩu

nên chúng ta vẫn xuất khẩu một khối lượng hạn chế vào các thị trường này

chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có như Mỹ, Canada, Mehicô,…

2.2.Về sản phẩm

- Chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ lực, chưa có sự đa dạng hoá phù

hợp, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, thêm

một số mặt hàng trang trí nội thất, hàng đồ chơi và sắt mỹ nghệ, hàng mây tre

vẫn chưa thực sự được chú trọng đúng mức so với tiềm năng của khu vực thị

trường chưa tận dụng được hết nguồn tài nguyên thiên nhiên này, hàng Gốm

Sứ cũng chưa được phát huy hết sức mạnh vốn có của nó, tỷ trọng xuất khẩu

hàng này có xu hướng giảm dần một phần do tính chất khó vận chuyển của

nó.

- Thiếu những sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của những

đoạn thị trường yêu cầu cao về trình độ thẩm mỹ và chất lượng hàng hoá,

- Mẫu mã sản phẩm còn chưa phong phú, ít có sự điều chỉnh về kiểu

dáng phù hợp với thị hiếu, so với hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc thì

mẫu mã của ta có sức cạnh tranh kém hơn nhiều, kiểu dáng còn chưa thực sự

thu hút sự chú ý của khách nước ngoài.

- Chưa đáp ứng được yêu cầu của các đơn đặt hàng lớn do quy mô chưa

được mở rộng, phải đi thu gom để thực hiện hợp đồng làm cho uy tín về chất

lượng sản phẩm của Công ty bị ảnh hưởng

2.3.Về giá cả

Giá thành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn cao so với sản phẩm của

đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, làm giảm sức cạnh

tranh của sản phẩm trên thị trường nước ngoài. So với sản phẩm cùng loại của

các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì sản phẩm của Công ty vẫn có giá

cao hơn ở một số chủng loại sản phẩm.

2.4.Về hoạt động xúc tiến thương mại

Hoạt động xúc tiến thương mại còn chưa được quan tâm đúng so với vị

trí của nó, Công ty tham gia hoạt động này còn nặng về tính chất thăm dò, tìm

hiểu thị trường, chưa tận dụng một cách triệt để như kết hợp bán hàng và giới

thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác để tiêu thụ ngay trong chương trình quảng bá

và giới thiệu sản phẩm.

Thiếu hiểu biết về nhu cầu thị trường, chưa có sự phân đoạn thị trường

một cách rõ ràng để tung sản phẩm vào phù hợp với thị hiếu, chưa đi sâu

nghiên cứu thị hiếu của khách hàng ở từng thị trường cụ thể như hàng Gốm

Sứ, hàng mây tre thích hợp với văn hoá nào, thị trường nào.

Chưa cập nhật thông tin đầy đủ về biến động thị trường thế giới do ảnh

hưởng của vấn đề chính trị- xã hội, xung đột sắc tộc.

Công tác nghiên cứu thị trường còn tản mạn, mang tính bị động và thiếu

định hướng, khâu tiếp cận khách hàng còn chưa tốt, phụ thuộc quá nhiều vào

khách hàng truuyền thống và khách hàng lớn nên nhiều khi còn bị động trước

sự thay đổi nhu cầu của phía bạn hàng này.

Vấn đề quảng bá thương hiệu của Công ty còn hạn chế rất lớn, hàng thủ

công mỹ nghệ của Công ty chỉ mang nhãn hiệu của Việt Nam, đôi khi chúng

ta phải mượn thương hiệu nổi tiếng của nhà phân phối để có thể thâm nhập thị

trường mới.

Bất kỳ doanh nghiệp nào trong cơ chế kinh tế thị trường cũng phải đối

mặt với những khó khăn lớn, cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn, những

tồn tại và hạn chế là không tránh khỏi. Điều quan trọng là có thể tìm ra

nguyên nhân và khắc phục những điểm yếu đó nhằm đạt được mục tiêu trước

mắt cũng như lâu dài của doanh nghiệp.

3.Nguyên nhân của những tồn tại trên

3.1.Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ phía

các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới, đó là các đối thủ có

nhiều kinh nghiệm, hàng hoá có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp mắt như Trung

Quốc, Thái Lan, India, Philippin, Indonêxia,…Hàng thủ công mỹ nghệ của

các nước này có mẫu mã và chất lượng tương đối đồng đều, giá cả rất hấp dẫn

nên hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty đã bị cạnh tranh mạnh trên một số thị

trường lớn như Nga và các nước SNG, hay tại thị trường Đài Loan, đặc biệt là

hàng của Trung Quốc có văn hoa tinh xảo, chạm trổ cầu kỳ nước men bóng

bẩy và mềm mại hơn hàng của Việt Nam, giá cả lại tương đối rẻ nên hàng thủ

công mỹ nghệ của ta đã bị đánh bật ra khỏi một số thị trường. Những yếu tố

đó ảnh hưởng không nhỏ tới kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của

Công ty.

Thứ hai, là do sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp trong

nước, cùng với chính sách trợ giúp xuất khẩu nói chung, khuyến khích các sản

phẩm của Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới, đi cùng với tiến trình hội

nhập, cơ chế kinh tế mới đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước

tham gia vào thị trường xuất khẩu tăng lên nhanh chóng, khách hàng của

Công ty hiện nay có rất nhiều sự lựa chọn, không phụ thuộc vào Công ty như

trước nữa. Mặt khác, do điều kiện về nhân lưc, về tài nguyên thiên nhiên của

Việt Nam nên nước ta có rất nhiều lợi thế trong sản xuất hàng thủ công mỹ

nghệ làm cho khối lượng hàng sản xuất ngày một tăng lên, càng có nhiều

doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu. Công ty Thương Mại-Xây

Dựng Bạch Đằng cùng các Công ty khác như : Xí nghiệp Rapexco xuất khẩu

hàng mây tre đan của Nha Trang, Hợp tác xã mây tre Hàng Kênh- Hải Phòng,

Công ty Tocontap, Công ty TNHH thủ công mỹ nghệ Kim Bôi, Công ty

TNHH thêu ren Đà Lạt, Hợp tác xã Mây-tre- lá Ba Nhất thành phố Hồ Chí

Minh, Haprosimex-Saigon,…các doanh nghiệp trong nước vẫn thực hiện hình

thức xuất khẩu riêng lẻ, không liên kết với nhau tạo ra nhiều kẽ hở khiến sản

phẩm của ta kém sức cạnh tranh hơn sản phẩm của thế giới, đôi khi chúng ta

còn bị ép giá ở biên giới làm cho hàng của ta rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan,

các doanh nghiệp trong nước còn xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành

mạnh, không có mức giá thống nhất trong xuất khẩu nên xuất hiện tình trạng

bán phá giá, tạo không khí căng thẳng, làm hỏng kế hoạch xuất khẩu của

Công ty, sự thâm nhập thị trường mới bị các doanh nghiệp trong nước cạnh

tranh gay gắt, tình trạng giành giật thị trường của nhau vẫn còn. Hơn nữa,

nghiệp vụ ngoại thương của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng

được nâng cao, lượng hàng hoá mà các Công ty khác giao uỷ thác ngày càng

ít, nhiều cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trước đây chỉ là cơ sở chuyên

sơ chế, gia công nay cũng kiêm luôn cả nghiệp vụ xuất khẩu. Vì vậy, Công ty

Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải cố gắng rất nhiều trong việc khai

thác thị trường, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm ngay tại sân nhà.

Thứ ba, là do ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế

giới. Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới

đặc biệt là ở khu vực Châu Á làm biến đổi tình hình kinh tế của một số quốc

gia, giá cả tăng lên tương đối, làm cho hàng hoá trong nước có sức cạnh tranh

giảm so với các nước khác, hệ thống thanh toán cũng khó khăn hơn, mức cầu

giảm, khiến cho Công ty mất rất nhiều đơn đặt hàng từ khu vực thị trường này

như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,…ba năm qua, nền kinh tế Achentina rơi

vào tình trạng suy thoái, sức mua chung của thị trường giảm làm cho kế hoạch

xuất khẩu của ta vào thị trường này không đạt được chỉ tiêu ban đầu, không có

kim ngạch, hơn nữa còn ảnh hưởng tới kinh tế của các nước trong khu vực,

gây ảnh hưởng không nhỏ tới chiến lược thúc đẩy xuất khẩu của Công ty.

Trong điều kiện như hiện nay, xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang

diễn ra rất mạnh mẽ, xung đột vũ trang và khủng bố xảy ra ở nhiều điểm nóng

trên thế giới, các trung tâm kinh tế lớn như Nữu Ước, Tokyo, London,…đang

có nguy cơ bị đe dọa về vấn đề khủng bố, tạo ra một xu hướng tiêu dùng hoàn

toàn mới, mỗi quốc gia đang cố gắng để có thể tự mình đáp ứng nhu cầu tiêu

dùng trong nước, xây dựng cho mình một hàng rào thuế quan tương đối chắc,

nên hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam nói chung và của Công ty nói riêng

càng gặp phải khó khăn hơn.

Thứ tư, là tình trạng không đáp ứng được nhu cầu của một số đơn đặt

hàng lớn, không có đủ điều kiện về nguyên liệu, trình độ tay nghề của công

nhân chưa cao, năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất, các phân xưởng sản

xuất còn hạn chế nhiều, nguồn nguyên liệu còn phân tán, manh mún, thiếu

thông tin về diễn biến của thị trường, giá cả, yếu kém trong khâu phối hợp

đồng bộ giữa các doanh nghiệp, làm cho chúng ta không thực hiện giao hàng

đúng thời hạn, dẫn đến việc làm mất uy tín của Công ty. Trên một số thị

trường xuất khẩu, nguồn hàng của chúng ta thậm chí còn không đáp ứng được

nhu cầu chứ không phải do điều kiện về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.

Mặt khác, trình độ công nghệ của những cơ sở chế biến nguồn nguyên liệu

như mây-tre, gỗ,… còn chưa đáp ứng được chất lượng nguồn nguyên liệu, còn

thiếu vốn để mở rộng và nâng cao chất lượng nguyên liệu, ảnh hưởng đến chất

lượng hàng hoá.

Thứ năm, là do môi trường pháp lý và thủ tục hành chính của nước ta còn

rườm rà, phức tạp, thiếu linh hoạt, nhất là thủ tục hải quan còn nhiều vướng

mắc, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp.

Những thủ tục hải quan chủ yếu xoay quanh việc áp giá, áp mã để tính thuế và

thủ tục thông quan, giải phóng hàng hoá.

Thứ sáu, là vấn đề thuế và các chi phí hành chinh khác liên quan, một số

luật thuế mới ra đời đã làm thay đổi kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh

nghiệp và Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng là không ngoại trừ.

Việc hoàn thuế giá trị gia tăng được thực hiện rất chậm, mất rất nhiều thời

gian, gây ứ đọng vốn, ảnh hưởng đến vòng quay của vốn và ảnh hưởng đến kế

hoạch sản xuất kinh doanh.

Các chi phí về hành chính cũng làm tăng chi phí sản xuất của doanh

nghiệp, dẫn đến việc tăng giá thành sản xuất, giảm hiệu quả kinh doanh, các

cơ quan quản lý Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi

cho các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn hàng cho xuất

khẩu, trợ giá cho xuất khẩu, hướng dẫn và thực hiện đẩy mạnh các hoạt động

xúc tiến thương mại. Thông tin từ phía các cơ quan này còn chưa đồng bộ,

thiếu thống nhất, làm cho quá trình thâm nhập vào một số thị trường mới còn

chậm, dẫn đến việc mất thị phần, giảm kim ngạch xuất khẩu.

