
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
64
BÀI BÁO KHOA HỌC
GIẢM DƯ LƯỢNG NITRAT TRONG NƯỚC MẶT RUỘNG
BỞI PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP VÀ ĐIỀU CHỈNH PHÂN BÓN
Nguyễn Phan Việt
1
, Đinh Thị Lan Phương
2
, Đặng Kiều Loan
3
, Trần Huyền Trang
3
Tóm tắt: Thí nghiệm (TN) được thực hiện tại khu nhà lưới Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ 2021-2023
với 04 vụ lúa, nước tưới sông Cầu Bây có hàm lượng (HL) NO
3-
từ 0,5 – 2,9 mg/L, NO
2-
vượt 1,36 – 21,84
lần, NH
4+
vượt 2 – 6,67 lần so với QCVN 08:2015/BTNMT cột B1. Than sinh học (biochar) từ trấu được
thêm vào đất theo các tỉ lệ 1, 2,5 và 5% về khối lượng. Dựa trên tỉ lệ khuyến cáo về phân bón của Viện Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha, TN gồm 12 công thức: bón đủ 100% theo
khuyến cáo, giảm 20%, giảm 50%, giảm 100%; kết hợp ba tỉ lệ biochar 1 - 2,5 - 5% về khối lượng. Kết quả
cho HL NO
3-
trong nước mặt ruộng từ 1,7 – 3,3 mg/L, cao hơn ĐC lên tới 55,6%. NO
3-
trong nước mặt
ruộng sau khi áp dụng biochar giảm từ 10 – 20,9%. Trong đó, NO
3-
trong nước mặt ruộng của nhóm CT
biochar 5% đã giảm từ 16 – 20,9% so với ĐC. Sự điều chỉnh tỉ lệ phân N cho kết quả: giảm 50 - 100% N,
HL NO
3-
giảm từ 29,5 – 76,1% so với ĐC, tuy nhiên năng suất giảm sâu 28,7-63,7%. Giảm 20% phân bón
không có sự khác biệt về năng suất, nhưng NO
3-
trong nước mặt ruộng đã giảm 3,7 – 14,3% so với ĐC.
Từ khóa: Than sinh học, ô nhiễm nitrat, nước tưới ô nhiễm.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
*
Hầu hết các hệ thống tưới ở vùng Đồng bằng
sông Hồng (ĐBSH) có hàm lượng (HL) N rất
cao do ô nhiễm từ nguồn thải sinh hoạt và chăn
nuôi (Vu, K. T., et al., 2022). Theo báo cáo của
Viện tưới tiêu và Môi trường 2016-2019, hệ
thống thủy lợi (HTTL) Bắc Hưng Hải có HL N
cao gấp 2,48 - 4,15 lần, HTTL Bắc Đuống có
HL N cao gấp 1,36 – 2 lần so với QCVN
08:2015/BTNMT. Mặc dù nước tưới rất giàu N
nhưng chế độ phân bón cho lúa ở vùng ĐBSH
hiện vẫn được áp dụng là 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O/ha (khuyến cáo của Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam). Chế độ phân bón theo
khuyến cáo được áp dụng trong điều kiện nước
tưới đạt tiêu chuẩn đủ cho nhu cầu sinh trưởng
của lúa. Tuy nhiên trên thực tế, lượng phân bón
trên đồng ruộng có thể vượt mức khuyến cáo để
tăng năng suất. Lúa chỉ có nhu cầu dinh dưỡng
N nhất định cho các giai đoạn sinh trưởng (Diez
1
Khoa Tự động và phương tiện kỹ thuật PC,CC,CN,CH,
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy, Bộ Công An;
NCS Trường Đại học Thủy lợi;
2
Khoa Hóa & Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi
3
Lớp 61 KTH, Khoa Hóa & MT, Trường ĐH Thủy lợi
et al., 2000), khi tưới nước ô nhiễm tích hợp
phân bón có thể dẫn đến dư thừa N trong lớp
nước mặt ruộng và tích tụ xuống lớp đất mặt
trước khi thấm xuống các tầng sâu hơn rồi đi
vào nước ngầm (Bijay-Singh, Eric Craswell,
2021, Ju XT, Zhang C, 2017).
