1
13. Từ tăng trưởng xanh, kinh tế xanh đến kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững
From Green growth, green economy to circulating economy and sustainable
development
TS. Trần Thị Hoa
Khoa Chính trị học - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Tóm tắt
Hiện nay, nhu cầu tái cấu và đổi mới hình tăng trưởng kinh tế để giải quyết hiệu
quả các vấn đề kinh tế - xã hội nhằm đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững đang ngày
càng trở nên cấp thiết đối với các quốc gia. Mô hình tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, kinh
tế tuần hoàn hướng đến phát triển bền vững đang được các nước trên thế giới đặc biệt
quan tâmđẩy mạnh, bởi những vấn đề này không chỉ bảo đảm tăng trưởng kinh tế
còn bảo vệ môi trường góp phần mang lại sự ổn định phát triển bền vững trên tất cả
các mặt của đời sống hội. Trong xu thế đó, tăng trưởng xanh sở của kinh tế
xanh. Kinh tế xanh mối quan hệ gắn với kinh tế tuần hoàn kinh tế xanh, kinh tế
tuần hoàn chính là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững trong thời đại ngày nay.
Từ khóa: tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững.
Abstract
At present, the need for restructuring and reform of the economic growth model to
effectively address socio-economic problems in order to bring the country to rapid and
sustainable development is becoming increasingly urgent for nations worldwide. Green
growth, green economy, and circulating economy towards sustainable development is
gaining significant global attention because these issues not only ensure economic
growth but also protect the environment that contributes to stability and sustainable
development in all aspects of societal. In that context, green growth serves as the
foundation for the green economy, which is intrinsically tied to the circular economy.
Together, green and circular economies constitute one of the three pillars of
contemporary sustainable development
Keywords: green growth, green economy, circulating economy, sustainable development.
JEL Classifications: O13, O20, O10.
Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là quá trình “xanh hóa” hệ thống kinh tế của đất nước, đây cũng là
chiến lược để tiến tới một nền kinh tế xanh ở mỗi quốc gia. Từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế toàn cầu năm 2008, tăng trưởng xanh được Chính phủ các nhà hoạch
định chính sách đặc biệt chú ý, bởi giải pháp giải quyết đồng thời những vấn đề về
môi trường và tăng trưởng kinh tế, làm cho xã hội phát triển bền vững.
2
Theo nội dung Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) thì tăng
trưởng xanh định hướng mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những hình tiêu thụ
sản xuất bền vững, nhằm bảo đảm nguồn thu vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những
nguồn lực dịch vụ sinh thái đời sống của chúng ta phụ thuộc o, cho thế hệ này
cũng như cho những thế hệ mai sau.
Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, tăng trưởng xanh quá trình tăng trưởng sử
dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn tăng cường khả năng chống chịu không làm
chậm quá trình này.
Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng, tăng trưởng xanh thúc
đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm việc các nguồn tài sản tự nhiên
tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng
ta. Tăng trưởng xanh là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng
trưởng bền vững và tạo ra các cơ hội kinh tế mới.
Quan điểm của tổ chức Liên minh châu Âu đưa ra: “Tăng trưởng xanh xây dựng
một nền kinh tế tính cạnh tranh cao, sdụng hiệu quả tài nguyên, tận dụng vị thế tiên
phong của châu Âu trong công cuộc phát triển những quy trình, công nghệ mới, bao gồm
công nghệ xanh, áp dụng sâu rộng lưới điện thông minh, sử dụng công nghệ thông tin, tận
dụng mạng lưới toàn EU củng cố tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa nhỏ
trong kinh doanh, cũng như hỗ trợ khách hàng đánh giá đúng tầm quan trọng của việc tiết
kiệm tài nguyên”.
