40 Gương Thành Công
Sinclair Lewis
Tôi gặp Sinclair Lewis lần đầu cách đây cũng i lâu. Hồi đó, ông ấy,
tôi năm sáu người bạn nữa thường mướn mt tàu nhchạy y Free
Post (Long Island) ri cho mở y chạy xình xịch tới một nơi cách xa ít y
sđể câu thu. i phục ông ta sát đất vì ông ta kng bao gisay ng.
Hbiển động, sóng nổi là tôi phi chui xuống khoang tàu lin, còn ông vn
thản nhiên ngồi câu, trơ trơ như một người ngư phủ trên bức họa.
Bây gii cũng phục ông sát đất nữa, nhưng không phải vì i
ngồi câu cá khi biển động (tài đó, nay tôi cũng đã tập được rồi) mà vì tài ông
tuôn lên giấy những truyn rất hay, thao thao bất tuyệt. Và nếu bạn không
phục ông, thì xin bn cứ thử đi!
Sinclair Lewis đã nhắm trúng đích lần đầu vào năm 1920. Trước
năm đó, ông đã viết được sáu cuốn mà không gây được tiếng vang nào trên
văn đàn. Tiu thuyết thứ bảy ca ông là Main Street tung ra đời như n
giông. Các hội phụ nữ mạt t nó, c nhà thuyết pháp tố o nó, c tờ báo
chtrích nó. gây một cuộc bút chiến thực sự Châu Mỹ, và những tiếng
vang ca nó truyền ra sáu ngàn cây số.
Tiểu thuyết đó làm cho ông thành mt minh tinh bậc nhất trên n
đàn.
nhà phê bình bo: "Cuốn đó hay thật, nhưng anh chàng u
đó không viết được cuốn thứ nhì như vy đâu". Không viết được cuốn thứ
nhì nữa?
Thật sự thì anh chàng trai trSank Centre, xMinnesota đó, từ
hồi y đã "tung" ra nữa tiểu thuyết vào hng n chạy nhất. Nhưng i đã
nói sai, ông kng "tung" tiu thuyết ra đâu. Ông cặm cụi viết nó, sửa đi sửa
li hoài.
Ông thảo một cái đại cương là sáu vạn tiếng, tức khoảng 250 trang
giấy như trang này, cho cuốn Arrowsmith của ông nghĩa là mới i đại
cương mà tiu thuyết đó đã i gấp rưỡi những tiểu thuyết trung bình rồi. Có
ln ông bra mười hai tháng để viết một tiểu thuyết vbản và lao động,
viết xong ông xé hết ling vào sọt rác.
Ông viết truyện Main Street ba lần. Ông đã mất đúng i bảy
năm mới hoàn thành nó.
Một lần ông bảo tôi rằng nếu ông không viết văn thì ông sdạy
tiếng Hy Lạp hay khoa triết trường đại học Oxford, hoặc rừng u
sống đời một bác tiều phu.
Ông thích mỗi năm sống sáu tháng Nữu Ước, và sáu tháng
một nơitịch trong dãy núi Vermont. Ôngmột cái trại trồng cây đường,
ông trng rau ly để ăn. Và ch khi nào ông cần hớt tóc thì ông mới ra chợ.
Tôi hỏi ông: "Được nổi danh như vậy, anh thích không?". Ông
đáp:"Bực lắm, anh ơi". Ông bảo nếu phi đáp hết thảy những bức t người
ta gửi tới cho ông, thì không bao gicòn thviết thêm được một cuốn
nào nữa, chẳng những vy, mà không còn cthì giđể ngủ. Cho nên ông
ling hu hết những thư đó vào lò lửa rồi nhìn chúng cháy.
Ông ghét những kẻ đi "săn" chữ ký, ít khi đi ăn m khách,
lánh cnhững tiệc trà của nhóm văn nhân.
Khi tôi gi chuyện, hỏi ông về những chiến đấu đầu tiên của ông,
ông i:"Ôi, i não lòng khi nghe các ông nhà văn luôn luôn i v những
chiến đấu đầu tiên của mình. i tai hi của phần đông các ông y là không
dịp chiến đấu nhiều. Họ vào nghkhó nhọc gì hơn các ông nha sĩ, nha
y, lut trẻ tuổi đâu mà hli hay nói về quãng đời khó khăn họ đã trãi
qua".
Tôi n nhc lại i hi ông dậy sớm hai giờ trước bữa điểm m,
xuống bếp đun nước pha cà pri viết ngay trong bếp. Tôi nhắc cho ông
rằng có ln ông đã phải đi vay ba chục đồng Anh kim, phi làm bếp ly, luôn
sáu tháng viết ngày viết đ êm, mà viết xong đem n chỉ nửa Anh kim.
Nhưng ông bảo như vậy có khó nhọc gì đâu, chẳng qua ông chỉ họci nghề
của ông thôi, mà nghĩ lại, khôngthi nào ông vui sướng bằng thi đó.
Tôi hỏi c phẩm ông đã bán được bao nhiêu cuốn rồi, ông đáp
không biết. i xin được biết một sphỏng chng. Ông đáp: "Thực tình, i
không biết chút xíu gì việc đó".
Tôi hỏi cuốn Main Street đem cho ông được bao nhiêu tiền. Ông
cũng chịu, không đáp được vì ông kng bận m về vn đề tiền bạc, nhờ
một luật lo hết cho ông rồi, mà ông cũng chẳng cần biết kiếm được bao
nhiêu tiền nữa.
Ông đã tri qua mọi cảnh ngộ. Thân phụ ông là một y sĩ min
quê Minnesota khi đi mổ xẻ bệnh nhân, thường dắt ông theo để ông ph
lực, chụp thuốc mê giúp. lần ông làm việc trong chiếc tàu chgia súc
trên Đại y Dương, ln ông xuống xứ Panama để tìm việc làm. Ông đã
làm tcho trẻ em đọc, đã n cốt truyện cho Jach London, đã giúp việc
trong tòa soạn một tờ báo cho người điếc.
Tôi hỏi ông:
- Anh bba tờ o mà anh giúp việc đầu tiên đuổi anh ra, phải
không?
Ông đáp:
- Sai. Bn tờ đã đui tôi ra, chứ không phải ba.
Một hôm, có người kêu điện thoại, gọi lớ như ngưi Thụy Đin
cho ông hay rng ông được phần thưởng Nobel về văn chương. Ông quen
nhiều người Thụy Điển Minnesota, tưởng ông bạn tác quái nào, gi
giọng lơ lớ để đùa cợt ông, và ông bắt đầu nói đùa li.
Nhưng ít phút sau, ông chưng hửng ra khi biết rằng tin đó đúng,
rằng quả thực ông đã được phn thưởng ln nht trên văn đàn thế giới!