3.2.Nguyên nhân chủ quan

Ngoài những nguyên nhân khách quan trên, xét từ phía Công ty cũng có

nhiều vấn đề cần phải kể đến như:

Một là, vấn đề phát triển sản phẩm, sản phẩm của Công ty chủ yếu là ở 6

nhóm hàng chính là hàng đồ chơi, sắt mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ, hàng gốm sứ,

hàng mây tre và hàng thủ công mỹ nghệ, chưa đáp ứng được nhu cầu thị

trường về nhiều loại hàng mỹ nghệ khác như khắc đá, chạm đồng, chạm

bạc,…trong khi thị trường đầu ra cho các loại hàng hoá này là không nhỏ, chất

lượng sản phẩm còn chưa đạt yêu cầu của một số thị trường khó tính như EU,

Mỹ, mẫu mã còn chưa phong phú, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản

phẩm, Công ty chỉ tập trung vào một số mặt hàng chủ đạo như hàng thủ công

mỹ nghệ, hàng đồ chơi nên rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi. Trong

thời gian tới, Công ty cần thực hiện đa dạng hoá hơn nữa nguồn hàng phục vụ

cho xuất khẩu, cần phân tán chứ không nên chú ý vào một số thị trường truyền

thống, để giảm rủi ro trong kinh doanh.

Hai là, hoạt động xúc tiến thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu, công

tác nghiên cứu thị trường chưa được chú ý đúng mức, thiếu đội ngũ nhân viên

có năng lực trong công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng và lập

kế hoạch. Mặc dù hoạt động này luôn được Công ty xác định là một trong

những hoạt động có tính chất quan trọng để thúc đẩy xuất khẩu nhưng Công

ty vẫn chưa tiếp cận được nhiều thị trường mới, chưa nắm bắt được thông tin

từ phía thị trường này, hoạt động nghiên cứu sự thay đổi thị hiếu, nhu cầu của

khu vực thị trường nước ngoài chưa sát sao, khiến cho quá trình tiêu thụ sản

phẩm ở nước ngoài gặp khó khăn. Các trụ sở kinh doanh ở nước ngoài còn

hoạt động chưa hiệu quả, chưa quản lý tốt các Showroom ở nước ngoài. Hơn

nữa, chúng ta còn để mất một số thị trường hấp dẫn như SNG. Trình độ tổ

chức hoạt động tiêu thụ cũng như trình độ tiếp thị còn yếu mặc dù có tham gia

Hội trợ, triển lãm nhiều, chưa thực sự có những chiến dịch nhằm khuyếch

trương hình ảnh của Công ty trên trường quốc tế.

Ba là, việc ký kết hợp đồng cũng là một khâu quan trọng, thực hiện hợp

đồng qua tài liệu giao dịch là chính do hai bên có khoảng cách địa lý ở xa nên

gặp phải một số khó khăn nhất định.

Bốn là, chưa tạo lập được một hệ thống phân phối trực tiếp trên các thị

trường nước ngoài, việc thiết lập các cửa hàng, văn phòng đại diện, các đại lý

ở nước ngoài còn rất nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu,

khiến cho hàng hoá của Công ty chỉ tiếp cận trực tiếp được với một số ít

khách hàng, khó khăn trong việc tham khảo ý kiến, để có thể thay đổi sản

phẩm phù hợp hơn với thị hiếu người tiêu dùng.

Năm là, hình thức xuất khẩu còn hạn chế và đơn điệu, chủ yếu là hình

thức xuất khẩu trực tiếp nên phù hợp với việc xuất khẩu những lô hàng có giá

trị lớn do Công ty tự mình kiểm soát được toàn bộ quá trình, trong thời gian

tới Công ty cần tham khảo thêm một số hình thức xuất khẩu mới như xuất

khẩu gián tiếp hay xuất khẩu qua trung gian để có thể giảm chi phí với mục

tiêu là đạt hiệu quả kinh doanh cao cũng như tăng tỷ trọng kim ngạch xuất

khẩu.

Sáu là, trình độ cán bộ công nhân viên không đồng đều, cán bộ chuyên

sâu và có kinh nghiệm trong kinh doanh xuất khẩu còn thiếu, kỹ năng nghiệp

vụ ngoại thương còn chưa cao, đội ngũ nhân viên ở phòng ban còn hạn chế về

ngoại ngữ, về công tác tiếp thị, và công tác nghiên cứu thị trường. Trình độ

tay nghề của công nhân sản xuất trực tiếp còn chưa đồng đều, còn ít lao động

có tay nghề cao, chủ yếu là lao động phổ thông nên quá trình học việc của

công nhân khá dài ( thường là 6 tháng ) làm cho Công ty tốn kém khá nhiều

chi phí, không những thế, sau thời gian học việc thì hợp đồng lao động lại

không có gì ràng buộc nên Công ty để mất rất nhiều lao động có tay nghề cao.

Trên đây là những khó khăn chủ yếu dẫn đến những tồn tại của Công ty

Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu. Trong

thời gian tới, Công ty cần sớm có những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục

những khó khăn trên, phát huy những mặt mạnh của mình và hạn chế những

tồn tại, thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu theo đúng kế hoạch đặt ra trong

giai đoạn tới.

CHƯƠNG III.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT

KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI-

XÂY DỰNG BẠCH ĐẰNG

I.ĐỊNH HƯỚNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

1.Định hướng về thị trường

Duy trì và mở rộng thị trường trong thời gian tới đây là một nhiệm vụ

không dễ dàng đối với Công ty. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra trong kế

hoạch là củng cố những thị trường xuất khẩu truyền thống, giữ chân khách

hàng quen thuôc, thâm nhập thêm các thị trường mới, còn đang ở dạng tiềm

năng.

Các thị trường truyền thống như EU và Bắc Mỹ cần có định hướng cụ

thể trong thời gian tới, soát xét lại hệ thống mắt xích nối liền với khách hàng

này. Thực hiện đồng loạt các hệ thống chiến lược nhằm giữ vững và phát triển

nguồn hàng xuất khẩu

Đối với những thị trường tiềm năng, Công ty cần có chính sách cụ thể

như:

Phát huy những kinh nghiệm về xuất khẩu, tăng lượng hàng xuất khẩu

bằng cách liên doanh, liên kết qua hình thức gửi hàng hoặc qua thương hiệu

của nhà cung cấp

Mở các văn phòng đại diện, các Showrow ở nước ngoài nhằm mục tiêu

hỗ trợ cho công tác xuất khẩu

Củng cố lại hệ thống các cửa hàng bán lẻ trong nước, tiếp cận thị trường

nước ngoài qua hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà cung cấp của Việt Nam

với nước ngoài.

