141

ts. trịnH sơn Hoan

III. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG VÀ NHỮNG GỢI MỞ CỦA NÓ GÓP PHẦN TẠO LẬP TRIẾT LÝ KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TS. TRỊNH SơN HOAN Trường Đại học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT

Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu triết học sinh ra ở Mỹ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của nước Mỹ, góp phần hình thành nên văn hóa và lối sống của người Mỹ. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả đề cập đến ba vấn đề: (1) Giới thiệu vài nét về chủ nghĩa thực dụng; (2) Những quan điểm chủ đạo của chủ nghĩa thực dụng và sự gợi mở của nó góp phần tạo lập triết lý kinh doanh ở Việt Nam hiện nay; Và, (3) Nêu ra một số kết luận và khuyến nghị đối với hoạt động kinh doanh dưới sự gợi mở của chủ nghĩa thực dụng ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: chủ nghĩa thực dụng, hiệu quả, kinh nghiệm, chân lý, kinh doanh,…

1.Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ

là C.S.Pierce, người hệ thống hóa các quan điểm, biến nó thành một trào lưu triết học là W.James và J.Dewey là người làm cho chủ nghĩa thực dụng bám rễ sâu vào đời sống xã hội Mỹ, làm cho cả thế giới biết đến chủ nghĩa thực dụng của nước Mỹ.

Chủ nghĩa thực dụng ra đời vào cuối thế kỷ XIX (khoảng 1871-1874) tại Câu lạc bộ Siêu hình học (Methaphysical club) của trường Đại học Cambridge, Massachusetts nước Mỹ, sau nhiều ngày tháng tranh luận sôi nổi của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: triết học, tâm lý học, sử học, luật học, tôn giáo học, v.v.. Câu lạc bộ này sinh hoạt theo phương thức một tháng 2 lần, không câu nệ vào hình thức cụ thể và cũng không ràng buộc vào thiết chế cụ thể nào, có nghĩa là các nhà khoa học được tự do tư tưởng, tự do phát biểu phát biển ý kiến, tự do tranh luận về những vấn đề mà họ cho là thiết thực với đời sống con người.

Khi mới ra đời, chủ nghĩa thực dụng được W.James (1842 -1910) xem như “một ánh hào quang phóng chiếu vào xã hội Mỹ, làm bừng sáng lên mọi nẻo đường sinh tồn của người Mỹ”; Còn H.S.Commager (1902 - 1998) – nhà sử học của nước Mỹ, trong tác phẩm Tư tưởng Mỹ lại phát biểu rằng: “Lý luận và lập luận trừu tượng làm cho người Mỹ bực tức, và người Mỹ tránh những học thuyết triết học tối tăm,… như người khỏe tránh thuốc, không có một thứ triết học nào vượt ra khỏi giới hạn của ý chí mà lại làm Người khai sinh ra chủ nghĩa thực dụng

142

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

cho người Mỹ có hứng thú,…. người Mỹ vốn là người theo chủ nghĩa ích lợi và hoàn toàn hiển nhiên rằng triết học của chủ nghĩa công cụ (tức chủ chủ nghĩa thực dụng – theo cách gọi của John Dewey) là thứ triết học duy nhất có thể gọi là thật sự của Mỹ” [2, tr. 276]. Commager ca ngợi: “Chủ nghĩa thực dụng thực tiễn, dân chủ, cá nhân chủ nghĩa chan chứa hy vọng, thật là thích hợp với tình hình người Mỹ hạng trung. Trên thực tế người Mỹ bao giờ cũng là người theo chủ nghĩa công cụ… không lấy gì làm lạ rằng mặc dù nhiều nhà triết học chửi bới và trách móc, chủ nghĩa thực dụng vẫn đạt tới chỗ trở thành triết học hầu như chính thức của châu Mỹ” [2, tr. 277].

Hiệu quả đối với chủ nghĩa thực dụng cũng được hiểu là chân lý. Nhưng chân lý với chủ nghĩa thực dụng được hiểu như là “một mảnh đất không có đường đến” (theo cách nói của Krishnamurti), cho nên, nó khiến mỗi người theo chủ nghĩa thực dụng không bao giờ chấp nhận dừng lại và hài lòng với những gì mình đang có, mà nó luôn khiến cho mỗi cá nhân liên tục tiến lên phía trước để tìm kiếm chân lý, xác lập giá trị cao hơn cho mình, vì họ quan niệm rằng, càng nhiều chân lý thì càng thỏa mãn được nhiều nhu cầu trong cuộc sống. Vì thế, chân lý với chủ nghĩa thực dụng không chỉ có một mà là có rất nhiều. W.James đã viết: “sự thực quả là tốt đẹp – hãy đem lại cho chúng tôi nhiều sự thực hơn! Nguyên tắc là tốt – hãy cho chúng tôi nhiều nguyên tắc! nhìn từ một góc độ, thế giới chắc chắn là một, và nhìn tự một góc độ khác, thế giới chắc chắn là nhiều. Vừa là một, vừa là nhiều thế thì chúng ta hãy sử dụng thuyết nhất nguyên của đa nguyên” [3, tr. 142].

Có thể nói, sau khi chính thức được gọi tên là một trào lưu triết học, chủ nghĩa thực dụng đã có ảnh hưởng rất lớn ở Mỹ, trở thành hệ quy chiếu tư tưởng của người Mỹ, là thế thế giới quan của người Mỹ, là phương pháp tư duy và hành động của người Mỹ. Nhờ đó mà người Mỹ đã gặt hái được không ít những thành công, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.

2. Những quan điểm chủ đạo của chủ nghĩa thực dụng và sự gợi mở của nó góp phần tạo lập triết lý kinh doanh ở Việt Nam hiện nay

Theo chủ nghĩa thực dụng thì chân lý là thuộc tính của tư tưởng, của quan niệm chứ không phải là thuộc tính của sự vật. Điều này có nghĩa là chủ nghĩa thực dụng đề cao khả năng phán quyết chân lý một cách độc lập của mỗi cá nhân. Do đó, “chân lý là cái tồn tại tương ứng với con người, tương ứng với kinh nghiệm đang biến đổi của con người, chân lý do con người dựa vào nhu cầu của mình sáng tạo nên, lấy thước đo là mức độ thỏa mãn nhu cầu của con người” [3, tr. 144] ; “Chân lý là quan niệm xác định niềm tin của con người, chú ý hiệu quả thực tế, là quan niệm thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng có ích của con người, là quan niệm có thể làm cho con người thu được thành công. Có hiệu quả, có ích, thành công là tiêu chuẩn căn bản của chân lý” [3, tr. 145 – 146].

Từ quan điểm chủ đạo nêu trên của chủ nghĩa thực dụng có thể khẳng định rằng, chủ 2.1. Chủ nghĩa thực dụng là học thuyết triết học đề cao tính hiệu quả trong hành động của con người. Với quan điểm chủ đạo này, chủ nghĩa thực dụng được xem là một loại phương pháp triết học (J.Dewey thì gọi là công cụ) dùng để tìm kiếm các giá trị, các chân lý cho mỗi chủ thể nhất định trong cuộc sống. Nhưng phương pháp là gì? Theo W.James, nó “là một loại thái độ xác định phương hướng”. Thái độ này không đặt nặng các nguyên tắc hay phạm trù lên hàng đầu, mà là xem xét kết quả thu hoạch được có hiệu quả hay không, có thỏa mãn được một thang bậc nhu cầu nào đó của chủ thể hay không mới là vấn đề quan trọng.

143

ts. trịnH sơn Hoan

này của chủ nghĩa thực dụng vào trong hoạt động kinh doanh cần phải linh hoạt theo chiều hướng tích cực hơn, tức là không chỉ dừng lại ở sự hài lòng hay thỏa mãn nhu cầu của một cá nhân cụ thể mà phải hướng tới làm hài lòng nhiều cá nhân hơn, đó là tập thể, đó là toàn xã hội, tức là nó phải hướng tới hiệu quả và giá trị mang tính phổ quát. Làm được như thế thì hoạt động kinh doanh mới bao hàm và thể hiện được tính nhân văn, nhân bản sâu sắc của nó.

nghĩa thực dụng là học thuyết triết học nhân sinh (tức là triết học về đời sống con người), chủ trương lấy hiệu quả làm thước đo trong hành động của con người. Do đó, bất cứ hoạt động nào của con người lấy tiêu chí hiệu quả để đo lường mục đích cuối cùng thì cũng được xem là chịu ảnh hưởng quan điểm này của chủ nghĩa thực dụng. Trong khi đó, kinh doanh được hiểu là hoạt động làm giàu của con người trên thương trường, hiệu quả của hoạt động kinh doanh chính là lợi nhuận mà nó đem lại, và điều đó đã được nói rõ trong luật kinh doanh Việt Nam: “Kinh doanh là toàn bộ hay một phần quy trình đầu tư sản xuất, tiêu thụ đến dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu sinh lời” [6, tr. 12-13].