Ủy ban Kinh tế - hội châu Á - Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc
(UNESCAP) định nghĩa: “Tăng trưởng xanh chiến lược tìm kiếm s tối đa hóa trong
sản lượng kinh tế tối thiểu hóa gánh nặng sinh thái. Tăng trưởng xanhcách tiếp cận
để đạt được tăng trưởng kinh tế, với mục đích giảm nghèo, bảo đảm sự bền vững về môi
trường”. Tăng trưởng xanh tập trung vào chất lượng tăng trưởng thông qua thúc đẩy hiệu
quả về sinh thái; tăng trưởng xanh khác với tăng trưởng truyền thống không lấy
phương châm “phát triển trước, bảo vệ môi trường sau”, mà lấy việc phòng, ngừa lồng
ghép bảo vệ môi trường, giảm phát thải các-bon trong sản xuất, kinh doanh làm động lực
để tăng trưởng.
Như vậy, nội hàm của vấn đề tăng trưởng xanh chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhưng đảm bảo sự hài hoà với môi trường cân bằng sinh thái, tăng trưởng kinh tế
nhưng không phá vỡ hay ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên.
Kinh tế xanh
Cùng với tăng trưởng xanh, xây dựng nền kinh tế xanh đang trở thành một xu thế
phổ biến trên thế giới dần được áp dụng cho tất cả các nền kinh tế của các quốc gia,
nhằm đối phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội hiện tại và ngăn chặn, giảm thiểu
nguy cơ xảy ra các khủng hoảng ấy trong tương lai.
3
Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) định nghĩa: “Kinh tế xanh
một hình kinh tế giúp nâng cao đời sống con người, cải thiện công bằng hội, đồng
thời giảm thiểu những rủi ro môi trường và cân bằng sinh thái”.
Theo đó, kinh tế xanh nền kinh tế hướng tới sự hòa hợp giữa kinh tế môi
trường sinh thái. Chiến lược tăng trưởng bản của nền kinh tế xanh bảo vệ môi
trường, phát triển công nghệ sản xuất sạch năng lượng sạch, nhanh chóng đạt được
mức tăng trưởng bền vững. Hiểu một cách đơn giản, kinh tế xanh nền kinh tế vừa
mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy
về môi trường suy giảm sinh thái. Đó nền kinh tế ít phát thải các-bon, ít gây ô
nhiễm môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên, để từ đó đảm bảo công bằng xã hội.
Ngày nay, xu thế chuyển đổi từ hình kinh tế nâu - truyền thống (phát triển kinh
tế trước và giải quyết vấn đề ô nhiễm sau) sang mô hình kinh tế xanh trở thành chiến lược
cùng với kinh tế tuần hoàn để phát triển bền vững. Nội dung của chiến lược này đảm bảo
phát triển kinh tế, phát triển hội bảo vệ môi trường được cân đối, hài hòa với nhau.
Theo đó, các quốc gia dựa trên cơ sở đặc điểm các điều kiện tự nhiên xã hội, cùng các
nguồn lực nhân lực, vật lực của mình để xác định mục tiêu cụ thể, hướng đi lộ trình,
quy mô và phương pháp tiếp cận.
Như vậy, nền kinh tế xanh sẽ không chỉ nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay
đổi cấu của nền kinh tếcòn định hướng tiêu dùng theo hướng bền vững, cải thiện
chất lượng cuộc sống của người dân, còn giảm phát thải khí góp phần bảo vệ môi
trường. Nền kinh tế xanh nền kinh tế sử dụng tài nguyên hiệu quả cao, mức phát
thải thấp và hướng tới công bằng xã hội.
