
40 Gương Thành Công
Dorothy Dix
Theo ý bạn, ký giả nào có nhiều độc giả nhất? Tôi thì cho rằng ký giả
đó là một người đ àn bà sung sướng nhất Hoa Kỳ, vì đã giúp cho đủ hạng
người giải quyết những vấn đề tình cảm của họ. Đã bao lâu nay, bà là người
mẹ, là giáo sĩ rửa tội cho hàng triệu người đau khổ, cả đ àn ông lẫn đ àn bà.
Chưa có ai đã tránh cho đồng bào được nhiều vụ li dị, đã cứu vớt được nhiều
gia đình như bà.
Tên bà là Elizabeth Meriwether Gilmer. Bạn chưa nghe nói về bà
ư? Có chứ! Đã nghe nói nhiều lần rồi, nghe tên Dorothy Dix nhiều lần rồi
chứ! Dorothy Dix chính là bà. Hồi mới cầm viết, bà lựa bút hiệu đó vì bà
thích nó, mà cũng vì bà muốn kỷ niệm một người mọi tên là Dix đã hầu hạ
gia đình bà lúc bà còn nhỏ.

Vậy bà ký tên Dorothy Dix dưới những bài đăng trong hai trăm tờ
nhật báo, để cho hàng triệu độc giả khắp thế giới đọc, từ Luân Đôn tới Châu
Úc, từ Nữu Ước tới Nam Mỹ và Nam Phi Châu.
Cách đây ít lâu, tôi hân hạnh được uống trà với bà ở New Orleans,
bà kể chuyện về tuổi thơ, về sự giáo dục của bà trong mười năm, sau cuộc
nội chiến. Thân phụ bà có một trại nuôi ngựa giống ở biên giới Tennessee và
Kentucky. Gia đình bà là một gia đình cổ ở phhương Nam vì chiến tranh mà
sa sút. Bà nói:
- Chúng tôi sống kỳ cục lắm, nghèo không ra nghèo, sang không
ra sang. Ngôi nhà cũ của chúng tôi đẹp lắm, chung quanh có những cánh
đồng cỏ mơn mởn, bò và cừu mập ú, nhởn nhơ bên cạnh những cánh đồng
trồng lúa và bông vải. Ăn thì chén dĩa bằng bạc. Như tiền thì không có.
Bà bận những đồ bằng len nhà, dệt ở hàng xóm. Bà thích kể rằng
vú nuôi của bà là một con ngựa cái để đua, vì già và bệnh tật nên được thả ở
trước nhà. Bà nói thêm:
- Tôi biết cưỡi ngựa trước khi đi học. Ba tôi đặt tôi lên lưng ngựa,
tôi níu chặt bờm ngựa trong khi nó ăn cỏ. Khi nào nó luồng qua một sợi dây

thừng mắc quần áo hoặc một cành cây là tôi bị hất xuống đất. Tôi la hét cho
tới khi có người chạy ra bồng tôi lên, đặt tôi trên lưng ngựa.
Một chị vú da đen dạy cách ăn nói cư xử cho bà và chị em bà.
Trong bữa cơm, chị ta đứng sau lưng bà, rình như một tên lính gác. Vô phúc
mà láu ăn hoặc bốc đồ ăn hoặc khóc thì, cốp! Bị cú trên đầu liền.
- Ăn uống cho đàng hoàng. Đừng làm như những thằng nhỏ mất
dạy da trắng đó nữa!
Ba đứa nhỏ phải chơi một mình, làm lấy đồ chơi mà chơi. Nhưng
chơi với chó và ngựa, thú vị biết bao! Bà nói:
- Chúng tôi được tự do như chim trên trời vậy. Không bị bó buộc
gì hết. Muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Chúng tôi thắng yên cương rồi cho
ngựa chạy phi vô rừng, đằng sau là một bầy chó sủa vang trời. Chúng tôi
biết hết cả những bí mật của rừng, những chỗ chim cùn cút trốn ở đâu, chim
ưng làm tổ ở đâu, thỏ giấu con ở đâu. Chúng tôi cũng biết chỗ nào có trái lý
dại và mùa thu tới, chỗ nào có những hạt dẽ ngon nhất. Lòng tự tin của
chúng tôi tăng lên rất mau, vì chúng tôi biết xoay sở lấy, biết biển báo khi
gặp nỗi khó khăn.