2.2. Một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa thực dụng là xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, do đó việc vận dụng quan điểm này vào hoạt động kinh doanh trước hết là thừa nhận sự thực khách quan của đời sống kinh tế - xã hội đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay. Sự thực đó yêu cầu mỗi chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh phải chấp hành và tuân thủ đúng quy luật kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; kinh doanh kiếm lời trong khuôn khổ pháp luật cho phép, làm giàu chính đáng bằng chính trí tuệ của mình, góp phần làm giàu cho đất nước. Bên cạnh đó, mỗi chủ thể kinh doanh cũng phải đề cao trách nhiệm cộng đồng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, tức là phải nêu cao ý thức bảo vệ chúng như bảo vệ chính sự tồn tại của mình. Vì rằng, một khi chủ thể kinh doanh đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết, bất chấp quy luật để đạt được hiệu quả bằng mọi giá, thì chính chủ thể kinh doanh sẽ phải trả giá đắt bằng chính thái độ đó của mình trong tương lai.

Kinh doanh là một hoạt động khách quan, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, do sự phát triển của xã hội, là kết quả của sự phân công lao động xã hội, và trên thực tế, nó đã trở thành một nghề chính đáng cho bất cứ ai có khả năng kinh doanh và chọn làm nghề nghiệp của mình. Nhưng kinh doanh như thế nào để có hiệu quả thì cần phải có sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa nhiều yếu tố. Không chỉ sản xuất ra nhiều hàng hóa là được, mà còn phải sản xuất ra nhiều hàng hóa có chất lượng tốt, chất lượng cao; biết buôn bán, tiêu thụ hàng hóa bằng nhiều hình thức khác nhau; biết tổ chức dịch vụ tốt để duy trì sản xuất, phát triển sản xuất, "bảo dưỡng hoạt động kinh doanh”. Làm được như vậy, có nghĩa là đã vận dụng tốt "phương pháp của chủ nghĩa thực dụng" vào trong hoạt động kinh doanh, thẩm thấu được "trí tuệ thực dụng chân chính", "tức là chú trọng và nhấn mạnh đến hiệu quả đạt được của tư tưởng và hành vi, mà tính hiệu quả quan trọng nhất là phải làm cho người ta cảm thấy hài lòng" [4, tr. 12].

Trong hoạt động kinh doanh, các giá trị đạo đức kinh doanh được xem là tiêu chí quan yếu để đánh giá thái độ hành vi của chủ thể kinh doanh đối với cộng đồng. Hiệu quả mà mỗi chủ thể kinh doanh đem lại không chỉ được thể hiện bằng lợi nhuận, bằng "giá trị tiền mặt" mà nó còn được thể bằng các hoạt động cộng đồng, chuyển hóa vào các hoạt Tuy nhiên, "sự hài lòng" mà chủ nghĩa thực dụng đề cập đến chỉ là sự hài lòng của mỗi cá nhân cụ thể, nó đề cao giá trị hiện hữu của cá nhân. Do đó, khi vận dụng quan điểm

144

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

các giá trị của nó). Tựu chung lại, theo các nhà triết học thực dụng thì, cơ sở của niềm tin chính là dựa vào "hiệu quả thực tiễn". Trong hoạt động kinh doanh, việc xác lập niềm tin giữa các chủ thể với nhau trở thành một trong những yếu tố quan trọng góp phần dẫn đến sự thành công của chủ thể kinh doanh.

động cộng đồng, nhằm thể hiện trách nhiệm cộng đồng, tức là chủ thể kinh doanh phải chia sẻ một phần lợi nhuận của mình để cùng duy trì và phát triển cộng đồng. Làm như thế, không có nghĩa là giá trị hay lợi nhuận của chủ thể kinh doanh bị mất đi, mà ngược lại nó sẽ ngày càng gia tăng và kéo dài hơn. Đó là hiệu ứng lan chuyền của tính hiệu quả mà chủ nghĩa thực dụng đã đề cập đến.

Cơ sở để xác lập niềm tin trong hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào nhiều mối quan hệ của chủ thể kinh doanh, đó là:

- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với chính mình, tức là chủ thể kinh doanh phải có niềm tin vào chính mình, tin vào năng lực, vào khả năng và tiềm năng của mình.

- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với thực tại, tức là chủ thể kinh doanh phải có niềm tin vào các giá trị đang hiện hữu trong hoạt động kinh doanh như chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tiềm năng của thị trường; xu hướng vận động của thị trường, v.v..

- Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với các đối tác, tức là chủ thể kinh doanh phải tạo ra niềm tin cho đối tác và tin vào các đối tác trong quá trình kinh doanh.

2.3. Chủ nghĩa thực dụng là trào lưu triết học duy tâm chủ quan, nên rất đề cao yếu tố kinh nghiệm trong nhận thức của cá nhân, xem nó là trung tâm của mọi vấn đề, đến mức James gọi là "kinh nghiệm triệt để". Trong hoạt động kinh doanh việc coi trong kinh nghiệm của chủ thể kinh doanh là rất cần thiết, vì đó là kết quả trải nghiệm của chủ thể kinh doanh, tôn trọng sự thực kinh nghiệm đó sẽ là một trong những cơ sở dẫn đến sự thành công trong kinh doanh. Tuy nhiên, ở quan điểm này của của chủ nghĩa thực dụng chúng ta cần phải thừa nhận rằng, kinh nghiệm chỉ là một trong những cấp độ của nhận thức, nếu dừng lại và tuyệt đối hóa kinh nghiệm của cá nhân, lấy nó làm cơ sở để tạo lập niềm tin cho chủ thể hành động là chưa đủ, mà cần phải kết hợp hài hòa với những yếu tố khác của quá trình nhận thức. Hơn nữa, kinh nghiệm không chỉ là của một cá nhân cụ thể mà là kết quả của sự trải nghiệm cộng đồng.

2.4. Chủ nghĩa thực dụng cũng nêu lên vấn đề niềm tin (mà J.Dewey gọi là lòng tin) của con người với tư cách là "vật bảo chứng về sự hiện hữu của con người". Theo chủ nghĩa thực dụng thì niềm tin phải được xác lập trên những cơ sở nhất định, chẳng hạn như theo S.C.Pierce thì, nó phải được hình thành trên cơ sở phân tích các ký hiệu – ngôn ngữ để tìm ra ý nghĩa của nó, từ đó xác lập niềm tin cho con người. Còn theo W.James thì, niềm tin phải được tìm thấy nơi các ý tưởng, các khái niệm và các lý thuyết (tức là - Mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với khách hàng, được xem là mối quan hệ quan trọng nhất trong việc xác lập niềm tin trong hoạt động kinh doanh, vì xét đến cùng, mục đích của chủ thể kinh doanh là hướng đến người tiêu dùng. Nhưng để có được niềm tin ở người tiêu dùng thì chủ thể kinh doanh cần phải quan tâm đến nhiều yếu tố, mà như gợi mở của chủ nghĩa thực dụng thì đó chính là việc tạo lập và khẳng định thương hiệu của sản phẩm (tức là ký hiệu, là khái niệm hay tên gọi của sản phẩm – như chủ nghĩa thực dụng vừa nêu ở trên), là các ý tưởng kinh doanh táo bạo, độc đáo (nhưng phải có cơ sở). Làm được những điều như vậy, chủ thể kinh doanh sẽ có nhiều cơ hội gặt hái được hiệu quả thực tiến như mong đợi.

145

ts. trịnH sơn Hoan

3. KẾT LUẬN VÀ KHUyẾN NGHỊ

thuyết chỉ dẫn con người hành động nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong đời sống của họ.

Chủ nghĩa thực dụng có xuất xứ từ Mỹ, là đặc sản tinh thần của người Mỹ, là công cụ lý thuyết chỉ dẫn hành động của người Mỹ trong cuộc sống. Nó được xem là triết học chính thức của Nhà nước. Việc thừa nhận những giá trị của nó là một thái độ khách quan đối với một học thuyết triết học.

- Thực dụng trong đời sống thường ngày: là khái niệm dùng để chỉ những hành vi của những người bất chấp các thể chế, bất chấp các quy tắc luân lý, các chuẩn mực đạo đức xã hội, v.v.. nhằm đạt được những hiệu quả nhất định cho cá nhân mình, mà những hiệu quả đó có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của họ trong những bối cảnh cụ thể.

