
25
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tập 11, Số 1 (2025): 25 - 33
*Email: taquocthinh@hvu.edu.vn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 11, Số 1 (2025): 25 - 33
HUNG VUONG UNIVERSITY
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
Vol. 11, No. 1 (2025): 25 - 33
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.jst.hvu.edu.vn
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, CỤM CÔNG NGHIỆP
XANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Tạ Quốc Thịnh1*, Nguyễn Minh Tuân1
1Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ
Ngày nhận bài: 02/12/2024; Ngày chỉnh sửa: 27/12/2024; Ngày duyệt đăng: 08/01/2025
DOI: https://doi.org/10.59775/1859-3968.243
Tóm tắt
Quy hoạch tỉnh Phú Thọ thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đặt ra mục tiêu đến năm 2030, tỉnh Phú
Thọ phát triển 12 khu công nghiệp với tổng diện tích khoảng 5.095 ha, trong đó tập trung đầu tư 07 khu
công nghiệp hiện hữu và hình thành 05 khu công nghiệp mới; phát triển 40 - 45 cụm công nghiệp với tổng diện
tích khoảng trên 2.500 ha. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và giá trị gia tăng
gắn với tăng trưởng xanh; lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn làm yếu tố then chốt để đảm bảo phát
triển bền vững là một trong năm quan điểm phát triển của tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn tới. Phát triển khu công
nghiệp, cụm công nghiệp xanh là một trong những giải pháp quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững và
giảm tác động tiêu cực đến môi trường. Bằng cách kết hợp sản xuất và bảo vệ môi trường, các khu công nghiệp,
cụm công nghiệp xanh đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế hướng tới sự phát triển bền
vững của tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, bài báo đưa ra một số định hướng phát triển các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp xanh trên địa bàn tỉnh thời gian tới.
Từ khóa: Khu công nghiệp, cụm công nghiệp, phát triển xanh, phát triển bền vững, tỉnh Phú Thọ.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, mới chỉ có số ít nghiên cứu về
phát triển khu công nghiệp (KCN), cụm công
nghiệp (CCN) theo mô hình thân thiện môi
trường, sinh thái [1-4]. Các tiêu chí về KCN
sinh thái lần đầu được quy định tại Điều 42
Nghị định 82/2018/NĐ-CP và được kế thừa,
bổ sung chi tiết tại Nghị định 35/2022/NĐ-
CP. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư vẫn e ngại
phát triển mô hình KCN, CCN xanh do lo
ngại chi phí, yêu cầu kỹ thuật, nhân lực, sự
phối hợp đa bên và chưa thấy rõ lợi ích khi
thực hiện. Khái niệm KCN xanh, CCN xanh
thường được các quốc gia linh hoạt áp dụng
nhằm đảm bảo phát triển bền vững, tăng hiệu
quả sử dụng tài nguyên, giảm chất thải và
tăng tái chế [5].
Phát triển KCN, CCN xanh là giải pháp
quan trọng thúc đẩy phát triển bền vững, đặc
biệt ở các nước đang phát triển. Việc kết hợp
sản xuất với bảo vệ môi trường góp phần
xây dựng nền kinh tế bền vững. Do đó, cần
thu hút các dự án sử dụng công nghệ hiện
đại, ít phát thải ngay từ giai đoạn quy hoạch
[5,6]. Thực tế ở Việt Nam cho thấy hậu quả
môi trường do phát triển KCN, CCN chưa
bền vững khá nghiêm trọng: khí thải độc hại,
nước thải ô nhiễm, rác thải không xử lý đúng
cách.

26
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tạ Quốc Thịnh và Nguyễn Minh Tuân
Trên thế giới có nhiều mô hình KCN
sinh thái thành công như Kalundborg (Đan
Mạch), AMATA, SIP, VSIP (Thái Lan,
Singapore). Những mô hình này là bài học
kinh nghiệm quý cho Việt Nam và tỉnh Phú
Thọ. Tại Việt Trì, thành phố công nghiệp từ
những năm 1960, đến nay Phú Thọ đã có 04
KCN đi vào hoạt động, thu hút 179 dự án thứ
cấp (95 DDI và 84 FDI), tạo việc làm cho
gần 56.000 lao động. Tỉnh cũng có 27 CCN
với tổng diện tích hơn 1.447 ha, thu hút 165
dự án, giải quyết việc làm cho hơn 27.000
lao động [7,8]. Hầu hết các KCN, CCN đều
nằm ở vị trí giao thông thuận lợi, ngoại trừ
một số CCN vùng núi còn khó khăn.
Hạ tầng KCN, CCN được tỉnh chú trọng
đầu tư, cơ bản đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư
thứ cấp. Tỷ lệ lấp đầy đạt trên 65%. So với các
tỉnh gần Hà Nội như Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú
Thọ có quỹ đất công nghiệp dồi dào, giá thuê
đất cạnh tranh. Các KCN, CCN đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gia tăng xuất nhập
khẩu, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quy hoạch tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, mục
tiêu đến năm 2030 là phát triển 12 KCN với
tổng diện tích 5.095 ha và 40-45 CCN với
diện tích trên 2.500 ha. Phát triển KCN, CCN
xanh đóng vai trò quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế bền vững của tỉnh [9].
Mục tiêu bài viết là đánh giá thực trạng phát
triển các KCN, CCN thời gian qua, từ đó đề
xuất định hướng phát triển KCN, CCN xanh
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tiếp cận từ lý
thuyết đến thực tiễn để nghiên cứu lý thuyết
đến phân tích thực tiễn phát triển KCN, CCN
xanh. Thêm vào đó, nhóm tác giả thu thập
thông tin, số liệu liên quan đến kinh nghiệm
phát triển KCN, CCN xanh trong nước và
quốc tế, tiến hành phân tích thực trạng, đề
xuất định hướng và xác định giải pháp phát
triển KCN, CCN xanh trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ. Đồng thời, sử dụng phương pháp tiếp
cận liên ngành - liên vùng để xem xét sự
phát triển KCN xanh cùng xem xét sự phát
triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, giao thông,
sự phát triển thị trường sản xuất hàng hóa,
dịch vụ; các vấn đề về môi trường, an sinh
xã hội,...
Nghiên cứu được thực hiện chủ yếu dựa
trên phương pháp phân tích thống kê và
phương pháp so sánh. Dữ liệu được tổng hợp
từ các báo cáo tổng hợp quy hoạch tỉnh, số
liệu liên quan tới tình hình phát triển KCN,
CCN nói chung và KCN, CCN xanh từ các
cơ quan: UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Kế hoạch
và Đầu tư tỉnh Phú Thọ, Ban quản lý các
KCN tỉnh Phú Thọ, Cục Thống kê tỉnh Phú
Thọ. Từ đó đánh giá thực trạng phát triển các
KCN, CCN hiện hữu và những vấn đề đặt ra
cần phải giải quyết.
Ngoài ra nghiên cứu cũng tiến hành
phỏng vấn trao đổi trực tiếp với 05 chuyên
gia và nhà quản lý cấp cao để thu thập ý kiến
về những tồn tại, hạn chế trong phát triển
các KCN, CCN và định hướng phát triển
các KCN, CCN xanh trên địa bàn tỉnh trong
những năm tiếp theo.
Phương pháp dự báo được sử dụng để
dự báo các chỉ tiêu về phát triển KCN, CCN
xanh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đến năm 2030.
Đồng thời, dự báo bối cảnh cùng các giải pháp
cần thực thi để thúc đẩy phát triển KCN, CCN
xanh của tỉnh Phú Thọ đến năm 2030.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thực trạng phát triển các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh
3.1.1. Thực trạng phát triển
Hiện nay trên tổng số 07 KCN đã được
Chính phủ phê duyệt thì có 04 KCN đã đi
vào hoạt động (KCN Thụy Vân, KCN Trung
Hà, KCN Phú Hà, KCN Cẩm Khê) trong đó
KCN Cẩm Khê vẫn đang tiếp tục kêu gọi đầu
tư xây dựng hạ tầng và bước đầu thu hút các

27
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tập 11, Số 1 (2025): 25 - 33
dự án đầu tư. 03 KCN đang tiếp tục kêu gọi
các dự án đầu tư hạ tầng, 2 KCN Tam Nông
và Hạ Hòa thì đang tiến hành lập quy hoạch
cụ thể (Chi tiết xem bảng 1).
Bảng 1. Một số chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển các khu công nghiệp tỉnh Phú Thọ đến 11/2024
STT Tên khu công nghiệp
Diện tích
theo QH
(ha)
Diện tích đất
công nghiệp
(ha)
Diện tích
đất đã cho
thuê (ha)
Diện tích
đất còn lại
(ha)
Số doanh
nghiệp đang
hoạt động
Tỷ lệ lấp
đầy
(%)
1 KCN Phú Hà 356 258 142,66 115,34 27 55,34
2 KCN Cẩm Khê 450 320 119,47 200,53 25 36,94
Nguồn: Ban quản lý các KCN tỉnh năm 2024 [7]
Riêng với địa bàn thành phố Việt Trì:
KCN Thụy Vân đã sớm được đầu tư xây
dựng hạ tầng và bắt đầu thu hút đầu tư từ
năm 2003, tính đến nay đây vẫn là một trong
những KCN tập trung nhiều dự án đầu tư nhất
với 67 dự án DDI (chiếm tỷ trọng 69,79%)
và 35 dự án FDI (chiếm tỷ trọng 40,23%).
Tuy nhiên về cơ cấu nguồn vốn đầu tư đăng
ký thì tỷ trọng nguồn vốn đầu tư trong nước
tại KCN Thụy Vân chỉ chiếm 42,46% trong
khi nguồn vốn FDI lại chiếm 57,54%. CCN
Bạch Hạc có số dự án đầu tư trong nước là 11
dự án với quy mô vốn chiếm tỷ trọng 11,46%
trên tổng nguồn vốn đầu tư trong nước, tuy
nhiên đối với dự án đầu tư FDI thì CCN này
cũng chỉ thu hút được 01 dự án với số vốn
đăng ký là 2 triệu USD (chiếm 0,19% trên
tổng nguồn vốn FDI) [7-11].
Bảng 2. Một số chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển các cụm công nghiệp
tỉnh Phú Thọ đến 11/2024
STT Tên cụm
công nghiệp
Diện tích
theo QH
Diện tích
được giao
Diện tích đất
công nghiệp
Diện tích đất
đã cho thuê
Diện tích
đất còn lại
Số DN đầu tư
trong CCN
1 CCN Phú Gia 38 15,68 27,41 7,76 4,19 5
2 CCN Bắc Lâm Thao 43 43 32,82 2 30,82 1
3 CCN Bãi Ba Đông Thành 75 75 57,94 33,45 24,49 6
4 CCN Sóc Đăng 73,83 52,4 52,4 24,33 28,07 4
5 CCN Thục Luyện 46 4,3 26,16 4,3 21,86 2
6 CCN Vạn Xuân 72 41,9 52,23 12,81 39,42 6
Nguồn: Sở Công thương tỉnh Phú Thọ năm 2024 [8]
Tính đến thời điểm hết tháng 6 năm 2024,
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã thành lập được
27 CCN với tổng diện tích: 1.447,6 ha. Trong
đó: (i) 17 CCN đã thực hiện đầu tư xây dựng
hạ tầng kỹ thuật và thu hút các nhà đầu tư thứ
cấp vào hoạt động tại cụm (05 CCN cơ bản
đã hoàn thành đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật, 12 CCN vừa đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật, vừa thu hút các nhà đầu tư SXKD
vào hoạt động tại cụm); (ii) 02 CCN đang
thực hiện đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật:
CCN Bãi Ba 2 và CCN Thục Luyện; (iii) 08
CCN đang thực hiện công tác bồi thường,
GPMB và thực hiện các thủ tục về xây dựng,
môi trường, PCCC,... để đầu tư hạ tầng kỹ
thuật cụm: CCN Đồng Lạc, CCN Thắng
Sơn, CCN Tam Nông, CCN Quảng Yên,
CCN Ngọc Quan, CCN Nam Đoan Hùng,

28
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tạ Quốc Thịnh và Nguyễn Minh Tuân
CCN Đồng Phì và CCN Phú Hộ. Tỷ lệ CCN
đã xây dựng Trạm xử lý nước thải tập trung
(chiếm 26%). Tỷ lệ lấp đầy các CCN trên
địa bàn tỉnh nhìn chung còn rất thấp (Chi tiết
xem bảng 2).
Các KCN, CCN đi vào hoạt động đã thu
hút đầu tư được các doanh nghiệp đầu tư sản
xuất, kinh doanh vào vùng quản lý tập trung
nên thuận lợi trong công tác quản lý; tạo điều
kiện cho việc tái cơ cấu công nghiệp cũng
như khuyến khích liên kết giữa các đơn vị
sản xuất; tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động; sản xuất hàng hoá tiêu dùng nội địa
và sản phẩm xuất khẩu tăng trưởng.