Trong số các dạng hợp chất của nitơ, nitrat
(NO
3-
) là dạng ô nhiễm phổ biến thường được tìm
thấy trong cả nước mặt và nước ngầm. Các quá
trình sinh hóa trong đất với sự tham gia của các vi
sinh vật chuyển hóa các hợp chất hữu cơ của N
thành NH
4+
và NO
3-
(Ju XT, Zhang C, 2017).
NH
4+
mang điện dương nên được giữ lại trên bề
mặt keo đất, ngược lại NO
3-
mang điện âm nên dễ
dàng thấm xuống các tầng đất dưới và đi vào nước
ngầm (Zhao RF et al., 2006). Phân đạm bón cho
lúa ở dạng urê hoặc amoni, chỉ một phần NO
3-
và
NH
4+
từ phân đạm được lúa hấp thụ, phần NH
4+
còn lại được chuyển hóa thành NO
3-
thông qua các
quá trình sinh hóa. NO
3-
là dạng bị thấm nhiều
nhất và là nguyên nhân gây ô nhiễm NO
3-
trong
nước ngầm. Sự thấm NO
3-
xuống các tầng đất
dưới dẫn đến
khoảng 10–30% lượng phân đạm bị
thất thoát trong mỗi vụ (Meisinger JJ et al., 2006).
Kết quả của sự thấm NO
3-
là (Ju XT, Zhang C,

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
65
2017) đã tìm thấy có một lượng lớn NO
3-
tích lũy
trong vùng vadose (vùng tiếp giáp nước ngầm)
dưới ruộng ngô do bón phân đạm quá mức trong
ba năm liên tiếp. Bón phân đạm nhiều hơn so với
khuyến cáo, sự tích tụ NO
3-
trong các lớp đất sâu
càng gia tăng (Jankowski et al., 2018). Tại các lớp
đất sâu hơn 1 m dưới vùng rễ của ngô, lúa mì và
rau trong các thí nghiệm bón phân vượt quá
khuyến cáo, (Zhou JY, et al., 2016) đã phát hiện ra
có khoảng 70% NO
3-
tích tụ trong tầng đó. Mặc
dù là dinh dưỡng cho cây trồng, nhưng lượng
NO
3-
tích lũy bên dưới vùng rễ không thể sử dụng
cho vụ tiếp theo do NO
3-
bị thấm xuống các lớp
đất sâu hơn khi gặp mưa lớn hoặc sau các đợt tưới
(Ju XT et al., 2006). Lượng mưa hoặc mức tưới
càng lớn làm tăng lớp nước mặt ruộng càng thúc
đẩy quả trình thấm NO
3-
(Huang T et al., 2017).
Một nghiên cứu trên đất trồng ngô và lúa mì tại
nhiều vùng trên thế giới, (Zhou M, Butterbach-
Bahl K, 2014) đã chi ra 22% và 15% lượng phân
đạm bón cho lúa mì và ngô bị thấm dưới dạng
NO
3-
. Mặc dù các vấn đề ô nhiễm NO
3-
trong
nước ngầm từ phân bón đã được chỉ ra rất rõ ràng,
nhưng áp lực về năng suất và mẫu mã nông sản,
phân bón vẫn được tiêu thụ rất nhiều ở các nước
nông nghiệp. Riêng năm 2015, có đến 108,7 triệu
tấn phân đạm đã được tiêu thụ trên toàn cầu, trong
đó Trung Quốc và Ấn Độ chiếm 42,3% tổng số.
Chỉ đến khi Trung Quốc nhận ra mức độ nghiêm
trọng của lạm dụng phân đạm gây ô nhiễm NO
3-
trong nước mặt và nước ngầm nên đã ban hành kế
hoạch hành động để kiểm soát sử dụng phân bón
sau năm 2015 (Ji Y, et al., 2020).