Đây là một điều lạ lùng nhất về bà. Chính một ông cụ già gần như
điên, đã dạy bà được nhiều điều rất quí. Ông cụ đó là bạn cũ của ông nội bà
và sống trong nhà bà như người thân. Không những cụ dạy bà tập đọc mà
còn hướng dẫn bà yêu những sách quí trong tủ sách nhà nữa. Bà nói:
- Chưa đầy hai mươi tuổi, tôi đã thuộc lòng Shakespeare, Scott,
Dickens, tôi đã đọc Smollet, Fielding và Richardson. Không có sách để trẻ
em đọc, tôi đ ành nhai đại những sách khó tiêu nhất nhưng bổ ích của người
lớn. Và lúc nào tôi cũng thấy sung sướng được đọc những sách đó.
Bà đi học trường nhà nước rất ít.
Cha tôi cho tôi lại học trường cô Alice hay cô Jenny không phải vì
các cô ấy dạy giỏi mà chỉ vì thân phụ các cô ấy đã có công lao với xứ sở,
hoặc làm đại tá dưới quyền chỉ huy của tướng Beauregard, hoặc đã tử trận ở
Gettysburg. Làm sao được? Đó cũng là một cách giúp các cô ấy sống.
Trước khi biết bảy lần bảy là bốn mươi chín, bà đã leo cây giỏi
như một con sóc và cưỡi ngựa tài như một chú nài. Sự thật bà chỉ được học
trong những sách cũ của thân phụ để lại.
Rồi năm mười tám tuổi, bà về nhà chồng, tính sống cuộc đời yên
ổn như mọi thiếu phụ khác trong trường hợp đó. Nhưng một bi kịch xảy ra,

vùi bà trong một tai biến về hai phương diện gia đình và tài chánh. Mới cưới
nhau được ít lâu, chồng bà thành một người tàn tật, một phế nhân. Bà phải
săn sóc chồng, nuôi chồng cho tới khi chồng chết, trong ba mươi lăm năm
đằng đẳng. Lúc đó bà không biết làm sao kiếm đủ nuôi thân mình, đừng nói
là nuôi chồng nữa. Bà lo lắng quá, hóa đau, phải tới Gulf Coast ở Mississipi
để dưỡng sức.
Lần đi xa nhà đó đã làm thay đổi hẳn đời bà. Trong khi nghỉ ngơi
trên bờ biển, bà viết một truyện ngắn kể một việc xảy ra trong gia đình bà
hồi nội chiến. Song thân bà sợ những đồ quí bằng bạc bị lính phương Bắc
cướp mất, sai một tên nô lệ đem chôn ở bên mộ tổ tiên. Hắn chôn xong còn
làm phép phù thủy yếm cho kẻ trộm khỏi tới gần. Bà bán truyện đó cho một
bà hàng xóm làm chủ nhiệm một tờ nhật báo lớn nhất miền Nam, tờ
Picayune ở New Orléans. Người ta trả bà ba Mỹ kim và dùng bà làm phóng
viên trong tòa soạn. Như vậy bà chỉ kiếm được năm Mỹ kim mỗi tuần, vừa
đủ cho hai ông bà sống, nhưng nhờ viết phóng sự mà sau này bà nổi danh
khắp trong nước.
Công việc đầu tiên của bà là mỗi chủ nhật viết một bài dài khuyên
bảo phụ nữ về đời tình cảm của họ đối với chồng con.