
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
64
BÀI BÁO KHOA HỌC
GIẢM DƯ LƯỢNG NITRAT TRONG NƯỚC MẶT RUỘNG
BỞI PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP VÀ ĐIỀU CHỈNH PHÂN BÓN
Nguyễn Phan Việt
1
, Đinh Thị Lan Phương
2
, Đặng Kiều Loan
3
, Trần Huyền Trang
3
Tóm tắt: Thí nghiệm (TN) được thực hiện tại khu nhà lưới Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ 2021-2023
với 04 vụ lúa, nước tưới sông Cầu Bây có hàm lượng (HL) NO
3-
từ 0,5 – 2,9 mg/L, NO
2-
vượt 1,36 – 21,84
lần, NH
4+
vượt 2 – 6,67 lần so với QCVN 08:2015/BTNMT cột B1. Than sinh học (biochar) từ trấu được
thêm vào đất theo các tỉ lệ 1, 2,5 và 5% về khối lượng. Dựa trên tỉ lệ khuyến cáo về phân bón của Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha, TN gồm 12 công thức: bón đủ 100% theo
khuyến cáo, giảm 20%, giảm 50%, giảm 100%; kết hợp ba tỉ lệ biochar 1 - 2,5 - 5% về khối lượng. Kết quả
cho HL NO
3-
trong nước mặt ruộng từ 1,7 – 3,3 mg/L, cao hơn ĐC lên tới 55,6%. NO
3-
trong nước mặt
ruộng sau khi áp dụng biochar giảm từ 10 – 20,9%. Trong đó, NO
3-
trong nước mặt ruộng của nhóm CT
biochar 5% đã giảm từ 16 – 20,9% so với ĐC. Sự điều chỉnh tỉ lệ phân N cho kết quả: giảm 50 - 100% N,
HL NO
3-
giảm từ 29,5 – 76,1% so với ĐC, tuy nhiên năng suất giảm sâu 28,7-63,7%. Giảm 20% phân bón
không có sự khác biệt về năng suất, nhưng NO
3-
trong nước mặt ruộng đã giảm 3,7 – 14,3% so với ĐC.
Từ khóa: Than sinh học, ô nhiễm nitrat, nước tưới ô nhiễm.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Hầu hết các hệ thống tưới ở vùng Đồng bằng
sông Hồng (ĐBSH) có hàm lượng (HL) N rất
cao do ô nhiễm từ nguồn thải sinh hoạt và chăn
nuôi (Vu, K. T., et al., 2022). Theo báo cáo của
Viện tưới tiêu và Môi trường 2016-2019, hệ
thống thủy lợi (HTTL) Bắc Hưng Hải có HL N
cao gấp 2,48 - 4,15 lần, HTTL Bắc Đuống có
HL N cao gấp 1,36 – 2 lần so với QCVN
08:2015/BTNMT. Mặc dù nước tưới rất giàu N
nhưng chế độ phân bón cho lúa ở vùng ĐBSH
hiện vẫn được áp dụng là 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha (khuyến cáo của Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam). Chế độ phân bón theo
khuyến cáo được áp dụng trong điều kiện nước
tưới đạt tiêu chuẩn đủ cho nhu cầu sinh trưởng
của lúa. Tuy nhiên trên thực tế, lượng phân bón
trên đồng ruộng có thể vượt mức khuyến cáo để
tăng năng suất. Lúa chỉ có nhu cầu dinh dưỡng
N nhất định cho các giai đoạn sinh trưởng (Diez
1
Khoa Tự động và phương tiện kỹ thuật PC,CC,CN,CH,
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy, Bộ Công An;
NCS Trường Đại học Thủy lợi;
2
Khoa Hóa & Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi
3
Lớp 61 KTH, Khoa Hóa & MT, Trường ĐH Thủy lợi
et al., 2000), khi tưới nước ô nhiễm tích hợp
phân bón có thể dẫn đến dư thừa N trong lớp
nước mặt ruộng và tích tụ xuống lớp đất mặt
trước khi thấm xuống các tầng sâu hơn rồi đi
vào nước ngầm (Bijay-Singh, Eric Craswell,
2021, Ju XT, Zhang C, 2017).
Trong số các dạng hợp chất của nitơ, nitrat
(NO
3-
) là dạng ô nhiễm phổ biến thường được tìm
thấy trong cả nước mặt và nước ngầm. Các quá
trình sinh hóa trong đất với sự tham gia của các vi
sinh vật chuyển hóa các hợp chất hữu cơ của N
thành NH
4+
và NO
3-
(Ju XT, Zhang C, 2017).
NH
4+
mang điện dương nên được giữ lại trên bề
mặt keo đất, ngược lại NO
3-
mang điện âm nên dễ
dàng thấm xuống các tầng đất dưới và đi vào nước
ngầm (Zhao RF et al., 2006). Phân đạm bón cho
lúa ở dạng urê hoặc amoni, chỉ một phần NO
3-
và
NH
4+
từ phân đạm được lúa hấp thụ, phần NH
4+
còn lại được chuyển hóa thành NO
3-
thông qua các
quá trình sinh hóa. NO
3-
là dạng bị thấm nhiều
nhất và là nguyên nhân gây ô nhiễm NO
3-
trong
nước ngầm. Sự thấm NO
3-
xuống các tầng đất
dưới dẫn đến
khoảng 10–30% lượng phân đạm bị
thất thoát trong mỗi vụ (Meisinger JJ et al., 2006).
Kết quả của sự thấm NO
3-
là (Ju XT, Zhang C,