
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 88 (3/2024)
43
BÀI BÁO KHOA HỌC
ĐỘNG THÁI TÍCH LŨY P TRONG ĐẤT LÚA VÀ NƯỚC NGẦM NÔNG
DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC TƯỚI Ô NHIỄM TÍCH HỢP PHÂN BÓN
Đinh Thị Lan Phương
1
, Nguyễn Phan Việt
2
Tóm tắt: Trong bài báo này, tác động của nước tưới ô nhiễm tích hợp phân bón lên Photpho (P)
trong
nước ngầm nông và các tầng đất ở các độ sâu 35 cm, 70 cm, 120 cm được nghiên cứu. Thí nghiệm gồm
03 công thức (CT): Nước tưới ô nhiễm tích hợp phân bón (CT1), nước tưới không ô nhiễm (CT2) và
nước tưới ô nhiễm không bón phân (CT 3). Kết quả cho thấy mặc dù hàm lượng P trong nước tưới cao,
nhưng không có hiện tượng thấm P xuống các tầng đất sâu. Cụ thể là, nồng độ PO
43-
trong tất cả các
CT giảm dần theo chiều sâu của đất. Riêng CT1 có hiện tượng thấm PO
43-
xuống tầng 35 cm hơn so với
CT2 và CT3 từ 10 - 15%. Tuy nhiên PO
43-
bị cố định ngay trong tầng đất này ngăn cản sự thấm xuống
các tầng sâu hơn. Không có sự khác biệt đáng kể giữa nồng độ PO
43-
của các tầng 70 cm và 120 cm của
cả ba công thức. Về tích lũy P trong đất, hàm lượng P tổng số ở tầng 35 cm của CT1 cao hơn 0,01% và
hàm lượng P dễ tiêu cao hơn từ 0,01 – 0,02 mg P
2
O
5
/100g so với các CT2 và CT3. Các tầng 70 cm và
120 cm cho kết quả tương tự nhau về hàm lượng P tổng số và P dễ tiêu.
Từ khóa: Tích lũy photpho, đất lúa, nước tưới ô nhiễm, phân bón.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Trong những thập kỷ gần đây, phân bón hóa
học chứa photpho (P) đã được sử dụng phổ biến
để tăng năng suất cây trồng. Châu Á là khu vực
tiêu thụ phân bón nhiều nhất so với thế giới,
trong đó các nước điển hình như Trung Quốc và
Ấn Độ. Riêng tại Trung Quốc, lượng phân bón
hóa học P đạt đến 12,3 triệu tấn năm 2019,
chiếm 27,09% mức tiêu thụ phân bón P hóa học
toàn cầu. Lượng phân bón P được sử dụng ngày
càng nhiều cho nông nghiệp do P là chất dinh
dưỡng đa lượng cần thiết, đảm bảo sinh trưởng
và phát triển tối ưu cho cây trồng. Tuy nhiên,
cây trồng chỉ hấp thu P dưới dạng
orthophosphate (PO
43-
), trong đất tính hữu dụng
của P thường bị hạn chế do đặc tính cố định
trong đất với các kim loại hoặc bị cố định trong
các oxit của sắt và nhôm mà trong đó các liên
kết này rất ổn định, bền trong môi trường
(Dieter et al., 2010, Maranguit et al., 2017). Kết
quả là P trong hầu hết các loại đất thường bị
thiếu cho quá trình hấp thu dinh dưỡng của thực
1
Khoa Hóa và Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi
2
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy; Nghiên cứu sinh
Trường Đại học Thủy lợi
vật nên phân bón P được sử dụng rất nhiều để
bù lại lượng lớn bị tích lũy cố định trong đất.
Lượng P di động trong dung dịch đất phụ
thuộc vào đặc điểm của đất, bao gồm: hàm
lượng oxit Fe và khả năng kết tủa của chúng,
hàm lượng chất hữu cơ trong đất (SOM), các vi
sinh vật đất đóng vai trò là nguồn cung cấp điện
tử, hàm lượng P tổng số và độ pH. Ở điều kiện
đất axit có pH thấp thường có hàm lượng P di
động cao bởi ion H
+
làm gia tăng sự hòa tan của
các hợp chất Fe-P và Al-P (Amarawansha et al.,
2015). Trong đất có hàm lượng sét cao, sự
chiếm ưu thế của oxit nhôm (Al) và sắt (Fe) ở cả
dạng tinh thể và vô định hình làm giảm khả
năng hòa tan của P vô cơ thông qua quá trình cố
định chúng trên bề mặt tích điện dương và đồng
thời hình thành các kết tủa Al và Fe không hòa
tan. Trong đất kiềm, P dễ dàng phản ứng với Ca
để tạo thành Ca
3
(PO
4
)
2
ít tan. Kết quả của phản
ứng này làm P là chất dinh dưỡng hạn chế nhất
trong sản xuất cây trồng. Một tỷ lệ lớn P được
bón bị liên kết hóa học cố định trong đất, trong
khi chỉ có một phần nhỏ P trong dung dịch đất
là dạng dễ tiêu cho cây trồng hấp thu. Cơ chế
này dẫn đến lượng bón P cho cây trồng khá cao

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 88 (3/2024)
44
nhưng hiệu quả sử dụng lại ở mức thấp, chỉ đạt
khoảng 20 – 30% (Gang Xu et al., 2016, Zhu
L. et al., 2012).
Tuy nhiên, một lượng nhỏ P có thể được giải
hấp ra khỏi bề mặt oxit sắt dưới điều kiện ngập
(Rakotoson et al., 2016). Trong điều kiện ngập,
môi trường đất ở trạng thái khử thuận lợi cho
các vi sinh hô hấp kỵ khí hoạt động. Vi sinh vật
sử dụng các chất nhận điện tử thay thế như
NO
3−
, Mn
4+
, Fe
3+
và SO
42−
để duy trì quá trình
trao đổi chất của chúng. Các vi sinh vật như
Geobacter sulfurreducens sử dụng Fe
3+
làm chất
nhận điện tử dẫn đến Fe
3+
bị khử thành Fe
2+
,
giải phóng một lượng P liên kết đáng kể. Kết
quả là nồng độ P trong dung dịch đất sẽ tăng lên
cùng với Fe
2+
hòa tan (Amarawansha et al.,
2015). Cơ chế này dẫn đến tăng khả năng hòa
tan P và Fe trong quá trình hô hấp yếm khí,
được gọi là quá trình hòa tan oxit Fe
3+
qua trung
gian vi sinh vật.
Trong nước ngầm nồng độ P hòa tan tự
nhiên thường thấp do P di động (điển hình là
dạng orthophosphate - PO
43-
) thường được hấp
phụ vào đất và trầm tích trong vùng vadose
(vùng tiếp giáp với gương nước ngầm) hoặc
vùng bão hòa (Qi, D. L. et al., 2020). Hơn nữa,
các P hữu cơ hòa tan được khoáng hóa thành
PO
43-
thông qua các quá trình sinh hóa (Peng S.
et al., 2011). Cũng giống như Trung Quốc,
canh tác lúa ở nước ta là hoạt động nông
nghiệp lớn nhất và tiêu thụ nhiều phân bón nhất
với hơn 60% lượng P sử dụng là phân bón hóa
học. Hơn nữa, hầu hết các hệ thống tưới bị ô
nhiễm bởi nước thải sinh hoạt và chăn nuôi
chưa qua xử lý dẫn đến hàm lượng P trong
nước tưới khá cao. Trong điều kiện khan hiếm
nước tưới vào mùa khô, nhiều hệ thống thủy lợi
sử dụng nước ô nhiễm không có nguồn nước
sạch pha loãng để tưới cho lúa. Mặc dù, P
không gây nguy hiểm cho sức khỏe của con
người và nồng độ P trong nước ngầm không có
trong quy chuẩn về chất lượng nước ngầm của
nước ta. Tuy nhiên, mức độ thấm P xuống các
tầng đất dưới từ nước tưới ô nhiễm liên tục kết
hợp phân bón theo khuyến cáo và P có đi vào
nước ngầm tầng nông hay không sẽ được làm
rõ trong nghiên cứu này.
2. BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
2.1. Các công thức thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện trên cánh đồng lúa
Học viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam có tọa
độ 21
o
00’00 N - 106
o
55’54 E. Thời gian thực hiện
2 năm từ 6/2021 – 5/2023 với 02 vụ xuân hè và 02
vụ hè thu. Bao gồm 03 công thức (CT):
CT 1: Nước tưới ô nhiễm tích hợp phân bón.
