Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p5
lượt xem 7
download
Các CDs ngắn hạn, chuyển nhượng được, được mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp trước thời gian đáo hạn. Chỉ có các "negotiable CD" mới được xem là công cụ của thị trường tiền tệ. Các khoản tài trợ nóng FEDERAL FUNDS HAY FED FUNDS Các khoản tài trợ nóng là các vay mượn qua đêm giữa những ngân hàng thương mại với nhau, chủ yếu được thực hiện để đáp ứng yêu cầu về mức dự trữ do ngân hàng trung ương quy định. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p5
- thác không chuyển nhượng được non-negotiable CDs, loại này không khống chế thời hiệu đáo hạn tối đa, có thể 10 năm hoặc hơn. Các CDs ngắn hạn, chuyển nhượng được, được mua đi bán lại trên thị trường thứ cấp trước thời gian đáo hạn. Chỉ có các "negotiable CD" mới được xem là công cụ của thị trường tiền tệ. Các khoản tài trợ nóng FEDERAL FUNDS HAY FED FUNDS Các khoản tài trợ nóng là các vay mượn qua đêm giữa những ngân hàng thương mại với nhau, chủ yếu được thực hiện để đáp ứng yêu cầu về mức dự trữ do ngân hàng trung ương quy định. Một ngân hàng có mức dự trữ cân đối vượt tạm thời theo quy định có thể cho một ngân hàng trong hệ thống bị hụt dự trữ tạm thời vay nóng. Điều này cho phép ngân hàng có dự trữ cân đối dôi lên có thêm cửa để kiếm lời trên các khoản tiền xem như "đang ngủ qua đêm" của họ. Lãi suất áp dụng trên những món nợ qua đêm này được gọi là lãi suất huy động nóng tiếng Mỹ gọi thông dụng là Fed funds rate - phát xuất từ sự điều chuyển nội bộ các khoản cân đối vay mượn "tình thế" giữa các ngân hàng thành viên để trám kín thâm hụt kỹ thuật trên các tài khoản dự trữ bắt buộc theo luật tại Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang - viết tắt là Fed. Lãi suất này biến động theo tình hình kinh tế tài chính trên thị trường mỗi ngày và là một dấu hiệu báo động các biến chuyển lãi suất có thể xảy ra. Sở dĩ có điều này vì thực tế nó phản ánh khả năng sẵn sàng đáp ứng của các nguồn vốn trong hệ thống tới đâu. Với khảo sát trên đây từ một thị trường tài chính đã phát triển cao, ta thấy những công cụ vốn ngắn hạn đã đóng góp tích cực thế nào vào ý nghĩa huyết mạch của thị trường tiền tệ, đồng thời có thể hình dung khả năng vận động
- "tối đa công suất" của các nguồn tài chính sẽ có tầm quan trọng ra sao đối với sự phát triển của từng doanh nghiệp, cũng như của cả một nền kinh tế. Giao dịch song hành trong Thị trường Tài chính và TTCK Một trong những chiến lược rất đặc trưng trong thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng là giao dịch song hành arbitrage trading. Mặc dù ở ta hoạt động này vẫn còn xa lạ, thậm chí về thuật ngữ cũng chưa được biết đến nhiều. Nhưng từ lâu, và nhất là trong các cơn dậy sóng của thị trường tài chính thế giới trong quá khứ, các hoạt động arbitrage là những công cụ tài chính được sử dụng rất phổ biến và lợi hại tại những nền kinh tế thị trường có hệ thống tài chính chuyên sâu và đa dạng. Tuy nhiên, xét về bản chất, cách mua bán này không có gì mới lạ và thoạt nhìn tưởng rất đơn giản. Giao dịch mua bán song hành là chiến lược được các nhà kinh doanh chuyên nghiệp các arbitrageurs thực hiện để kiếm lợi từ những khác biệt tạm thời về giá cả giữa hai thị trường, hai loại chứng khoán, hoặc kết hợp. Có một số phương thức giao dịch theo cách mua bán song hành đã trở thành đặc trưng và đi vào truyền thống, nhưng tổng quát mà nói, những nhà kinh doanh song hành chuyên nghiệp thường tìm cách kiếm lợi dựa trên những sai biệt bất thường về giá đối với một loại chứng khoán hay giữa các chứng khoán tương đương giá trị với nhau. Những loại giao dịch song hành sau đây thường được các thị trường tài chính trên thế giới sử dụng: Song hành thị trường Đôi khi cùng một chứng khoán nhưng được giao dịch tại hai thị trường trên hai sàn giao dịch khác nhau. Điều này cho khả năng rằng chứng khoán giao dịch trên hai thị trường cùng thời điểm có thể sẽ có hai giá khác nhau. Khi điều đó xảy ra thật và các arbitrageur “đánh hơi" được, họ sẽ mua vào nơi thị trường có giá rẻ hơn và bán ra tại một thị trường khác có giá cao hơn, loại hoạt động này được giới chuyên môn gọi là song hành thị trường market