Mức độ thấm NO
3-
trong đất phụ thuộc vào
tính chất đất và kiểu canh tác. Đất lúa được phơi
ải và cày mỗi năm hai vụ nên xốp tầng mặt và
thoát nước khá cao, đây là nguyên nhân chính dẫn
đến thấm NO
3-
trong ruộng lúa (Ji Y, et al., 2020).
Khả năng thấm NO
3-
từ nước mặt ruộng xuống các
tầng đất phía dưới theo thứ tự: đất đồng cỏ < đồng
cỏ được chăn thả, trồng trọt < đất được cày xới <
đất trồng rau (Di and Cameron, 2002). Hơn nữa
mức độ thấm còn phụ thuộc HL NO
3-
trong nước
mặt ruộng và lượng mưa hoặc lớp nước mặt
ruộng. HL NO
3-
trong nước mặt ruộng càng cao
dẫn đến khả năng thấm xuống càng gia tăng. Hơn
nữa, ruộng lúa được tưới ngập thường xuyên nên
luôn duy trì một lớp nước khá cao trên mặt ruộng,
độ dày lớp nước còn tăng lên khi gặp mưa lớn,
những yếu tố này gia tăng mức độ thấm NO
3-
. Kết
quả là có khoảng 60% các khu vực canh tác nông
nghiệp gây ô nhiễm NO
3-
trong nước ngầm, trong
đó các vùng trồng lúa sử dụng nước tưới ô nhiễm
đóng góp mức độ ô nhiễm lớn nhất (Shukla S,
Saxena A, 2018).
Mặc dù nguồn phụ phẩm nông nghiệp ở nước
ta rất dồi dào nhưng mới được sử dụng hơn 10%
làm thức ăn gia súc, than sinh học, trồng nấm và
phân bón. Còn lại bị thải bỏ trên đồng ruộng hoặc
được đốt gây ô nhiễm môi trường (Phuong D.T.L
et al., 2023). Than sinh học (TSH) từ phụ phẩm
nông nghiệp đã được ứng dụng phổ biến trong xử
lý kim loại nặng, N và P trong nước thải. Với tính
chất xốp cao và khả năng giữ nước tốt nên TSH
còn là môi trường sống ổn định cho các vi sinh vật
có lợi sinh trưởng và phát triển trên bề mặt, có khả
năng cải tạo độ ẩm, độ phì đất (đã được áp dụng
cải tạo đất cát ven biển cho hiệu quả khá tốt). Để
không đưa thêm hóa chất độc hại vào môi trường,
không ảnh hưởng đến tính chất đất lúa, chi phí rẻ
và dễ áp dụng, hấp phụ nitrat bởi TSH từ phụ
phẩm nông nghiệp là giải pháp hiệu quả và không
ảnh hưởng đến sinh trưởng của lúa (M. Konneh et
al., 2021). Trong đó, TSH (biochar) từ trấu là vật
liệu giàu carbon được sản xuất từ quá trình nhiệt
phân trấu trong điều kiện hạn chế hoặc không có
oxy (Vu, K. T. et al., 2022). TSH là kết quả từ quá
trình nhiệt phân làm bay hơi các chất hữu cơ nên
trên bề mặt xốp còn các thành phần K
+
, Na
+
, Ca
2+
,
Mg
2+
... mang điện dương. Quá trình hấp phụ NO
3-
xảy ra theo cơ chế hút tĩnh điện, NO
3-
mang điện
âm sẽ bị hút trên bề mặt TSH (Vo Thi Minh Thao
et al., 2021). Tại đây các vi khuẩn chuyển hóa một
phần NO
3-
thành NH
4+
có khả năng được giữ lại
trên bề mặt keo đất hoặc bề mặt TSH.
Trong điều kiện chưa có điều chỉnh về phân
bón tại những vùng nước tưới ô nhiễm N. Sự tích
hợp phân bón theo khuyến cáo và nước tưới ô
nhiễm sẽ làm dư thừa HL N trên nước mặt ruộng,
nguy cơ ô nhiễm nước ngầm rất cao. NO
3-
là dạng
ô nhiễm phổ biến của N trong nước mặt và nước

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
66
ngầm do đặc tính dễ bị thấm qua các tầng đất. Từ
những lí do trên, nghiên cứu này áp dụng TSH từ
trấu kết hợp điều chỉnh chế độ phân bón để giảm
thiểu HL NO
3-
trong nước mặt ruộng. Trong cùng
điều kiện TN, lượng N
2
O thất thoát từ quá trình
khoáng hóa các hợp chất N là như nhau, chậu kín
đáy nên không có thấm. Do đó, nghiên cứu chỉ
đánh giá HL NO
3-
trong nước mặt ruộng qua các
thời kì sinh trưởng chính của lúa. Kết quả nghiên
cứu dự kiến làm cơ sở cho các điều chỉnh tỉ lệ
phân đạm dưới điều kiện nước tưới ô nhiễm N.
2. VẬT LIỆU VÀ BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM
2.1. Vật liệu
Đất được thu thập trên cánh đồng học viện
Nông nghiệp Việt Nam độ sâu từ 0 – 20 cm, tọa
độ 21
o
03’36 Bắc - 106
o
54’13 Đông; thuộc nhóm
phù sa sông Hồng không được bồi hàng năm, có
phản ứng ít chua đến trung tính (pH
H2O
6,2 - 7,1;
pH
KCl
5,4 - 6,6), thành phần hữu cơ và đạm tổng
số ở tầng mặt khá cao (OC từ 1,5 – 2,0%, N từ
0,18 - 0,25%) và giảm dần theo chiều sâu phẫu
diện. Ca, Mg trao đổi và dung tích hấp thu cation
(CEC) ở mức trung bình, thành phần cơ giới từ
thịt trung bình 21,5 – 30,5% sét, 54,5 – 57,25%
limon, 15,0 – 21,5% cát.
Trấu được hun yếm khí trong 03 giờ, tại nhiệt độ
500 – 600
o
C, có pH từ 8,8 – 9,2, CEC 55,2 mmol
kg
-1
, độ rỗng 57,24%, hàm lượng OC 2,05%.
Nước tưới từ sông Cầu Bây có hàm lượng NO
3-
từ 0,5 – 2,9 mg/L, NH
4+
từ 1,8-5,1 mg/L, NO
2-
từ
0,068 – 1,092 mg/L. So với QCVN
08:2015/BTNMT cột B1, NO
2-
vượt QC từ 1,36-
21,84 lần, NH
4+
vượt QC từ 2 – 6,67 lần.
Giống lúa bắc thơm số 7, nguồn gốc Trung
Quốc là giống lúa sinh trưởng khỏe mạnh, có khả
năng chống hạn và rét, có thời gian sinh trưởng
125 - 135 ngày vụ đông xuân, 105 - 110 ngày vụ
hè thu, được trồng phổ biến ở miền bắc.
Chế độ phân bón: 120 kg N : 90 kg P
2
O
5
: 90
kg K
2
O/ha, phân NPK Việt Nhật, chỉ bón thúc 01
lần vào thời kì bén rễ hồi xanh. Thuốc trừ sâu
Nouvo3.6EC phòng bệnh trong thời kỳ đẻ nhánh.
2.2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm (TN) được bố trí trong nhà lưới
thuộc cánh đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam
(21
o
00’00B - 106
o
55’54Đ) trong 2 năm từ 6/2021
– 5/2023 với 02 vụ xuân và 02 vụ hè thu. Đất TN
được phơi khô tự nhiên trong không khí, làm nhỏ,
rây qua rây 2 mm trước khi chuyển vào các chậu
có đường kính 30 cm với lượng đất là 10 kg/chậu.
Mạ được cấy với mật độ 1 dảnh/chậu. Tỉ lệ TSH
dựa trên các nghiên cứu trước đây của nhóm tác
giả về áp dụng TSH trong đất lúa: 1%, 2,5%, 5%
về khối lượng (Vu, K. T. et al., 2022) và dựa trên
nhiều thử nghiệm trước khi bố trí thí nghiệm. Cụ
thể là tỉ lệ TSH < 1% không có sự thay đổi đáng
kể và tỉ lệ TSH > 5% làm cho năng suất lúa giảm.
Phân NPK được bón thúc duy nhất 01 lần vào
thời kì bén rễ hồi xanh, không bón lót. Lượng
phân bón được điều chỉnh tỉ lệ đạm cho các CT.
Chế độ nước mặt chậu áp dụng như ngoài đồng
ruộng với mức nước duy trì 7 – 10 cm. Mẫu nước
mặt ruộng được lấy vào các thời kỳ đẻ nhánh, làm
đòng, trỗ bông và tạo hạt. Năng suất được tính
theo số gam/chậu.
Các CT TN được mô tả trong bảng dưới đây.
Trong đó, CT Bio1- N100 có nghĩa là tỉ lệ TSH
được áp dụng 1% và phân N áp dụng 120 kg N/ha.
Tương tự, các CT Bio1- N80 và Bio1- N0 có
nghĩa là tỉ lệ N áp dụng lần lượt là 80% và 0% của
120 kg N/ha. CT đối chứng (ĐC) sử dụng phân
bón theo tỉ lệ khuyến cáo và tưới nước máy.
Tỉ lệ
biochar
(%)
Tỉ lệ
phân (%) Kí hiệu Số chậu
lặp lại
100 Bio1- N100 03
80 Bio1- N80 03
50 Bio1- N50 03
1
0 Bio1- N0 03
100 Bio2.5- N100 03
80 Bio2.5- N80 03
50 Bio2.5- N50 03
2,5
0 Bio2.5- N0 03
100 Bio5- N100 03
80 Bio5- N80 03
50 Bio5- N50 03
5
0 Bio5- N0 03
2.4. Hóa chất và phân tích
Sử dụng test thuốc thử của HACH phân tích

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
67
NO
3-
trong mẫu nước trên máy quang phổ DR-
3900 của HACH.
2.4. Xử lý số liệu
Dữ liệu TN được tính giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, vẽ đồ thị trên Microsoft Excel. Các kết quả
thu được là trung bình của 03 lần phân tích. Sử
dụng T-test độc lập để đánh giá sự khác nhau có ý
nghĩa (P < 0,05).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hàm lượng NO
3-
trong nước mặt ruộng
dưới nước tưới ô nhiễm tích hợp phân bón
HL NO
3-
trong nước tưới và nước mặt ruộng
dưới ảnh hưởng của nước tưới ô nhiễm N và phân
bón theo khuyến cáo được phân tích trong bốn
thời kì chính, cho kết quả sau đây.
Hình 1. Hàm lượng NO
3-
trong nước mặt ruộng
Chế độ phân bón theo khuyến cáo áp dụng
trong điều kiện nước tưới không ô nhiễm, tỉ lệ
khuyến cáo này theo nhu cầu của lúa. Tuy
nhiên, lúa chỉ có nhu cầu dinh dưỡng N nhất
định nên nước tưới ô nhiễm với HL N cùng với
lượng phân bón áp dụng sẽ làm dư thừa NO
3-
trong nước mặt ruộng (Chien et al., 2009). Có
thể thấy HL NO
3-
trong nước tưới dao động từ
2,1 – 2,6 mg/L. Trong điều kiện sử dụng nước
tưới và bón phân theo khuyến cáo, các kết quả
TN cho hàm lượng NO
3-
trong nước mặt ruộng
khá cao từ 1,7 – 3,3 mg/L. Trong đó, HL NO
3-
trong nước mặt ruộng cao hơn ĐC từ 1,1 – 1,6
lần ở các giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ. Riêng giai
đoạn đẻ nhánh là thời điểm sau bón phân hai
tuần nên HL NO
3-
trong nước mặt ruộng cao
hơn ĐC lên tới 55,6%. Sau các thời kì tiếp theo,
do nhu cầu dinh dưỡng của lúa cho thời kì làm
đòng và trỗ nên hàm lượng NO
3-
trong nước mặt
ruộng giảm nhẹ.
Do bón phân duy nhất một lần vào thời điểm
bén rễ hồi xanh, sự tiêu thụ dinh dưỡng của lúa
làm HL NO
3-
trong nước mặt ruộng giảm dần qua
các thời kì đẻ nhánh đến tạo hạt. Trong đó, giai
đoạn tạo hạt giảm sâu nhất so với giai đoạn đẻ
nhánh là 49%. Tại giai đoạn tạo hạt, HL NO
3-
trong nước mặt ruộng có giảm so với giai đoạn đẻ
nhánh nhưng vẫn dao động ở mức 1,7 mg/L. Các
kết quả nghiên cứu phù hợp với các kết luận của
(Chien et al., 2009) rằng thực vật chỉ có thể hấp
thu tối đa 51% lượng phân bón N được bón cho
cây ngũ cốc, phần còn lại bị mất đi do rửa trôi
hoặc thất thoát ở dạng khí N
2
O từ quá trình
khoáng hóa các ion nitrat và amoni. Trong khi
nước tưới chứa N được tưới ngập thường xuyên,
dẫn đến HL NO
3-
luôn ở mức cao trong nước mặt
ruộng. Tưới ngập làm lớp nước mặt ruộng luôn
ở mức từ 7 – 10 cm và cao hơn khi gặp mưa lớn.
Lượng nước thấm tỷ lệ thuận với lớp nước duy
trì trên mặt ruộng, lớp nước càng dày thì lượng
nước thấm càng lớn, ngược lại lượng nước thấm
sẽ không còn khi trên bề mặt ruộng không có lớp
nước mặt. Như vậy, sự tích hợp giữa tưới ngập,
nước tưới ô nhiễm và phân bón làm mặt ruộng
tồn tại lớp nước 7 – 10 cm chứa NO
3-
, nước thấm
sẽ kéo theo NO
3-
đi vào nước ngầm (Zhou JY., et
al., 2016).
3.2. Kiểm soát NO
3-
trong nước mặt ruộng
bởi biochar
Các kết quả thí nghiệm của áp dụng biochar
đã chỉ ra có sự thay đổi về hàm lượng NO
3-
giữa
các CT, tuy nhiên sự giảm chỉ từ 2,2 – 19,8% so
với ĐC. Bên cạnh đó, các tỉ lệ biochar áp dụng
khác nhau cũng cho kết quả khác nhau về HL
NO
3-
trong nước mặt ruộng. Tỉ lệ biochar càng
tăng thì HL NO
3-
trong nước mặt ruộng càng
giảm. Trong đó, tỉ lệ biochar 1% cho kết quả
thấp nhất, HL NO
3-
trong nước mặt ruộng chỉ
giảm 2,2 – 6,1% trong các thời kì sinh trưởng so
với ĐC.
Tại CT biochar 2,5%, mặc dù lượng biochar
tăng gấp 2,5 lần so với CT biochar 1% nhưng kết
quả giảm NO
3-
trong nước mặt ruộng so với ĐC
chỉ từ 11,5 – 12,2%. Khi tăng đáng kể tỉ lệ biochar
lên 5 lần so với tỉ lệ biochar 1%, các kết quả đã
cho thấy có sự khác biệt đáng kể về HL NO
3-
trong nước mặt ruộng (P < 0,05). Cụ thể là, HL

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 84 (6/2023)
68
NO
3-
trong nước mặt ruộng của CT biochar 5%
giảm từ 13,8 – 15,4% so với CT biochar 1% và
giảm từ 16 – 20,9% so với ĐC.
Hình 2. Kiểm soát NO
3-
trong nước mặt ruộng
bởi biochar
Trung bình, so với CT ĐC sử dụng nước tưới ô
nhiễm và bón phân theo khuyến cáo, HL NO
3-
trong nước mặt ruộng của các CT biochar 1 - 2,5 -
5% giảm từ 10 – 20,9%. Các kết quả phù hợp với
nghiên cứu của (Vo Thi Minh Thao et al., 2021) về
khả năng hấp phụ nitrat của TSH thường thấp so
với các chất hấp phụ khác.
3.3. Sự kiểm soát NO
3-
trong nước mặt ruộng
bởi kết hợp biochar và điều chỉnh phân bón
Nhìn chung, các kết quả thí nghiệm đã chỉ ra
HL NO
3-
trong nước mặt ruộng có xu hướng giảm
khi lượng phân N được điều chỉnh giảm.
Hình 3. Hàm lượng NO
3-
trong nước mặt ruộng áp dụng biochar và điều chỉnh phân bón
Tại nhóm CT bio1: Dưới điều kiện nước tưới ô
nhiễm, khi giảm 20% lượng N cho kết quả giảm
HL NO
3-
trong nước mặt ruộng từ 3,7 – 14,3%;
khi giảm 50% lượng N cho kết quả NO
3-
giảm sâu
hơn 22,2 – 28,3%. Không sử dụng phân bón, chỉ
tưới nước ô nhiễm HL NO
3-
trong nước mặt ruộng
giảm 57,1 – 76% so với CT bón phân đầy đủ theo
khuyến cáo.
Tại nhóm CT bio2.5: Giảm 20% lượng N cho
kết quả giảm HL NO
3-
trong nước mặt ruộng từ
11,4 – 17,4%; kết quả giảm sâu hơn tại CT bio2.5-
N80 trong đó NO
3-
giảm 26,7 – 31%. Không sử
dụng phân bón, HL NO
3-
giảm 65,2 – 68,6% so
với CT bio2.5-N100. Các kết quả cho thấy bio2.5-
N80 có HL NO
3-
giảm sâu hơn CT bio1-80 từ 2,9-
7,7%. Không có sự thay đổi đáng kể về HL NO
3-
trong nước mặt ruộng giữa bio2.5-N50 và bio1-50
(p > 0,05), và cũng tương tự cho các CT bio2.5-
N100 và bio1-N100.
Tuy nhiên có sự thay đổi đáng kể ở nhóm các
CT bio5 với bio1. Cụ thể là CT bio5-N80 cho HL
NO
3-
giảm từ 1 – 4,4 lần so với bio1-N80. Tuy
nhiên, khi giảm 50% lượng phân N các kết quả chỉ
ra không có sự thay đổi đáng kể, bio5-N50 chỉ cho
HL NO
3-
giảm từ 1,1 – 1,3 lần so với bio1-N80.
Khi giảm 100% N, các kết quả về HL NO
3-
cho
thấy không có sự khác biệt giữa các CT bio1-
N100 và bio5-N100 (P > 0,05), HL NO
3-
giảm từ
70,9 – 76,1% so với ĐC.
So sánh kết quả của ba nhóm CT biochar 1%,
2,5% và 5% cho thấy: sự giảm tỉ lệ phân N 20% cho
kết quả khác biệt về HL NO
3-
giữa ba công thức
bio1-N80, bio2.5-N80 và bio5-N80 (P < 0,05).
Trong đó, bio5-N80 cho kết quả giảm sâu nhất về
HL NO
3-
trong nước mặt ruộng từ 14,3-17,7%. Khi
giảm lượng phân N xuống 50%, không có sự khác
biệt đáng kết về HL NO
3-
trong nước mặt ruộng giữa
ba CT bio1-N50, bio2.5-N50 và bio5-N50 (P >
0,05). Các kết quả tương tự với ba CT bio1-N100,
bio2.5-N100 và bio5-N100 (P > 0,05).