Tuy nhiên, việc phát triển KCN, CCN
bước đầu mới chỉ chú trọng tới việc thu hút
đầu tư, lấp đầy, xuất hiện một số bất cập
như: Hạ tầng kỹ thuật - xã hội ngoài hàng
rào KCN, CCN còn chưa đáp ứng kịp yêu
cầu phát triển; cơ cấu quy hoạch sử dụng đất
và phân khu chức năng còn chưa phù hợp;
tình trạng ô nhiễm môi trường chưa được
giải quyết triệt để, chưa xây dựng đầu tư
hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tập trung
(KCN Trung Hà I)... Cơ sở hạ tầng các KCN,
CCN tỉnh Phú Thọ chưa được đầu tư đồng
bộ gây cản trở đến hoạt động thu hút đầu tư
thứ cấp; vướng mắc về các thủ tục pháp lý
và giải phóng mặt bằng (KCN Thụy Vân giai
đoạn IV, KCN Cẩm Khê) cơ chế, chính sách
ưu đãi đầu tư vẫn chưa thực sự hấp dẫn và
linh hoạt; nguồn nhân lực chất lượng cao còn
thiếu,...
Về tình hình triển khai thực hiện quy
hoạch phân khu xây dựng các KCN (KCN
Phù Ninh, KCN Trung Hà II, KCN Thanh
Ba), vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc,
hiện đang còn chậm so với tiến độ, cụ thể:
Thời gian thẩm định nhiệm vụ quy hoạch,
thẩm định kế hoạch lựa chọn nhà thầu chậm.
UBND tỉnh tích cực chỉ đạo quyết liệt, đôn
đốc hoàn thành các thủ tục, thực hiện công
tác lựa chọn nhà thầu.
Bên cạnh đó hoạt động thu hút và sử dụng
vốn đầu tư ngoài nhà nước của các doanh
nghiệp đầu tư trong các KCN, CCN đã đi vào
hoạt động trong thời gian qua có một số tồn
tại, hạn chế:
- Thứ nhất, việc đầu tư cơ sở hạ tầng,
chuẩn bị mặt bằng các KCN, CCN so với
quy hoạch còn chậm, hạ tầng chưa đồng bộ,
thiếu quỹ đất sạch; tiến độ dự án của nhà đầu
tư còn chậm do hạn chế về năng lực tài chính
của chủ đầu tư, do tác động của dịch bệnh
Covid-19, công tác đền bù giải phóng mặt
bằng, các thủ tục cấp giấy phép xây dựng,
PCCC, ĐTM,...
- Thứ hai, hạ tầng kinh tế- xã hội, nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu
cầu; việc thực hiện các quy định của pháp
luật từ khâu đăng ký đầu tư đầu tư đến khi dự
án đi vào hoạt động còn chậm.
- Thứ ba, các dự án đầu tư chủ yếu có quy
mô nhỏ, chưa có nhiều dự án có công nghệ
tiên tiến, giá trị gia tăng cao; chưa có hợp
đồng chuyển giao công nghệ, nhất là các dự
án FDI; chưa thu hút được các nhà đầu tư
lớn, nhà đầu tư chiến lược vào tỉnh.
- Thứ tư, các quy chuẩn hướng dẫn về tuần
hoàn, tái sử dụng chất thải còn chưa rõ ràng,
thiếu thống nhất hay các quy định về chuyển
đổi số, ứng dụng công nghệ thông minh trong
quản lý, sản xuất cho lĩnh vực này chưa có
khiến việc áp dụng thực tế hiện nay còn mang
tính tự phát, phụ thuộc nhiều vào khả năng
cũng nhu cầu riêng của doanh nghiệp.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế từ
kết quả phỏng vấn các chuyên gia và nhà quản
lý cấp cao có thể phân ra 2 nhóm bao gồm:
- Nguyên nhân khách quan: Tình hình
chính trị, kinh tế, tài chính thế giới có nhiều
biến động, giá cả vật tư, xăng dầu tăng cao
ảnh hưởng lớn đến các hoạt động đầu tư,
sản xuất và đời sống xã hội; Một số chính
sách, quy định pháp luật chưa đầy đủ, còn
bất cập, chồng chéo, vướng mắc trong quá

29
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tập 11, Số 1 (2025): 25 - 33
trình tổ chức triển khai thực hiện; đặc biệt
là vấn đề đất đai (hạn mức đất, quy hoạch
sử dụng đất sản xuất kinh doanh, bồi thường
giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử
dụng đất,...); Việc cạnh tranh giữa các quốc
gia và vùng lãnh thổ, giữa các địa phương
trong nước để thu hút nguồn vốn đầu tư FDI
ngày càng gay gắt.
- Nguyên nhân chủ quan: Một số cơ quan,
đơn vị, các chủ đầu tư hạ tầng chưa thật sự
quan tâm đến các hoạt động xúc tiến đầu tư;
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng ở
một số địa phương còn chậm, chưa xử lý kịp
thời, vẫn là “điểm nghẽn” ảnh hưởng đến thu
hút các nhà đầu tư. Công tác phối hợp giữa
các ngành, địa phương trong liên thông, giải
quyết thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp, vướng mắc liên quan đến
các chính sách hỗ trợ, bồi thường còn chậm,
chưa kịp thời.
3.1.2. Định hướng phát triển xanh của một
số KCN, CCN trên địa bàn tỉnh
a) KCN Thụy Vân (thành phố Việt Trì)
đã và đang thực hiện nhiều giải pháp KCN
Xanh - Sạch - Sáng để phát triển bền vững.
Để thu hút các nhà đầu tư, KCN Thụy
Vân đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầy
đủ như đường giao thông nội bộ, cấp điện,
điện chiếu sáng và hệ thống cấp thoát nước...
đặc biệt hệ thống thu gom và xử lý nước thải
được xây dựng đồng bộ, phù hợp với chức
năng và quy mô của các nhà máy, doanh
nghiệp. Hệ thống xử lý nước thải tập trung
là một minh chứng. Với công suất 5.000m3/
ngày,đêm, hệ thống đang xử lý cho 95/95
doanh nghiệp trong KCN Thụy Vân và 01
doanh nghiệp nằm ngoài KCN, đạt 80-85%
công suất. Nước thải của các doanh nghiệp,
bao gồm nước thải sản xuất, nước thải sinh
hoạt được thu gom đưa về xử lý theo phương
pháp hóa lý kết hợp vi sinh, thiết bị máy móc
hiện đại, mức độ tự động hóa cao nhằm kiểm
soát chặt chẽ thông số nước thải trong quá
trình xử lý, bảo đảm lượng nước thải đầu ra
đạt tiêu chuẩn cột A.
Bên cạnh đó, các nhà quản lý luôn chú
trọng đến cảnh quan môi trường xanh, sạch,
sáng. Hệ thống cây xanh, hạ tầng giao thông
đồng bộ, thuận lợi. Việc dọn, thu gom rác
từ hoạt động sản xuất trong KCN được tiến
hành thường xuyên, bảo đảm môi trường
không bị bụi bẩn, ô nhiễm, góp phần làm cho
mỗi tuyến đường thêm sạch, đẹp. Ngoài ra
công tác cắt tỉa cành cây và rửa đường cũng
thực hiện thường xuyên, liên tục tạo không
gian xanh, thân thiện cho người lao động và
nhân dân sinh sống lân cận.
b) KCN Phú Hà Viglacera được xem là
KCN mũi nhọn của tỉnh và luôn nhận được
sự quan tâm đến từ các doanh nghiệp FDI
đầu tư các lĩnh vực công nghệ cao, ít phát
thải và thân thiện với môi trường.
Ngay từ khi lập chủ trương đầu tư, KCN
này xác định phát triển bền vững là mục tiêu
hằng đầu, tập trung thu hút đầu tư vào các
ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp
hỗ trợ thân thiện môi trường, tạo ra giá trị gia
tăng cao. Chính vì vậy, ngay từ những ngày
đầu, KCN Phú Hà Viglacera đã kiên định
với mục tiêu thu hút dòng vốn chất lượng
bằng cách đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật -
dịch vụ đồng bộ, hiện đại, thỏa mãn yêu cầu
cao từ các đối tác, có thương hiệu nổi tiếng
toàn cầu, như: BYD (Trung Quốc); INOUE
Rubber (Nhật Bản); Hanyang Digitech,
Asentec, ActRO Vina (Hàn Quốc)... Trong
đó, chủ yếu là các doanh nghiệp điện tử Hàn
Quốc - vendor cấp 1 cho Samsung.
Phát triển KCN Phú Hà theo hướng xanh
chứng tỏ sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu
tư ở trong và ngoài nước; đặc biệt các nhà
đầu tư có trách nhiệm với cộng đồng và xã
hội, luôn hướng đến mục tiêu sản xuất, kinh
doanh phát triển bền vững.