- arbitrage. Hoạt động song hành thị trường kiếm lợi khá chắc chắn và cần thiết, vì nó cũng giúp điều hoà thị trường một cách nhanh chóng. Song hành chứng khoán chuyển đổi Giao dịch song hành cũng có khả năng được thực hiện đối với các loại chứng khoán tương đương đối với các công cụ huy động vốn có thể chuyển đổi, chẳng hạn các trái phiếu chuyển đổi và loại chứng khoán làm cơ sở cho việc chuyển đổi đó. Nếu điều kiện thị trường được tiên liệu đúng, một người theo chiến lược song hành có thể kết hợp việc đổi các trái phiếu ra cổ phần thường, đồng thời bán lượng cổ phần thường đó để kiếm lời từ chênh lệch. Hoạt động mua bán song hành chứng khoán chuyển đổi convertible security arbitrage yêu cầu người đầu tư có sự xét đoán tinh tế hơn kiểu song hành thị trường. Song hành mạo hiểm Giao dịch song hành mạo hiểm risk arbitrage có thể được xem là loại giao dịch hấp dẫn trong các diễn tiến thâu tóm doanh nghiệp take over đang diễn ra. Các arbitrageurs ra tay mua cổ phần của công ty đang bị săn bắt being acquired company và đồng thời bán non sell short cổ phần của công ty chủ động việc thâu tóm đó acquiring company. Người theo đuổi các giao dịch song hành kiểu này tin rằng việc sáp nhập công ty sẽ làm tăng giá cổ phần của công ty bị thâu tóm, đồng thời cổ phần của công ty chủ động việc thâu tóm - do đã ở mức cao trong quá trình diễn ra sự kiện đó - sẽ giảm lại sau khi việc sáp nhập thành hiện thực. Hoạt động mua bán song hành mạo hiểm là hoạt động kinh doanh nhiều rủi ro. Tình huống rủi ro đáng ngại nhất là khi sự thu xếp sáp nhập không thành. Ta có thể nhớ lại trường hợp thua lỗ của công ty Long Term Capital Management LTCM hồi năm 1998, khi họ mua
- cổ phần của công ty Ciena giá 90USD do nghĩ rằng Ciena sẽ được sáp nhập vào Tellabs. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và ngay sau khi việc sáp nhập không thành, giá cổ phần của Ciena đã rớt bịch xuống chỉ còn 13USD! Một ví dụ, công ty A có thể đưa ra một đề xuất để thâu tóm công ty B, bằng cách trao đổi một cổ phần của công ty A bằng hai cổ phần công ty B. Nếu cổ phần của công ty A đang giao dịch với giá 200.000đ và cổ phần của công ty B giao dịch với giá 95.000đ, người mua bán song hành mạo hiểm sẽ mua cổ phần của công ty B và sử dụng tài khoản bảo chứng để giao dịch bán non bán trước rồi mua trả lại sau một lượng cổ phần của công ty A bằng phân nửa lượng cổ phần của công ty B. Nếu đề xuất gồm thâu đó được chấp thuận, hai loại chứng khoán trong cuộc sẽ được trao đổi theo cơ sở một- lấy- hai, và nghiệp vụ mua bán song hành sẽ được lợi, vì giá cổ phần của công ty B sẽ nhích lên đồng thời với giá cổ phần công ty A nhích xuống. Nhưng rủi ro sẽ xảy ra khi việc thu xếp sáp nhập bất thành, vì lúc đó giá chứng khoán B chẳng những không tăng và chứng khoán A chẳng những không giảm mà sẽ diễn biến độc lập theo hướng thường là bất lợi, đi ngược với mong đợi của các arbitrageur. Song hành mạo hiểm còn được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tổ chức lại công ty và các thương lượng mua lại tender offer. Phương thức mua bán này còn được gọi là song hành chứng khoán vốn equity arbitrage. Ở những nước có nền kinh tế thị trường với hạ tầng tài chính chuyên sâu và đa dạng, các hoạt động song hành diễn ra ở nhiều lĩnh vực, rất phức tạp và với quy mô lớn đôi khi chỉ có thể điều hành bằng lập trình điện toán. Chúng ta có thể tìm hiểu thêm một số cách giao dịch khác dưới đây chuyên sâu hơn.
- Giao dịch khai thác chênh lệch Giao dịch khai thác chênh lệch basis trading hay relationship trading là hoạt động mua bán song hành trong đó một nhà đầu tư tham gia vào một vị thế mua long position đối với một loại chứng khoán và một vị thế bán short position đối với một chứng khoán tương tự, với tham vọng sẽ kiếm lợi từ sự thay đổi trong chênh lệch cơ bản basis giữa hai chứng khoán được sử dụng. Chẳng hạn, một người đầu tư có thể mua một hợp đồng tuỳ chọn mua call option kỳ hạn hiệu lực đến tháng Tư và cùng lúc bán một hợp đồng call của cùng loại chứng khoán cơ sở nhưng khác kỳ hạn hiệu lực không phải kỳ hạn tháng Tư hoặc khác giá chốt sẵn strike price – giá sắp đặt của thị trường. Nhà đầu tư ở trường hợp này mong đợi giá trị của hai vị thế thương vụ sẽ thay đổi trong thời gian chúng còn hiệu lực, theo cách sao cho khoản lợi cuối cùng sẽ phát sinh. Giao dịch khai thác chênh lệch được thực hiện khi mà nhà đầu tư cảm thấy rằng một chứng khoán đã được định giá quá cao, hay quá thấp, tương quan với giá của một chứng khoán khác. Do có điều này, phần lợi ở một phía giao dịch phải đủ lớn hơn để khử phần lỗ bên phía đối ứng trong cùng giao dịch đó. Phần chênh lệch dôi ra là lợi kiếm được. Giao dịch khai thác chênh lệch có thể dùng trong chỉ số, trong một tập nhóm chứng khoán group of securities hay cả trong các loại chứng khoán đơn lẻ. Một ví dụ, một nhà đầu tư sẽ quyết định chiến lược song hành như sau trong thị trường mua bán hợp đồng option tuỳ chọn: - Mua 1 hợp đồng call option chọn mua ở mức $30, kỳ hạn tháng Tư, phí mua $0,25 mua call là ta đã chốt giá mua hàng hoá $30 – nên nếu giá giảm, chỉ bị mất tiền phí mua.
- - Bán 1 hợp đồng call option ở mức $25, kỳ hạn tháng Tư, thu phí từ người mua $3. bán call là do có dự đoán giá đứng yên hoặc giảm. Nếu giá đứng hoặc giảm, người bán lợi trọn phần phí nhận được, nếu tăng ít họ huề vốn, tăng nhiều sẽ bị lỗ. Trong các tình huống thực hành thương vụ trên đây, nếu giá đứng yên hoặc giảm dưới $25 vào cuối kỳ hạn tháng 4, người đầu tư sẽ lợi $2,75 nhận được $3 ở hợp đồng bán nhưng mất $0,25 ở hợp đồng mua trên mỗi đơn vị hàng hoá. Tuy nhiên, người đầu tư vẫn có thể bị lỗ trong khoản giá tăng từ $25~30. Ví dụ này giống như chiến lược "call spread" trong thị trường option. Giao dịch song hành chỉ số chứng khoán Chỉ số là giá trị tương đối của một biến số so với chính bản thân biến số đó vào các thời điểm khác nhau. Nhiều công cụ báo giá chứng khoán như nhóm Standard & Poor s S&P và nhóm New York Stock Exchange NYSE chẳng hạn được xây dựng thành những chỉ số tham khảo. Các chỉ số phải được xác định quy chiếu về một năm căn cứ gọi là base year, năm căn cứ đó được mặc định ở giá trị chỉ số gốc, thường là 100 cũng có khi là 10. Chiến lược song hành chỉ số được thực hiện bằng việc mua hay bán một tập hợp chứng khoán các loại đồng thời với việc tham gia vào một giao dịch bù trừ trong một hợp đồng tương lai futures hoặc hợp đồng tuỳ chọn options về chỉ số chứng khoán. Song hành chỉ số được thiết lập để lợi dụng sự khác biệt tạm thời về giá giữa chứng khoán cơ sở và các hợp đồng chỉ số futures hay options. Ví dụ một nhà quản lý tài chính công ty kiếm lợi cho cổ đông bằng cách họ sẽ bán một hợp đồng futures về chỉ số đã định giá cao và đồng thời mua vào chứng khoán cơ sở.
- Giao dịch lập trình Program Trading Là một hoạt động mua bán song hành trong đó các nhà kinh doanh chứng khoán tham gia vào vị thế mua hay bán trong một danh mục chứng khoán, đồng thời họ cũng tham gia vào một vị thế đối ứng đối với một hay nhiều hơn các hợp đồng tương lai dựa vào cùng danh mục kia. Mua bán lập trình được thực hiện để khai thác lợi thế về sự sai biệt giá thị trường giữa hai tập chứng khoán portfolio giống nhau về bản chất. Cả hai phía của giao dịch được đóng lại vào ngày hay gần ngày hợp đồng tương lai hết hạn, khi mà các giá trị của hai vị thế sẽ được cân bằng dựa trên nguyên tắc hồi qui. Do quy mô của các giao dịch theo cách này thường lớn và độ phức tạp của kỹ thuật được sử dụng cao, giao dịch Lập trình chủ yếu được thực hiện gần như độc quyền bởi các tổ chức lớn. Giao dịch lập trình cần phẩm chất về nghiệp vụ rất cao và các điều kiện kỹ thuật thông tin vừa nhanh vừa chính xác để phục vụ kịp thời một quá trình theo dõi chi li và phức tạp về giá cả… được các nhà quản lý danh mục chứng khoán lớn sử dụng trên cơ sở của một kết hợp bù trừ theo các hợp đồng trong thị trường tương lai. Do yêu cầu như vậy, khả năng theo đuổi chiến lược này nhằm đem lại một thu nhập phi rủi ro, phần lớn tuỳ thuộc vào mức độ hội nhập các chương trình điện toán với các giao dịch liên quan tới một trong những sản phẩm mới trong thị trường tài chính và chứng khoán, đó là các hợp đồng tương lai về chỉ số chứng khoán index futures. Hoạt động này tương tự song hành chỉ số, nhưng khác về quy mô. Các chương trình điện toán có năng lực xử lý cao sẽ xác định được điểm mà ở đó giá trị của một danh mục chứng khoán – có chứng khoán cùng thứ với chứng khoán đang hình thành chỉ số thị trường liên quan - lệch khỏi giá trị của một hợp đồng tương lai dựa trên cùng chỉ số thị trường đang sử dụng.
- Nhờ vậy, giá trị của tất cả các cổ phiếu bao gồm trong chỉ số S&P100 chẳng hạn có thể được xác định hoặc là được đánh giá cao hơn, hoặc thấp hơn, tương quan với giá mà một hợp đồng futures về chỉ số đó đang bán. Như thế, những nhà kinh doanh sử dụng giao dịch lập trình một mặt đứng vào vị thế đối với các loại chứng khoán tạo lập nên chỉ số, mặt khác họ tham gia vào một vị thế bù trừ lại vị thế kia bằng một hợp đồng futures dựa trên chỉ số đó. Do bởi hai vị thế phải cùng có giá trị bằng nhau vào ngày mà hợp đồng futures hết hạn, nhà kinh doanh lập hình hưởng lợi nhờ sự chênh lệch về giá trị lúc vị thế đó được thiết lập. Sự khác biệt ban đầu càng lớn bao nhiêu, và thời gian chờ đợi cho đến khi các giá trị hồi quy lại càng ngắn bao nhiêu, thì khả năng kiếm lợi của giao dịch càng nhiều bấy nhiêu. Khả năng kiếm lợi của giao dịch phải được so sánh với lợi suất đầu tư rate of return khả dĩ có thể đạt đối với các phương thức đầu tư phi rủi ro khác - so sánh tương quan cơ hội để xác định hoạt động song hành đó có đạt mức lợi xứng đáng hay không. Cuộc chơi xem ra cũng khá công phu và cân não! Bởi vì hầu hết các vị thế giao dịch lập trình được đóng lại vào thời điểm gần ngày thanh lý các hợp đồng futures, lúc giá trị của các chứng khoán cơ sở ngang bằng hay gần ngang bằng với giá trị của hợp đồng futures, sự mua bán dồn dập, sự biến động giá, và sự náo động trên các thị trường có thể xuất hiện vào các ngày gần hết hạn đó, và đó mới là triệu chứng bình thường. Những biến động lớn về giá liên quan đến các loại cổ phiếu nằm trong các chỉ số trung bình thường là Dow Jones Averages và S&P 500 rất thường xảy ra, đặc biệt vào các thời điểm cuối ngày thanh lý hợp đồng. Mặc dù đã từng có sự chỉ trích nặng về giao dịch lập trình là nguồn xung lực kích thích biến động trong các TTCK, nhiều nhà nghiên cứu và phân tích thị
- trường lại cho rằng giao dịch lập trình có mặt tác động tích cực của nó, theo cách nó làm cho các thị trường hiệu quả hơn. Giao dịch lập trình chỉ có thể được sử dụng có lợi khi giá cả trên thị trường diễn biến chệch choạc. Vì giao dịch lập trình liên quan đến những món tiền khổng lồ và các áp dụng tinh vi như đã trình bày, nó thường được thực hiện bởi một số rất ít các nhà kinh doanh đang nắm trong tay các khối tiền hùn vốn lớn. Việc thiết lập vị thế cùng lúc cho một trăm hay hơn các loại cổ phiếu khác nhau không phải là chuyện dễ ăn. Tuy nhiên, vì yêu cầu phòng vệ cho việc đầu tư những khoản tiền khổng lồ là một thực tế có tính thúc ép, nên các nhà kinh doanh lập trình luôn bị đòi hỏi phải tham gia vào các chiến lược có bản chất trừ khử rủi ro. Điều đó đến lượt đặt ra cho cộng đồng những nhà đầu tư còn lại mặc nhiên phải chia nhau phần rủi ro tăng lên trong một thị trường có biến động nhiều hơn. Trên đây là một số các giao dịch song hành từ rất đơn giản đến phức tạp. Thực ra giao dịch song hành được các nhà kinh doanh chứng khoán và các nhà quản lý danh mục, quản lý tài chính,…sử dụng rất đa dạng. Căn bản của vấn đề là sự khai thác khoảng chênh lệch xuất hiện vì bất cứ lý do gì và ở bất cứ điều kiện nào trong các thị trường, vốn luôn luôn hiện hữu bản chất "kém hiệu qủa”. Không đợi đến thị trường chứng khoán, một người huy động tiền trả lãi 5%, đồng thời cho vay lại khoản huy động đó với lãi suất 5,225% chẳng hạn, trong cùng một cấp độ môi trường khi đánh giá về rủi ro, thì người ấy đã làm cái công việc của chiến lược song hành rồi. Nhưng thứ gì cũng có mặt trái của nó. Vào năm 1986 Uỷ Ban Chứng Khoán và TTCK Hoa Kỳ SEC đã công bố trường hợp gian lận của Ivan F. Boesky, một trong những nhà kinh doanh song hành thành công, giàu có và nổi tiếng của Mỹ. Nhà kinh doanh chứng khoán chơi không "fair" này đã phải cúi đầu
- nhận tội đối với một cáo buộc của toà và phải nộp 100 triệu USD tiền phạt cho SEC do đã có hoạt động mua bán nội gián insider trading. Nguồn tin đã trưng ra các hoạt động mua bán lượng chứng khoán lớn có sự sử dụng các tin tức một cách bất minh trong các TTCK kéo theo sự sụt giá nặng nề các trái phiếu lãi suất cao junk bonds và các cổ phần công ty liên quan đến hoạt động thâu tóm takeover đang và có thể xảy ra lúc bấy giờ. Boesky cũng bị cấm suốt đời không được hoạt động trong ngành chứng khoán. Sự thanh lý hoạt động của Boesky với SEC rõ ràng đã chấm dứt sự nghiệp của một arbitrageur thành đạt, người từng sắm vai trò hạt nhân, có khi là công cụ trong nhiều hoạt động thâu tóm và mua đứt buyout xảy ra vào đầu và giữa những năm 1980 tại Mỹ. Suất trong thời gian đó, các arbitrageur được giới báo chí tài chính săn đón, vì giới này đã đưa những món tiền thật lớn để đầu tư vào mảng chứng khoán được xem là có nhân thân đặc biệt liên quan đến các công ty bị lên danh sách thâu tóm. Các nguồn tiền này được sử dụng vào các giao dịch mua bán cổ phần các doanh nghiệp được xem là có giá thấp. Một khi các giao dịch được các arbitrageur ra tay công khai, các nhà đầu tư khác, gồm cả các công ty có quan tâm mua lại các doanh nghiệp được định giá thấp, có vẻ như bị cuốn hút vào loại chứng khoán đang có ma lực đó. Kết quả là các arbitrageur thường có thể bán chứng khoán trong cuộc - nhưng với giá cao hơn nhiều - cho các công ty mục tiêu đang chòi đạp chống lại việc bị thâu tóm greenmail hoặc những công ty khác đang có ý đồ đi thâu tóm, cách nào họ cũng có lợi. Trong một số trường hợp, các arbitrageur đã liên tục mua cổ phần để thực sự nắm quyền kiểm soát những công ty đó. Việc thanh lý Boesky có hiệu lực tức thì và được ví như gáo nước lạnh dội vào một số hoạt động đầu cơ thâu tóm, từng là tác nhân chủ lực đã thao túng các TTCK lúc bấy giờ tại Mỹ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
INCOTERMS 2010 CÁC THÔNG LỆ TỐT NHẤT - HỢP ĐỒNG MUA BÁN - 6
11 p | 155 | 48
-
KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO TRONG BÁN HÀNG VÀ QUẢN TRỊ BÁN HÀNG
0 p | 314 | 40
-
Huấn luyện kỹ năng bán hàng - Làm thế nào trả lời câu hỏi bán hàng khó nhất
0 p | 206 | 40
-
Giáo trình chứng khoán thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa
100 p | 119 | 27
-
QUẢN TRỊ HỌC VÀ CÁC CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG - 2
19 p | 191 | 26
-
NHẬP MÔN CƠ VÂY VÀ CÁC CHIẾN LƯỢC - VŨ THIỆN BẢO - 3
24 p | 118 | 22
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p4
10 p | 104 | 11
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p6
10 p | 100 | 11
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p1
10 p | 70 | 10
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p9
10 p | 80 | 10
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p3
10 p | 85 | 9
-
Giáo trình hình thành tư duy thế giới phẳng như thế nào trong quan niệm tư duy của cộng đồng p7
10 p | 59 | 8
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p8
10 p | 64 | 8
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p7
10 p | 83 | 8
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p10
0 p | 85 | 8
-
Giáo trình hình thành tư duy thế giới phẳng như thế nào trong quan niệm tư duy của cộng đồng p9
10 p | 74 | 7
-
Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p2
10 p | 83 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn