
ta ở các thời đại trước lại có tập quán thường xuyên luyện tập võ nghệ, cho nên
một khi ra tòng quân là họ có khả năng chiến đấu, khả năng xuất trận được ngay.
Với truyền thống ấy và khả năng ấy, người lính trong quân đội Nguyễn Huệ lại
được giác ngộ tinh thần chiến đấu vì dân tộc vì giai cấp, được tôi luyện không
ngừng trong điều kiện chiến đấu liên tục, nên họ có khả năng chiến đấu cao đánh
đâu thắng đấy. Chỉ cần nêu lên những trận tiến công Gia Định, Ba Vát, Đồng
Tuyên, trận đổ bộ Phú Xuân, trận đánh thủy quân Trịnh ở cửa Luộc, các trận tiêu
diệt quân Trịnh ở Thúy Ái, Vạn Xuân, Thăng Long và nhất là các trận Ngọc Hồi,
Khương Thượng, khi đánh quân Thanh cũng đủ để chứng minh rằng trình độ chiến
thuật, kỹ thuật của tướng lĩnh và binh sĩ của Nguyễn Huệ rất cao, đánh giặc co
mưu mẹo, biết cơ trí, linh hoạt, động tác chiến đấu rất mãnh liệt.
Khác với binh sĩ của các quân đội thời đó, quân đội của Nguyễn Huệ rất cơ
động, linh hoạt trong tác chiến. Thọc rất sâu đánh rất bất ngờ, cơ động rất táo bạo,
xung phong mạnh, khuếch trương chiến quả mạnh, truy kích mạnh, đó là đặc điểm
vè kỷ năng chiến đấu của quân đội Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ trong khi giáo dục
lòng quả cảm và kỹ thuật chiến đấu cho tướng lĩnh, binh sĩ Tây Sơn, ông không
quên nói đến mưu trí. Trong thư gửi Thang Hùng Nghiệp, Nguyễn Huệ cũng nói:
“người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu,
lấy nhiều hiếp ít”[5]. Mềm dẻo nói ở đây tức là cơ trí, linh hoạt. Đánh thắng không
phải chỉ vì số lượng, mà vì mưu trí. Ở đây Nguyễn Huệ đã “gặp” một trong những
người nổi tiếng ở nước Nga ở thời đại đó, là Ru-mi-an-xép, người đã giáo dục cho
tướng lĩnh và binh sĩ Nga theo tinh thần: “Phải cố gắng đánh địch nhiều bằng mưu
trí hơn là thực lực và dùng biện pháp tiến công để bù vào sự thiếu sót của lực
lượng”[6].
Có trình độ chiến thuật và kỹ thuật cao đó là đặc điểm thứ tư của quân đội
Nguyễn Huệ. Cho nên quân đội Nguyễn Huệ vừa có tinh thần chiến đấu cao, có kỷ
luật chặt chẽ lại vừa có tài nghệ. Điều đó khiến họ trở nên gan dạ, dũng cảm, một
người địch nổi mười người, đánh đâu được đấy như chúng ta đã biết.
Chúng ta biết rằng nhân tố tinh thần tác động rất mạnh đến tính chất các kế
hoạch chiến lược và kế hoạch chiến dịch. Khi làm kế hoạch chiến lược, song song
với việc tính toán các nhân tố khác, phải tính toán đến tình trạng tinh thần của nhân
dân và quân đội của cả hai bên. Điều đó, tất nhiên bọn vua chúa, tướng lĩnh phong
kiến, bọn Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh, bọn chiêu Tăng, chiêu Sương…. Không thể
tính toán chính xác được. Kế hoạch chiến lược của họ biểu hiện sự mất cân đối
giữa mục đích chiến lược quá cao và khả năng chiến lược quá thấp, vì họ đánh giá
quá cao lực lượng bản thân, đánh giá quá thấp lực lượng của đối phương. Còn
Nguyễn Huệ vốn xuất thân từ nhân dân lao động, có một tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, lý tưởng, ý trí chiến đấu như quảng đại quần chúng lao động nên đã “tính
toán” được những khả năng vô tận của nhân tố tinh thần, đã biến được sức mạnh
tinh thần thành sức mạnh vật chất.