2.Định hướng về sản phẩm

Sản phẩm của Công ty cần được duy trì những mẫu mã đang được khách

hàng ưa chuộng, phù hợp với từng lứa tuổi, đặc biệt là phù hợp với sở thích và

lối sống của từng đối tượng khách hàng. Cơ cấu mặt hàng cần được đa dạng

hoá hơn nữa về kiểu dáng, mẫu mã và chất lượng, đồng thời nguồn nguyên

liệu cũng phải phù hợp hơn với kiểu dáng sản phẩm

Nghiên cứu thị trường để nhận biết nhu cầu sản phẩm là một khâu quan

trọng không thể thiếu trong. Thông tin về sở thích của khách hàng, thu nhập,

thói quen và phong cách sống có quan hệ đến sự lựa chọn sản phẩm của họ.

Ví dụ như giới trẻ thì thích những sản phẩm mang phong cách sống trẻ trung,

năng động, đó thường là những món quà tặng có ý nghĩa, giúp con người có

đủ nghị lực và niềm tin vào cuộc sống hay biểu tượng của tình yêu và lòng

dũng cảm. Nắm bắt được tâm lý này của giới trẻ, Công ty cần đưa ra những

sản phẩm làm biểu tượng cho những món quà tặng.

Chất lượng hàng, uy tín, truyền thống của Công ty cần được củng cố và

nâng cao dần hơn nữa, bằng nhiều hình thức khác nhau để xây dựng và quảng

bá thương hiệu của mình

Hoàn thiện dần cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng đổi mới công nghệ để

có thể đáp ứng được chất lượng và mẫu mã của sản phẩm, để sản phẩm của

Công ty có sự phù hợp nhất định về chất lượng và giá cả

3.Định hướng về nguồn nhân lực

Con người là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và

đóng vai trò sáng tạo, lao động là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi

hoạt động của doanh nghiệp. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất -kinh doanh,

tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm và thực hiện các mục tiêu khác cần có

định hướng về nguồn nhân lực.

Đây là một trong những khâu rất quan trọng trong chiến lược phát triển

của Công ty trong giai đoạn hiện nay. Nhân tố con người mục tiêu và cũng là

động lực của mọi sự phát triển. Để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực

trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ công nhân

viên có nghiệp vụ chuyên môn giỏi luôn là nhiệm vụ trung tâm trong công tác

đào tạo và tuyển dụng của Công ty. Trong năm 2003 Công ty đã cử 129 cán

bộ đi học các lớp về luật Hải quan mới, tập huấn về cách thức xây dựng một

hệ thống kênh phân phối mới, cử nhiều đợt cán bộ tham gia các lớp học ngắn

hạn về quản lý kinh tế, về chiến lược kinh doanh trong giai đoạn hội nhập

kinh tế quốc tế. Các hội thảo nâng cao nhận thức về sự thay đổi của môi

trường kinh doanh xuất khẩu luôn được Công ty chú trọng.

Về lao động trực tiếp tại phân xưởng, năm 2003 vừa qua, Công ty đã tổ

chức 3 lần các lớp học việc ngắn hạn cho công nhân mới vào nghề, với

phương châm vừa học vừa làm, nhiều công nhân đặc biệt là số công nhân có

khó khăn về tài chính có thể tự trang trải chi tiêu cho mình. Qua đó, Công ty

có thể tuyển chọn được số lượng lao động thủ công có kỹ thuật tốt để có kế

hoạch bồi dưỡng nhân lực phù hợp

4.Định hướng về nguồn nguyên liệu

Bảo đảm được nguồn nguyên liệu trong suốt quá trình sản xuất không

phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nguồn nguyên liệu cần được dự trữ để có thể

cung cấp thường xuyên, không làm gián đoạn quá trình sản xuất. Công tác

mua sắm và dự trữ nguyên liệu là điều kiện tiền đề nhằm đảm bảo cho hoạt

động sản xuất hiệu quả

Công ty cần thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

Tính toán và xác định chính xác số lượng, chất lượng mỗi loại nguyên

vật liệu cần có trong kỳ sản xuất

Xây dựng phương án và quyết định phương án mua sắm, bố trí kho tàng,

đường vận chuyển và kết hợp đường vận chuyển tối ưu.

Xác định và lựa chọn bạn hàng, tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn

phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh toán.

Tổ chức vận chuyển hàng hoá bao gồm việc lựa chọn và quyết định tự

vận chuyển hay thuê ngoài, quyết định lựa chọn phương án vận chuyển

Bố trí và tổ chức kho tàng hợp lý, quản trị và cấp phát kịp thời theo yêu

cầu sản phẩm.

Công ty cần tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp, làm sao cho nguồn

nguyên liệu có thể giảm chi phí tới mức tối thiểu nhỏ nhất mà vẫn bảo đảm

được chất lượng phù hợp với sản phẩm. Công ty thường xuyên tìm kiếm

những nhà cung cấp mới để có thể chọn được nhà cung cấp với giá cả rẻ, đem

lại chi phí kinh doanh thấp nhất. Bên cạnh đó, với những nhà cung cấp truyền

thống, Công ty tiến hành marketing với họ nhằm tạo độ tin cậy cao giữa mình

với họ.

5.Định hướng về tài chính

Tài chính của doanh nghiệp là hoạt động gắn với các dòng luân chuyển

tiền tệ phát sinh trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Định hướng các hoạt động tài chính là việc tổng hợp và tạo ra

các nguồn vốn tiền tệ cần thiết đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp tiến hành liên tục với hiệu quả kinh tế cao. Định hướng các hoạt

động tài chính để đảm bảo huy động đầy đủ vốn tiền tệ cần thiết, đảm bảo các

quyết định đầu tư đúng lúc, đúng chỗ và có hiệu quả.

Trong thời gian tới, doanh nghiệp cần đa dạng hoá các nguồn cung ứng

vốn, bao gồm cả nguồn tự cung ứng và cung ứng từ bên ngoài. Nguồn tự cung

ứng có phương thức khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp thường xuyên

tổ chức khấu hao theo từng quý, năm bên cạnh đó doanh nghiệp phải tự tích

luỹ cho mình bằng. Đây là nguồn cung ứng tài chính quan trọng của doanh

nghiệp vì doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, không phụ thuộc vào phía

các nhà cung ứng, tăng tiềm lực tài chính và giảm tỷ lệ nợ trên vốn. Ngoài

nguồn tự cung ứng, doanh nghiệp phải cung ứng vốn từ ngân sách Nhà nước.

Là một Công ty trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải, nên Công ty Thương Mại-

Xây Dựng Bạch Đằng được nhận lượng vốn từ ngân sách để trợ giúp cho

công tác xuất khẩu. Tuy nhiên càng ngày, nguồn cung ứng này càng bị thu

hẹp cả quy mô và phạm vi được cấp vốn vì là doanh nghiệp tự hạch hoán kinh

doanh.

Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn gọi hùn vốn qua việc

vay vốn của các ngân hàng thương mại, liên doanh liên kết với một số doanh

nghiệp khác, thêm vào đó doanh nghiệp tiến hành phát hành trái phiếu để huy

động vốn. Để thực hiện đúng theo kế hoạch kinh doanh của mình, sản xuất kịp

thời, thì vấn đề về định hướng nguồn tài chính là hết sức quan trọng. Nên đa

dạng hoá các nguồn cung ứng tài chính là một trong những nội dung quan

trọng trong việc hoạch định chính sách tài chính. Công ty cần có những biện

pháp để tăng cường nguồn lực tài chính của mình bằng những công cụ như

vay vốn, xin trợ cấp, cổ phần hoá, và phát hành công trái, những công cụ này

phù hợp với hình thức kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, và phù hợp với

chính sách của Đảng và Nhà nước.

II.GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

1.Những giải pháp về phía nội bộ Công ty

1.1.Xây dựng chiến lược sản phẩm

 Cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm

Tính chất mặt hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng cần có sự phù hợp với

thị hiếu của khách hàng. Thị hiếu của con người luôn luôn thay đổi và không

hề có một chuẩn mực nhất định. Nên đa dạng hóa sản phẩm là chiến lược sản

phẩm đầu tiên mà Công ty áp dụng nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

Với chính sách sản phẩm như trên, Công ty có thể thu hút được nhiều đối

tượng khách hàng, tránh được rủi ro khi tập trung vào một loại hàng chủ lực,

có phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường.

Với mỗi loại sản phẩm thì yêu cầu về kiểu dáng lại khác nhau, hàng thủ

công mỹ nghệ phần lớn là trang trí, nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng,

còn có yếu tố rất cao về thẩm mỹ, tính độc đáo trong kiểu dáng và mang tính

chất thưởng thức văn hoá nghệ thuật của tầng lớp thượng lưu và trung lưu,

hay đối tượng có thu nhập cao, am hiểu về nghệ thuật. Đó cũng chính là lý do

mà Công ty cần thường xuyên thay đổi, đa dạng hóa, làm phong phú mẫu mã,

kiểu dáng các sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách hàng nhất là khách hàng

nước ngoài.

Hiện nay, công tác tìm kiếm mẫu hàng của Công ty phụ thuộc chủ yếu

vào bộ phận thiết kế sản phẩm, việc thuê chuyên gia bên ngoài còn chưa được

sử dụng do có những hạn chế về chi phí và trách nhiệm. Để thực hiện đa dạng

hoá sản phẩm Công ty có một số biện pháp sau:

Sử dụng chuyên gia thiết kế sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu thị

hiếu của người tiêu dùng được bộ phận nghiên cứu thị trường kết luận, tư vấn

cho phân xưởng sản xuất về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng, tạo ra các sản

phẩm mới lạ, độc đáo, thu hút sự chú ý của khách hàng. Ví dụ như sản phẩm

gốm sứ bên cạnh hoa văn về phong cảnh Việt Nam còn có thể có những biểu

tượng của các nền văn hoá khác nhau của chính nước nhập khẩu.

Đối với các thị trường truyền thống vẫn duy trì các sản phẩm truyền

thống, có kết hợp giới thiệu các sản phẩm mới để thăm dò thị trường, cần chú

ý đến màu sắc, hoạ tiết cho phù hợp hơn. Khi xuất khẩu sang thị trường nào

thì cần thiết phải phù hợp với nghệ thuật và nền văn hoá của họ. Ví dụ như

văn hoá phương Tây thích các sản phẩm có màu sắc tự nhiên, không dùng

men bóng, văn hoá phương Đông thì văn hoa phải cầu kỳ nước men phải thật

bóng bẩy.

Có thể thuê chuyên gia trong thời gian tới, tiền thiết kế sẽ tính vào tiền

bán sản phẩm theo tỷ lệ phần trăm. Như vậy, Công ty sẽ không phải chịu rủi

ro nếu sản phẩm không tiêu thụ được. Nhà thiết kế bên ngoài có thể chuyên

sâu hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, Công ty cũng sẽ được lợi

khi sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ được.

Công ty nên tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm để tìm ra những

người thợ tài ba. Đồng thời, cũng tham gia các cuộc thi thiết kế để khẳng định

uy tín của mình trên thương trường.

 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm

Nâng cao chất lượng sản phẩm

muốn nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì một trong những yếu tố

quan trọng là nâng cao chất lượng hàng hoá. Đây là yếu tố quan trọng quyết

định thành công trong công tác xuất khẩu. Đặc biệt là đối với những thị

trường khó tính như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản.

Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được làm chủ yếu bằng lao động thủ công là

chính, không trải qua quy trình công nghệ máy móc hiện đại nên chất lượng

sản phẩm khó đồng đều, lại dễ hư hỏng khi thời tiết xấu. Công ty Thương

Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vừa là nhà sản xuất lại vừa đóng vai trò tiêu thụ

nên phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc, phải móc xích và chắp nối với thị

trường nước ngoài đồng thời cung cấp kịp thời cho phân xưởng sản xuất thị

hiếu của khách hàng, về yêu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm.

Những biện pháp mà Công ty thực hiện là :

- Nghiên cứu thị trường trong nước, kịp thời nắm bắt những thông tin về

nguồn nguyên liệu, về nguồn hàng từ những nguồn thông tin đáng tin cậy.

- Nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác kiểm định chất lượng sản

phẩm, cũng như uy tín về chất lượng sản phẩm, thương hiệu của Công ty trên

thị trường trong và ngoài nước,

- Tích cực tìm kiếm nhiều cơ sở chế biến nguyên liệu để cung cấp cho

Công ty, tạo ra những sản phẩm với chất lượng tốt, phù hợp với mức cầu trên

thị trường.

- Thường xuyên có những đợt kiểm tra tình hình tại phân xưởng sản xuất

để giám sát chất lượng hàng hoá ngay từ khâu sản xuất. Khi hàng được làm

xong, cần kiểm tra độ bền, độ bóng, độ dẻo của các sản phẩm bằng các

phương pháp khoa học, tuyệt đối không để hàng lỗi, hàng kém chất lượng sót

lại trong lô hàng xuất khẩu.

Để giải quyết, ngoài việc phải tìm hiểu nguồn hàng sản xuất với chất

lượng tốt, bản thân Công ty cũng phải đổi mới trang thiết bị bảo quản, mở

rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng cũng như chiều sâu, tạo ra những điều

kiện bảo quản hàng hoá tốt trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Những

biện pháp này đòi hỏi Công ty phải tìm hiểu kỹ hơn các nguồn cung ứng và

tham khảo thêm nhiều kinh nghiệm của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài

nước.

 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm qua giá

Cạnh tranh về giá là một trong những hình thức cạnh tranh gay gắt và

được nhiều doanh nghiệp áp dụng bởi giá cả là yếu tố quan trọng ảnh hưởng

đến quyết định mua hàng của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền

lợi của người mua. Khi giá của hàng hoá thay đổi thì cầu cũng thay đổi theo.

Để định giá sản phẩm doanh nghiệp phải căn cứ vào độ co dãn của cầu theo

giá, tâm lý của khách hàng, chính sách giá cả, chính sách sản phẩm của đối

thủ cạnh tranh,…nhưng giá chỉ là một công cụ cạnh tranh lôi kéo sự quan tâm

của khách hàng, nó cũng tuỳ thuộc vào sự nhạy cảm về giá của khách hàng.

Công ty có thể áp dụng cách định giá theo mức chênh lệch hiện hành, lấy

giá của đối thủ cạnh tranh làm cơ sở, giá bán sản phẩm của Công ty có thể cao

hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với giá của đối thủ cạnh tranh, áp dụng chiến

lược giá cả nào, chiến lược "hớt váng sữa" hay chiến lược phân biệt giá thị

trường ngách phụ thuộc vào từng giai đoạn trong chu kỳ sống sản phẩm và

phụ thuộc vào từng đoạn thị trường. Đối với đoạn thị trường nhạy cảm về giá,

Công ty áp dụng chiến lược giá thấp, để có thể cạnh tranh với đối thủ nhưng

vẫn phải đảm bảo có sự chênh lệch dương giữa giá thành sản xuất với giá bán

sản phẩm.

Chiến lược giá cả có tính chất quyết định đến khả năng thành công của

Công ty trong cạnh tranh, cần lưu ý khi thực hiện từng chiến lược giá một, nếu

sử dụng giá thấp hơn đối thủ có thể làm cho khách hàng có phản ứng nghi ngờ

về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, lựa chọn chiến lược giá cả nào phải được

phân tích và nếu cần thiết phải có sự thử nghiệm trên thực tế, tránh rủi ro

trong kinh doanh.

1.2. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu

Việc xây dựng chiến lược thị trường dựa trên cơ sở sự phân tích kỹ

lưỡng những thông tin thu thập được từ việc phân tích và dự báo thị trường,

đánh giá thực trạng và triển vọng của Công ty trên các thị trường hiện tại cũng

như thị trường tiềm năng cho hoạt động xuất khẩu. Công ty cần xác định rõ thị

trường trọng điểm, thị trường tiềm năng trong tương lai và những thị trường

nào đang suy thoái để có biện pháp chấn chỉnh, có những chính sách, chiến

lược mở rộng thị trường, tạo thị trường đầu ra cho xuất khẩu.

Thâm nhập vào một thị trường để tồn tại đã khó, duy trì và phát triển lại

càng khó hơn. Vì vậy, tạo lập chiến lược thị trường là một nội dung không thể

thiếu trong công tác đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Cần dựa trên những cơ sở

sau để xây dựng chiến lược thị trường

- Đánh giá nhu cầu, dung lượng tiêu thụ của mỗi thị trường

- Xác định kênh phân phối và cách thức thâm nhập trên từng thị trường

- Nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh trên thị

trường

- Nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng

Trong quá trình thực hiện chiến lược, Công ty phải theo dõi sát sao, luôn

đánh giá kết quả thu được, đồng thời xem xét sự biến động của thị trường để

có những biện pháp điều chỉnh chiến lược, thực hiện kế hoạch một cách linh

hoạt đạt hiệu quả kinh doanh cao.

Chiến lược thị trường phải phù hợp với chukỳ sống của sản phẩm, mỗi

sản phẩm có chu kỳ sống cụ thể trên thị trường. Tương ứng với mỗi giai đoạn

cụ thể của chu kỳ sống cần có những giải pháp chiến lược khác nhau nhằm

đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển cũng như chiến thắng trong cạnh tranh.

Giai đoạn thâm nhập thị trường là giai đoạn sản phẩm mới đưa vào thử

nghiệm ở một thị trường mới, số lượng khách hàng ít nên doanh thu thường ít.

Trong giai đoạn này, Công ty cần đẩy mạnh hoạt động marketing, quảng cáo

sản phẩm, đưa sản phẩm của Công ty gần hơn với người tiêu dùng

Giai đoạn thị trường tăng trưởng, cầu về sản phẩm tăng nhanh, thực hiện

chiến lược đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá,

hình thức, mẫu mã, bao gói.

Ngoài những thị trường truyền thống, Công ty cần thăm dò và khai thác

thêm thị trường tiềm năng, đối với từng thị trường chúng ta phải có chính sách

phù hợp. Ví dụ đối với thị trường truyền thống, là bạn hàng quen thuộc của ta,

Công ty cần duy trì tốt mối quan hệ lâu dài, giữ uy tín, thực hiện đúng hợp

đồng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng mua được hàng với chất lượng

và giá cả tốt nhất.

Đối với thị trường mới, phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo, tham

gia nhiều Hội trợ, triển lãm, mở cửa hàng bán thử, thành lập nhiều Showroom

để giới thiệu sản phẩm.

Đối với thị trường xuất khẩu mà ta đã để mất thị phần, tìm cách khôi

phục lại bằng nhiều biện pháp linh hoạt vì đây là những thị trường đã từng là

bạn hàng quen thuộc của ta, quay trở lại chúng ta sẽ có những lợi thế hơn

trong khâu tiếp thị sản phẩm.

1.3. Về nguồn cung cấp nguyên liệu

Trước kia, khi công ty còn là xởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trờng

tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và

chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao

và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và

chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nguyên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng

hợp, polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn

nguyên liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên

liệu có sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá

thành. Trong thời gian tới, Công ty có kế hoạch đa dạng hoá các nguồn

nguyên liệu, sản phẩm làm ra không phải chỉ có chất liệu tự nhiên mà còn

bằng chất liệu tổng hợp như polyme. Công ty có kế hoạch xây dựng thêm

nhiều cơ sở sản xuất chế biến nguyên liệu cho mình, nguồn này sẽ là nguồn

cung cấp nguyên liệu chính cho phân xưởng sản xuất, tránh sự phụ thuộc vào

nhà cung cấp nguyên liệu. Các cơ sở này có thu mua nguyên liệu từ các làng

nghề truyền thống như Bát Tràng, để Công ty không phải phụ thuộc vào nhà

cung ứng, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh.

1.4.Chính sách Marketing

Quan điểm về Marketing chiến lược hiện đại cho rằng “ Chìa khoá để đạt

tới sự thành công của công ty là xác định rõ nhu cầu và mong muốn của thị

trường trọng điểm và phân phối sự thoả mãn được mong đợi một cách có chất

lượng và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh”. Nên trong điều kiện kinh tế thị

trường hiện nay thì chiến lược Marketing là rất quan trọng và có ý nghĩa

chiến lược đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, Công ty Thương Mại-Xây

Dựng Bặch Đằng cũng nằm trong số đó.

Về quảng cáo : Tích cực quảng cáo sản phẩm thủ công mỹ nghệ dưới

mọi hình thức như : tham gia hội trợ, triển lãm, quảng cáo qua đài, báo, các

phương tiện truyền hình, internet,…Hiện nay, Công ty đã có phòng trưng bày

ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng cần phải cải thiện thêm các hệ

thống này bằng cách mở thêm các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các thành

phố, khu du lịch, siêu thị,…

 Thực hiện đăng ký thương hiệu trên từng thị trường

Hoàn thiện trang Web giới thiệu về sản phẩm của Công ty, thực hiện các

thao tác chào bán sản phẩm bằng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, lấy

đó là một địa chỉ tin cậy, thông tin trung thực, cập nhật, có sức lôi cuốn, hấp

dẫn khách hàng.

Nghiên cứu động cơ tiêu dùng và nội dung quảng cáo, sử dụng phương

tiện quảng cáo thích hợp đối với từng thị trường. Đánh giá hiệu quả quảng cáo

qua việc điều tra thăm dò phản ứng của người tiêu dùng đối với mỗi chiến

lược quảng cáo cụ thể.

 Về xúc tiến bán hàng :

Xúc tiến bán hàng là biện pháp kích thích để thúc đẩy bán hàng, tăng cầu

về sản phẩm. Trong thời gian tới, Công ty cần chủ động quan tâm hơn trong

các hoạt động xúc tiến bán hàng.

Một là, duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng

thông qua việc đưa hàng hoá mang nhãn hiệu Công ty tới các Hội trợ quốc tế

bằng những mẫu mã mới luôn thay đổi, phong phú và phù hợp với thị hiếu của

người tiêu dùng.

Hai là, từng bước phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến

thương mại, tích cực tham gia hội chợ thương mại, triển lãm, bán hàng trực

tiếp thông qua Internet, qua điện thoại, qua thư trực tiếp, khai thác triệt để các

nguồn truyền tin khác nhau như từ công chúng, từ những người nổi tiếng…

Ba là, mở các buổi hội thảo, các cuộc thi hiểu biết về sản phẩm, các

chương trình khuyến mại đặc biệt hoặc tỷ lệ chiết khấu đối với khách hàng

quen thuộc của Công ty.

Tăng cường hoạt động sản xuất, chú trọng hoạt động liên doanh liên kết

với các đối tác trong và ngoài nước

+ Khuyến khích các nhân viên tăng cường học hỏi để nâng cao kiến thức

đồng thời công ty cũng nên tăng cường tổ chức các hội thảo hội nghị bán hàng

thông qua đó để nhân viên của công ty có điều kiện học hỏi kinh nghiệm.

+ Xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng và với các bạn hàng trong

kinh doanh để tăng cường hiệu quả xúc tiến thương mại.

+ Xây dựng các mối quan hệ với chính phủ Việt Nam và các Bộ như Bộ

Thương Mại, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao và đại sứ quán Việt Nam tại các

nước.

+ Chính sách phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động marketing,

làm cho quá trình kinh doanh lưu thông nhanh chóng và hiệu quả, tăng uy tín

của Công ty trên thị trường. Thực hiện tiếp cận gần hơn với khách hàng nước

ngoài nên hình thức phân phối theo chiều dọc sẽ được Công ty lựa chọn tức là

đưa hàng trực tiếp đến từng thị trường không qua trung gian nào, hình thức

này khiến cho Công ty có thể kiểm soát được các kênh phân phối, các đại lý

phân phối chính thức của Công ty.

+ Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên

Do nhân tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất,

nên nhân tố con người luôn được quan tâm đặc biệt. Nguồn nhân lực của

Công ty được phân ra thành hai mảng là mảng lao động trực tiếp tại phân

xưởng và nhân viên văn phòng. Nhân viên văn phòng không trực tiếp tạo ra

sản phẩm nhưng lại là bộ phận đóng vai trò quan trọng quyết định thành công

trong quá trình thực hiện hợp đồng, tổ chức tốt công tác tiêu thụ, thực hiện

chào hàng, tiếp thị, định giá sản phẩm cho xuất khẩu. Đội ngũ nhân viên làm

việc tại văn phòng của Công ty chủ yếu là cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh

nghiệm trong kinh doanh nhưng họ có sức khoẻ, có lòng nhiệt tình và có năng

lực công tác tốt. Vì vậy, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ trẻ.

Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, học tập cho nhân viên của Công ty tại

các lơp nghiệp vụ ngắn và dài hạn trong và ngoài nước. Tạo điều kiện cho cán

bộ công nhân viên tham gia các buổi hội thảo, các khoá huấn luyện ngắn

ngày, các buổi nói chuyện với các chuyên gia, những người có kinh nghiệm.

Phối hợp với các trường Đại học tổ chức các buổi học ngắn hạn cho cán

bộ công nhân viên học các khoá học về ngoại thương, marketing, quản trị kinh

doanh xuất nhập khẩu.

Đối với lao động sản xuất trực tiếp tại phân xưởng, Công ty tổ chức

trường Đào tạo dạy nghề trực tiếp tại phân xưởng, tạo điều kiện cho lao động

mới vào nghề vừa học vừa làm trong các tháng thử việc. Ngoài ra, Công ty có

mở các lớp đào tạo chuyên sâu cho công nhân có trình độ lành nghề, có tay

nghề cao để nâng cao hơn nữa trình độ tay nghề của công nhân.

Kiến nghị đối với Nhà nước:

2.1. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ

Phát triển các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những

biện pháp giải quyết tình trạng dư thừa nguồn lao động phổ thông, tạo việc

làm cho nhiều nhân lực chưa được đào tạo qua Cao đẳng hay Đại học, là một

trong những chính sách có tính chất xã hội của Nhà nước ta. Nguồn lao động

thủ công này chủ yếu từ nông thôn, nên thúc đẩy và phát triển sản xuất hàng

thủ công mỹ nghệ mang lại những lợi ích kinh tế thiết thực, còn có ý nghĩa lớn

về mặt xã hội.

Muốn đẩy nhanh hơn nữa tốc độ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì

Nhà nước phải thực hiện những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tham

gia xuất khẩu như:

Nên có chính sách ưu đãi về thuế Giá trị gia tăng, có ưu đãi đối với một

số chủng loại hàng hoá nhất định như hàng gốm sứ, hàng mây tre.

Nên bổ sung, sửa đổi các nghị định cho vay vốn, chú trọng việc cung ứng

nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhất là nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên như

hàng mây tre, hàng gỗ mỹ nghệ, để các doanh nghiệp trong nước không phải

nhập khẩu nguồn nguyên liệu để sản xuất.

Tạo điều kiện tốt về thủ tục hải quan, giảm bớt các thủ tục hải quan rườm

rà, làm thông thoáng hơn nữa thủ tục xuất khẩu.

Nên sửa đổi tiêu chuẩn thưởng đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.

Hiện nay để được thưởng xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu phải đạt từ 5

triệu USD/ năm là một tiêu chuẩn quá cao đối với một doanh nghiệp có quy

mô xuất khẩu vừa và nhỏ.

Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển mẫu mã sản phẩm, nên thành

lập các hiệp hội phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, tổ chức thêm nhiều

cuộc triển lãm có sự tham gia của các chuyên gia thiết kế của nước ngoài để

các doanh nghiệp có thể học hỏi, mở rộng tầm nhìn, từ đó làm tốt hơn công

tác thiết kế của mình.

Đưa công tác đào tạo đội ngũ thiết kế vào các trung tâm dạy nghề, trường

học nghề, thậm chí cả trường Đại học, tạo nguồn nhân lực dồi dào cho khâu

thiết kế. Tổ chức nhiều cuộc thi sáng tạo về mẫu mã sản phẩm để có thể tạo ra

nhiều hơn nữa các sản phẩm có mẫu mã đẹp, tăng sức cạnh tranh của hàng

Việt Nam.

2.2.Thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương

mại

Mở rộng quan hệ ngoại thương trên cơ sở hợp tác và bình đẳng, tăng

cường xúc tiến thương mại, tổ chức các phái đoàn đi thăm và quan hệ với các

nước là bạn hàng xuất khẩu của ta. Có liên kết về kinh tế- thương mại với quy

mô lớn, lâu dài trên thị trường đó.

Tăng cường cung cấp thông tin chính xác về thị trường nhập khẩu, các

kênh phân phối trên thị trường cho các doanh nghiệp như:

- In ấn các ấn phẩm, đĩa CD room, đưa lên Internet

- Giúp các doanh nghiệp nhận dạng được hàng rào kinh tế, kỹ thuật trên

thị trường, để có giải pháp đối phó với các rào cản phi thuế quan từ phía thị

trường.

Nên thành lập các trung tâm xúc tiến và phát triển thương mại, với chức

năng tổ chức xúc tiến các hợp đồng thương mại, nghiên cứu thị trường xuất

khẩu và tổ chức đưa hàng hoá của Việt Nam ra thị trường thế giới tham gia

vào hệ thống phân phối hàng hoá các nước.

Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách phát triển đăng ký và bảo vệ

thương hiệu hàng hoá Viẹt Nam trên thị trường thế giới

Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường và xem lại định hướng chiến lược

sản xuất hướng ra xuất khẩu, mở rộng vùng nguyên liệu sản xuất.

Nhà nước cần có một chiến lược tổng thể để thực hiện đồng bộ về nâng

cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành hàng hoá để tăng sức cạnh tranh trên

thị trường thế giới: khuyến khích đầu tư xuất khẩu, bảo hộ hàng hoá bằng

chính sách, coi thị trường trong nước là hậu thuẫn để thâm nhập thị trường

quốc tế.

Chỉ đạo công tác xuất khẩu tập trung theo đúng với kế hoạch của Nhà

nước, đồng thời tăng cường hoạt động của các đại diện thương mại, các

thương vụ đặt ở các nước, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ

nhằm tăng cường hiệu quả làm việc của thương vụ.

2.3. Xây dựng quy hoạch phát triển các doanh nghiệp, các làng nghề

truyền thống, các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất.

Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các vùng kinh tế để trao

đổi về sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Xây dựng và phát triển thêm

các làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển công

nghiệp hoá nông thôn, cân đối vùng kinh tế, phát triển các vùng nguyên liệu

đảm bảo vấn đề môi trường, hạn chế tình trạng khai thác gỗ tràn lan, khai thác

nguyên liệu bừa bãi.