intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề án chuyên ngành: Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Mai Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

116
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề án chuyên ngành: "Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp" nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề án chuyên ngành: Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp

  1. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài. Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào thị trường chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường vốn mà nổi bật là thị trường chứng khoán. Xuất phát từ những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Và không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan trọng đối với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo điều kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. 2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu • Phạm vi nghiên cứu Do qui mô của bài viết và thời gian làm bài bị hạn chế, cho nên bài viết này chỉ tập trung đề cập vào những nội dung cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Kiến thức về thị trường chứng khoán rất lớn nhưng những kiến thức trong bài viết này cũng tương đối đủ để hiểu về thị trường chứng khoán. Về phần nói về thực trạng và một số giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam, cũng do đó có nhiều hạn chế. Vì vậy, bài viết này cũng chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. • Mục đích nghiên cứu Thấy được thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, vẫn đang là thị trường non yếu. Nhưng nó là nhân tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với xu hướng chung của Thế giới. Và từ đó tìm ra giải pháp thích hợp cho thị trường chứng khoán nước ta. 3. Kết cấu của đề bài. Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nội dung của đề tài bao gồm các nội dung sau: − Lời mở đầu − Phần I: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán. − Phần II: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam. − Phần III: Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. − Lời kết luận.
  2. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Vì sự hiểu biết và thời gian có hạn cho nên nội dung đề tài của mình không tránh khỏi những sai xót. Do vậy, em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô và bạn bè để cho đề tài của em thêm hoàn thiện. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô Bùi Thị Thu Ngân cô đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm. Thị trường chứng khoán là thị trường có tổ chức, là nơi mà các chứng khoán được mua bán theo các qui tắc đã được quy định. 1.1.2. Phân loại. a) Căn cứ theo tính chất pháp lý có thị trường chứng khoán chính thức và thị trường chứng khoán phi chính thức. Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán, là nơi mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định theo hình thức đấu giá hoặc đấu lệnh. Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC, là nơi mua bán các loại chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thỏa thuận giữa người mua và người bán. b) Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán có thị trường phát hành và thị trường giao dịch. Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư. c) Căn cứ vào phương thức giao dịch có thị trường giao ngay và thị trường tương lai. Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo qui định. Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày ký hạn nhất định trong tương lai. d) Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa trên thị trường chứng khoán có thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường phát sinh.  Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu.  Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu.
  3. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân  Thị trường phát sinh là nơi mua bán các công cụ có nguồn gốc chứng khoán 1.1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán. a) Đối với chính phủ. Thị trường chứng khoán cung cấp các phương tiện để huy động vốn và sử dụ ng các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Chính phủ huy độ ng vốn bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình. Thị trường chứng khoán còn góp phần thực hiện quá trình cổ phần hoá. Chính thị trường chứng khoán có thực mới có thể tuyên truyền sự cần thiết của thị trường chứng khoán một cách tốt nhất. Từ đó khuyến khích việc cổ phần hóa nhanh lên các doanh nghiệp quốc doanh. Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền tệ. Lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc chính phủ mua hoặc bán trái phiếu. Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng khoán. b) Đối với doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản vay có chi phí cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị trường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản để cho công ty có thể bán chứng khoán bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệmới, cải ti ến sản phẩm. Thị trường chứng khoán còn là nơi giúp các tập đoàn ra mắt công chún g. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo ít chi phí về bản thân doanh nghiệp. c) Đối với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm cơ hội đầu tư để đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư. 1.1.4. Nhược điểm của thị trường chứng khoán. a) Yếu tố đầu cơ. Đầu tư là yếu tố có tính toán của người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố này gây ảnh hưởng lan truyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Tuy nhiên thị trường không cấm yếu tố này. b) Mua bán nội gián. Mua bán nội gián là việc một cá nhân nào đó lợi dụng vị trí công việc của mình, nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị phát hành để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi nhuận cho mình và làm ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu trên thị trường. Đây là hành vi phi đạo đức thương mại và bị cấm ở các nước. c) Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc.
  4. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Đây là việc đưa ra các thông tin sai sự thật về tình hình tài chính, tình hình nội bộ của công ty hay về môi trường kinh doanh của công ty nhằm tăng hay giảm giá cổ phiếu để thu lợi nhuận cho cá nhân. d) Mua bán cổ phiếu ngầm. Mua bán cổ phiếu ngầm là việc mua bán không qua thị trường chứng khoán. Điều này có thể gây áp lực cho các nhà đầu tư khác đưa tới việc khống chế hay thay thế lãnh đạo. Việc phao tin đồn không chính xác và mua bán cổ phiếu ngầm đều bị cấm ở các nước. 1.1.5. Các chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam. a) Chỉ số chứng khoáng VN index. Chỉ số VN – index thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày. Chỉ số VN – Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. b) Chỉ số Hastc-Index Chỉ số HASTC-Index được tính toán bắt đầu từ ngày chính thức mở cửa phiên giao dịch đầu tiên của thị trường (ngày 14-7-2005), được gọi là thời điểm gốc. Chỉ số này tính toán biến động giá của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc. 1.1.6. Các nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán. a) Nguyên tắc trung gian. Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được thực hiện thông qua tổ chức trung gian và môi giới là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư, hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư khác. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. b) Nguyên tắc định giá. Việc định giá chứng khoán trên thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà trung gian môi giới. Mỗi nhà trung gian môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào số cung cầu chứng khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán được thực hiện thông qua trung gian cuộc thương lượng giữa những người môi giới cần mua và cần bán. Gias cả được hai bên thống nhất. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường và cũng không có ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán. Vì thế thị trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất trong các thị trường. c) Nguyên tắc công khai hoá. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như tình hình tài chính về kết quả kinh doanh của công ty phát hành và số lượng chứng khoán và giá cả từng loại đều được công khai trên thị trường và trong báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch số lượng chứng khoán được mua bán, giá cả từng loại đều được lập
  5. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân tức thông báo ngay. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người bán chứng khoán không bị hớ trong mua bán chứng khoán và người mua chứng khoán dễ dàng chọn lại chứng khoán theo sở thích của mình. 1.2. CHỨNG KHOÁN VÀ VIỆC PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 1.2.1 Chứng khoán và việc phân loại chứng khoán. a) Khái niệm. Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. b) Phân loại chứng khoán. Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chứng khoán được chia thành ba tiêu thức chủ yếu, đó là:  Căn cứ theo tiêu thức pháp lý có chứng khoán vô danh và chứng khoán ký d anh Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyển nhượng loại này rất dễ dàng, không cần thủ tục đăng ký rườm rà. Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyể nnhượng loại này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành.  Căn cứ theo tính chất thu nhập có chứng khoán có thu nhập ổn định, ch ứng khoán có thu nhập không ổn định và chứng khoán hỗn hợp. Chứng khoán có thu nhập ổn định là các trái phiếu, thu nhập của nó không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Chứng khoán có thu nhập không ổn định là các cổ phiếu thường, thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và chính sách trả cổ tức. Chứng khoán hỗn hợp là cổ phiếu ưu đãi, có một phần thu nhập là không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.  Căn cứ theo chủ thể phát hành có chứng khoán Chính phủ và chứng kho án công ty. Chứng khoán Chính phủ là các chứng khoán do các cơ quan của Chính phủ trung ương hay chính quyền địa phương phát hành như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu Chính phủ, công trái Nhà nước. Chứng khoán công ty là chứng khoán do các doanh nghiệp, công ty cổ phần phát hành như trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ có nguồn gốc chứng khoán. 1.2.2. Phát hành chứng khoán. a) Chủ thể phát hành.  Thứ nhất là Chính phủ. Mục đích phát hành của chính phủ là bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách và huy động vốn để tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát hành các loại chứng khoán bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình, Tín phiếu kho bạc.  Thứ hai là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát hành ra chứng khoán để huy động vốn và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại. Trong
  6. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân nền kinh tế thị trường chỉ có các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần hóa là tổ chức được phép phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu.  Thứ ba là các quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác. Mục đích của thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà dầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh. b) Phương thức phát hành chứng khoán.  Thứ nhất: Phân loại theo đợt phát hành Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo.  Thứ hai: Phân loại theo đối tượng mua bán chứng khoán Theo đối tượng mua bán chứng khoán, phương thức phát hành được phân chia thành: Phát hành riêng lẻ: là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Phát hành ra công chúng: là hình thứ phát hành trong đó chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định, trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho cac nhà đầu tư nhỏ. Ngoài ra tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng đạt một tỷ lệ theo quy định. 1.2.3. Cách thức đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán trên hai thị trường là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Nhà đầu tư tham gia đấu giá cổ phần tại các trung tâm giao dịch chứng khoán, hoặc công ty chứng khoán làm đại lý nhận lệnh (thường là công ty làm tư vấn phát hành cho công ty cổ phần). Thị trường thứ cấp: Nhà đầu tư không đến trực tiếp các trung tâm giao dịch mà mở tài khoản tại các công ty chứng khoán để thực hiện giao dịch theo nguyên tắc trung gian đối với chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch. Còn đối với các chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch thì không cần điều kiện này.
  7. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1. THỊ TRƯỜNG SƠ CẤP 2.1.1. Đầu tư vào cổ phiếu. Thực trạng của đầu tư vào cổ phiếu ở Việt Nam được thể hiện thông qua một số điểm sau: Thứ nhất là Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện cổ phần hóa bán đấu giá qua các tổ chức trung gian tài chính. Theo quy định tại nghị định số 187/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, chúng ta đã cổ phần hóa được 2.188 doanh nghiệp, sắp xếp lại 3.450 DNNN trong tổng số 5.655 doanh nghiệp nhà nước vào đầu năm 2001. Kết thúc năm 2005 chúng ta đã cơ bản hoàn thành cơ cấu lại DNNN, tập trung hơn vào các lĩnh vực then chốt. Và năm 2005 cũng là năm đầu tiên thực hiện hình thức bán đấu giá cổ phần của các DNNN thực hiện cổ phần hóa qua các trung tâm giao dịch chứng khoán. Hai trung tâm giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội trong năm 2005 đã thực hiện 243 đợt đấu giá cổ phần, so với tổng số lượng cổ phần chào bán, và số lượng cổ phần được bán như sau: 1 Tổng số đợt đấu giá đã thực hiện Đợ t 243 2 Tổng số cổ phần chào bán Cổ phần 352554154 3 Tổng số cổ phần bán được Cổ phần 310499094 4 Tỷ lệ cổ phần bán được so với chào bán % 88,07 (Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2006) Theo bảng trên ta có thể thấy rằng, năm 2005 thị trường sơ cấp từ con số không đã tạo ra một sự ấn tượng trong thị trường chứng khoán với 243 doanh nghiệp đã thực hiện đấu giá với số lượng cổ phần chào bán là 352 nghìn cổ phần tương đương với 3520 tỷ đồng (tính theo mệnh giá chào bán là 10.000 VNĐ). Đến năm 2008 việc cổ phần hóa không thành công. Có 62 công ty tiến hành cổ phần hoá và đấu giá thông qua HOSE và HASTC, nhưng phần lớn không bán được hết số cổ phần. Theo thống kê thì chỉ có 73/272 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong năm 2008, đạt 28% kế hoạch đề ra. Giờ đây, những doanh nghiệp như Vinatex, BIDV, Vietnam Airlines sẽ phải chờ đợi đến 2009 để được cổ phần hóa. Cổ phần hóa đã trở thành biện pháp sắp xếp lại, làm thay đổi về chất của khu vực DNNN. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế cho rằng, công tác này trong những tháng đầu năm 2013 còn chậm so với kế hoạch. Để đảm bảo hiệu quả của nhiệm vụ này trong thời gian còn lại của thời kỳ 2013 - 2015, nhiều chuyên gia
  8. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân trong lĩnh vực kinh tế cho rằng, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường vai trò giám sát, chỉ đạo của các cấp ủy; đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DNNN; thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, hỗ trợ nhà đầu tư mua cổ phần; đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp… Qua đây cho chúng ta có thể thấy rằng việc phần hóa bán đấu giá đã góp phần làm sôi động thị trường sơ cấp giúp thị trường chứng khoán Việt Nam có thêm những bước tiến mới trong lĩnh vực thị trường chứng khoán. Thứ hai là tình hình các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2005 Chính phủ ban hành quyết định 238/2005/QĐ-TTg nới rộng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam từ 30% lên 49%, thị trường đã có những chuyển biến tích cực. Toàn bộ giá trị thị trường với chứng khoán niêm yết hiện nay khoảng 5,3 tỷ USD. Cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Ngày 01/01/2007 Luật Chứng khoán mới đi vào hoạt động chính thức đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Đến năm 2008 giao dịch của NĐTNN có nhiều điều rất đáng quan sát. Tuy nhiên mọi chuyện thay đổi kể từ tháng 8 khi tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới lan tới Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài bán ròng với khối lượng rất lớn, làm giảm đáng kể tỷ lệ nắm giữ chứng khoán Việt Nam của khối này, giảm gần 4 tỷ USD so với đầu năm. Vào cuối năm 2009 đầu năm 2010 chiến lược của NĐTNN và khối lượng mua ròng mạnh nhất trong thập kỷ, sự bền bỉ mua ròng của khối NĐTNN khi thị trường sụt giảm mạnh đã giúp họ bình quân được giá vốn với mức giá cao. Ngoài ra, cũng có thể thấy rằng, với một lượng tiền đầu tư thấp hơn các năm trước, khối NĐTNN đã sở hữu được một lượng cổ phiếu lớn hơn hẳn. Đây phải chăng là một trong những chiến lược của NĐTNN, tranh thủ khi thị trường sụt giảm, nâng cao tỷ lệ sở hữu các doanh nghiệp có thương hiệu tốt với giá rẻ. Trong 9 tháng đầu năm 2013 vừa qua, có 551 nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch (208 cá nhân, 344 tổ chức), tăng 65,5% so với cùng kỳ năm trước (cá nhân tăng 10,1%, tổ chức tăng 138,9%). Trên thực tế, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chủ yếu là sân chơi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ, mua bán trên thị trường thường có những biến động theo “cảm xúc” và những tin đồn. Mặc dù vậy thì thị trường chứng khoán Việt Nam là một điểm sáng để thu hút đầu tư nước ngoài. Điều đáng mừng là chính phủ Việt Nam đã và đang có những chuyển biến tích cực để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp, như việc đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đưa các doanh nghiệp mạnh lên niêm yết. Chúng ta có thể thấy rằng, việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam chưa nhiều. Chúng ta cần cải thiện nhiều hơn nữa về môi trường đầu tư cho hợp lý. Đặc biệt hơn cả là hệ thống thủ tục pháp lý. 2.1.2. Đầu tư vào trái phiếu. Theo bộ tài chính, đến cuối năm 2005, cả nước đã phát hành 70.000 tỷ đồng trái phiếu ra thị trường. Trong đó, tổng số vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu trái phiếu chính phủ đạt gần 60.000 tỷ đồng, các tỉnh thành phố phát hành gần 7.000 tỷ đồng (gồm thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đồng Nai) và các doanh nghiệp
  9. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân phát hành trên 2000 tỷ đồng. Bộ tài chính có kế hoạch sẽ phát hành khoảng 18.000 tỷ đồng trái phiếu vào năm 2006 với nhiều mục đích khác nhau, nhưng cơ bản là vì xây dựng cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang trong tình trạng xuống cấp như: thuỷ điện Sơn La, đường biên giới, giáo dục đào tạo, các công trình trọng điểm... Bảng giá trị phát hành trái phiếu đã phát hành tính đến năm 2005. Đơn vị: Tỷ VNĐ Trái phiếu CP Trái phiếu CQĐP Trái phiếu DN Tính đến 2005 60.000 7.000 2.000 Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, trái phiếu là một công cụ hữu hiệu để nhà nước sử dụng trong việc huy động vốn trong nhân dân. Đối với Việt Nam thì trái phiếu chính phủ là một công cụ an toàn tiện lợi mọi người dân không ưa mạo hiểm thì có thể cho vay vốn của mình thông qua hình thức này. Tình hình hoạt động của TTCK năm 2006 có nhiều sự thay đổi. Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ tai trung tâm giao dịch chứng khoán theo thông tư 21/2004/TT-BTC ngày 24/3/2004 của bộ tài chính hướng dẫn việc đấu thầu trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán giao dịch tập trung. Theo thông tư 21/BTC, trái phiếu đấu thầu tại trung tâm giao dịch chứng khoán bao gồm: trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu công trình địa phương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh. Và các loại trái phiếu này sau khi đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán, được niêm yêt/ đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Song hành với việc đấu thầu trái phiếu chính phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, tính đên ngày 30/6/2006, sau hơn một năm chính thức đi vào hoạt động, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức được 9 đợt đấu thầu trái phiếu, huy động được 1.115 tỷ đồng. Tuy nhiên, với quyết định 2276/QĐ-BTC của bộ tài chính ban hành ngày 20/6/2006 (Quyết định 2276/QĐ- BTC), từ ngày 1/7/2006 hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ đã chính thức chuyển giao cho trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đảm trách. Với mốc ngày 1/7 cho tới ngày 31/8, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức 5 đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ thành công, huy động được 1.385 tỷ đồng. Cụ thể, đợt 1 phát hành được 175 tỷ đồng/200 tỷ đồng gọi thầu trái phiếu đô thị cho quỹđầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Hifu), bao gồm 100 tỷ đồng là loại cổ phiếu có kỳ hạn 5 năm và 75 tỷ đồng là loại có kỳ hạn 10 năm; Đợt 2, huy động được 300 tỷ đồng/300 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm gọi thầu của kho bạc nhà nước, với mức lãi suất trúng thầu đạt 8,63%; Đợt 3, phát hành 500 tỷ đồng/500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm của kho bạc nhà nước phát hành, với lãi suất 8,25%; Đợt 4, ngày 28/8 tổ chức đấu thầu 500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành có kỳ hạn 5 năm phát hành ngày 30/8/2006, với khối lượng trái phiếu bán được là 200 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu vẫn là 8,25%; Và đợt 5, ngày 29/8/2006 tổ chức đấu thầu 260 tỷ đồng trái phiếu đô thị do Quỹ Hifu phát hành, kết quả huy động được 210 tỷ đồng. Trong đó, 110 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 10 năm lãi suất 9,25% và 100 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 15 năm lãi suất 9,55%. Bảng số liệu về tình hình phát hành trái phiếu:
  10. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Các đợt Loại trái phiếu Kỳ hạn Lãi suất đạt được (tỷ đồng) Đợt 1 Trái phiếu đô 5 100 thị 10 75 Đợt 2 TPCP 5 8,63% 300 Đợt 3 TPCP 5 8,25% 500 Đợt 4 TPCP 5 8,25% 200 Đợt 5 Trái phiếu đô 10 9,25% 110 thị 15 9,55% 100 (Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 10 năm 2006). Chỉ nói riêng đến thị trường trái phiếu chính phủ. Tính từ ngày 31/7/2006 đến ngày 11/9/2006, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là 1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu đăng ký tham gia đấu thầu là 4.183 tỷ đồng (gấp 2,87 lần khối lượng gọi thầu). Kết quả khối lượng trái phiếu trúng thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến ngày 11/9/2006, số trái phiếu phát hành theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội có 38 loại, với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng, trong đó có 8 loại của kho bạc nhà nước (3.042 tỷ đồng) và có 30 loại của ngân hàng phát triển Việt Nam (3.985 tỷ đồng). Năm 2006, Kho bạc nhà nước có nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành các loại trái phiếu, công trái là 54.500 tỷ đồng, trong đó huy động cho ngân sách nhà nước 33.000 tỷ đồng, cho các công trình giao thông thuỷ lợi 15.500 tỷ đồng, công trái giáo dục 2.500 tỷ đồng và cho các mục đích khác là 3.500 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 15/9/2006, Kho bạc nhà nước đã huy động được gần 40.000 tỷ đồng, trong đó 6.197 tỷ đồng được huy động qua 18 phiên đấu thầu qua 2 trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2006, kho bạc nhà nước sẽ huy động 2.000 – 3.000 tỷ đồng thông qua đấu thầu tại trung tâm giao dịch chứng khoán . Năm 2007 sẽ huy động 12.000 tỷ đồng qua trung tâm giao dịch chứng khoán trong tổng số 63.500 tỷ đồng huy động cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, năm 2007 giao dịch trên thị trường trái phiếu Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Á. Cụ thể tăng 98.11% so với mức trung bình 21.1% của khu vực. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức tài chính chuyên nghiệp, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn được coi là thị trường chưa phát triển, bên cạnh đó cùng với sự đi xuống của thị trường chứng khoán, trong năm 2008, thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp, cũng trải qua thời kỳ “ảm đạm”. Cuối năm 2008, trái phiếu phát triển khá mạnh khi thị thường chứng khoán suy giảm và kênh đầu tư khác lên ngôi, đó là bất động sản vào đầu năm, USD vào giữa năm. Đối với Việt Nam thì trái phiếu chính phủ là một công cụ an toàn tiện lợi mọi người dân không ưa mạo hiểm thì có thể cho vay vốn của mình thông qua hình thức này. Hoạt động đấu thầu trái phiếu chính phủ tại trung tâm giao dịch chứng khoán theo thông tư 21/2004/TT-BTC ngày 24/3/2004 của bộ tài chính hướng dẫn việc đấu thầu trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán giao dịch tập trung. Và các loại