Theo Báo cáo của OECD: “Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang dần phát triển theo
xu hướng “xanh hóa”, dụ như ngày càng nhiều các bằng sáng chế trong lĩnh vực
công nghệ năng ợng sạch. Trong tổng số các bằng sáng chế đó, 24% thuộc về ngành
năng lượng tái tạo, 20% bằng sáng chế cho các loại xe điện xe hyblai (loại xe
động cơ chạy bằng xăng điện) và 11% các sáng chế trong việc tiết kiệm năng lượng
trong các tòa nhà và các thiết bị chiếu sáng.1
Xu hướng quốc tế thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế xanh
Hiện nay, ng trưởng xanh nền kinh tế xanh được xác định trọng tâm trong
chính sách phát triển quốc gia của nhiều nước trên thế giới trong nỗ lực đảm bảo cho nền
kinh tế tuần hoàn và sự phát triển bền vững. Việc thúc đẩy tăng trưởng xanh cùng với quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh s tạo ra tiềm năng to lớn để đạt được phát triển
1 http://tnmttuyenquang.gov.vn/khi-tuong-thuy-van-bien-doi-khi-hau/Trai-phieu-xanh-gop-phan-giup-
kinh-te-the-gioi-tang-truong-sach-2685.html
4
bền vững giảm đói nghèo, ổn định hội bảo vệ môi trường cho tất c các quốc
gia. Riêng đối với các quốc gia đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo đà cho bước
“nhảy vọt” để phát triển kinh tế, bỏ qua cách tăng trưởng kinh tế theo kiểu “ô nhiễm
trước, xử sau”. Từ đó, tạo tiền đề xây dựng nền kinh tế xanh sau đó kinh tế tuần
hoàn, phát triển bền vững.
Theo xu thế này, hiện nay các nước trên thế giới đang đầu mạnh vào xây dựng và
hoạch định các chiến lược tăng trưởng xanh, cũng như tạo dựng nền kinh tế xanh của đất
nước. Quá trình đưa ra các gói kích thích kinh tế sau khủng hoảng đều dành ưu tiên cao
cho tăng trưởng xanh, kinh tế xanh đầu tập trung cho lĩnh vực năng lượng sạch, giao
thông thân thiện môi trường, đô thị hóa bền vững, nông nghiệp sinh thái, du lịch sinh thái,
công nghiệp văn hóa, xử chất thải, thúc đẩy tiêu dùng bền vững xây dựng lối sống
xanh,...
Đã rất nhiều các quốc gia đi tiên phong trong việc thúc đẩy xây dựng nền kinh tế
xanh, thể hiện sự cam kết mạnh mẽớng tới sự phát triển bền vững tiêu biểu như: Hàn
Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Lan,… Sau đó, những chiến lược kinh tế trong
khoảng 10 năm trở lại đây của Liên minh châu Âu cũng tập trung xác định hình kinh
tế xanh, hội hiện đại phát triển bền vững của châu Âu với ba nội dung: kinh tế -
hội - môi trường được ưu tiên có quan hệ bổ sung cho nhau. Những điều này là biểu hiện
của sự “tăng trưởng thông minh của nền kinh tế tuần hoàn trong thời đại cách mạng
khoa học công nghệ bùng nổ như hiện nay: phát triển kinh tế dựa vào tri thức nghiên
cứu đột phá cải tiến công nghệ; tăng trưởng bền vững; thúc đẩy nền kinh tế sử dụng hiệu
quả tài nguyên, xanh hơn khả năng cạnh tranh cao hơn; tăng trưởng bình đẳng;
khuyến khích nền kinh tế với nhiều việc làm, tạo sự gắn trong hội bình đẳng
giữa các vùng miền.
Tại châu Á - Thái Bình Dương, mục tiêu tăng trưởng xanh, kinh tế xanh được đưa ra
từ 2005 đến nay được đặc biệt chú trọng. nhiều nguyên nhân khiến khu vực này
nhanh chóng chuyển sang mô hình kinh tế xanh và trở thành vấn đề được các quốc gia tại
khu vực này đặc biệt chú trọng: Vì châu Á - Thái Bình Dương là khu vực rộng lớn, nhiều
tiềm năng và đang phát triển, nhưng tại đây, một số ngành công nghiệp gây ô nhiễm nặng
nề do vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu, trong khi chế bảo vệ, kiểm soát ô nhiễm
môi trường còn hạn chế; thứ hai, sản xuất nông nghiệp ở đây phần lớn sử dụng nhiều hóa
chất nông nghiệp cao hơn nhiều lần so với mức trung bình của thế giới. Bên cạnh đó, các
điều kiện cho nhu cầu sinh hoạt không đáp ứng kịp với tỷ lệ cư dân đô thị ngày càng tăng
cao. Quá trình xử lý nước thải, chất thải rắn và cơ sở hạ tầng, điều kiện giao thông không
theo kịp với tốc độ gia tăng dân số. Nhu cầu về nước ngọt cũng một trong những
nguyên ngân gây áp lực đáng kể lên môi trường.
Đối với Việt Nam hiện nay, Đảng Nhà ớc xác định tăng trưởng xanh
hình kinh tế xanh được xây dựng dựa trên quá trình thay đổi các hình tăng trưởng
5
tái cấu nền kinh tế. Chúng ta tăng hiệu quả kinh tế khả năng cạnh tranh thông qua
nghiên cứu, tiếp thu ứng dụng công nghệ khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới;
từng bước xây dựng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, sử dụng hợp
hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên; tăng cường các biện pháp giảm khí thải nhà
kính, đối phó với biến đổi khí hậu, góp phần giảm đói nghèo tạo động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững cho đất nước. Thực hiện những mục tiêu này, từ năm 2012,
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2612/QĐ-TTg ngày 30/12/2013 phê duyệt “Chiến
lược sử dụng công nghệ sạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Trong
đó, đã đề ra mục tiêu tổng quát sử dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường,
tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, tài nguyên, phát thải thấp trong sản xuất công nghiệp
nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh, hạn chế biến đổi khí hậu nâng cao đời sống cộng
đồng. Quyết định này buộc các dự án đầu mới thuộc những ngành sử dụng nhiều năng
lượng hoặc khả năng gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường phải đáp ứng các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về công nghệ xanh, sạch và an toàn cho môi trường.
Để thể thực hiện được các mục tiêu tăng trưởng xanh hướng đến nền kinh tế
xanh, hiện nay Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ cụ thể đó là: một là, giảm cường độ phát
thải khí nhà kính đồng thời tăng cường, thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái
tạo; hai là, thực hiện “Xanh hóa” trong sản xuất, “công nghiệp hóa, hiện đại hoá sạch”
qua việc xem xét điều chỉnh những nội dung quy hoạch các ngành hiện có, khuyến khích
sử dụng tiết kiệm hiệu quả các nguồn tài nguyên, khuyến khích phát triển công - nông
nghiệp - dịch vụ xanh với cấu ngành hợp lý, sử dụng công nghệ các thiết bị thân
thiện với môi trường, tăng cường đầu phát triển vốn tự nhiên, vốn hội, kết hợp với
các biện pháp ngăn ngừa xử ô nhiễm môi trường; ba là, phổ biến thực hiện
“Xanh hóa” ý thức, hành động, lối sống xanh, sạch thúc đẩy tiêu dùng bền vững
cho mọi đối tượng, tầng lớp nhân dân.
Từ kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đến phát triển bền vững
Hiện nay, nền kinh tế tuần hoàn được coi một hệ thống kinh tế bền vững xu
hướng mạnh mẽ nhiều quốc gia trên thế giới. hình kinh tế này đang nhận được sự
hưởng ứng mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm “Kinh tế tuần hoàn” được sử dụng chính thức đầu tiên bởi hai nhà nghiên
cứu Pearce và Turner từ năm 1990. Khi đó,c nhà khoa học xác định, kinh tế tuần hoàn
hình kinh tế mới dựa trên nguyên bản “mọi thứ đều đầu vào đối với thứ
khác” và đây là một nền kinh tế khác biệt so với kinh tế tuyến tính truyền thống.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho rằng, nền kinh tế tuần hoàn một hệ thống
công nghiệp được phục hồi hoặc tái tạo theo ý định thiết kế. chuyển sang sử dụng
năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại làm mất khả năng i sử