Nước tưới từ sông Cầu Bây với tỉ lệ phân bón 120
kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha theo khuyến cáo
của Viện Nông nghiệp Việt Nam. CT được thực
hiện trên toàn bộ ruộng lúa diện tích 960 m2.
CT 2: Nước tưới sạch, bón phân. Sử dụng nước
tưới là nước máy không ô nhiễm P với tỉ lệ phân
bón 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha.
CT 3: Nước tưới ô nhiễm, không bón phân.
Nước tưới dẫn từ hệ thống sông Cầu Bây.
CT1 được thực hiện theo đại trà, riêng các CT 2
và CT 3 kiểm soát nước tưới và phân bón nên được
thực hiện trên các ô thí nghiệm có kích thước 3*3
m. Các ô được chắn tôn, làm thành 02 hào bao
nilon 02 lớp ngăn thấm ngang đến độ sâu 2,2 m để
đảm bảo ở độ sâu từ 0 – 2,2 m không có nước thấm
ngang. Bờ bao cao 40 cm đảm bảo không có nước
tràn mặt ruộng trong những đợt mưa lớn.
Mẫu nước tưới và nước dưới đất được thu theo
chu kì 7 ngày/lần tại các độ sâu 35 cm, 70 cm, 120
cm sau đó mang ngay về phòng thí nghiệm phân
tích. Thực hiện lấy mẫu và bảo quản mẫu theo
TCVN 6663-11:2011.
Quá trình thu mẫu nước được thực hiện như
sau: các ống nhựa thu mẫu được gắn đáy kín ở
đáy, phía trên có nắp có thể tháo rời để hút mẫu.
Ống được đục các lỗ xung quanh tại các độ sâu
trên để thu nước, phân tích P tổng số và P hòa tan
ngay sau lấy mẫu. Mẫu nước trong các ống được
hút bỏ đi trước khi lấy mẫu 24 h bằng bơm hút. Sử
dụng các chai nhựa sạch, rửa trong bể rửa siêu âm
và tráng rửa bằng nước cất trước khi đựng mẫu.
Mẫu đất được lấy tại các độ sâu 0-35 cm, 35 –
70 cm, 70 – 120 cm cho phân tích các chỉ tiêu P
tổng số và P dễ tiêu tại thời điểm thu hoạch. Lấy
mẫu đất và bảo quản theo TCVN 7538 - 2 : 2005.

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 88 (3/2024)
45
Hình 1. Bố trí thí nghiệm, lấy mẫu nước và mẫu đất
2.2. Nước tưới, giống lúa, phân bón và thuốc
trừ sâu
Nước tưới cho lúa của các công thức được lấy
từ sông Cầu Bây có pH từ 7,5 – 7,8, hàm lượng P
tổng số từ 0,64 - 0,89 mg/L, P hòa tan từ 1,03 –
2,14 mg/L.
Giống lúa sử dụng trong thí nghiệm là giống
bắc thơm số 7 có nguồn gốc Trung Quốc được
trồng phổ biến ở miền bắc. Đây là giống lúa sinh
trưởng khỏe mạnh, chống hạn và rét, thời gian
sinh trưởng 125 - 135 ngày vụ đông xuân, 105 -
110 ngày vụ hè thu.
Phân bón áp dụng theo khuyến cáo của Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam: 120 kg N : 90
kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha, sử dụng phân NPK Việt
Nhật, bón thúc vào thời kì bén rễ hồi xanh. Thuốc
trừ sâu Nouvo3.6EC phun phòng bệnh trong thời
kỳ lúa đẻ nhánh và làm đòng.
2.3. Hóa chất và phân tích
P tổng số trong đất được xác định theo TCVN
8940:2011; P dễ tiêu trong đất được xác định theo
TCVN 8661 : 2011 theo phương pháp Olsen.
P tổng số trong nước sau khi oxy hóa
peroxodisulfat và được xác định theo TCVN
6202:2008; P hòa tan trong nước được xác định
theo TCVN 6202:2008.
2.4. Xử lý số liệu
Dữ liệu thí nghiệm được phân tích trên
Microsoft Excel về xác định giá trị trung bình, độ
lệch chuẩn, vẽ đồ thị. Các kết quả thu được là
trung bình của 03 lần phân tích. Sử dụng phần
mềm ANOVA đánh giá sự khác biệt có ý nghĩa
của số liệu trong các công thức (P < 0,05).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc tính đất và hàm lượng P hòa tan, P
tổng số trong nước mặt ruộng
Tính chất đất nghiên cứu thuộc nhóm phù sa
sông Hồng không được bồi hàng năm, có phản
ứng ít chua đến trung tính (pH
H2O
từ 6,2 - 7,1;
pH
KCl
từ 5,4 - 6,6). Hàm lượng chất hữu cơ và
đạm tổng số ở lớp đất mặt khá cao, trong đó hàm
lượng chất hữu cơ tầng mặt từ 1,5 – 2,0%, hàm
lượng N từ 0,18 - 0,25% và có xu hướng giảm dần
theo chiều sâu phẫu diện. Hàm lượng cation Ca,
Mg trao đổi và dung tích hấp thu cation ở mức
trung bình, Ca trao đổi bằng 7,5 – 15,5 meq/100g
đất, Mg trao đổi bằng 1,9 – 5,8 meq/100g đất.
Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình với
21,5 – 30,5% sét, 54,5 – 57,25% limon, 15,0 –
21,5% cát. P tổng số từ 0,08 – 0,12% P
2
O
5
, P dễ
tiêu từ 12,0 – 15,0 mg P
2
O
5
/100g đất. K tổng số từ
1,71 – 2,11% K
2
O. K dễ tiêu từ 14 - 23 mg
K
2
O/100g đất. Hàm lượng một số nguyên tố vi
lượng dễ tiêu (ppm): Mn = 49,0, Cu = 11,0, Zn =
22,0, Co = 4,9, Mo = 0,14, B = 0,2.
Phẫu diện đất tầng 0 – 35 cm có màu nâu tối
(màu ẩm: 7,5YR 3/3). Tính chất thịt trung bình,
rất ẩm, tảng khối lớn, ít chặt xốp, có nhiều rễ lúa
(kích thước từ nhỏ đến trung bình. Chuyển lớp rõ
về độ chặt, chuyển lớp từ từ về màu sắc.
Tầng 35 – 70 cm, màu nâu đỏ xỉn (màu ẩm:
5YR 5/3). Tính chất thịt nặng, ẩm, chặt, ít xốp có
ít rễ cây rất nhỏ. Chuyển lớp rõ ràng về màu sắc.
Tầng 70 – 120 cm màu nâu vàng xám (màu ẩm:
10YR 6/2). Tính chất sét, ẩm, chặt, dẻo, dính, có
nhiều kết von màu nâu đen, tròn, mền, đường kính
1-2 mm (chiếm từ 5-10% thể tích), có nhiều vệt sét
xám hơi xanh. Chuyển lớp từ từ về màu sắc.

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 88 (3/2024)
46
Hình 2. Phẫu diện đất nghiên cứu và kênh dẫn nước tưới
Nhìn chung, hàm lượng PO
43-
dao động trong
nước mặt ruộng của CT 1 từ 0,91 – 3,05 mg/L.
Giá trị pH của nước mặt ruộng dao động từ 7,4 –
7,8. Hàm lượng P tổng số dao động từ 0,36 – 0,93
mg/L. Trong CT 2, hàm lượng PO
43-
trong nước
mặt ruộng dao động từ 0,15 – 0,25 mg/L, pH từ
7,5 – 7,7, P tổng số từ 0,11 – 0,17 mg/L. CT 3 có
hàm lượng PO
43-
trong nước mặt ruộng dao động
từ 0,82 – 2,97 mg/L, pH từ 7,3 – 7,8, P tổng số từ
0,29 – 0,79 mg/L.
Hình 3. Hàm lượng PO
43-
trong nước mặt ruộng của CT 1
3.2. Hàm lượng PO
43-
trong nước ngầm nông
Trong điều kiện tích hợp nước tưới ô nhiễm và
phân bón, hàm lượng PO
43-
của CT 1 được xác
định tại ba độ sâu cho thấy tại tầng 35 cm, hàm
lượng PO
43-
dao động từ 0,32 – 0,87 mg/L, trung
bình là 0,52 mg/L, không có sự khác biệt đáng kể
giữa các vụ (P > 0,05). Tại tầng 70 cm, HL PO
43-
có xu hướng giảm nhẹ so với tầng 70 cm, trung
bình là 0,34 mg/L, dao động từ 0,35 – 0,49 mg/L
thấp hơn khoảng 1,52 lần so với tầng 35 cm. Tầng
120 cm có HL PO
43-
dao động từ 0,06 – 0,14
mg/L, trung bình là 0,11 mg/L thấp hơn các tầng
35 cm và 70 cm lần lượt là 4,85 và 3,15 lần.
Kiểm soát nước tưới (sử dụng nước tưới sạch)
của CT 2 cho kết quả giảm nhẹ HL PO
43-
ở tầng
35 cm trung bình từ 10,12 – 15,24% so với CT 1.
Tuy nhiên, tầng 70 cm và tầng 120 cm không có sự
khác biệt đáng kể so với các tầng tương ứng của CT
1. Không sử dụng phân bón trong điều kiện nước
tưới ô nhiễm của CT 3 cũng cho kết quả diễn biến
HL PO
43-
tương tự như CT1 (P > 0,05), cụ thể là
tầng 35 cm hàm lượng PO
43-
dao động từ 0,29 – 0,82
mg/L, cao hơn tầng 70 cm khoảng 3,2 lần và cao
hơn tầng 120 cm khoảng 4,72 lần. Dưới điều kiện
nước tưới ô nhiễm tuy không sử dụng phân bón
nhưng kết quả hàm lượng PO
43-
ở cả ba tầng 35 cm,
70 cm và 120 cm lại tương đồng như CT 1.
Các kết quả thí nghiệm chỉ ra sự tích hợp nước
tưới ô nhiễm và phân bón P làm hàm lượng PO
43-
ở tầng 35 cm cao hơn so với các công thức kiểm
soát nước tưới từ 10 – 15%, tuy nhiên, mức độ
thấm PO
43-
chỉ dừng lại ở tầng 35 cm. Không có
sự khác biệt đáng kể giữa nồng độ PO
43-
ở các
tầng 70 cm và 120 cm của cả ba công thức. Kết
quả này có thể được giải thích bởi nước ta có khí
hậu nhiệt đới thường xuất hiện rửa trôi các cation
bazơ dẫn đến sự tích tụ các oxit và hidroxit của
nhôm và sắt trong đất. Các oxit sắt và hidroxit của
nhôm và sắt và giữ lại PO
43-
trên bề mặt hình
thành các kết tủa AlPO
4
và FePO
4
không hòa tan.
Bên cạnh đó, PO
43-
còn bị cố định trong các kết
tủa như Mn
3
(PO
4
)
2
, Zn
3
(PO
4
)
2
, Ca
3
(PO
4
)
2
,
Mg
3
(PO
4
)
2
… trong đất lúa.
Kết quả thí nghiệm còn chỉ ra nồng độ PO
43-
trong các tầng nước ngầm nông 35 cm, 70 cm,
120 cm giảm dần theo chiều sâu của đất với hệ số
giảm trung bình từ 1,54 – 3,14 lần. Kết quả này
khá phù hợp với tính chất của phẫu diện đất khảo
sát ban đầu về hàm lượng chất hữu cơ và đạm
tổng số ở lớp đất mặt khá cao nhưng lại có xu
hướng giảm dần theo chiều sâu của phẫu diện.

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 88 (3/2024)
47
Chất hữu cơ trong đất hoặc mùn có các nhóm
carboxylic, enolic và phenolic phản ứng đóng vai
trò như các axit yếu. Trong quá trình phân ly giải
phóng H
+
làm tăng hàm lượng P di động nhờ các
quá trình hòa tan của các hợp chất Fe-P và Al-P
bởi ion H
+
.
Các kết quả phù hợp với các nghiên cứu của
(Dieter et al., 2010, Maranguit et al., 2017) về
hàm lượng P hòa tan trong đất và dịch đất thấp khi
hàm lượng sét tăng lên. Trong đất có hàm lượng
sét cao, sự chiếm ưu thế của oxit nhôm (Al) và sắt
(Fe) ở cả dạng tinh thể và vô định hình làm giảm
khả năng hòa tan của P vô cơ thông qua quá trình
cố định trên bề mặt tích điện dương và hình thành
các kết tủa Al và Fe không hòa tan.
Kết quả khảo sát phẫu diện đất khu vực nghiên
cứu đã cho thấy có sự kết von sắt tăng dần theo
chiều sâu của đất, tăng mạnh từ tầng 35 – 70 cm
trở xuống (hình 2). Hiện tượng kết von sắt chính
là sự hình thành các oxit sắt, gơtit (HFeO
2
) và
hidroxit sắt do quá trình phong hóa đất, kết quả
của kết von dẫn đến PO
43-
bị cố định trên bề mặt
của chúng. Các kết quả nghiên cứu phù hợp với
các nghiên cứu của (Qi, D. L. et al., 2020) về hàm
lượng PO
43-
trong nước ngầm thường thấp hoặc
rất thấp.
Hình 4. Hàm lượng PO
43-
trong nước ngầm nông của CT 1 tại các tầng khảo sát
3.3. Hàm lượng P tích lũy trong các tầng đất
Các kết quả phân tích về tích lũy P trong đất của
CT 1 cho thấy hàm lượng P tổng số ở tầng 35 cm là
0,08-0,09% P
2
O
5
, tại tầng 70 cm là 0,11-0,12%
P
2
O
5
, tại tầng 120 cm là 0,09 – 0,11% P
2
O
5
. Hàm
lượng P dễ tiêu tại tầng 35 cm là 14 – 15 mg
P
2
O
5
/100g, tại tầng 70 cm là 11 – 12 mg P
2
O
5
/100g,
tại tầng 120 cm là 10 – 11 mg P
2
O
5
/100g.
CT 2 cho kết quả hàm lượng P tổng số ở tầng
35 cm là 0,07-0,08% P
2
O
5
, tầng 70 cm là 0,11-
0,12% P
2
O
5
, tại tầng 120 cm là 0,09 – 0,11%
P
2
O
5
. Hàm lượng P dễ tiêu tầng 35 cm là 12 – 13
mg P
2
O
5
/100g, tầng 70 cm là 11 – 12 mg
P
2
O
5
/100g, tầng 120 cm là 10 – 11 mg P
2
O
5
/100g.
CT 3 cho kết quả hàm lượng P tổng số ở tầng
35 cm là 0,08-0,09% P
2
O
5
, tầng 70 cm là 0,11-
0,12% P
2
O
5
, tầng 120 cm là 0,09 – 0,11% P
2
O
5
.
Hàm lượng P dễ tiêu tại tầng 35 cm là 13 – 14 mg
P
2
O
5
/100g, tại tầng 70 cm là 11 – 12 mg
P
2
O
5
/100g, tại tầng 120 cm là 10 – 11 mg
P
2
O
5
/100g.
Nhìn chung, các kết quả phân tích chỉ ra sự tích
hợp nước tưới ô nhiễm và phân bón làm tích lũy
hàm lượng P tổng số ở tầng 35 cm hơn 0,01%
P
2
O
5
và hàm lượng P dễ tiêu cao hơn từ 0,01 –
0,02 mg P
2
O
5
/100g so với kiểm soát nước tưới ô
nhiễm. Các tầng còn lại bao gồm tầng 70 cm và
tầng 120 cm cho kết quả tương tự nhau về cả hàm
lượng P tổng số và P dễ tiêu.
Các kết quả phân tích phù hợp với đặc tính
đất phù sa trung tính vùng đồng bằng sông
Hồng trong các công bố của Hội Khoa học Đất
Việt Nam, trong đó đất có dung trong từ 0,8 –
1,2 ở tầng mặt, 1,23 – 1,30 ở tầng dưới. Tỷ
trọng của đất từ 2,53 – 2,80, độ xốp của đất từ
60 – 64% ở tầng mặt, 50 – 53% ở tầng dưới.
Tính chất đất chật dần và hàm lượng sét tăng
dần, hàm lượng chất hữu cơ giảm dần khi đi
xuống các tầng dưới.
Các kết quả nghiên cứu khá phù hợp với các
kết quả nghiên cứu của (Nguyễn Tử Siêm và
cộng sự, 1996), cụ thể là đất giàu hàm lượng