  11. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân trái phiếu này sau khi đấu thầu qua trung tâm giao dịch chứng khoán, được niêm yết đăng ký giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Việc triển khai Quyết định 2276/BTC hơi chậm, nhưng trên thực tế kết quả thu được là rất lớn và tạo ra nền tảng phát triển bền vững. Và việc tập trung đấu thầu trái phiếu chính phủ về một nơi tạo tiền đề cho việc tổ chức một thị trường thứ cấp hiệu quả hơn. Như vậy chúng ta có thể nói rằng việc đấu thầu trái phiếu chính phủ của chúng ta trong thời gian qua có nhiều bước tiến lớn. Đây là thành tựu chúng ta đáng ghi nhận. Việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế. Kết luận: Từ đây chúng ta có thể kết luận được rằng, việc đầu tư chứng khoán thông qua việc đấu thầu trái phiếu đã giúp cho chúng ta huy động một lượng vốn lớn. Đặc biệt hơn cả là nó giúp cho chính phủ Việt Nam có một nguồn thu lớn để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Và nó là một nhân tố quan trọng giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam lớn mạnh so với thị trường chứng khoán quốc tế. 2.2 THỊ TRƯỜNG THỨ CẤP Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ cấp, thì các chứng khoán này trước hết được diễn ra mua bán trên thị trường sơ cấp. Đây là lần đầu chứng khoán được giao dịch do đó chúng ta gọi là thị trường sơ cấp. Nhưng công việc mua bán chứng khoán không chỉ dừng lại ở đây. Sau quá trình mua bán trao đổi lần thứ nhất thì chứng khoán tiếp tục được chuyển đổi chủ sở hữu, gọi là lần giao dịch thứ cấp hay còn gọi đây là thị trường thứ cấp. Không có thị trường sơ cấp hay việc phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp. Nhưng mặt khác, thị trường thứ cấp tạo tiền đề cho thị trường sơ cấp phát triền mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành chứng khoán ở thị trường thứ cấp lần tiếp theo. Trước khi nói đến việc đầu tư chứng khoán ở thị trường thứ cấp thì chúng ta nên nói tới tình hình niêm yết chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Vì nhờ có việc niêm yết chứng khoán mà các nhà đầu tư chứng khoán yên tâm hơn khi mua các chứng khoán của các đơn vị phát hành chứng khoán. 2.2.1. Thực trạng của việc niêm yết chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam có hai trung tâm giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội mới đi vào hoạt động được một năm, còn trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã hoạt động được sáu năm.  Thứ nhất: Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh TTCK Việt Nam ra đời bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TPHCM) ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) của hai công ty với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ lúc thành lập cho đến 2005, TTCK luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn sốt vào năm 2001 (khi chỉ số VN-Index cao nhất đạt 571.04 điểm vào 6 tháng đầu năm còn 6 tháng cuối năm thì các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571.04 điểm vào ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Lượng vốn đầu tư vào TTCK cũng giảm theo, do yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư. Năm 2006 TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HOSE) tăng 144%. Tính đến phiên 29/12/2006, TTGDCK
  12. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân TP.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. Ngày 25/03/2008 VN-Index đóng cửa tại 496.64 điểm, chính thức phá đáy 500. Điều này đã khiến cho UBCKNN quyết định điều chỉnh biên độ dao động giá CP và CCQ tại HOSE từ +-5% xuống +-1%. Việc thu hẹp biên độ giao dịch bắt đầu thực hiện từ ngày 27/03/2008. Ngày 03/04 UBCKNN quyết định cho điều chỉnh biên độ giao dịch lên +- 2% tại HOSE sau khi thị trường đã có những dấu hiệu ổn định. Sức mua toàn thị trường trong tháng 5 và tháng 6 chỉ đạt trung bình 140 tỷ đồng/ngày. Đến tháng 8 UBCKNN đã nâng biên độ giao dịch tại HOSE từ +-3% lên +-5% Trong năm 2009, giá trị giao dịch toàn thị trường trên HOSE là 423.299 tỷ đồng với 10.432 triệu cổ phiếu được chuyển giao tính trung bình một cổ phần được giao dịch ở mức giá 40.577 đồng (năm 2008 là 41.832 đồng). Trong nhiều giai đoạn của năm 2010, chỉ số VN-Index đã không còn phản ánh chính xác tình hình chung trên sàn HOSE khi chỉ cần một vài bluechip tăng điểm là giữ được màu xanh của chỉ số, gây ra hiện tương ảo của VN-Index. Khối lượng giao dịch trên HSX bắt đầu nhích dần lên 60.70 triệu đơn vị, thậm chí đã xuất hiện các phiên giao dịch sôi động lên tới trên 100 triệu đơn vị/phiên, những con số thường thấy trong một xu hướng tăng trưởng của thị trường. Năm 2011, giá trị và khối lượng giao dịch bình quân 1 phiên tính chung cả HNX và HSX (theo phương thức khớp lệnh) trong năm 2011 là 790,72 tỷ đồng và 53,25 triệu cổ phiếu giảm 65% và 30% so với năm trước. Đến 31/12/2011, có 699 mã cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên hai sàn HSX và HNX (301 mã cổ phiếu, 5 chứng chỉ quỹ trên HSX; 393 mã cổ phiếu trên HNX). Năm 2012, giá trị giao dịch bình quân/ngày trên HOSE đạt 881,5 tỷ đồng/phiên, cao hơn 36% so với năm 2011. Tuy nhiên, so với năm 2010 thì giá trị giao dịch chỉ bằng 58%. Trong khi đó, khối lượng giao dịch bình quân/ngày đạt 56,4 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ. Thanh khoản cải thiện rất lớn so với mức bình quân 33,7 triệu cổ/ngày năm 2011 và hệ số Nợ vay/Vốn chủ sở hữu của HOSE là 1.37 lần.  Thứ hai: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động, TTCK dần tỉnh ngủ khi xuất hiện tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng). Do thị trường này là mới được thành lập nên khối lượng giao dịch các loại chứng khoán này là rất thấp. Không tương xứng với quy mô và tiềm năng của thị trường. Và đặc biệt về chất lượng giao dịch kém xa so với TTGDCK TPHCM. Năm 2006 cùng với sự phát triển vượt bậc của TTCK VN, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch Hà Nội (HASTC) tăng 152,4% chỉ số VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tính đến phiên 29/12/2006, TTGDCK Hà Nội có số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng.
  13. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Ngày 28/12/2007, TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Ngày 25/03/2008 UBCKNN quyết định điều chỉnh biên độ dao động giá CP và CCQ tại HASTC từ +-10% xuống +-2%. Ngày 03/04 UBCKNN quyết định cho điều chỉnh biên độ giao dịch lên +-3% tại Hastc sau khi thị trường đã có những dấu hiệu ổn định. Sức mua toàn thị trường trong tháng 5 và tháng 6 chỉ đạt trung bình 140 tỷ đồng/ngày. Tháng 8 UBCKNN đã nâng biên độ giao dịch tại HASTC từ +-4% lên +- 7%. Bước sang đầu tháng 9 chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ đang lên đến đỉnh điểm. HASTC lần đầu tiên giảm dưới mốc 100 điểm sau hơn 3 năm thành lập, đạt 97.6 vào ngày 27/11. Năm 2009, tại sàn giao dịch HNX tổng giá trị giao dịch là 197.524 tỷ với 5.765 triệu đơn vị được chuyển giao tương đương với mức trung bình 34.263 đồng. Giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên là 787 tỷ đồng (năm 2008 là 230 tỷ đồng). Trong nhiều giai đoạn của năm 2010, nhà đầu tư đã quan tâm đến chỉ số HNX- Index nhiều hơn, diễn biến trên sàn Hà Nội phản ánh cung cầu thật của thị trường. Giá cổ phiếu cũng thường biến động cùng chiều với biến động của chỉ số chính. Năm 2011, giá trị và khối lượng giao dịch bình quân 1 phiên tính chung cả HNX và HSX (theo phương thức khớp lệnh) trong năm 2011 là 790,72 tỷ đồng và 53,25 triệu cổ phiếu giảm 65% và 30% so với năm trước. Đến 31/12/2011, có 699 mã cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên hai sàn HSX và HNX (301 mã cổ phiếu, 5 chứng chỉ quỹ trên HSX; 393 mã cổ phiếu trên HNX). Năm 2012, HNX có sự cải thiện cả về thanh khoản theo khối lượng giao dịch bình quân/ngày và giá trị giao dịch bình quân/ngày. Cụ thể, bình quân có 48,4 triệu cổ phiếu được trao tay/phiên trên HNX năm 2012, tăng 51% so với 2011. Trong khi đó, giá trị giao dịch bình quân cũng cải thiện đáng kể từ 386 tỷ đồng/phiên năm 2011 lên 440 tỷ đồng/phiên trong 2012. Điều đáng lưu ý là số lượng DNNY cuối năm 2012 là 398 DN, không tăng nhiều so với 385 DN cuối năm 2011và hệ số Nợ vay/Vốn chủ sở hữu ở HNX là 1,88 lần  Thứ ba: Tình hình hoạt động của niêm yết chứng khoán tính đến 30/9/2013. Hiện trạng thị trường chứng khoán trên một số chỉ tiêu chủ yếu tính đến cuối tháng 9/2013 như sau.  Về số lượng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ (một chủ thể quan trọng trên thị trường, gọi chung là CP) niêm yết trên thị trường chứng khoán có 825, bao gồm 304 trên HOSE, 383 trên HNX và 138 trên UPCOM. Về chỉ tiêu này, trong những năm qua có một số điểm cần lưu ý. Số CP niêm yết đã tăng khá trong 13 năm qua (từ 41 cuối năm 2005 lên 825 cuối tháng 9/2013). Tuy nhiên, hiện có một số vấn đề đáng quan tâm. Một, so với tổng số công ty cổ phần của cả nước đang hoạt động (hơn 70.000), thì số CP niêm yết vẫn còn quá ít (mới chiếm khoảng 12%). Hai, gần đây trên thị trường đã xuất hiện tình trạng số CP niêm yết mới ít hơn số huỷ niêm yết (12/28). Ba, hiện còn khá nhiều DN lớn, DN hoạt động có hiệu quả, có sức hấp dẫn vẫn chưa lên sàn; trong khi không ít DN đã lên sàn từ khá sớm hoặc trước đây có sức hấp dẫn lớn nhưng nay lại gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Phần nhiều DN niêm yết có quy mô nhỏ, quan trọng hơn là chất lượng của không ít DN trên sàn còn yếu
  14. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân kém kể cả về hiệu quả hoạt động, cả về công tác hạch toán, cung cấp công khai, minh bạch thông tin... Theo đó, trong thời gian tới, cần phải đưa thêm nhiều DN lớn hấp dẫn lên sàn, trên cơ sở đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước ở một số DN thuộc các ngành lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ hoặc phải có cổ phần chi phối, đồng thời, cần phải củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng hạch toán và cung cấp thông tin của các DN đã niêm yết.  Về giá trị vốn hoá thị trường/GDP tính đến hết tháng 9/2013 đạt khoảng 27,9% GDP 2012 (đã được Tổng cục Thống kê tính lại và tính đầy đủ hơn đối với bất động sản). Tuy nhiên, tỷ lệ này còn thấp so với một số năm trước. Để tăng giá trị vốn hoá/GDP, thị trường cần phải được tăng thêm nhiều DN lớn hơn nữa (hiện còn đứng ngoài thị trường).  Về tổng giá trị giao dịch trên thị trường trong 9 tháng 2013 đã đạt 1.342 tỷ đồng, tuy còn thấp hơn trong một số thời kỳ trước (năm 2009 là 2.600 tỷ đồng, năm 2010 là 2.469 tỷ đồng), nhưng đã khá hơn thời kỳ khó khăn 2011-2012. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh (khối lượng mua ròng 9 tháng tăng 82%, giá trị mua ròng đạt 3.777 tỷ đồng, tăng 198,4% so với cùng kỳ năm trước). Cùng với sự nới lỏng chính sách tiền tệ thì lượng tiền vào thị trường trong thời gian tới đây sẽ tăng, có thể dần dần đạt mức 2.000 tỷ đồng/phiên vào cuối năm.  Về số lượng nhà đầu tư. Hiện có khoảng gần 1 triệu tài khoản của nhà đầu tư trên thị trường. Trong 9 tháng qua, có 551 nhà đầu tư nước ngoài được cấp mã giao dịch (208 cá nhân, 344 tổ chức), tăng 65,5% so với cùng kỳ năm trước (cá nhân tăng 10,1%, tổ chức tăng 138,9%). Ở đây có vấn đề cần chú ý là số lượng nhà đầu tư không những thấp so với dân số, lao động, mà còn chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân và cũng có không ít tài khoản đã lâu không giao dịch; số nhà đầu tư là tổ chức còn chiếm tỷ trọng nhỏ (dưới 10%), ngược với các nước phát triển. Tính đầu cơ, phong trào, đám đông còn khá nặng. Rất nhạy cảm với tin đồn, nên sự biến động trong nhiều trường hợp là thái quá...  Về điểm số. Điểm số của VN-Index đến cuối tháng 9 đạt trên 492 điểm, cao gấp trên 4,9 lần khi thị trường chứng khoán ra đời, với tốc độ tăng bình quân 1 năm đạt 13%/năm; so cuối tháng 9/2013 với cuối năm trước đã tăng trên 19%, HNX tăng 6,8%, UPCOM tăng 0,2%; trong đó của một số mã còn tăng cao hơn nhiều (HTL, VHG, PMS, TCM, PTB, CYC, DCL, MNC, SCL,…). Đó là những tốc độ tăng thuộc loại khá. Tuy nhiên, điểm số chung trên sàn Hà Nội (HNX) chỉ còn bằng khoảng 61% khởi điểm ra đời; hiện có đến 57% tổng số mã đã ở mức dưới mệnh giá... Trong điều kiện lạm phát chậm lại liên tiếp từ gần 2 năm qua, lãi suất tiết kiệm giảm xuống, hiện còn ở mức thấp; chính sách tiền tệ, tài khoá có xu hướng nới lỏng, tăng trưởng tín dụng cao dồn vào cuối năm, lãi suất cho vay dần trở về như thời kỳ trước khủng hoảng; thị trường bất động sản chưa hồi phục, thị trường vàng đã kết thúc thập kỷ tăng và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định hiện nay, nhiều chuyên gia đã dự đoán, chỉ số VN-Index có thể vượt qua mốc 500 điểm, thậm chí còn có dự đoán vượt 550 điểm và chỉ số HNX sẽ vượt qua mốc 70 điểm vào cuối năm 2013; theo đó, lợi nhuận trên thị trường chứng khoán sẽ có sự hấp dẫn trở lại trong những tháng tới; đó là chưa kể việc chia cổ tức…
  15. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân  Về huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Vốn huy động qua phát hành thêm cổ phiếu và cổ phần hoá 6 tháng 2013 mới đạt 5 nghìn tỷ đồng, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước; vốn huy động qua phát hành trái phiếu Chính phủ đạt 123 nghìn tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm trước; dòng vốn FII vào thuần trên thị trường chứng khoán đạt 404 triệu USD, cao gấp 8 lần so với cùng kỳ. Trong khi việc tiếp cận vốn từ hệ thống tín dụng ngân hàng còn thấp, việc tăng huy động vốn trên thị trường chứng khoán là rất có ý nghĩa, bởi thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng, lại là kênh huy động dài hạn. Khi các loại hình quỹ mới được thành lập và hoạt động, thực hiện việc nới “rom”, thì tỷ lệ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán được mở rộng... sẽ góp phần tăng lượng vốn huy động trên thị trường chứng khoán.  Về chính sách và điều hành trên thị trường chứng khoán đã có sự cải thiện trong thời gian qua và được tiếp tục cải tiến trong thời gian tới. Đề án tái cơ cấu tương đối toàn diện thị trường này được thực hiện sẽ tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển tốt hơn. Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn dài hạn; là chỉ báo quan trọng của kinh tế vĩ mô, nên tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đến lượt nó, ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tác động đến thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán bước đầu có dấu hiệu khởi sắc và là kênh đầu tư có tỷ lệ lợi nhuận cao nhất hiện nay. 2.2.2. Kết quả giao dịch của TTCK trong thời gian vừa qua Sau đây là kết quả giao dịch của một số tháng gần đây, những kết quả này muốn nói nên tính sối động của thị trường chứng khoán trong những tháng gần đây. Thị trường chứng khoán đã trải qua quý 3 năm 2013 trầm lắng bởi các nhà đầu tư trong nước mất định hướng. Tuy nhiên những phiên đầu tháng 10, thanh khoản thị trường đã tăng lên đáng kể với các phiên giao dịch phổ biến trên 1.000 tỷ đồng. Trong ngày đầu tuần thứ hai của tháng 10, VN-Index đã chạm lại mốc 500 điểm. Các chuyên gia kỳ vọng VN-Index sẽ có sự khởi sắc. Thị trường chứng khoán Việt Nam vừa trải qua khoảng thời gian đầy sóng gió khi nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi các thị trường chứng khoán mới nổi, trong đó có Việt Nam. Giao dịch trên thị trường trong quý 3 chủ yếu bị tác động bởi các nhà đầu tư nước ngoài và các quỹ ETF (Quỹ hoán đổi danh mục), tập trung vào nhóm bluechips trong rổ VN30, trong khi hầu hết các cổ phiếu khác giảm giá rất nhiều. Nhìn lại dòng vốn này thời gian qua cho thấy, trong tháng 8, các nhà đầu tư nước ngoài giao dịch thấp nhất trong 6 tháng trở lại đây và xu hướng bán ròng mạnh hơn, lên đến 700 tỷ đồng, so với khoảng 300 tỷ đồng của tháng 7. Hoạt động bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu từ các quỹ ETF, bao gồm 2 quỹ lớn là Market Vector Vietnam ETF (VNM) và FTSE Vietnam ETF (FTSE). Trong tháng 8, rất nhiều cổ phiếu lớn nằm trong danh mục đầu tư của 2 quỹ này bị bán mạnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của nhà đầu tư trên toàn thị trường. Trong tháng 8, VN- Index đã mất 19,15 điểm. Tuy nhiên, sự lo ngại việc các quỹ ETF tiếp tục bán mạnh sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường thì trong tháng 9, lực mua từ phía nhà đầu tư nước ngoài đã tăng trên cả hai sàn so với tháng 8. Theo lý giải của Công ty chứng khoán SaigonBank Berjaya, trong tháng 9, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) quyết định giữ nguyên gói nới lỏng định lượng QE3 đã khiến áp lực chuyển dịch vốn ra khỏi thị
  16. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân trường mới nổi giảm bớt. Thời gian này cũng trùng với thời gian các quỹ ETF thay đổi danh mục đầu tư định kỳ của quý, giúp hoạt động mua vào của nhà đầu tư nước ngoài tăng cao. Tuy vậy, theo đại diện của Công ty Chứng khoán SaigonBank Berjaya, mặc dù khối ngoại mua ròng cho thấy áp lực rút vốn khỏi thị trường Việt Nam đã giảm bớt nhưng chưa phải là dấu hiệu trở lại của dòng vốn này. Bởi lẽ những năm qua, giai đoạn cuối năm thường các nhà đầu tư nước ngoài không giải ngân nhiều. Theo chuyên viên phân tích Công ty Chứng khoán Rồng Việt cho biết, sự tác động của ETF đối với VN-Index không bị biến động nhiều, số mã giảm giá nhiều hơn số mã tăng giá, hiệu ứng tiêu cực lớn hơn tích cực đối với từng cổ phiếu riêng lẻ. Hiện có một bộ phận nhà đầu tư mua cổ phiếu chủ động dự đoán và mua bán đón đầu trước động thái tái cơ cấu danh mục của các quỹ ETF. Tuy vậy, những thông tin tái cơ cấu có thể đã được phản ánh trước vào diễn biến giá cổ phiếu và những tác động còn lại từ thời điểm thông tin chính thức xuất hiện sẽ không còn quá lớn, vì vậy cổ phiếu có thể không tăng giảm như kỳ vọng của nhà đầu tư. Với hàng loạt thông tin xuất hiện trên thị trường thời gian qua đã giúp giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam sôi động. Những phiên giao dịch từ đầu tháng 10 thanh khoản thị trường đã tăng lên rất nhiều, trong đó VN-Index có đà tăng mạnh hơn VN30. “Điều này cho thấy mức độ đóng góp của các cổ phiếu trong danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài đã ít hơn rất nhiều so với thị trường chung và các cổ phiếu ngoài rổ VN30 cũng tăng nhiều hơn. Có thể nói, sự lạc quan của giới đầu tư trong nước đã tăng lên rất nhiều, tâm lý nhà đầu tư trên thị trường đang chuyển biến từ bi quan, thận trọng sang lạc quan trong ngắn hạn” - đại diện Công ty Chứng khoán Tân Việt nhận định. Cũng theo phân tích của Công ty Chứng khoán Tân Việt, thời gian qua, trong khi khối ngoại chỉ quan tâm đến các cổ phiếu có vốn hóa lớn và thanh khoản cao thì các cổ phiếu vốn hóa vừa do không đáp ứng được các tiêu chí đó nên chịu chi phối bởi dòng tiền trong nước. Nay tâm lý các nhà đầu tư trong nước đã ổn định hơn nên họ đã đầu tư vào nhóm cổ phiếu này không chỉ tìm kiếm cơ hội đầu cơ ngắn hạn mà còn có cả dòng tiền đầu tư trung và dài hạn. Xét trên khía cạnh vĩ mô, các yếu tố về GDP, lạm phát, lãi suất, tỷ giá khá ổn định và nằm trong tầm kiểm soát nên không đủ mạnh để tạo nên các đợt sóng cho thị trường. Chính vì thế, nhiều công ty chứng khoán cho rằng, “cú hích” cho thị trường có thể là các vấn đề liên quan đến Công ty VAMC. Theo nhận định của Phòng Nghiên cứu Vietstock, việc Công ty VAMC đã đẩy nhanh việc mua bán nợ xấu với các tổ chức tín dụng là một trong những yếu tố sẽ mang đến sự tích cực về mặt tâm lý cho giới đầu tư. Về việc nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, Công ty Chứng khoán Sài Gòn - Hà Nội (SHS) cho rằng, nếu được thông qua trong thời gian tới thì đây sẽ là nhân tố tác động tích cực về mặt tâm lý cho nhà đầu tư trong nước về ngắn hạn với kỳ vọng thị trường sẽ cải thiện thanh khoản. Về dài hạn có thể giúp thị trường có cơ hội thu hút thêm các nguồn vốn ngoại mới. Có nhiều yếu tố cho thấy thị trường có thể lạc quan hơn. Các nhà đầu tư kỳ vọng việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước sẽ mang đến cho thị trường số lượng hàng hóa là cổ phiếu của các lĩnh vực đã từng thu hút rất nhiều vốn như ngân hàng, bất động sản… trong thời gian tới. 2.2.3. Đầu tư cổ phiếu ngoài sàn OTC Thị trường OTC giai đoạn 2005-2007 là giai đoạn khá khởi sắc. Nhưng bước đến năm 2008 thì cùng với sự đi xuống của thị trường niêm yết chính thức, năm 2008
  17. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân là năm ngủ đông của thị trường OTC, thời của cổ phiếu OTC làm mưa làm gió trên thị trường đã chấm dứt. Với rất nhiều bất cập về cổ phiếu OTC từ đó khiến niềm tin vào thị trường này ngày càng yếu đi, và khi không còn niềm tin thì giao dịch mua bán cùng vì thế mà chấm dứt. Tuy nhiên thị trường OTC năm 2008 vẫn còn những cổ phiếu được nhà đầu tư giao dịch như cổ phiếu khối ngân hàng : Eximbank, Đông Á, Quân Đội –MB, Vietcombank và vài cổ phiếu của ngành bất động sản như: Hoàng Anh Gia Lai, BCCI, Quốc Cường Gia Lai. Đến năm 2009 thị trường OTC có những biểu hiện sôi động trở lại nhờ hiệu ứng từ thị trường niêm yết, chứng khoán thế giới, kết quả kinh doanh từ một số ngân hàng, một số công ty chuẩn bị niêm yết và đặc biệt là có sự tham gia trở lại của dòng tiền đầu cơ từ các nhà đầu tư lướt sóng. Tuy vậy, chỉ có giao dịch tăng mạnh nhưng không có đột biến nhiều về giá. Nếu xem thị trường cổ phiếu tự do (OTC) là cầu nối giữa thị trường sơ cấp và thị trường niêm yết, thì có thể nói, năm 2010 là năm "sập cầu". Không chỉ trầm lắng, thị trường OTC ngày càng bị thu hẹp cả về thanh khoản và giá trị. Hiện chưa có đầu mối nào thống kê giá trị và khối lượng giao dịch trên thị trường OTC, nhưng điều dễ nhận thấy là số cổ phiếu có giao dịch rất ít. Việc đóng cửa giao dịch cổ phiếu OTC tại một số sàn giao dịch do CTCK mở ra trong năm 2010 góp phần hạn chế giao dịch trên thị trường tự do. Bức tranh ảm đạm của thị trường OTC được các chuyên gia dự báo sẽ kéo dài sang năm 2011, cho dù thị trường niêm yết sẽ có khởi sắc trên nền tảng kinh tế vĩ mô được cải thiện. Do đó đến giữa năm 2011, thị trường OTC tiếp tục trải qua những ngày ảm đạm do sự suy giảm của thị trường niêm yết. Các môi giới OTC còn hoạt động chỉ đếm trên đầu ngón tay. Năm 2012, trang thông tin sanotc.com.vn đăng tin rao mua bán các cổ phiếu chưa niêm yết sôi động một thời, nay như đã bị quên lãng vì không mấy ai muốn mua cổ phiếu trên thị trường tự do (OTC). Cái chợ OTC tại TP. HCM giờ cũng chỉ còn lác đác vài môi giới còn bám trụ… Thị trường vẫn có giao dịch, chủ yếu là mấy cổ phiếu ngân hàng như Ngân hàng Đông Á có cổ tức ổn định. Cổ phiếu Ngân hàng Nam Á, hay Ngân hàng Đại Á có lúc chỉ hơn 2.000 đồng/cổ phiếu, quá rẻ. Một số cổ phiếu ngành khác như ô tô Trường Hải, Xây dựng số 8 và nhất là cổ phiếu của CTCP Hàng tiêu dùng Masan (MSFC) lại rất được quan tâm. Cổ phiếu này đem lại khoản lợi nhuận còn cao hơn cả VNM trên sàn niêm yết, vì mỗi năm mấy DN đó đều chia thưởng 1:1, chia xong giá cổ phiếu lại tăng vọt, mà ít lại người bán. Năm 2013, không còn những chợ OTC (giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết) xôm tụ như những năm 2009-2010, hiện nay để bán được cổ phiếu OTC, nhiều nhà đầu tư phải chờ ròng rã. Và hiện tại không còn mấy cổ phiếu OTC được giao dịch mạnh. Tại trang web sanotc.com, nơi giao dịch xôm tụ nhất của nhà đầu tư, hiện tại các tin đăng mua, đăng bán tập trung chủ yếu vào các mã cổ phiếu ngân hàng, phải đến khoảng 15 cổ phiếu ngân hàng được mua bán tại trang web này. Đa phần giá cổ phiếu đều dưới mệnh giá, nhưng mức độ dao động giá không lớn như các cổ phiếu trên sàn niêm yết. Có những cổ phiếu vẫn dao động xung quanh mức giá cũ của cách nay 2 năm. Như TienPhongBank vẫn khoảng 4.500 đồng/cổ phiếu, DongABank ở mức 8.400 đồng/cổ phiếu.
  18. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Hình 1: Giao dịch mua bán cổ phiếu OTC tại sàn giao dịch VN Direct. Đến nay, cảnh này đã không còn. Giá một số cổ phiếu trên thị trường OTC ngày 28/6/2013. Đơn vị: 1.000 VND Giá Giá Giá Tên viết Mệnh STT Tên chứng khoán cao thấp trung tắt giá nhất nhất bình 1 Ngân hàng TMCP Đông Á EAB 10,00 9,50 9,75 10 2 Công ty viễn thông FPT FTEL 28,00 26,00 27,00 10 CTCP Bia-Rượu-Nước giải 3 SABECO 56,00 54,00 55,00 10 khát Sài Gòn 4 Công ty Chứng khoán Đại Việt DVSC 5,00 4,50 4,75 10 5 Công ty Chứng khoán FPT FPTS 12,50 11,80 12,15 10 (Phòng OTC- FPTS tổng hợp) 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG 2.3.1. Những thành tựu đạt được Sau 10 năm được thành lập thị trường chứng khoán có những thành tựu sau: TTCK Việt Nam gồm có ba sàn giao dịch, trong đó có hai sàn giao dịch chính thức và một sàn giao dịch OTC. Cụ thể: • Sàn giao dịch chứng khoán TP HCM – HOSE. Đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty niêm yết có mức vốn hóa từ 80 tỷ đồng trở lên. • Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội – HNX. Đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty niêm yết cỡ vừa và nhỏ. • Sàn UPCOM (thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết) được chính thức đưa vào hoạt động ngày 24/06/2009. Đến ngày 19/7/2010, giao dịch khớp lệnh liên tục được áp dụng, giúp cho hoạt động trên sàn UPCOM trở nên sôi động hơn.
  19. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân Về chất lượng từ chỗ sử dụng công nghệ giao dịch bán tự động với hình thức đại diện giao dịch tại sàn, hiện nay cả 2 sàn đều thực hiện giao dịch điện tử hóa hoàn toàn dưới hình thức kết nối và giao dịch trực tuyến. Về số lượng công ty niêm yết cho thấy bước phát triển của thị trường chứng khoán theo Ủy ban chứng khoán Nhà nước, qua 10 năm phát triển thị trường chứng khoan, số lượng công ty niêm yết đã tăng từ 2 công ty lên 550 công ty với mức vốn ́ hoá thị trường trên 700.000 tỉ đồng, chiếm trên 40% GDP Số lượng các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán đã tăng từ 7 công ty chứng khoán và 1 công ty quản lý quỹ trong thời gian đầu lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ tính đến hôm nay. Nhìn chung qua 10 năm hoạt động, chỉ số VN-Index có nhiều biến động theo diễn biến thị trường và sự tác động của tình hình kinh tế. Nhưng nếu so với giai đoạn đầu hoạt động, TTCK không thu hút được nhiều sự chú ý của công chúng, bằng chứng là giá CK luôn ở mức rất thấp và ít biến động; thì 5 năm hoạt động về sau TTCK Việt Nam đã có nhiều diễn tiến theo sát với tình hình kinh tế đất nước. Công chúng cũng đã giành nhiều sự quan tâm hơn cho TTCK. Hiện nay, diễn biến giá cả trên các sàn giao dịch chứng khoán luôn được cập nhật hằng ngày trên các phương tiện thông tin. Đây rõ ràng là một sự tiến bộ vượt bậc của TTCK Việt Nam 2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân a- Những tồn tại trong thị trường  Những tồn tại trong thị trường cổ phiếu Trong bối cảnh tăng nóng của thị trường và trong bối cảnh chất lượng kiểm soát báo cáo tài chính của nhiều công ty kiểm toán không được bảo đảm, việc nhiều công ty niêm yết tranh thủ phát hành đã làm cho chất lượng cổ phiếu niêm yết có chiều hướng giảm sút. Đồng thời có tình trạng một số công ty vừa mới niêm yết trên sàn Hà Nội đã báo lỗ đã đặt ra câu hỏi về chất lượng hàng hóa và công tác thẩm định hồ sơ của doanh nghiệp xin niêm yết, cũng như trách nhiệm của cơ quan tổ chức và quản lý thị trường trước tình trạng hàng hóa kém chất lượng được đưa vào sàn, làm giảm tính hấp dẫn của kênh đầu tư chứng khoán. Cổ phiếu kém chất lượng lên sàn, giá giảm, ít người mua. Việc giảm giá đó góp phần kéo chỉ số chung của thị trường đi xuống, làm các nhà đầu tư cũ nản lòng, còn nhà đầu tư mới e ngại.Song song bên cạnh đó là việc các doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết chậm nộp báo cáo tài chính lên sở giao dịch chứng khoán gần như trở thành thông lệ cho thấy rất nhiều DN vẫn chưa nhận thức được nghĩa vụ công bố thông tin cho cổ đông của mình. Trong khi nguồn cung chứng khoán có tốc độ phát triển mạnh, đôi khi đẩy thị trường đến tình trạng quá tải và số lượng các CTCK được cấp phép hoạt động cũng gia tăng nhanh quá mức cần thiết thì số lượng nhà đầu tư, đối tượng cần phát triển thì lại tăng quá chậm, không tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô dân số của Việt Nam. Cụ thể, trong số gần 900.000 tài khoản hiện có đến nay, nếu loại trừ số tài khoản được mở để tránh né các quy định, con số tài khoản thực sự giao dịch ước tính chỉ khoảng 300.000 - 500.000. So với mức dân số xấp xỉ 85 triệu của nước ta, cho dù có muốn thừa nhận hay không, tỷ lệ chưa tới 1% nhà đầu tư chứng khoán trong tổng dân số là mặt hạn chế nhất trong 10 năm hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam. Tình trạng làm giá, thao túng giá với các kỹ thuật phao tin; các kỹ thuật xuất bản các báo cáo phân tích khẳng định một cách chắc chắn sự phát triển của VN-index
  20. ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH GVHD: TH.S Bùi Thị Thu Ngân đã tạo nhiều tiềm tàng đầu cơ trên thị trường chứng khoán gây lũng đoạn thị trường làm sai lệch xu hướng phát triển của thị trường và gây tâm trạng hoang mang cho nhà đầu tư vẫn còn tiếp diễn .Bên cạnh đó tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý. Ví dụ như nhầm lẫn trong công bố thông tin giao dịch cổ phiếu của cổ đông nội bộ là Quỹ Tầm nhìn SSI (SSIVF), với nội dung từ thông báo giao dịch mua thành bán làm giá cổ phiếu giảm. Thêm vào đó là một số nhận thức của nhà đầu tư xem thị trường chứng khoán như một canh bạc chưa có sự thấu hiểu đầy đủ bản chất và cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán dẫn đến nhiều hạn chế của thị trường như tâm lý bầy đàn, không có kỳ vọng đầu tư riêng …  Những tồn tại ở thị trường trái phiếu: • Thứ nhất, vai trò của các nhà tạo lập thị trường chưa thể hiện rõ cả về nghĩa vụ và quyền lợi. • Thứ hai là lãi suất của trái phiếu hiện nay chưa hợp lý. • Thứ ba là cần xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt: kỳ hạn của trái phiếu chính phủ phát hành trong thời gian qua còn tương đối đơn điệu, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư. b- Nguyên nhân của những tồn tại trên.  Thứ nhất do hệ thống pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực này chưa hoàn chỉnh. Thứ hai do sự giám sát còn lỏng lẻo của các cơ quan có chức năng đối với thị trường chứng khoán.  Thứ ba do sự hiểu biết của dân cư về thị trường chứng khoán còn quá ít. Dẫn đến tình trạng hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán chưa trở thành hoạt động đầu tư phổ biến trong dân cư  Thứ tư do thị trường chứng khoán Việt Nam còn thiếu tính công khai, minh bạch, cơ chế tự giám sát. Do đó không tạo được lòng tin của dân chúng đối với các đơn vị phát hành.  Thứ năm là việc triển khai các luật các nghị định về thị trường chứng khoán còn chậm, chưa hợp lý hoặc không tuân thủ pháp luật đề ra.  Thứ sáu do kinh nghiệm của các đơn vị kinh tế không nhiều. Thiếu hiểu biết về thị trường chứng khoán. Không thích cổ phần hoá vì sợ bị mất quyền lực. Dẫn đến tình trạng các công ty tham gia niêm yết trên TTCK còn ít. Nói tóm lại, có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng hoạtđộng kém của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng trên đây là một số nguyên nhân khá phổ biến và thường thấy ở thị trường chứng khoán Việt Nam nó đồng thời là cơ sở để chúng ta đưa ra một số giải pháp để nâng cao tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2