
NHỮNG HỘI CHỨNG CHÈN ÉP
DÂY THẦN KINH
PHẦN 2
Sự ép chặt dây thần kinh riêng biệt ở chi trên
Dây thần kinh trên bả vai C5, C6 là một nhánh của thân trên của đám
rối thần kinh cánh tay trong tam giác sau và đi qua lỗ trên xương bả vai vào
hố trên xương mỏm vai. Ở đây nó tỏa ra các nhánh cơ đến trên mỏm gai và
mạch chi khớp đến vai và các khớp mỏm cùng vai - đòn. Nó sẽ đi qua chỗ
lõm gai xương bả vai - ổ chảo dẫn đến cơ dưới gai xương bả vai. Sự ép chặt
trên bả vai có thể xảy ra ở lỗ trên bả vai do một chỗ lõm hẹp hoặc tới một
chẽ đôi ngang dây chằng vai, xoắn dây thần kinh, sẽ ảnh hưởng đến cả hai
cơ trên mỏm gai và dưới gai xương bả vai (Rengachary và cộng sự, 1979).
50% các trường hợp có thể bị một dây chằng gai xương bả vai - ổ chảo, một

băng mạc tách trên mỏm gai rư từ dưới gai xương bả vai. Sự ép chặt ở đây
chỉ liên lụy đến cơ dưới gai xương bả vai (Rengachary và cộng sự, 1979).
Nén ép thần kinh vòng cung
Dây thần kinh vòng cung hay nách C5, C6 đi vào khoảng tứ giác nằm
ở dưới khớp vai và dẫn đến cơ delta và cơ dài tròn nhỏ. Nó cũng dẫn tới da ở
trên nửa dưới cơ delta. Nó có thể bị tổn thương trật khớp trước dưới của
khớp vai. Các gai xương trên bờ dưới ổ chảo ở các cầu thủ nhà nghề giao
bóng môn bóng chày đã dẫn đến tổn thương dây thần kinh mãn tính và sự
nén ép của dây thần kinh nách và hội chứng của các mạch thể dịch cung sau
ở khoang tứ giác.
Thần kinh thuộc xương quay C6, C7, C8 dẫn đến các đầu dài, giữa và
bên của các cơ ba đầu, trước khi nó đi vào rãnh góc, ở đó nó tỏa dây thần
kinh tới khuỷu tay, biểu bì bên dưới của cánh tay và biểu bì sau của cẳng
tay. Rồi nó xuyên qua vách gian cơ bên và dẫn tới cánh tay và xương quay
cánh tay. Ở mỏm cầu lồi bên, nó chìa thành các nhánh nông và sâu (gian
xương sau). Nhánh nông đi xuống cẳng tay ở chỗ bên động mạch xương
quay và xuyên qua mạc dày giữa rìa sau của xương quay cánh tay với xương
quay cổ tay kéo dài thành dưới da. Nó đi tới da trên phía lưng của ngón tay
cái và tỏa ba tia với một nửa ngón.

Gian xương sau cung cấp cho sự quay ngửa và xương quay duỗi thẳng
cổ tay ngắn và đi qua giữa hai đầu của cái quay ngửa để tới tất cả các cơ
duỗi khác ở ngăn sau cẳng tay.
Hình 8.2. Một xương sườn cổ
Sức ép của dây thần kinh xương quay
Dây thần kinh xương quay có thể bị ép ở nách bởi lực ép trực tiếp của
đôi nạng chống nách. Ở những trường hợp gãy xương cánh tay giữa thứ ba
giây thần kinh xương quay có thể bị nguy hiểm vì bản thân việc gãy xương
hoặc bởi sự hình thành can. Sức nén ở mức độ này không ảnh hưởng tới các
cơ 3 đâu nhưng liên quan tới cơ duỗi của cẳng tay. Vì đi qua nách cơ gian
bên, nó có thể bị ảnh hưởng.

Dây thần kinh gian xương sau đi qua giữa hai đầu của bộ phận quay
ngửa. Đầu nông có thể bị xơ một phần hoặc toàn bộ ở gốc của nó từ bên
mỏm cầu lồi. Sự nén ép dây thần kinh ở vùng này có thể là vì:
1. Một đầu nông hoàn toàn xơ, gọi đây là vòng cung Frohse (Spinner,
1968)
2. Băng xơ ở phía xa rìa của bộ phận quay ngửa (Posner, 1990)
3. Băng xơ ở mép gân sắc dọc theo xương quay duỗi cổ tay ngắn
(Spinner, 1968)
4. Một bó mạch máu xương quay hồi qui (Henry, 1963)
Thần kinh xương quay có thể bị chèn ép vì sức kéo lên nhánh nông
của xương quay khi nó xuyên qua vách dày ở cổ tay (Hội chứng
Wartenberg's) gây đau và loạn cảm giác phía xương quay mặt sau cánh tay
của bàn tay và ngón cái, lên sự gập và sự chuyển dòng xương trụ của cổ tay.
Vấn đề này có xu hướng xảy ra ở các vận động viên phải lặp đi lặp lại việc
quay sấp quay ngửa và gập xương trụ cổ tay, các băng cổ tay và còng tay
cũng có thể có một hiệu ứng tương tự (Reltig, 1990).

Thần kinh giữa C5, C6, C7, C8, T1 chéo qua giữa khớp khuỷu tay tới
động mạch cánh tay và gân của cơ hai đầu, đi qua dưới mạc hai đầu. Trong
hố xương trụ nó tỏa ra các nhánh đầu tiên của nó đến các cơ từ nguồn chung
cơ gấp và rời khỏi hố giữa hai đầu của cơ quay sấp dài và tròn. Trong 50%
các trường hợp (Johnson và cộng sự, 1979) đã thấy một băng sợi trên dạng
phía lưng của đầu nông. Nó đi qua dưới cung sợi của cơ gấp bề mặt ngón và
đúng trên cổ tay và nằm sau bên tới gân dài lòng bàn tay. Nhánh nông lòng
bàn tay đi qua bề mặt tới cơ gấp dây chằng vòng và dẫn đến phần thuộc
xương quay của lòng bàn tay.
Dây thần kinh chính đi sâu qua dây chằng vòng cơ gấp. Một vài thay
đổi của dây thần kinh giữa đã được miêu tả bởi Lanz (1977) (Hình vẽ 8.3). Ở
điểm xa của dây chằng vòng trong 50% các trường hợp thì nhánh cơ vận
động đến các cơ mô cái uốn cong trở lại đi qua gân của cơ gấp dài ở ngón
tay cái để cung cấp cho các cơ mô cái, cơ giạng ngắn ngón tay cái, đối kháng
ngón cái và đầu nông của cơ gấp ngón cái ngắn. Trong 33% các trường hợp
nó tỏa ra nhánh cơ vận động dưới dây chằng vòng và đi theo hướng thông
thường nhưng 20% nhánh cơ vận động xuyên qua dây chằng gần 2-6mm đến
điểm xa của dây chằng tiếp với các cơ mô cái.
Sự chèn ép dây thần kinh giữa