Ở Việt Nam, trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh những chủ thể kinh doanh chân chính, tạo ra hiệu quả cao, thỏa mãn được nhu cầu của bản thân và xã hội thì cũng có không ít những chủ thể kinh doanh bất chấp tất cả để vươn lên chiếm lợi nhuận. Họ chỉ hiểu và vận dụng mặt trái của chủ nghĩa thực dụng, chứ không biết đến mặt giá trị của học thuyết này. Đã có không ít những hành vi xem thường pháp luật, vi phạm pháp luật, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, lừa lọc người tiêu dùng; bất chấp quy luật của tự nhiên, hủy hoại môi trường sinh thái, khai thác tàn bạo tài nguyên thiên nhiên, miễn là đem lại lợi nhuận cao tức thời; Và, hơn tất cả những điều đó, có những chủ thể kinh doanh còn bất chấp cả quy luật đạo đức xã hội, bất chấp luân lý của gia đình, tranh chấp, gành giật thị phần kinh doanh hàng hóa trên thương trường, thậm chí là biến người thân của mình thành kẻ địch chỉ vì lợi nhuận.

Vào những năm 60 của thể kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng cũng có mặt ở Việt Nam, nhưng người hiểu đúng thì ít mà hiểu chưa đúng thì nhiều. Có ba nguyên nhân dẫn đến sự hiểu chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về chủ nghĩa thực dụng: Thứ nhất là, xuất phát từ các nhà thực dụng trong quá trình triển khai học thuyết của mình đã tuyệt đối hóa các giá trị như hiệu quả của cá nhân, thỏa mãn được nhu cầu cá nhân, kinh nghiệm của cá nhân, niềm tin của cá nhân, v.v..; Thứ hai là, bản thân các nhà triết học của trường phái này đã sử dụng những thuận ngữ sặc mùi thị trường (đặc biệt là James) như giá trị tiền mặt, lợi ích thiết thân, lợi ích trọng yếu, v.v..; Thứ ba là, chủ nghĩa thực dụng vốn dĩ là ý thức hệ của giai cấp tư sản Mỹ, được đế quốc Mỹ sử dụng như một phương pháp giành thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Trong khi đó, đế quốc Mỹ từng là kẻ thù xâm lược Việt Nam nên phần lớn người Việt Nam chúng ta trước đây đều căm thù Mỹ, coi tất cả những gì của Mỹ đều xấu, trong đó có cả chủ nghĩa thực dụng. Người ta từng quy chụp chủ nghĩa thực dụng là thứ tư tưởng ngoại lai, xấu xa rồi từ đó phủ định sạch trơn những giá trị khoa học chân chính của nó. Từ thực tế này, chúng tôi cho rằng cần phải phân biệt rõ hai khái niệm: “thực dụng trong chủ nghĩa thực dụng” và “thực dụng trong cuộc sống hàng ngày”:

Tóm lại, chủ nghĩa thực dụng với tư cách là một học thuyết triết học nhân sinh, nó không hoàn toàn xấu như những gì mà nhiều người Việt Nam trong quá khứ và hiện tại nhìn nhận. Bản thân nó, cũng như các học thuyết triết học khác luôn hàm chứa tính hai mặt: giá trị và hạn chế. Tuy nhiên, để là cơ sở lý thuyết có tác động tích cực đến quá trình tạo lập triết lý kinh doanh đúng đắn thì đòi hỏi cần phải từng bước giải quyết các yêu cầu đang đặt ra hiện nay như: phải có thái - Thực dụng trong chủ nghĩa thực dụng: trước hết là một khái niệm triết học và bản chất của nó được biểu trưng ở chỗ, nó là một phương tiện, một công cụ, hoặc là một lý

146

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

về chủ nghĩa thực dụng để nó đến được phổ

biến đến độc giả, v.v.. Làm được như vậy,

thiết nghĩ sẽ góp phần hữu ích không chỉ cho

hoạt động kinh doanh nói riêng mà còn hữu

ích đối với các hoạt xã hội khác. độ khách quan, khoa học khi đánh giá về chủ nghĩa thực dụng trên cả hai bình diện giá trị lẫn hạn chế; phải đầu tư cho nghiên cứu kỹ lưỡng và mạnh mẽ hơn về chủ nghĩa thực dụng để làm rõ bản chất của nó; phải xúc tiến truyền thông những kết quả nghiên cứu mới

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Trịnh Sơn Hoan (2012), William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. [3] Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4] Gia Khang – Kiến Văn ( 2011), Trí Tuệ dân tộc Mỹ, Nxb Thời đại. [5] Nguyễn Thị Ngọc Oanh (2013), Văn hóa kinh doanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [6] Phan Quốc Toản (2002), Đạo đức kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội