
381
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ĐÁNH GIÁ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THU BẢO HIỂM XÃ HỘ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
THEO TIÊU CHÍ PHÙ HỢP
Mai Thị Dung, Hoàng Thanh Tùng, Nguyễn Thị Vân Anh
Trường Đại học Lao động – Xã hội
Tóm tắt:
Với ba nội dung cơ bản: hoạch định ch nh sách, pháp luật; tổ chức thực hiện; kiểm tra-
giám sát; quản lý Nhà nước về thu bảo hiểm xã hội hướng tới đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời,
đảm bảo quyền lợi của người lao động. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhóm doanh nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại Việt Nam. Trong khuôn
khổ bài viết, nhóm nghiên cứu đánh giá quản lý nhà nước về thu bảo hiểm xã hội đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo tiêu ch phù hợp thông qua khảo sát đối với hai đối tượng: người lao
động, người sử dụng lao động thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: pháp luật điều ch nh hoạt động thu bảo hiểm xã hội còn một số quy định chưa phù hợp với
thực tế và khuyến nghị của ILO; mô hình tổ chức thực hiện và thanh tra- kiểm tra theo ngành
dọc phù hợp với sự phân bổ của doanh nghiệp nhỏ và vừa, song quy trình thu và sự phối hợp
giữa bảo hiểm xã hội với các tổ chức liên quan còn bất cập. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu
đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng sự phù hợp của hoạt động quản lý Nhà nước về thu bảo
hiểm xã hội đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Quản lý nhà nước, thu ảo hiểm xã hội, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiêu ch
hợp lý
ASSESSMENT OF STATE MANAGEMENT ON SOCIAL INSURANCE COLLECTION
AT SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES IN VIETNAM ACCORDING TO
SUITABLE CRITERIA
Abstract:
With three basic contents: legal policy making; implementation organization; inspection
and supervision, state management in social insurance collection towards ensuring the right,
adequate and timely collection, guarantee the rights of workers. Small and medium enterprises
are group of enterprises accounting for the largest proportion of social insurance object
participants in Vietnam. In the framework of the article, the research team evaluates the state
management of social insurance collection at small and medium enterprises according to

382
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
appropriate criteria through surveys for two subjects: employees and employers in small and
medium enterprises. The research results show that: the law adjusted social insurance collection
activities still exist some regulations that are not in line with the reality and recommendations of
ILO; The organization model of implementation and vertical inspection is suitable with the
allocation of small and medium enterprises, but the collection process and the coordination
between social insurance and related organizations are still inadequate. On that basis, the
research team give a number of recommendations to increase the appropriateness of State
management activities on social insurance collection at small and medium enterprises in
Vietnam in the current period.
Keyword: State management, collection of social insurance, small and medium
enterprises, appropriate criteria
1. Đặt vấn đề
Thông qua hoạt động QLNN về thu BHXH, Nhà nước định hướng, xác định mục tiêu, tác
động, điều chỉnh hoạt động thu BHXH. QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước,
được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, QLNN về thu
BHXH là toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, bao gồm cả lập pháp (ban hành văn bản pháp
luật về thu HXH), hành pháp (tổ chức thực hiện HXH, thanh tra, kiểm tra) và tư pháp (giải quyết
tranh chấp, xử lý vi phạm). Theo nghĩa hẹp, QLNN về thu BHXH chỉ bao gồm chức năng hành
pháp. QLNN được đề cập trong bài viết này được hiểu theo nghĩa rộng:
QLNN về thu HXH là quá trình Nhà nước xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thu
BHXH; tuyên truyền, phổ biến chính sách; tổ chức bộ máy và quy trình thu BHXH; thanh tra - kiểm
tra việc chấp hành thu BHXH nhằm điều ch nh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thu
BHXH.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm đa số các doanh nghiệp và là một nguồn
chính tạo việc làm cho các nền kinh tế. Trên toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới
hơn 95% tổng số doanh nghiệp, chiếm khoảng 50% giá trị gia tăng và tạo ra 60% tổng số việc
làm. Tuy nhiên, quan niệm thế nào là DNNVV chưa có sự thống nhất, theo Gentrit and Justina
(2015), hiện nay tồn tại hơn 50 khái niệm về DNNVV. Tiêu chí xác định DNNVV về cơ bản bao
gồm hai nhóm:
(i) Tiêu chí định lượng: số lượng lao động, tổng tài sản, tổng doanh thu
(ii) Tiêu chí định tính: phần thị trường doanh nghiệp chiếm lĩnh (thường tương đối nhỏ),
sở hữu và quản lý doanh nghiệp mang yếu tố cá nhân, doanh nghiệp mang tính cá thể- không
chịu sự kiểm soát bên ngoài của một doanh nghiệp khác.
Theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số
lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 200 người
và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, còn doanh nghiệp vừa có từ 200 đến 300 lao động nguồn vốn 20
đến 100 tỷ. Tại Việt Nam, theo nghị định 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày 11 tháng 3 năm 2018, tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ
và vừa là tiêu chí định lượng bao gồm:

383
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
- Doanh nghiệp siêu nhỏ: có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 10
người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ hoặc nguồn vốn không quá 3 tỷ.
- Doanh nghiệp nhỏ: có số lao động tham gia BHXH bình quân không quá 50 người và
tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ.
- Doanh nghiệp vừa: Có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 100
người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ.
DNNVV của Việt Nam là loại hình doanh nghiệp chiếm đa số và đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo việc làm cũng như tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn
lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Với tiêu chí xác định trên, đến năm 2018
có 517.900 doanh nghiệp đang tồn tại trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tới 98%, đóng
góp 30% vào tổng thu ngân sách nhà nước, đóng góp tới 40% GDP cho nền kinh tế, giải quyết
50% công ăn việc làm cho xã hội (Tổng cục Thống kê, 2018). Để phát triển DNNVV, tại Việt
Nam DNNVV được nhận nhiều hỗ trợ từ Chính phủ bao gồm: Hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ
thuế, kế toán; hỗ trợ mặt bằng sản xuất; hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật,
khu làm việc chung; hỗ trợ mở rộng thị trường; hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; hỗ trợ phát
triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, đa số các DNNVV là doanh nghiệp cá nhân hay gia đình, quy
mô nhỏ, quy trình công nghệ lạc hậu nên không có lợi thế kinh tế theo quy mô dẫn đến khó khăn
trong giảm chi phí sản xuất và kinh doanh. Tại Việt Nam, trong tổng số DNNVV, doanh nghiệp
siêu nhỏ (xét theo tiêu chí dưới 10 lao động) đã chiếm tới 66 – 67% (Tổng cục Thống kê, 2018).
Thêm vào đó, DNNVV thông thường có trình độ quản lý thấp, lao động hầu hết là thủ công chưa
qua đào tạo, doanh nghiệp do thành viên trong gia đình trực tiếp lao động nên không nhận thức
được đầy đủ quyền lợi lâu dài về BHXH, quan hệ lao động trong DNDVV tương đối lỏng lẻo.
(Tình trạng doanh nghiệp ký hợp đồng lao động không đúng quy định, thậm chí không ký hợp
đồng lao động đối với người làm công như quy định còn phổ biến…). Do vậy, nhiều doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động, không làm thủ tục giải thể, còn cơ quan cấp
phép cũng chưa thường xuyên kiểm soát chặt chẽ doanh nghiệp có thực sự hoạt động hay không.
Các nghiên cứu tại Singapore chỉ ra rằng “có 83% DNNVV sau 5 năm phải giải thể nếu không
có sự trợ giúp từ chính phủ” (Dr Elango Rengasamy, 2016).
Từ những đặc điểm trên của DNNVV, quản lý Nhà nước về thu BHXH đối với DN này
gặp không ít khó khăn và là một vấn đề phức tạp, cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá một cách
đầy đủ và chi tiết.
2. Tiêu chí phù hợp trong đánh giá quản lý nhà nƣớc về thu Bảo hiểm xã hội đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Từ những nghiên cứu chung về tiêu chí đánh giá QLNN của Tim Cadman (2012), Dhruv
Agarwal, Neil Mathew, Shyam Goyal (2015) đến những nghiên cứu về quản lý Nhà nước về thu
BHXH của ISSA, ADB (1999), Chiavo Campo và Sundaram (2003); Ortiz (2010) đều chưa
thống nhất mô hình và tiêu chí đánh giá QLNN nói chung. Tuy nhiên, về cơ bản, những tiêu chí
được sử dụng để đánh giá QLNN trong từng lĩnh vực cụ thể bao gồm năm nhóm tiêu chí: (1)
Tiêu chí hiệu lực; (2) Tiêu chí hiệu quả; (3) Tiêu chí trách nhiệm giải trình - tính minh bạch -
công khai - sự tham gia; (4) Tiêu chí công bằng - bình đẳng - phù hợp; (5) Tiêu chí bền vững -
có thể dự báo.

384
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Trong phạm vi bài viết này, nhóm nghiên cứu tập trung đánh giá QLNN về BHXH đối
với DNNVV theo tiêu chí công bằng- bình đẳng- phù hợp. Cụ thể, tiêu chí công bằng- bình
đẳng- phù hợp được hiểu như sau:
Theo Kaufmann, (1997) Công bằng (theo nghĩa rộng) được hiểu là: sự bình đẳng, sự phù
hợp với mục đích và sự bảo đảm an toàn pháp lý.
Bình đẳng chính là công bằng theo nghĩa hẹp, thể hiện khía cạnh hình thức của công
bằng. Trong QLNN về thu BHXH đối với DNNVV, công bằng thể hiện ở sự bình đẳng tương
quan về điều kiện tham gia BHXH, mức đóng, căn cứ đóng, tỉ lệ đóng, thủ tục đóng, quyền và
trách nhiệm đóng giữa NLĐ, DNNVV với các doanh nghiệp khác, các đối tượng khác; giữa các
doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau. Như vậy, sự bình đẳng là hạt nhân của công bằng.
Ngược lại, sự phù hợp với mục đích là khía cạnh nội dung của công bằng. Trong QLNN
về thu BHXH đối với DNNVV, sự phù hợp với mục đích thể hiện ở sự phù hợp của các mục tiêu
định hướng; phù hợp giữa luật với các văn bản hướng dẫn thực hiện của cơ quan QLNN với
DNNVV; phù hợp giữa quy định với thực tế; phù hợp giữa phương pháp, cách thức điều hành
với đặc thù của DNNVV…
Có thể nói công bằng- bình đẳng là hai khía cạnh không thể tách rời của tiêu chí phù hợp
trong đánh giá QLNN về thu BHXH đối với DNNVV: sự phù hợp về nội dung được thể hiện, và đạt
được thông qua sự bình đẳng về hình thức. Tiêu chí phù hợp trong đánh giá QLNN về thu BHXH
đối với DNNVV được hiểu như sau:
"Sự phù hợp của các mục tiêu định hướng; sự phù hợp trong quy định của pháp luật; phù
hợp về nội dung, phương pháp điều hành; sự phù hợp về nội dung, hình thức, kiểm tra, thanh
tra, giám sát về thu HXH đối với DNNVV".
Cụ thể, sự phù hợp về nội dung được đánh giá tương ứng theo ba nội dung cơ bản của
QLNN về thu BHXH đối với DNNVV, bao gồm:
Hoạch định chiến lược, chính sách, pháp luật về thu bảo hiểm xã hội
Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật rất cụ thể và chặt chẽ các nội dung của chính
sách thu BHXH bao gồm :
- Quy định đối tượng tham gia BHXH
- Quy định căn cứ đóng, tỷ lệ đóng, quy trình, phương thức đóng BHXH
- Quy định về các hành vi trốn đóng, nợ đóng BHXH và biện pháp xử lý tương ứng.
Những nội dung trên được quy định trong Hiến pháp, các Luật, bộ Luật trực tiếp điều
chỉnh hoặc liên quan đến BHXH và Các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật hoặc hướng dẫn
thi hành.
Tổ ch c bộ máy quản lý Nhà nước về thu bảo hiểm xã hội.
Để hiện thực hóa chính sách, đưa pháp luật vào thực tiễn, Nhà nước thiết lập tổ chức bộ
máy QLNN về thu BHXH bao gồm:
- Bố trí hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy,
- Xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của BHXH Việt Nam
- Xác định rõ chức năng, quyền hạn của các tổ chức liên quan và cơ chế phối hợp với
BHXH Việt Nam

385
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
- Thiết kế, hướng dẫn quy trình tổ chức thu BHXH
Thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm việc thực hiện thu bảo hiểm xã hội.
Thanh tra là chức năng thiết yếu của QLNN, thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả QLNN về thu BHXH. Chủ thể tiến hành thanh tra bao gồm:
- Thanh tra Nhà nước: Thanh tra Chính phủ và thanh tra của UBND các cấp có chức
năng thanh tra Nhà nước về BHXH. Tuy nhiên, hai chủ thể này theo quy định chỉ thực hiện khi
có yêu cầu của các cấp quản lý.
- Thanh tra chuyên ngành: thanh tra lao động của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội;
thanh tra tài chính quỹ BHXH của Bộ tài chính, và thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH của
BHXH Việt Nam, BHXH cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Đánh giá quản lý Nhà nƣớc về thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Việt Nam theo tiêu chí phù hợp.
3.1. Phương pháp đánh giá
Dựa trên các nội dung đánh giá, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu định tính nhằm
hoàn chỉnh khung nghiên cứu của bài viết phù hợp với điều kiện nghiên cứu là QLNN về thu
BHXH đối với DNNVV. Qua phỏng vấn sâu các đối tượng là lãnh đạo cơ quan BHXH và cán bộ
thu BHXH, tác giả thăm dò các nội dung, biểu hiện của sự phù hợp trong QLNN về thu BHXH
đối với DNNVV; những yếu tố ảnh hưởng đến sự phù hợp của quy định của pháp luật đối với tổ
chức thực hiện và đặc điểm của DNNVV, những thuận lợi, khó khăn khi thực hiện thu của
DNNVV; đánh giá mức độ phù hợp trong tổ chức bộ máy thực hiện thu BHXH đối với DNNVV.
Nhóm nghiên cứu đánh giá mức độ phù hợp trong quản lý Nhà nước về thu BHXH đối với
DNNVV dựa trên số liệu khảo sát dành cho hai đối tượng: DNNVV và NLĐ làm việc trong
DNNVV theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện ở DNNVV. Nội dung câu hỏi được thực hiện trên
cơ sở xác định khái niệm lý thuyết và cách thức đo lường tương ứng của tiêu chí phù hợp trong
đánh giá QLNN về thu BHXH đối với DNNVV. Tất cả các biến quan sát đều sử dụng yếu tố cấu
thành đo lường Likert 5 bậc với lựa chọn số 1 là ―hoàn toàn không đồng ý‖ với phát biểu và lựa
chọn số 5 là ―hoàn toàn đồng ý‖ với phát biểu.
Đối với đối tượng điều tra là NLĐ trong DNNVV: Số lượng phiếu đã phát ra là 150
phiếu, số lượng phiếu thu về 146 phiếu. Đối với đối tượng điều tra là DNNVV, Số lượng phiếu
đã phát ra là 100 phiếu, số lượng phiếu thu về 95 phiếu. Sau khi thu thập được đủ số phiếu theo
yêu cầu, tác giả đã tiến hành làm sạch dữ liệu, mã hóa những thông tin cần thiết trong bảng câu
hỏi, nhập liệu và phân tích dữ liệu bằng phần mềm SPSS. Trên cơ sở các phương pháp nghiên
cứu thống kê mô tả, phân tích, tổng hợp tác giả sử dụng các bảng biểu đồng thời tham chiếu với
kết quả định lượng bằng phần mềm SPSS để đánh giá thực trạng QLNN về thu BHXH đối với
DNNVV theo tiêu chí phù hợp.
3.2. Kết quả đánh giá
(1) M c độ phù hợp của quy định pháp luật về thu BHXH đối với DN nhỏ và vừa.
Để tiến hành thu BHXH đối với DNNVV, các câu hỏi cần được quy phạm hóa bao gồm: Thu
của ai? Thu bao nhiêu tiền? Thu như thế nào? Trách nhiệm quản lý quỹ, trách nhiệm giải trình, thanh
tra - kiểm tra ra sao?